SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 87
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TỪ VĂN HOÀNG LĨNH
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TỪ VĂN HOÀNG LĨNH
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số : 838.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu và kết quả nêu trong luận văn này bảo đảm độ tin cậy, chính xác. Những kết
luận khoa học của luận văn kế thừa từ các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ.
Tác giả luận văn
Từ Văn Hoàng Lĩnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM ................................................................................................................7
1.1. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội..................................7
1.2. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật
quốc tế và pháp luật một số nước trên thế giới .........................................................16
CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ..............22
2.1. Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật Hình sự
Việt Nam hiện hành ..................................................................................................22
2.2. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ....................................................................................51
2.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập từ thực
tiễn áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ........58
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ GIẢI PHÁP
BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ............................................................................................61
3.1. Một số đề xuất tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ........................................61
3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự với người dưới
18 tuổi........................................................................................................................69
KẾT LUẬN..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Tòa án nhân dân
Trách nhiệm hình sự
BLHS
BLHS 1999
BLHS 2015
BLTTHS 2015
TAND
TNHS
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê số lượng người 18 tuổi phạm tội theo nhóm tuổi và giới tính
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ....................................................................................52
Bảng 2.2: Các nhóm tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam ...............................................................................................................53
Bảng 2.3: Tỷ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái
phạm nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ........................................................54
Bảng 2.4: Các hình phạt áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội của TAND
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ....................................................................................55
Bảng 2.5: Các biện pháp tha miễn TNHS và biện pháp tư pháp áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam......................................57
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội cả nước đã có nhiều chuyển
biến tích cực, tuy nhiên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật và công tác tổ chức, thực thi pháp luật ở nước ta vẫn còn một số điểm hạn
chế, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động điều tiết xã hội của pháp
luật. Bên cạnh đó, mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường cũng gây nên những ảnh
hưởng không nhỏ đến đạo đức, tiến bộ xã hội, đặc biệt là đối với nhóm đối tượng
thanh thiếu niên, những người vẫn còn đang trong quá trình phát triển, hoàn thiện về
thể chất, tâm sinh lý cũng như nhân cách sống. Một bộ phận không nhỏ thanh thiếu
niên trở nên hư hỏng, không lo tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao năng lực bản thân mà
chạy theo lối sống thực dụng, ích kỷ, có lối hành xử côn đồ, hung hãn. Thực tiễn
điều tra, truy tố, xét xử cho thấy chủ thể thực hiện tội phạm hiện nay không chỉ có
xu hướng trẻ hóa về độ tuổi mà còn tinh vi, xảo quyệt trong hành vi phạm tội.
Luật hình sự với tư cách là một trong những ngành luật ra đời sớm nhất,
mang nhiệm vụ rất quan trọng trong hệ thống pháp luật đó là bảo vệ chế độ xã hội,
trật tự xã hội. Chính sách pháp luật hình sự của nước ta trong việc truy cứu TNHS
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ nhận
thức được hành vi sai trái cũng như rèn luyện, tu dưỡng bản thân trở thành công dân
tốt, có ích cho xã hội, góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Vì vậy,
Bộ luật hình sự nước ta đã dành một chương riêng để quy định về những vấn đề đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều này đã thể hiện sự quan tâm, tư tưởng nhân
đạo, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng
và thanh thiếu niên nói chung phù hợp với xu hướng quốc tế về yêu cầu bảo vệ ngày
một tốt hơn quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi. Trong bối cảnh BLHS 2015
vừa ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lập pháp hình sự khi đề
cao hơn nữa hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm
2
tội mà đặc biệt là người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như tôn trọng và bảo đảm thực
thi quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Cần thiết
có một nghiên cứu khoa học mang tính tổng hợp đối với các quy định về TNHS đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như sự đánh giá về mặt thực tiễn thi hành các
quy định của BLHS 2015 để kịp thời có phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn
thiện quy định về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì những lý do đó,
tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, ở các mức độ khác nhau đã có những công trình khoa
học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc trong các giáo trình, sách
chuyên khảo, bình luận khi nghiên cứu về vấn đề người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc
về TNHS. Tiêu biểu, có các công trình nghiên cứu sau đây:
Đối với các sách bình luận, sách chuyên khảo, sách giáo trình có các công
trình nghiên cứu sau: “Chương XVI: Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi
phạm tội” trong giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung) của Đại học Luật
Hà Nội, Nxb Công an nhân dân; “Chương XVI: Trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội” trong giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung)
của Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh; “Chương XVI: Trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội” trong sách giáo trình Luật hình sự Việt Nam của
tập thể tác giả do GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên.
Đối với các công trình dưới dạng bài viết được đăng trên tạp chí khoa học
pháp lý có thể kể đến các công trình như: “Nguyên tắc xử lý đối với người chưa
thành niên phạm tội và sự thể hiện trong Bộ luật hình sự” của TS. Lê Thị Sơn đăng
trên tạp chí Luật học số 3/2015; “Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình
sự của người chưa thành niên phạm tội” của Ths. Cao Thị Oanh đăng trên tạp chí
Luật học số 10/2007; “Quy định về hình phạt và tổng hợp hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam và một số kiến nghị” của
PGS.TS Dương Tuyết Miên đăng trên tạp chí Luật học số 3/2014.
3
Một số đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng đã khai thác, nghiên cứu
các khía cạnh xung quanh vấn đề TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội như: luận
văn “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự
Việt Nam” của Dương Thị Ngọc Thương, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2013; “Các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới
18 tuổi phạm tội” của Trần Hồng Nhung, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2017; “Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Luật hình sự
Việt Nam” của Nguyễn Tiến Hoàn, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013;
“Chính sách hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: khía cạnh so
sánh” của Ngô Thị Tuyết Thanh, Học viện khoa học xã hội, năm 2018; luận án
“Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay”
của Hoàng Minh Đức, Học viện khoa học xã hội, năm 2016.
Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đã góp phần không nhỏ vào hệ
thống lý luận khoa học pháp lý về TNHS nói chung cũng như về TNHS đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Tuy nhiên, đa số các công trình kể trên vẫn
chưa đề cập một cách hệ thống, toàn diện về TNHS đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, nhất là trong bối cảnh BLHS vừa được ban hành và có hiệu lực từ ngày
1/1/2018. Chính vì vậy, việc nghiên cứu TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội với
sự thay đổi trong quy định pháp luật hình sự trong tương quan với các quy định về
TNHS của người phạm tội nói chung cũng như những yêu cầu, đòi hỏi của pháp
luật quốc tế về tư pháp người chưa thành niên là một vấn đề mới mà tác giả mong
muốn giải quyết. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng đã có sự kế thừa, tiếp thu
có chọn lọc nhiều tri thức từ các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên trong việc
hoàn thiện nghiên cứu khoa học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về TNHS của người dưới 18
tuổi phạm tội theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam, bên cạnh đó, trên cơ sở
phân tích, đánh giá số liệu thống kê từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến
4
năm 2018, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong thực tiễn từ đó đề xuất giải pháp tiếp
tục hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về TNHS của người dưới 18 tuổi
phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm
vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề về mặt lý luận liên quan đến TNHS của
người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống về
trách nhiệm pháp lý, TNHS của người phạm tội nói chung và TNHS của người dưới
18 tuổi phạm tội nói riêng.
Thứ hai, nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành,
các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia về TNHS của
người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong đó làm rõ các nguyên tắc xử lý, các quy định về
hình thức cũng như nội dung của TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như
hình phạt, biện pháp tư pháp, án tích,…
Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội thông qua số liệu được thu thập từ thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam. Từ đó, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng TNHS đối với người
dưới 18 tuổi.
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về
TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và một số giải pháp góp phần bảo đảm
áp dụng đúng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của
TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có một số giới hạn về phạm vi nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, tác giả nghiên cứu các quy định về TNHS của người dưới 18 tuổi
5
phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam trong sự so sánh với các quy định trong Bộ
luật hình sự các nước Liên Bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và các văn bản pháp
lý của Liên Hợp Quốc.
Thứ hai, tác giả tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam thông qua
số liệu thống kê từ thực tiễn xét xử trong vòng 5 năm từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề thanh niên,
giáo dục thanh niên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống
kê,…nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Về mặt lý luận, luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập đến việc
làm sáng tỏ một cách toàn diện và có hệ thống về vấn đề TNHS đối với người dưới
18 tuổi phạm tội trong bối cảnh BLHS vừa được ban hành năm 2015 và sửa đổi, bổ
sung năm 2017. Qua đó, là cơ sở cho việc nhận thức một cách đúng đắn về TNHS
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Bên cạnh việc phân tích các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam hiện hành, luận văn còn nghiên cứu quy định của pháp luật
quốc tế cũng như pháp luật một số nước qua đó có sự đánh giá một cách toàn diện
về TNHS đối với người dưới 18 tuổi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành, quy định của pháp luật quốc tế, quy định của một số nước, và thực tiễn
áp dụng trên bàn tỉnh Quảng Nam, luận văn chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế và
6
đề xuất các giải pháp liên quan đến công tác lập pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quy
định của pháp luật hình sự về TNHS đối với người dưới 18 tuổi và một số giải pháp
nhằm bảo đảm áp dụng đúng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Qua đó,
góp phần bảo vệ quyền lợi của người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật trên thực tế. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử
dụng để tham khảo trong quá trình tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật hình
sự về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như làm tài liệu tham khảo
trong công tác nghiên cứu, học tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Danh mục các chữ viết tắt, Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội
trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS
Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của BLHS về TNHS của người dưới 18
tuổi phạm tội và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng TNHS.
7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái quát chung về trách nhiệm hình sự của người phạm tội
1.1.1.1. Trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý là một trong những vấn đề quan trọng của lý luận về
pháp luật. Trong các sách báo và tài liệu khoa học pháp lý ở Việt Nam, trách nhiệm
pháp lý thường được gắn với vi phạm pháp luật, gắn liền với yếu tố lỗi và do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng. Tác giả cho
rằng, cách hiểu này vẫn chưa hoàn toàn bao quát hết thực tiễn phong phú của đời
sống pháp lý. Vi phạm pháp luật chỉ là một trong các “nguồn” phát sinh của trách
nhiệm pháp lý. Trên thực tế, trách nhiệm pháp lý không chỉ đến từ hành vi vi phạm
pháp luật mà còn có nguồn gốc từ các quan hệ pháp luật khác như giao dịch dân sự,
thương mại, quan hệ hôn nhân - gia đình,…Xã hội càng phát triển thì các mối quan
hệ pháp luật càng phát triển, và do đó nguồn của trách nhiệm pháp lý cũng ngày
càng mở rộng. Tác giả đồng ý với khái niệm trách nhiệm pháp lý mà TS Nguyễn
Văn Quân đưa ra, theo đó “trách nhiệm pháp lý là một liên hệ, ràng buộc pháp lý
giữa các chủ thể pháp luật. Theo đó, một bên có nghĩa vụ thực hiện một hành vi nào
đó, bảo đảm cho một việc gì đó, thực hiện cam kết của mình, nhằm đảm bảo quyền
và lợi ích của bên liên quan” [27, tr.5].
1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội
Trong khoa học pháp lý, TNHS của người phạm tội là vấn đề được nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, đặc biệt là trong những năm gần đây tại
Việt Nam. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nhận thức thống nhất về TNHS trong
khoa học luật hình sự. Theo quan điểm của GS.TSKH Đào Trí Úc thì TNHS của
người phạm tội là “hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây
8
ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước Nhà nước” [39, tr.41].
GS.TSKH Lê Cảm cho rằng TNHS của người phạm tội là “hậu quả pháp lý của
việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội
một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do luật hình sự quy định” [6, tr.
122]. GS.TS Đỗ Ngọc Quang lại cho rằng TNHS của người phạm tội là “một dạng
trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án
áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã
thực hiện” [26, tr.41]. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và GS.TS Lê Thị Sơn thì cho rằng
TNHS của người phạm tội là “trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những
hậu quả bất lợi về hành vi phạm tội của mình” và là “một dạng trách nhiệm pháp lý
bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình
sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt,
biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích” [12, tr. 281-282]. Quan điểm của Đại học
Luật Hà Nội cho rằng TNHS của người phạm tội là “trách nhiệm của người phạm
tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình” [38, tr.
245]. Quan điểm khác cho rằng TNHS của người phạm tội là “nghĩa vụ của một
người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước về hành vi phạm tội
của mình thể hiện ở việc người phạm tội bị tước đoạt hoặc bị hạn chế quyền và lợi
ích nhất định theo quy định của pháp luật” [13, tr. 316].
Nhìn chung, các quan điểm nêu trên đều thống nhất cho rằng TNHS của
người phạm tội là hậu quả pháp lý phải chịu của việc thực hiện tội phạm và là một
dạng trách nhiệm pháp lý. Liên quan đến nội dung cụ thể của TNHS của người
phạm tội cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. Trong số các biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước có tính chất pháp lý hình sự áp dụng đối với người phạm tội thì hình
phạt là biện pháp cưỡng chế chủ yếu. Tuy nhiên, TNHS là khái niệm rộng hơn khái
niệm hình phạt. TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, còn hình phạt chỉ là
một trong những biện pháp cưỡng chế thể hiện nội dung của TNHS. Chính vì thế,
quan điểm coi TNHS của người phạm tội chỉ là trách nhiệm của người phải chịu
9
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước là hình phạt là không phù hợp. Quan điểm coi
TNHS của người phạm tội là nghĩa vụ của một người phải gánh chịu hậu quả pháp
lý bất lợi trước Nhà nước về hành vi phạm tội của mình theo tác giả cũng không
phù hợp. Về bản chất thì nghĩa vụ pháp lý hình sự và trách nhiệm pháp lý hình sự là
khác nhau. Khi đề cập đến nghĩa vụ pháp lý của một người là đề cập đến khả năng
người đó có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý, còn khi nói đến trách nhiệm pháp lý
hình sự của một người chính là nói đến việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý trái với ý
chí của người có nghĩa vụ. TNHS của người phạm tội, với tính cách là một dạng
của trách nhiệm pháp lý, không phải là nghĩa vụ mà một người có thể phải chịu hậu
quả pháp lý bất lợi do việc người đó thực hiện tội phạm mà chính là việc phải chịu
hậu quả pháp lý bất lợi của người phạm tội trước Nhà nước do việc người đó đã
thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, theo quan điểm của tác giả thì, nếu không có bản
án kết tội có hiệu lực của Tòa án thì không thể nói đến TNHS đối với một người.
Tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và Điều 13 BLTTHS 2015 đã khẳng định
một nguyên tắc quan trọng nhằm bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp
hình sự - nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo đó, “người bị buộc tội được coi là không
có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Bản án kết tội có hiệu lực do Tòa án tuyên chính
là cơ sở pháp lý xác nhận người bị buộc tội chính thức bị coi là có tội. Vì vậy, có
thể nói, TNHS được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án và TNHS mà một người
phải chịu trước Nhà nước chỉ có thể được xác nhận một cách chính thức khi bản án
kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, tác giả cho rằng, để xác định khái niệm TNHS của người phạm tội
trước hết nhận biết các đặc điểm vốn có của nó. Qua nghiên cứu các quan điểm nêu
trên về khái niệm TNHS của người phạm tội, đồng thời căn cứ vào các quy phạm
pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến việc giải quyết vấn đề TNHS của người
phạm tội cũng như thực tiễn áp dụng các quy phạm ấy. Chúng ta nhận thấy TNHS
của người phạm tội có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, TNHS của người phạm tội là hậu quả pháp lý của việc thực hiện
10
tội phạm.
Thứ hai, TNHS là một dạng trách nhiệm nghiêm khắc nhất trong các trách
nhiệm pháp lý.
Thứ ba, TNHS của người phạm tội là trách nhiệm cá nhân của người phạm
tội trước Nhà nước.
Thứ tư, TNHS của người phạm tội được xác định bằng trình tự đặc biệt được
quy định trong pháp luật tố tụng hình sự.
Thứ năm, TNHS được phản ánh trong bản án hoặc quyết định có hiệu lực
của Tòa án.
Như vậy, từ sự tìm hiểu các quan điểm khác nhau về TNHS của người phạm
tội kết hợp với việc nhận thức một số vấn đề mang tính lý luận có liên quan đến
TNHS của người phạm tội, theo tác giả, khái niệm TNHS của người phạm tội có thể
được định nghĩa như sau: “Trách nhiệm hình sự của người phạm tội là một dạng
của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm mà người
phạm tội phải chịu những tác động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự
trước Nhà nước gồm bản án kết tội của Tòa án, hình phạt mà Tòa án quyết định và
án tích.”
1.1.1.3. Cơ sở của trách nhiệm hình sự của người phạm tội
Việc tìm hiểu về cơ sở của TNHS đòi hỏi chúng ta phải phân tích dưới góc
độ cơ sở triết học và cơ sở pháp lý.
- Cơ sở triết học
Nghiên cứu về cơ sở triết học của TNHS là trả lời câu hỏi: dựa trên cơ sở nào
mà Nhà nước có quyền buộc một người phải chịu TNHS về hành vi phạm tội mà họ
đã thực hiện? Trả lời cho câu hỏi này đòi hỏi phải giải quyết vấn đề triết học về tự
do ý chí, về mối quan hệ giữa tính tất yếu và tính tự do trong hành vi của con người.
TNHS của người phạm tội chỉ đặt ra đối với hành vi của con người và nhằm
điều chỉnh hành vi của con người. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hoặc
không hành động. Những ý tưởng, ý nghĩ, đặc tính cá nhân của con người chưa
được biểu hiện ra dưới dạng hành vi cụ thể thì không phải chịu sự điều chỉnh của
11
pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.
Mối quan hệ giữa tính tất yếu và tính tự do trong hành vi của con người thể
hiện ở sự tương tác giữa các điều kiện khách quan bên ngoài với con người. Tính tất
yếu trong hành vi của con người thể hiện ở chỗ, hành vi của con người được hình
thành và thực hiện một cách có quy luật, là kết quả của sự tác động của các điều
kiện tự nhiên, xã hội đến con người. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con
người lệ thuộc tuyệt đối vào hoàn cảnh khách quan. Hành vi phạm tội là kết quả của
sự suy xét của lý trí và sự quyết định của ý chí. Vì vậy, trong cùng một hoàn cảnh,
cùng chịu sự tác động như nhau của điều kiện bên ngoài, nhưng mọi người lại có
cách xử sự khác nhau. Tính tự do trong hành vi thể hiện ở chỗ tuy bị hoàn cảnh
khách quan tác động đến nhưng con người không mất đi khả năng tự do lựa chọn
hành vi của mình. Cơ sở quy kết TNHS đối với người phạm tội chính là ở chỗ họ đã
thể hiện tự do ý chí trong việc lựa chọn xử sự trái pháp luật trong khi có thể lựa
chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
- Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý của TNHS của người phạm tội là căn cứ có tính chất bắt buộc
chung do luật hình sự quy định và phải dựa vào đó, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mới có thể đặt vấn đề TNHS của người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã được luật hình sự quy định là tội phạm. Hiện nay, trong khoa học luật
hình sự Việt Nam chưa có quan điểm thống nhất về cơ sở pháp lý của TNHS. Có
quan điểm cho rằng “cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của TNHS, là điều kiện
cần và đủ của TNHS” [38, tr.246]. Quan điểm khác cho rằng cơ sở pháp lý của
TNHS là “việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là
tội phạm” [5, tr.133]. Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng cơ sở pháp lý của
TNHS chính là cấu thành tội phạm.
Ở nước ta, cơ sở pháp lý của TNHS của người phạm tội được ghi nhận tại
khoản 1 Điều 2 BLHS 2015: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự
quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Quy định này thể hiện tinh thần của
nguyên tắc pháp chế XHCN, theo đó, những căn cứ là cơ sở của TNHS của người
12
phạm tội, của việc áp dụng hình phạt hoặc miễn hình phạt cũng như các hình thức
TNHS khác với tính cách là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội đều phải do pháp
luật hình sự quy định. Nói cách khác, quy định của pháp luật hình sự về một hành vi
bị coi là tội phạm là cơ sở pháp lý của TNHS của người phạm tội.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
Trong Bộ luật hình sự hiện hành, vấn đề TNHS của người dưới 18 tuổi phạm
tội được nhà làm luật quy định trong một chương riêng thuộc Phần chung – Chương
XII. Trong đó quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội; các biện
pháp phi hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (bao gồm các biện pháp
giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng); vấn đề
hình phạt, quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các vấn đề
khác có liên quan. Thuật ngữ người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là người đã đủ
14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm. TNHS của người
dưới 18 tuổi phạm tội là TNHS người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời
điểm thực hiện tội phạm, hành vi của họ xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ. Đây là đối tượng mang những đặc điểm về thể chất và tâm sinh lý
đặc biệt, đòi hỏi phải áp dụng TNHS với họ thông qua những trình tự, thủ tục tố
tụng nhất định. Bên cạnh những đặc điểm nói chung của TNHS của người phạm tội
thì TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn mang những đặc điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất, đây là dạng TNHS đặc biệt áp dụng đối với người đã đủ 14 tuổi
nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm, được quy định trong một
chương riêng, thể hiện rõ nét tính nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và
pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng cũng như sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước
ta đối với nhóm chủ thể này.
Thứ hai, phạm vi chịu TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội hẹp hơn so với
người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Ngoài các căn cứ miễn TNHS đối với người phạm tội
thì người dưới 18 tuổi phạm tội còn được miễn TNHS đối với một số tội phạm nếu
13
đáp ứng các điều kiện luật định. Bên cạnh đó, về loại hình phạt có thể áp dụng đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng hẹp hơn so với người phạm tội từ đủ 18 tuổi.
Các hình phạt tù chung thân, tử hình, các hình phạt bổ sung không thể được áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Các hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có
thời hạn tuy được phép áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng cũng
tùy vào loại tội phạm mà họ thực hiện.
Thứ ba, TNHS áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội về mức độ
nghiêm khắc có giảm nhẹ hơn so với người đủ 18 tuổi phạm tội. Biện pháp tư pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng và các biện pháp giám sát, giáo dục đều là những
biện pháp ít hà khắc hơn và được ưu tiên áp dụng thay vì áp dụng hình phạt. Các
hình phạt nhằm cách ly hoàn toàn người phạm tội ra khỏi xã hội như tù chung thân
và tử hình đều không áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khung hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng thấp hơn so với người từ đủ 18 tuổi phạm
tội.
Thứ tư, TNHS áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mang ý nghĩa
giáo dục, cải tạo là chính. Việc thu hẹp phạm vi chịu TNHS cũng như mức độ
nghiêm khắc trong việc áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm
giảm tính trừng trị và tăng tính giáo dục, cải tạo qua đó giúp họ trở thành công dân
lương thiện, có ích cho xã hội.
Dựa trên nền tảng khái niệm TNHS của người phạm tội và những phân tích
nêu trên, có thể đưa ra khái niệm TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như
sau: “Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội là một dạng của trách
nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm mà người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm phải chịu những tác động
pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự trước Nhà nước gồm bản án kết tội
của Tòa án, hình phạt mà Tòa án quyết định và án tích.”
1.1.3. Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nghiên cứu các đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi phạm tội trong
mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố độ tuổi, môi trường, gia định, nhà trường
14
và xã hội, có thể rút ra một số đặc thù sau:
Thứ nhất, từ những hạn chế về mặt thể chất cũng như tâm sinh lý của lứa
tuổi này, có thể thấy năng lực TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội hạn chế hơn
so với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển
đầy đủ về thể chất cũng như tâm sinh lý. Ở giai đoạn này, sự mất cân bằng bên
trong cơ thể diễn ra do các bộ phận phát triển không đồng đều. Đồng thời, tuyến nội
tiết hoạt động mạnh gây ra sự hoạt động thiếu ổn định của hệ thần kinh, dễ bị xúc
động mạnh, có những phản ứng nóng nảy vô cớ cũng như hành vi bất thường. Đôi
khi, chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt mà họ có những hành vi thái quá, thiếu kiềm
chế dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Bên cạnh đó, cảm nhận về “tính người lớn” của bản
thân cũng chính là nét tâm lý đặc trưng của nhóm đối tượng này. Yếu tố tâm lý này
tạo nên khoảng cách trong hoạt động giao tiếp giữa họ với cha mẹ, khiến họ có nhu
cầu giao tiếp cao hơn đối với bạn đồng trang lứa. Những phát triển mạnh mẽ về thể
chất và chức năng sinh lý càng khiến họ có ấn tượng sâu sắc rằng bản thân đã
trưởng thành và đòi hỏi nhu cầu độc lập, muốn tự hành động, tự đưa ra quyết định
theo ý kiến riêng. Tuy nhiên, khi nhu cầu độc lập phát triển theo hướng thái quá, dễ
dẫn đến các hành vi như ngang bướng, bảo thủ, dễ tự ái, khoe khoang, phô trương,
hành động mang tính phiêu lưu, mạo hiểm. Không giống với sự phát triển như “vũ
bão” về mặt thể chất cũng như tâm lý của nhóm đối tượng này, trình độ nhận thức
và kinh nghiệm sống của họ vẫn còn quá ít ỏi đặc biệt là nhận thức về pháp luật.
Dẫn đến dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào các hoạt động phạm pháp. Thực tế cho
thấy, nhiều trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng bản thân họ lại không
biết mình phạm tội, không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội mà
hành vi của mình mang lại. Một số còn cho rằng hành vi của mình là hợp pháp, là tự
bảo vệ quyền lợi của bản thân, hay góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Nhìn
chung, khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của người dưới 18 tuổi
phạm tội hạn chế hơn so với người đã thành niên, vì thế, không thể coi người dưới
18 tuổi phạm tội có năng lực TNHS toàn phần như người từ đủ 18 tuổi phạm tội.
Mặt khác, tuy người dưới 18 tuổi dễ bị dụ dỗ, kích động tham gia thực hiện tội
15
phạm nhưng nhìn chung ý thức phạm tội vẫn chưa sâu sắc, sự giáo dục của nhà
trường, xã hội cũng như gia đình vẫn có những tác động lớn đến nhận thức và hành
vi của họ để giúp họ rời xa con đường phạm tội. Vì lẽ đó, việc cải tạo, giúp đỡ họ
trở thành công dân có ích cho xã hội cũng có những ưu thế nhất định so với người
từ đủ 18 tuổi phạm tội.
Thứ hai, nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy hành vi phạm tội ở người dưới
18 tuổi chủ yếu bắt nguồn từ những thiếu sót, bất cập và cả những sai lầm trong
việc nuôi dưỡng, giáo dục cũng như xây dựng và tổ chức các mối quan hệ trong
cuộc sống của người lớn. Môi trường xã hội hóa đầu tiên và có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng đối với mỗi con người đó là gia đình. Không gì thay thế được sự giáo dục của
cha mẹ đối với con cái bởi đó không chỉ là sự truyền đạt những tri thức mà còn là sự
truyền đạt những kinh nghiệm sống, ứng xử giao tiếp hằng ngày và đó còn là sự bao
bọc con cái trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Bên cạnh đó là nhà trường và xã
hội là môi trường cung cấp tri thức, nền tảng đạo đức và sự tham chiếu trong lối
sống. Do đó, đặt ra một đòi hỏi hết sức chính đáng là người dưới 18 tuổi phạm tội
cần nhận được sự quan tâm và bảo trợ đặc biệt của gia đình, nhà trường, xã hội và
pháp luật. Sự bảo trợ này không chỉ xuất hiện khi người dưới 18 tuổi là đối tượng bị
tội phạm xâm hại, mà phải tồn tại xuyên suốt và ngay cả khi họ là chủ thể tham gia
thực hiện tội phạm. Vì lẽ đó mà pháp luật không đặt lên những người dưới 18 tuổi
phạm tội những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc ngang bằng với các biện pháp
TNHS áp dụng với người từ đủ 18 tuổi phạm tội.
Thứ ba, người dưới 18 tuổi là nhóm người đang ở ngưỡng cửa cuộc đời,
những sai lầm trong nhận thức của họ vẫn chưa hằn sâu, còn có thể uốn nắn nếu sử
dụng đúng cách, hơn nữa khả năng tiếp nhận sự giáo dục, cải tạo ở họ cũng rất lớn.
Quan trọng hơn là họ vẫn còn một tương lai ở phía trước, vẫn có thể làm lại từ đầu.
Điều này cho phép các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng những biện pháp, cách
thức khác thay vì buộc họ phải gánh chịu những chế tài mang tính nghiêm khắc của
pháp luật hình sự. Đây cũng là cơ sở để áp dụng hệ thống các biện pháp riêng ít
nghiêm khắc hơn, mang tính giáo dục là chính đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
16
Từ những cơ sở nêu trên, nhà làm luật đã quy định những vấn đề về TNHS
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thành một chương riêng trong BLHS bằng
những điều luật mang tính khoan hồng đặc biệt.
1.2. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước trên thế giới
1.2.1. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp
luật quốc tế
Người dưới 18 tuổi phạm tội là một hiện tượng, thực tế tồn tại từ lâu ở tất cả
các quốc gia trên thế giới. Kể từ khi Liên Hợp Quốc được thành lập năm 1945, đến
nay, đã có nhiều văn bản pháp lý mang tầm quốc tế về quyền con người ra đời. Hiện
nay, việc tăng cường bảo vệ các quyền của trẻ em nói chung, người dưới 18 tuổi nói
riêng cũng là một khía cạnh quan trọng trong hoạt động của các cơ quan và chương
trình của Liên Hợp Quốc. Theo đó, Liên Hợp Quốc đã ban hành nhiều văn kiện về
tư pháp người chưa thành niên như: Công ước về quyền trẻ em được Đại Hội đồng
Liên Hợp Quốc thông qua năm 1989 và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và
gia nhập; bên cạnh đó là tập hợp các quy tắc, hướng dẫn tuy không có hiệu lực ràng
buộc về mặt pháp lý đối với các quốc gia thành viên nhưng vẫn được các quốc gia
trên thế giới đồng tình ủng hộ như Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp
Quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên hay còn gọi là Các quy tắc
Bắc Kinh, được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 29/11/1985; Các
hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên
hay còn gọi là Các hướng dẫn Ri-át, được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua
ngày 14/12/1990; Các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên
bị tước tự do được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990; Các
hướng dẫn làm việc với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự hay còn gọi là Các
hướng dẫn Viên, được khuyến nghị bởi Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hợp Quốc
ngày 21/7/1997.
Các văn kiện kể trên ra đời nhằm một mục tiêu chung đó là hạn chế đến mức
tối thiểu việc các cơ quan tư pháp phải xử lý đối với trẻ em, người chưa thành niên
17
cũng như những ảnh hưởng xấu có thể xảy đến với họ trong trường hợp buộc phải
áp dụng các chế tài pháp luật. Cụ thể, Công ước về quyền trẻ em định nghĩa trẻ em
là “bất kỳ người nào dưới 18 tuổi” và yêu cầu các quốc gia là thành viên phải xem
“lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu”. Trên tinh thần đó, tại
Điều 37 của Công ước này quy định “những người dưới 18 tuổi nếu gây ra những
hành động phạm pháp sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân
mà không có khả năng được phóng thích”; “Việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em
phải được tiến hành phù hợp với pháp luật và chỉ được coi là biện pháp cuối cùng
và áp dụng trong thời hạn thích hợp ngắn nhất”. Tại Điều 40 có quy định “Mọi trẻ
em bị tình nghi hay bị cáo buộc là đã vi phạm luật hình sự… được coi là vô tội cho
tới khi bị chứng minh rằng đã phạm tội theo pháp luật”; bên cạnh đó còn đòi hỏi
các quốc gia thành viên phải xây dựng những đạo luật, thủ tục, các cơ quan và thể
chế áp dụng riêng đối với trẻ em bị tình nghi, bị cáo buộc hay bị xác nhận là đã vi
phạm luật hình sự như: “Xác định độ tuổi tối thiểu mà dưới độ tuổi đó trẻ em sẽ
được coi là không có khả năng vi phạm luật hình sự”; “Bất kỳ khi nào thấy thích
hợp và cần thiết cần đề ra các biện pháp xử lý những trẻ em vi phạm pháp luật hình
sự mà không phải sử dụng đến thủ tục tư pháp, miễn là các quyền con người và
những bảo vệ pháp lý được tôn trọng đầy đủ”. Bên cạnh đó, trong Các quy tắc tiêu
chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành
niên còn đề cập những nội dung như tại Quy tắc 8 đòi hỏi phải tôn trọng quyền
riêng tư của người chưa thành niên trong tất cả các giai đoạn tố tụng, nhằm tránh
những tổn hại gây ra do sự công khai quá mức hay do sự quy chụp; Quy tắc 18 đòi
hỏi các quốc gia “cần cho phép cơ quan có thẩm quyền có nhiều biện pháp xử lý
khác nhau, nhằm phát huy tính linh hoạt, giúp tránh việc sử dụng hình phạt giam
giữ ở mức độ cao nhất có thể”; Quy tắc 28 đòi hỏi việc trả tự do có điều kiện cần
được áp dụng sớm và thường xuyên, cụ thể là “Cơ quan thích hợp phải trả tự do có
điều kiện ở mức độ nhiều nhất có thể được, và lệnh trả tự do phải được đưa ra
trong thời gian sớm nhất có thể được”.
Các nội dung và quy định nêu trên cho thấy rằng, vấn đề áp dụng pháp luật
18
đối với người dưới 18 tuổi nói chung và TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
nói riêng đã được các quốc gia trên thế giới dành sự quan tâm đặc biệt từ lâu. Các
quốc gia trên toàn cầu đã và đang nỗ lực tìm mọi cách bảo đảm hệ thống pháp luật
liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội tuân thủ theo đúng pháp luật quốc tế về
quyền con người.
1.2.2. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi trong pháp luật một
số nước trên thế giới
Mặc dù tồn tại nhiều văn kiện pháp lý mang tầm quốc tế về tư pháp người
chưa thành niên nêu trên, tuy nhiên, mỗi quốc gia giải quyết vấn đề TNHS đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội bằng những cách thức khác nhau, thái độ khác nhau tùy
theo điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống pháp luật và quan điểm của các nhà làm
luật. Trên cơ sở đó, tác giả đã nghiên cứu một số nội dung, quy định về TNHS đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội hay còn gọi là người chưa thành niên trong pháp luật
hình sự Liên bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản nhằm làm rõ hơn vấn đề này.
Thứ nhất, về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nhìn
chung, pháp luật hình sự các nước đều đề cao nguyên tắc nhân đạo trong các quy
định về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khoản 2 Điều 57 BLHS Liên
bang Nga quy định: “hình phạt tù chung thân không áp dụng đối với người phạm
tội tại thời điểm người đó dưới 18 tuổi”. Khoản 2 Điều 59 BLHS Liên Bang Nga
quy định: “hình phạt tử hình không áp dụng đối với người phạm tội tại thời điểm
người đó dưới 18 tuổi”. Khoản 2 Điều 88 BLHS Liên Bang Nga quy định: “hình
phạt tiền chỉ áp dụng đối với người chưa thành niên có thu nhập riêng hoặc tài sản
riêng”. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 90 BLHS Liên Bang Nga thì
người chưa thành niên phạm tội lần đầu ở mức độ nghiêm trọng nhỏ hoặc trung
bình có thể được miễn TNHS và áp dụng các biện pháp mang tính giáo dục nếu có
căn cứ cho rằng có thể đạt được hiệu quả cải tạo. Tại Điều 49 BLHS Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa quy định: “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa đủ
18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm…”. Điều 54 Luật về người chưa thành niên
của Nhật Bản lại quy định: “Không có người chưa thành niên nào bị kết án phải
19
làm việc tại một công xưởng để thay thế cho hình phạt tiền”.
Thứ hai, về độ tuổi chịu TNHS. Tại khoản 1 Điều 87 BLHS Liên Bang Nga
xác định “người chưa thành niên được hiểu là người đủ 14 đến 18 tuổi tại thời điểm
thực hiện tội phạm”. Trong khi đó, tại khoản 1 Điều 2 Luật về người chưa thành
niên của Nhật Bản lại quy định: “Trong đạo luật này, người chưa thành niên là
người dưới 20 tuổi, người đã thành niên là người từ 20 tuổi trở lên”. Điều 3 của
Luật này quy định về thẩm quyền của Tòa án gia đình gồm: “Người chưa thành
niên bị cho là đã thực hiện hành vi phạm tội; Người chưa thành niên dưới 14 tuổi bị
cho là đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự; Người chưa thành niên có
nguy cơ phạm tội hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự khi xem xét tính
cách của họ và môi trường xung quanh vì họ có các hành vi sau: Họ có xu hướng
không chịu sự kiểm soát của người giám hộ; Thường không về nhà mà không có lý
do chính đáng; Thường có quan hệ với những người có xu hướng phạm tội hoặc
những người có vấn đề về đạo đức hoặc thường lui tới những nơi có ảnh hưởng đến
danh dự của họ; Có xu hướng thực hiện hành vi làm tổn thương về mặt đạo đức của
mình hoặc của người khác”. Có thể thấy, phạm vi xử lý hình sự của luật hình sự
Nhật Bản đối với người chưa thành niên là rất rộng. BLHS Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa không quy định thế nào là người chưa thành niên, cũng như không có
chương riêng quy định về người chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 17 BLHS
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có thể hiểu rằng, người đủ 16 tuổi tại thời điểm
phạm tội sẽ phải chịu TNHS, người đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
TNHS đối với một số tội phạm có tính chất nghiêm trọng như Cố ý giết người, Cố ý
gây thương tích dẫn đến thương tích nặng hoặc chết người, Hiếp dâm, Cướp,…
Thứ ba, các biện pháp xử lý được áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Tại khoản 1 Điều 88 BLHS Liên Bang Nga quy định hệ thống hình phạt
áp dụng riêng đối với người chưa thành niên bao gồm: Phạt tiền; Tước quyền tham
gia các hoạt động nhất định; Lao động cải tạo; Lao động khắc phục; Phạt giam; Phạt
tù có thời hạn. Khoản 2 Điều 90 BLHS Liên Bang Nga quy định các biện pháp
mang tính giáo dục được áp dụng trong trường hợp miễn TNHS đối với người chưa
20
thành niên gồm: Cảnh cáo; Giám sát của gia đình hoặc cơ quan có thẩm quyền;
Khắc phục thiệt hại đã gây ra; Hạn chế giải trí và thiết lập các yêu cầu đặc biệt về
hành vi của người chưa thành niên. BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định
hệ thống hình phạt chính áp dụng đối với người chưa thành niên bao gồm: Quản
chế; Phạt giam hình sự; Phạt tù; hệ thống hình phạt bổ sung áp dụng đối với người
chưa thành niên bao gồm: Phạt tù; Phạt tiền, phạt tiền theo ngày, lao động công ích;
Tước hoặc hạn chế quyền nhất định. Điều 9 BLHS Nhật Bản quy định, hình phạt áp
dụng đối với người chưa thành niên không có sự khác biệt đối với người đã thành
niên, bao gồm: Tử hình; Tù có lao động bắt buộc; Tù không có lao động bắt buộc;
Phạt tiền; Phạt giam hình sự; Phạt tiền về tội hình sự nhỏ; Phạt giam vì không nộp
đủ tiền phạt. Bên cạnh đó Luật về người chưa thành niên của Nhật Bản không quy
định các biện pháp giám sát, giáo dục mà gọi đây là các biện pháp bảo vệ người
chưa thành niên và quy định tại khoản 1 Điều 24, theo đó gồm các biện pháp: Đưa
người chưa thành niên vào cơ sở giám sát; Đưa người chưa thành niên vào nhà dành
cho trẻ sống một mình hoặc cơ sở bảo hộ trẻ em; Đưa người chưa thành niên vào cơ
sở giáo dục người chưa thành niên.
Thứ tư, quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tại khoản
1 Điều 89 BLHS Liên Bang Nga quy định: “Khi quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên Tòa án phải cân nhắc kĩ lưỡng, bên cạnh các trường hợp được quy
định tại Điều 60 của Bộ luật này, những điều kiện của cuộc sống và sự giáo dục,
mức độ nhận thức, và những đặc điểm khác, kể cả ảnh hưởng của người lớn hơn lên
họ”. Tại Điều 17 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định nếu một người đã
đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi mà phạm tội thì sẽ được giảm nhẹ sự trừng phạt.
Trong khi đó, pháp luật hình sự Nhật Bản không quy định về mặt nguyên tắc khi
quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.
Đặt trong sự so sánh giữa quy định của các quốc gia kể trên về TNHS của
người chưa thành niên, có thể thấy rằng pháp luật hình sự các nước, trong xu thế
chung của pháp luật quốc tế đều đề cao nguyên tắc nhân đạo. Sở dĩ có sự khác nhau
nêu trên là do sự khác biệt về truyền thống lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán,
21
quan niệm về đạo đức. Mặt khác, còn do sự phát triển không đồng đều về kinh tế,
chính trị, xã hội, sự khác biệt về đặc điểm sinh học của từng chủng người cũng như
chính sách hình sự và yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở mỗi
quốc gia.
Tiểu kết Chương 1
Trách nhiệm hình sự của người phạm tội là một vấn đề pháp lý nhận được
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Với tư cách là
nhóm chủ thể đặc biệt, người dưới 18 tuổi mang những hạn chế về mặt tâm sinh lý
cũng như nhận thức và ý thức pháp luật. Có thể nói, nguyên nhân và điều kiện thúc
đẩy hành vi phạm tội ở người dưới 18 tuổi chủ yếu bắt nguồn từ những thiếu sót,
bất cập và cả những sai lầm trong việc nuôi dưỡng, giáo dục cũng như xây dựng và
tổ chức các mối quan hệ trong cuộc sống của người lớn. Vì vậy, TNHS đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội cũng có những khác biệt cơ bản so với TNHS đối với
người phạm tội nói chung. TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy
định trong một chương riêng với phạm vi chịu TNHS hẹp hơn, mức độ nghiêm khắc
có phần giảm nhẹ hơn và mang ý nghĩa giáo dục, cải tạo là chính.
Trong pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia thì vấn đề TNHS của
những người chưa thành niên hay tư pháp người chưa thành niên cũng rất được
quan tâm. Trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới đang ra sức bảo vệ ngày một tốt
hơn quyền con người, mà trẻ em, người chưa thành niên là những thế hệ tương lai
cần được quan tâm hơn hết thì nguyên tắc nhân đạo phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
quá trình xây dựng, ban hành pháp luật cũng như quá trình áp dụng pháp luật hình
sự đối với họ. Tuy nhiên, pháp luật hình sự mỗi quốc gia thể hiện nguyên tắc nhân
đạo trong vấn đề TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội là khác nhau. Quy
định về mức tuổi chịu TNHS của các quốc gia là khác nhau. Hình phạt và các biện
pháp khác mang tính giáo dục cũng có nhiều sự khác biệt. Điều này xuất phát từ các
nguyên nhân về điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống pháp luật và quan điểm của
các nhà làm luật ở mỗi quốc gia khác nhau là khác nhau.
22
CHƯƠNG 2
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật
Hình sự Việt Nam hiện hành
2.1.1. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật
Hình sự Việt Nam hiện hành
Xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý đặc biệt của người dưới 18 tuổi mà
nhà làm luật đã dành riêng Chương XII trong BLHS hiện hành cho các quy định về
người dưới 18 tuổi phạm tội, trong đó bao gồm những nguyên tắc xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội được ghi nhận tại Điều 91. Nguyên tắc xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mang
tính chất định hướng, xuyên suốt trong quá trình xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Đây chính là nội dung thể hiện trực tiếp chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Bên cạnh việc căn cứ vào những nguyên tắc xử lý chung đối với người phạm
tội được quy định tại khoản 1 Điều 3 BLHS hiện hành thì cơ quan áp dụng pháp
luật còn phải tuân thủ những nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
cụ thể như sau:
- Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm
lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi phạm tội và chủ yếu nhằm mục đích giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích
cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả
năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Nguyên tắc này nhằm định hướng cho người tiến hành tố tụng khi quyết định
lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với người dưới 18 tuổi cần tìm ra biện pháp phù
23
hợp nhất, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội cần bảo đảm đó là biện pháp tốt nhất đối với người
dưới 18 tuổi, trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích khác, cũng như bảo đảm sự
nghiêm minh của pháp luật. Đây là nguyên tắc xương sống trong hoạt động tố tụng
hình sự và cũng là điểm mới hoàn thiện của BLHS 2015 so với BLHS 1999 thể hiện
rõ nét sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng
như phù hợp với tinh thần Điều 3 Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em.
Theo đó, “Trong mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, dù được thực hiện bởi các cơ
quan phúc lợi xã hội của nhà nước hay tư nhân, bởi tòa án, các nhà chức trách
hành chính hay cơ quan pháp luật, thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan
tâm hàng đầu.”
Ngoài ra, như đã phân tích ở trên, người dưới 18 tuổi là người chưa phát
triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm
sống vẫn còn hạn chế, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội của họ
có sự tác động lớn từ môi trường sống của họ, trong đó có phần trách nhiệm của gia
đình, nhà trường và xã hội. Vì lẽ đó, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu
là nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống
xã hội chủ nghĩa, giúp đỡ họ nhận ra và sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở
thành công dân có ích cho xã hội. Điều này có nghĩa là, phải ưu tiên áp dụng các
biện pháp có tính chất giáo dục, thuyết phục trước. Chỉ áp dụng hình phạt mang tính
trừng trị khi có đủ căn cứ cho rằng, việc áp dụng các biện pháp mang tính giáo dục
không đem lại hiệu quả. Qua đó, góp phần phòng ngừa tội phạm ở người dưới 18
tuổi cũng như phù hợp với các nguyên tắc cơ bản trong văn kiện Các hướng dẫn của
Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên. Theo đó:
“1. Việc phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên là một bộ phận
chính yếu của phòng ngừa tội phạm trong xã hội. Bằng việc tham gia các hoạt động
hợp pháp, hữu ích về mặt xã hội và có định hướng mang tính nhân văn đối với xã
hội và quan niệm cuộc sống, người chưa thành niên có thể hình thành một thái độ
sống không cần đến phạm tội.
24
2. Việc phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên một cách thành
công đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn xã hội, nhằm bảo đảm sự phát triển hài hoà
của người chưa thành niên, tôn trọng và phát triển nhân cách của họ.”
Do chưa phát triển và hoàn thiện về các mặt, cho nên không phải bất cứ
trường hợp phạm tội cụ thể nào người chưa thành niên cũng có đầy đủ năng lực
TNHS, tức là khả năng nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi mà mình
thực hiện và hậu quả của nó cũng như khả năng điều khiển hành vi ấy. Vì vậy, Luật
Hình sự Việt Nam đòi hỏi khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền phải căn cứ vào độ tuổi và khả năng nhận thức của họ về tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Bên cạnh đó, luật cũng đồng thời yêu
cầu các cơ quan này phải làm rõ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Yêu cầu
này là vô cùng cần thiết, bởi nguyên nhân và điều kiện phạm tội có thể xuất phát từ
nhiều phía, có thể xuất phát từ môi trường xã hội tiêu cực, hệ thống pháp luật chưa
hoàn thiện, sơ hở trong công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự hoặc từ chính
bản thân có hoàn cảnh đặc biệt của người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ đó, cơ quan tư
pháp và người tiến hành tố tụng mới có thể lựa chọn một cách phù hợp các biện
pháp cần áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong giới hạn luật định, cũng
như đưa ra các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa việc phạm tội của người dưới 18
tuổi.
- Nguyên tắc thứ hai: Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi
phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về
nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu
của việc phòng ngừa tội phạm.
Nguyên tắc này thể hiện rõ nét tư tưởng nhân đạo của pháp luật hình sự nước
ta khi đặt ra yêu cầu và giới hạn phạm vi những trường hợp cần truy cứu TNHS đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội. Không phải mọi trường hợp người dưới 18 tuổi
phạm tội đều cần phải bị truy cứu TNHS mà tùy từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở
cân nhắc những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Việc các đặc điểm về
25
nhân thân được nhà làm luật xếp trước tiên cho thấy sự đề cao mục đích giáo dục,
cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội. Căn cứ vào đặc điểm thuộc về nhân thân của
người phạm tội như độ tuổi, giới tính, hoàn cảnh gia đình, nơi cư trú, nghề nghiệp,
tình trạng sức khỏe, hay các đặc điểm phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy
hiểm,…có thể nhận định khả năng cải tạo, giáo dục của người dưới 18 tuổi phạm
tội. Căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nhằm đánh giá
khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi phạm tội. Căn cứ vào yêu cầu của việc
phòng ngừa tội phạm nhằm đánh giá hành vi phạm tội mà người dưới 18 tuổi thực
hiện trong bối cảnh chung trong từng thời kỳ, cũng như ở từng địa phương để từ đó
bào đảm được yêu cầu phòng ngừa chung.
- Nguyên tắc thứ ba: Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một
trong các biện pháp giám sát, giáo dục hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
Nguyên tắc này cũng phù hợp với xu hướng chung trong chính sách xử lý đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội của nhiều nước trên thế giới là ưu tiên áp dụng xử
lý chuyển hướng. Trước đây, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu thông
qua hệ thống hình phạt và loại hình phạt chủ yếu áp dụng đối với họ là tù có thời
hạn. Việc cách ly khỏi xã hội ảnh hưởng tiêu cực đến họ, khiến họ có cảm giác bị
bỏ rơi, bị đẩy ra lề xã hội, đồng thời có thể gây ra sự kỳ thị, xa lánh của cộng đồng.
Bên cạnh đó, công tác giáo dục, cải tạo người bị kết án phạt tù vẫn tồn tại một số
bất cập đã gây nhiều tác động tiêu cực đến khả năng phục hồi của người dưới 18
tuổi phạm tội. Vì lẽ đó, BLHS 2015 đã quy định một nội dung quan trọng trong
nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đó là việc áp dụng hình phạt đối với
họ phải được coi là biện pháp sau cùng trong trường hợp cần thiết phải truy cứu
TNHS người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy biện pháp tư pháp hay các biện
pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp miễn TNHS không đảm bảo hiệu quả giáo
dục, phòng ngừa. Ngoài ra, trong trường hợp Tòa án buộc phải áp dụng hình phạt tù
có thời hạn thì thời hạn tù cần được ấn định sao cho vừa đủ để giáo dục, phục hồi,
26
trên cơ sở cân nhắc toàn diện điều kiện và hoàn cảnh phạm tội, nhân thân của người
dưới 18 tuổi phạm tội.
- Nguyên tắc thứ tư: Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội; hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn và không áp dụng
hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Nguyên tắc này góp phần cụ thể hóa nguyên tắc “việc xử lý người dưới 18
tuổi phạm tội chủ yếu nhằm mục đích giáo dục”. Tử hình và tù chung thân là hai
hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt được quy định tại Bộ luật hình
sự, người phạm tội nói chung chỉ bị áp dụng hình phạt này trong trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng và khả năng cải tạo giáo dục người phạm tội không còn nữa.
Chính vì vậy đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, khi mà mục đích truy cứu TNHS
đối với họ chủ yếu là nhằm giáo dục, cải tạo thì không thể cho phép áp dụng loại
hình phạt này.
Nguyên tắc này cũng quy định hạn chế áp dụng hình phạt tù đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Điều này là hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc đã phân
tích ở trên. Hình phạt tù có thời hạn với đặc trưng là tước tự do của người dưới 18
tuổi phạm tội trong một thời gian nhất định, cách ly họ ra khỏi môi trường sống
bình thường để buộc họ phải học tập, lao động, sinh hoạt trong một cơ sở tập trung
có kỷ luật nghiêm khắc. Việc áp dụng hình phạt này đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội không chỉ do họ đã thực hiện những tội phạm mang tính nghiêm trọng và
vì vậy cần bị xử lý bằng những chế tài nghiêm khắc mà còn xuất phát từ yêu cầu
bảo vệ cộng đồng trước khả năng họ tiếp tục gây ra những hành vi nguy hiểm cũng
như bảo vệ chính họ trước những yếu tố tiêu cực từ môi trường sống, có thể cản trở
quá trình phục hồi, cải tạo của họ. Khi chấp hành hình phạt tù có thời hạn, người
dưới 18 tuổi sẽ được dạy văn hóa, dạy nghề, giáo dục đạo đức, lối sống để họ trở
thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, loại hình phạt này cũng tồn tại bên
trong những hạn chế, bất cập nhất định. Với đặc tính đặc biệt của lứa tuổi này, việc
cách ly họ ra khỏi môi trường sống dễ gây nên những tác động tiêu cực đối với họ.
Việc tái hòa nhập cộng đồng vẫn là một vấn đề khó khăn ngay cả với người phạm
27
tội đã trưởng thành khi gia đình và thành viên trong cộng đồng vẫn còn thái độ xa
lánh, thậm chí là miệt thị đối với họ thì đối với người dưới 18 tuổi lại càng khó
khăn hơn nhiều. Chính vì vậy, BLHS 2015 đòi hỏi Tòa án phải coi hình phạt tù có
thời hạn là biện pháp xử lý cuối cùng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và khi
buộc phải áp dụng hình phạt này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án phải
cân nhắc áp dụng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên
phạm tội tương ứng, với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Bên cạnh đó, nguyên tắc này cũng quy định không áp dụng hình phạt bổ
sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Hình phạt bổ sung trong hệ thống hình
phạt tạo điều kiện cho Tòa án thực hiện việc cá thể hóa hình phạt, lựa chọn biện
pháp phù hợp để xử lý triệt để và công bằng đối với người bị kết án, củng cố, hỗ trợ,
tăng cường cho việc áp dụng hình phạt chính qua đó đạt được mục đích của hình
phạt. Tuy nhiên, như nguyên tắc đã phân tích ở trên, đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, việc xử lý chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Hình phạt bổ sung áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng không có ý nghĩa thiết thực, không
đảm bảo tính khả thi của hình phạt. Vì vậy, không cần thiết phải áp dụng thêm hình
phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều này cũng phù hợp với
phương hướng xây dựng, hoàn thiện của chính sách hình sự nước ta cũng như xu
thế chung của thế giới là giảm việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội và thay thế bằng các biện pháp giám sát, giáo dục.
- Nguyên tắc thứ năm: Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì
không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Tái phạm và tái phạm nguy hiểm là tình tiết bất lợi thuộc về nhân thân của
người phạm tội. Theo quy định tại Điều 53 BLHS 2015 về tái phạm và tái phạm
nguy hiểm thì có thể thấy, đây là trường hợp người phạm tội thể hiện khả năng cải
tạo, giáo dục còn thấp và coi thường pháp luật. Pháp luật hình sự nước ta xem tái
phạm và tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng của rất nhiều tội
phạm và là tình tiết tăng nặng TNHS. Bởi lẽ, tái phạm và tái phạm nguy hiểm thể
28
hiện tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với những trường hợp
phạm tội thông thường nên khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể áp dụng mức
hình phạt cao hơn so với người thuộc trường hợp phạm tội bình thường.
Người dưới 18 tuổi là nhóm đối tượng chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý,
nhận thức về pháp luật cũng như ý thức tôn trọng pháp luật vẫn chưa cao nên dễ bị
tác động tiêu cực bởi những tư tưởng xấu. Ngược lại, việc giáo dục, cải tạo đối với
họ cũng có phần dễ hơn so với người đã trưởng thành. Riêng đối với người dưới 16
tuổi thì được pháp luật hình sự Việt Nam đánh giá là có năng lực TNHS kém hơn so
với người từ đủ 16 tuổi. Ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên, sự nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi của con người nói chung đã tương đối hoàn chỉnh nên Luật hình
sự mới có sự phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Việc người dưới 16 tuổi phạm tội đáp ứng các điều kiện của tái phạm, tái
phạm nguy hiểm thể hiện rằng công tác giám sát, giáo dục, cải tạo đối với họ chưa
được thực hiện tốt, các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng chưa phát huy được hết
hiệu quả và lỗi phần lớn thuộc về gia đình, xã hội khi chưa có sự quan tâm đúng
mức. Trong trường hợp này, nên xem người dưới 16 tuổi phạm tội dưới phương
diện là nạn nhân hơn là người có lỗi. Vì vậy, không thể xem người dưới 16 tuổi
phạm tội đáp ứng các điều kiện của tái phạm, tái phạm nguy hiểm là có khả năng
giáo dục, cải tạo thấp để từ đó buộc họ phải chịu TNHS nặng hơn. Có thể thấy,
nguyên tắc này đã thể hiện tính nhân đạo của chính sách hình sự, tạo điều kiện để
người phạm tội cải tạo tốt, trở thành công dân có ích cho xã hội.
2.1.2. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội theo Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành
Với sự cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau liên quan đến người dưới 18 tuổi
phạm tội, tác giả cho rằng, biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần có
những khác biệt đáng kể so với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Bộ luật hình sự năm
2015 ra đời dựa trên những kinh nghiệm lập pháp từ hai lần pháp điển hóa trước
đây cùng với sự tiếp thu các tư duy tiến bộ của thế giới đã có nhiều điểm hoàn thiện,
trong đó có các biện pháp xử lý hình sự áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi
29
phạm tội.
2.1.2.1. Các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
những biện pháp xử lý mang tính chuyển hướng lần đầu tiên được quy định trong
pháp luật hình sự mà cụ thể là BLHS 2015. Như đã phân tích, một trong những
nguyên tắc quan trọng trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đó là phải bảo
đảm lợi ích tốt nhất của họ. Cần lựa chọn phương pháp xử lý phù hợp với tâm sinh
lý lứa tuổi này, đảm bảo họ được phát triển trong một môi trường bình thường. Tại
Báo cáo đánh giá luật pháp và thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý chuyển hướng,
tư pháp phục hồi với người chưa thành niên vi phạm pháp luật cũng đã chỉ ra sáu lợi
ích mà biện pháp xử lý chuyển hướng đem lại. Theo đó, việc áp dụng biện pháp này
sẽ đem lại kết quả nhanh hơn, chi phí thấp hơn so với biện pháp tư pháp chính
thống, giảm khối lượng công việc cho các cơ quan tư pháp. Hơn nữa, việc áp dụng
các biện pháp này còn giải quyết cả những nguyên nhân tiềm ẩn cũng như những
nhân tố bên trong dẫn đến hoặc liên quan đến hành vi đó, tạo cơ hội cho những
người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người chưa thành niên gây ra tham
gia vào việc lựa chọn một biện pháp xử lý đối với hành vi của người chưa thành
niên, giúp tránh sự kỳ thị, phân biệt khi bị kết tội và xử phạt mang lại những kết quả
tốt cho trẻ em.
Trong xu hướng chung của các nước trên thế giới cũng như đòi hỏi của Công
ước Quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên, việc
áp dụng các biện pháp xử lý nằm ngoài hệ thống hình phạt, mang tính răn đe, giáo
dục xã hội để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã và đang mang lại
nhiều hiệu quả tích cực trong việc giáo dục và phòng ngừa tội phạm vị thành niên
cũng như đảm bảo lợi ích cộng đồng.
Theo quy định của BLHS 2015 thì các biện pháp giám sát, giáo dục được áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng được miễn TNHS. Theo đó, cơ
quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật có thể cân nhắc áp dụng một trong
30
ba biện pháp giám sát, giáo dục sau: Khiển trách; Hòa giải tại cộng đồng; Giáo dục
tại xã, phường, thị trấn. Ngoài ra, việc áp dụng các biện pháp này cũng phải tuân
thủ các nguyên tắc thực hiện cũng như cách thức tổ chức thực hiện được quy định
trong Nghị định 37/2018/NĐ-CP ngày 10/3/2018 quy định chi tiết thi hành các biện
pháp giám sát giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự.
- Khiển trách
Biện pháp khiển trách với tư cách là một chế tài đặc biệt lần đầu tiên xuất
hiện trong pháp luật hình sự. Trước đây, khiển trách thường được biết đến với tư
cách là một hình thức xử lý kỷ luật đối với các vi phạm kỷ luật. Việc đưa biện pháp
này vào hệ thống chế tài hình sự và đặc biệt chỉ áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội đã thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta cũng như đề cao
mục đích giáo dục hơn là trừng trị trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Biện
pháp khiển trách nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả gây ra đối
với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ, bên cạnh đó vẫn thể hiện được tính
nghiêm minh của pháp luật hình sự.
Biện pháp này chỉ được áp dụng trong hai trường hợp:
 Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng
thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 BLHS 2015.
 Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong
vụ án.
Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định miễn TNHS và áp dụng biện pháp này
là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Để áp dụng biện pháp khiển trách đòi
hỏi phải có sự đồng ý bằng văn bản của người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại
diện hợp pháp của họ. Và việc áp dụng biện pháp khiển trách đối với người dưới 18
tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của
họ. Người bị khiển trách phải thực hiện các nghĩa vụ được quy định tại khoản 3
Điều 93 BLHS 2015 bao gồm: tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú,
học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; ngoài
ra, người bị khiển trách còn phải tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa
31
phương tổ chức và tham gia lao động với hình thức phù hợp
Theo đó, cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà ấn
định thời gian thực hiện các quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều 93 BLHS
2015 từ 03 tháng đến 01 năm. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp khiển trách phải
tuân thủ quy định tại Điều 427 BLTTHS.
- Hòa giải tại cộng đồng
Hòa giải tại cộng đồng là một quy định mới của pháp luật hình sự nước ta,
chủ yếu nhằm tạo cơ hội cho người phạm tội nhận thức được trách nhiệm về hành vi
vi phạm và tác động của hành vi vi phạm tới nạn nhân, thể hiện sự ăn năn, hối cải
của mình về hành vi vi phạm, giúp đỡ khắc phục, bồi thường hậu quả gây ra, xin lỗi
nạn nhân và phục hồi quan hệ với nạn nhân khi thích hợp; còn nạn nhân thì được
trực tiếp tham gia vào quá trình xử lý vụ việc và giải quyết hậu quả của hành vi vi
phạm, được nhận các khoản bồi thường và khắc phục thiệt hại, được nhận lời xin
lỗi…Quy định này phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
cũng như thể hiện sự tiến bộ, nhân văn, mang tính giáo dục trong nguyên tắc xử lý
TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của pháp luật hình sự nước ta. Biện
pháp này chỉ được áp dụng trong hai trường hợp:
 Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91
BLHS 2015.
 Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc
trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 BLHS 2015.
Hoạt động hòa giải tại cộng đồng do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc
Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức sau khi người dưới 18 tuổi
phạm tội hoặc người đại diện của họ có văn bản đề nghị áp dụng; người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và có văn bản đề nghị
miễn TNHS. Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải thực hiện
các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 94 BLHS 2015 đó là xin lỗi người bị hại và
bồi thường thiệt hại cùng các nghĩa vụ khác được quy định tại khoản 3 Điều 93
32
BLHS 2015.
Trong đó, thời điểm xin lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
cũng như các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều 93 BLHS 2015
sẽ do cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà ấn định.
Hiện nay, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng như ban
hành quyết định áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng; trình tự, thủ tục và thành
phần tham gia hòa giải tại cộng đồng; người được phân công tiến hành hòa giải, lập
biên bản hòa giải,… được quy định tại Điều 428 BLTTHS 2015. Tuy nhiên, vẫn
chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết cho việc áp dụng biện pháp này. Tác giả cho
rằng, hoạt động hòa giải tại cộng đồng cũng không được xa rời các nguyên tắc hòa
giải được quy định trong Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013.
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có thể hiểu là Nhà nước thông
qua các cơ quan xã, phường, thị trấn, các tổ chức xã hội và gia đình tác động về mặt
nhận thức cũng như tình cảm của người dưới 18 tuổi phạm tội để tìm ra nguyên
nhân sâu xa của hành vi phạm tội của họ, từ đó có những biện pháp giúp đỡ hiệu
quả nhất để họ nhận thức và sửa chữa sai lầm. Biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn giúp cho người dưới 18 tuổi phạm tội được sống, lao động, học tập như
những người bình thường khác mà vẫn có tác dụng giáo dục họ trở thành công dân
có ích cho xã hội. Họ phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động
tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan xã, phường, thị trấn và
tổ chức xã hội được giao trách nhiệm.
Việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn bên cạnh việc đảm
bảo các nguyên tắc thực hiện của một biện pháp giám sát, giáo dục nêu trên, còn
phải đảm bảo những nguyên tắc được quy định tại Điều 4 Nghị định số
10/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo đó, mọi hành vi xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người
được giáo dục đều bị nghiêm cấm, việc thi hành biện pháp phải tuân theo các quy
33
định của pháp luật và sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình vào
việc giám sát, giáo dục, giúp đỡ người được giáo dục cần được bảo đảm. Quan
trọng hơn cả, việc thi hành biện pháp này phải nhằm mục đích giám sát, giáo dục,
giúp đỡ người được giáo dục sửa chữa sai phạm, có ý thức tuân theo pháp luật và
các quy tắc của cuộc sống cộng đồng, phát triển lành mạnh, trở thành người có ích
cho xã hội.
Đây là một điểm mới tiến bộ trong BLHS 2015 khi biện pháp giáo dục tạo
xã, phường, thị trấn được chuyển từ một biện pháp tư pháp thành một biện pháp
giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn TNHS. Biện pháp này chỉ được áp
dụng trong hai trường hợp:
 Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91
BLHS 2015.
 Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc
trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 BLHS 2015.
Thẩm quyền áp dụng biện pháp này thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 15 Thông tư liên tịch
06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về phối hợp thực
hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18
tuổi thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ quyết định miễn trách
nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nếu người
dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện của họ có văn bản đề nghị áp dụng. Thời
hạn người dưới 18 tuổi phải chấp hành biện pháp này là từ 01 năm đến 02 năm.
Cùng với đó là việc thực hiện các nghĩa vụ về học tập, lao động và các nghĩa vụ
khác theo quy định tại khoản 3 Điều 93 BLHS 2015. Ngoài ra, người dưới 18 tuổi
còn phải chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn và chỉ được đi
khỏi nơi cư trú khi được cho phép.
Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được
quy định cụ thể tại Điều 429 BLTTHS 2015. Trong trường hợp người được giáo
34
dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ
thì Cơ quan đã áp dụng biện pháp này có thể ra quyết định chấm dứt thời hạn giáo
dục tại xã, phường, thị trấn dựa trên đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao
trách nhiệm giám sát, giáo dục,.
2.1.2.2. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
Theo quy định của BLHS hiện hành thì biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng là biện pháp tư pháp duy nhất được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội nếu xét thấy cần phải cách ly người dưới 18 tuổi phạm tội ra khỏi môi trường
sống bình thường của họ bằng cách đưa họ vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt
chẽ qua đó đạt được mục đích cải tạo, giáo dục đối với họ.
Theo giáo trình Luật Hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh thì biện pháp tư pháp là “các biện pháp hình sự được quy định trong
BLHS, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt” [37, tr.300]. Với tư cách là
một biện pháp tư pháp, biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng được đặt ra với
mục đích thay thế cho hình phạt, ít nghiêm khắc hơn hình phạt mà vẫn đảm bảo tính
giáo dục, phòng ngừa cao đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Người dưới 18 tuổi
phạm tội được áp dụng biện pháp này không bị coi là có án tích theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 107 BLHS 2015. Tính nghiêm khắc của biện pháp này thể
hiện ở chỗ người dưới 18 tuổi phạm tội khi chấp hành biện pháp này sẽ bị cách ly
khỏi môi trường xã hội trong một thời hạn nhất định để vào một tổ chức giáo dục có
kỷ luật chặt chẽ.
Cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là Tòa án. Việc lựa chọn áp dụng biện pháp này
phải dựa trên các yếu tố về tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân
và môi trường sống của người dưới 18 tuổi phạm tội.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 96 BLHS 2015 thì thời gian giáo dục
tại trường giáo dưỡng là từ 01 đến 02 năm. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp này
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Mais procurados (20)

Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt NamĐè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luậtHình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
 
Đề tài: Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội
Đề tài: Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tộiĐề tài: Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội
Đề tài: Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Luận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộLuận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Luận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTBiện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 

Semelhante a Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Semelhante a Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (20)

Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiPhân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiNguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm  Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểmThủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm  Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổiLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
 
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổiLuận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
 
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đNgăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp giám sát, giáo dục đối với người phạm tội dưới 18
Luận văn: Biện pháp giám sát, giáo dục đối với người phạm tội dưới 18Luận văn: Biện pháp giám sát, giáo dục đối với người phạm tội dưới 18
Luận văn: Biện pháp giám sát, giáo dục đối với người phạm tội dưới 18
 
Hình Phạt Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Theo Pháp Luật Hình Sự Việt ...
Hình Phạt Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Theo Pháp Luật Hình Sự Việt ...Hình Phạt Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Theo Pháp Luật Hình Sự Việt ...
Hình Phạt Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Theo Pháp Luật Hình Sự Việt ...
 
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiBào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại huyện Tây Trà, HAY
Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại huyện Tây Trà, HAYHình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại huyện Tây Trà, HAY
Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại huyện Tây Trà, HAY
 
Luận Văn Phiên Tòa Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Mà Bị Cáo Là Người Dưới 18 T...
Luận Văn Phiên Tòa Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Mà Bị Cáo Là Người Dưới 18 T...Luận Văn Phiên Tòa Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Mà Bị Cáo Là Người Dưới 18 T...
Luận Văn Phiên Tòa Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Mà Bị Cáo Là Người Dưới 18 T...
 
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 

Mais de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Mais de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Último

CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Último (20)

CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TỪ VĂN HOÀNG LĨNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TỪ VĂN HOÀNG LĨNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 838.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn này bảo đảm độ tin cậy, chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn kế thừa từ các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ. Tác giả luận văn Từ Văn Hoàng Lĩnh
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................................................................7 1.1. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội..................................7 1.2. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước trên thế giới .........................................................16 CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ..............22 2.1. Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành ..................................................................................................22 2.2. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ....................................................................................51 2.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập từ thực tiễn áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ........58 CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ............................................................................................61 3.1. Một số đề xuất tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ........................................61 3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự với người dưới 18 tuổi........................................................................................................................69 KẾT LUẬN..............................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ luật Hình sự Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Tòa án nhân dân Trách nhiệm hình sự BLHS BLHS 1999 BLHS 2015 BLTTHS 2015 TAND TNHS
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Thống kê số lượng người 18 tuổi phạm tội theo nhóm tuổi và giới tính trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ....................................................................................52 Bảng 2.2: Các nhóm tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ...............................................................................................................53 Bảng 2.3: Tỷ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ........................................................54 Bảng 2.4: Các hình phạt áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội của TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ....................................................................................55 Bảng 2.5: Các biện pháp tha miễn TNHS và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam......................................57
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội cả nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, tuy nhiên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và công tác tổ chức, thực thi pháp luật ở nước ta vẫn còn một số điểm hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động điều tiết xã hội của pháp luật. Bên cạnh đó, mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường cũng gây nên những ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức, tiến bộ xã hội, đặc biệt là đối với nhóm đối tượng thanh thiếu niên, những người vẫn còn đang trong quá trình phát triển, hoàn thiện về thể chất, tâm sinh lý cũng như nhân cách sống. Một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên trở nên hư hỏng, không lo tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao năng lực bản thân mà chạy theo lối sống thực dụng, ích kỷ, có lối hành xử côn đồ, hung hãn. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy chủ thể thực hiện tội phạm hiện nay không chỉ có xu hướng trẻ hóa về độ tuổi mà còn tinh vi, xảo quyệt trong hành vi phạm tội. Luật hình sự với tư cách là một trong những ngành luật ra đời sớm nhất, mang nhiệm vụ rất quan trọng trong hệ thống pháp luật đó là bảo vệ chế độ xã hội, trật tự xã hội. Chính sách pháp luật hình sự của nước ta trong việc truy cứu TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ nhận thức được hành vi sai trái cũng như rèn luyện, tu dưỡng bản thân trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Vì vậy, Bộ luật hình sự nước ta đã dành một chương riêng để quy định về những vấn đề đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều này đã thể hiện sự quan tâm, tư tưởng nhân đạo, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng và thanh thiếu niên nói chung phù hợp với xu hướng quốc tế về yêu cầu bảo vệ ngày một tốt hơn quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi. Trong bối cảnh BLHS 2015 vừa ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lập pháp hình sự khi đề cao hơn nữa hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm
  • 8. 2 tội mà đặc biệt là người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Cần thiết có một nghiên cứu khoa học mang tính tổng hợp đối với các quy định về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như sự đánh giá về mặt thực tiễn thi hành các quy định của BLHS 2015 để kịp thời có phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì những lý do đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, ở các mức độ khác nhau đã có những công trình khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc trong các giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận khi nghiên cứu về vấn đề người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc về TNHS. Tiêu biểu, có các công trình nghiên cứu sau đây: Đối với các sách bình luận, sách chuyên khảo, sách giáo trình có các công trình nghiên cứu sau: “Chương XVI: Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội” trong giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung) của Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân; “Chương XVI: Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội” trong giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung) của Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh; “Chương XVI: Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội” trong sách giáo trình Luật hình sự Việt Nam của tập thể tác giả do GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên. Đối với các công trình dưới dạng bài viết được đăng trên tạp chí khoa học pháp lý có thể kể đến các công trình như: “Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội và sự thể hiện trong Bộ luật hình sự” của TS. Lê Thị Sơn đăng trên tạp chí Luật học số 3/2015; “Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội” của Ths. Cao Thị Oanh đăng trên tạp chí Luật học số 10/2007; “Quy định về hình phạt và tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam và một số kiến nghị” của PGS.TS Dương Tuyết Miên đăng trên tạp chí Luật học số 3/2014.
  • 9. 3 Một số đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng đã khai thác, nghiên cứu các khía cạnh xung quanh vấn đề TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội như: luận văn “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” của Dương Thị Ngọc Thương, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013; “Các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” của Trần Hồng Nhung, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2017; “Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam” của Nguyễn Tiến Hoàn, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013; “Chính sách hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: khía cạnh so sánh” của Ngô Thị Tuyết Thanh, Học viện khoa học xã hội, năm 2018; luận án “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Minh Đức, Học viện khoa học xã hội, năm 2016. Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đã góp phần không nhỏ vào hệ thống lý luận khoa học pháp lý về TNHS nói chung cũng như về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Tuy nhiên, đa số các công trình kể trên vẫn chưa đề cập một cách hệ thống, toàn diện về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhất là trong bối cảnh BLHS vừa được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/1/2018. Chính vì vậy, việc nghiên cứu TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội với sự thay đổi trong quy định pháp luật hình sự trong tương quan với các quy định về TNHS của người phạm tội nói chung cũng như những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật quốc tế về tư pháp người chưa thành niên là một vấn đề mới mà tác giả mong muốn giải quyết. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng đã có sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc nhiều tri thức từ các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên trong việc hoàn thiện nghiên cứu khoa học của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam, bên cạnh đó, trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu thống kê từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến
  • 10. 4 năm 2018, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong thực tiễn từ đó đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề về mặt lý luận liên quan đến TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống về trách nhiệm pháp lý, TNHS của người phạm tội nói chung và TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Thứ hai, nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong đó làm rõ các nguyên tắc xử lý, các quy định về hình thức cũng như nội dung của TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như hình phạt, biện pháp tư pháp, án tích,… Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua số liệu được thu thập từ thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Từ đó, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi. Thứ tư, đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và một số giải pháp góp phần bảo đảm áp dụng đúng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn có một số giới hạn về phạm vi nghiên cứu như sau: Thứ nhất, tác giả nghiên cứu các quy định về TNHS của người dưới 18 tuổi
  • 11. 5 phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam trong sự so sánh với các quy định trong Bộ luật hình sự các nước Liên Bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và các văn bản pháp lý của Liên Hợp Quốc. Thứ hai, tác giả tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam thông qua số liệu thống kê từ thực tiễn xét xử trong vòng 5 năm từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề thanh niên, giáo dục thanh niên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,…nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Về mặt lý luận, luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập đến việc làm sáng tỏ một cách toàn diện và có hệ thống về vấn đề TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong bối cảnh BLHS vừa được ban hành năm 2015 và sửa đổi, bổ sung năm 2017. Qua đó, là cơ sở cho việc nhận thức một cách đúng đắn về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Bên cạnh việc phân tích các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, luận văn còn nghiên cứu quy định của pháp luật quốc tế cũng như pháp luật một số nước qua đó có sự đánh giá một cách toàn diện về TNHS đối với người dưới 18 tuổi. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Về mặt thực tiễn, trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quy định của pháp luật quốc tế, quy định của một số nước, và thực tiễn áp dụng trên bàn tỉnh Quảng Nam, luận văn chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế và
  • 12. 6 đề xuất các giải pháp liên quan đến công tác lập pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với người dưới 18 tuổi và một số giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Qua đó, góp phần bảo vệ quyền lợi của người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tế. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng để tham khảo trong quá trình tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, học tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Danh mục các chữ viết tắt, Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua. Chương 3: Hoàn thiện các quy định của BLHS về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng TNHS.
  • 13. 7 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái quát chung về trách nhiệm hình sự của người phạm tội 1.1.1.1. Trách nhiệm pháp lý Trách nhiệm pháp lý là một trong những vấn đề quan trọng của lý luận về pháp luật. Trong các sách báo và tài liệu khoa học pháp lý ở Việt Nam, trách nhiệm pháp lý thường được gắn với vi phạm pháp luật, gắn liền với yếu tố lỗi và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng. Tác giả cho rằng, cách hiểu này vẫn chưa hoàn toàn bao quát hết thực tiễn phong phú của đời sống pháp lý. Vi phạm pháp luật chỉ là một trong các “nguồn” phát sinh của trách nhiệm pháp lý. Trên thực tế, trách nhiệm pháp lý không chỉ đến từ hành vi vi phạm pháp luật mà còn có nguồn gốc từ các quan hệ pháp luật khác như giao dịch dân sự, thương mại, quan hệ hôn nhân - gia đình,…Xã hội càng phát triển thì các mối quan hệ pháp luật càng phát triển, và do đó nguồn của trách nhiệm pháp lý cũng ngày càng mở rộng. Tác giả đồng ý với khái niệm trách nhiệm pháp lý mà TS Nguyễn Văn Quân đưa ra, theo đó “trách nhiệm pháp lý là một liên hệ, ràng buộc pháp lý giữa các chủ thể pháp luật. Theo đó, một bên có nghĩa vụ thực hiện một hành vi nào đó, bảo đảm cho một việc gì đó, thực hiện cam kết của mình, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của bên liên quan” [27, tr.5]. 1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội Trong khoa học pháp lý, TNHS của người phạm tội là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, đặc biệt là trong những năm gần đây tại Việt Nam. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nhận thức thống nhất về TNHS trong khoa học luật hình sự. Theo quan điểm của GS.TSKH Đào Trí Úc thì TNHS của người phạm tội là “hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây
  • 14. 8 ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước Nhà nước” [39, tr.41]. GS.TSKH Lê Cảm cho rằng TNHS của người phạm tội là “hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do luật hình sự quy định” [6, tr. 122]. GS.TS Đỗ Ngọc Quang lại cho rằng TNHS của người phạm tội là “một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện” [26, tr.41]. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và GS.TS Lê Thị Sơn thì cho rằng TNHS của người phạm tội là “trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả bất lợi về hành vi phạm tội của mình” và là “một dạng trách nhiệm pháp lý bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích” [12, tr. 281-282]. Quan điểm của Đại học Luật Hà Nội cho rằng TNHS của người phạm tội là “trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình” [38, tr. 245]. Quan điểm khác cho rằng TNHS của người phạm tội là “nghĩa vụ của một người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước về hành vi phạm tội của mình thể hiện ở việc người phạm tội bị tước đoạt hoặc bị hạn chế quyền và lợi ích nhất định theo quy định của pháp luật” [13, tr. 316]. Nhìn chung, các quan điểm nêu trên đều thống nhất cho rằng TNHS của người phạm tội là hậu quả pháp lý phải chịu của việc thực hiện tội phạm và là một dạng trách nhiệm pháp lý. Liên quan đến nội dung cụ thể của TNHS của người phạm tội cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. Trong số các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước có tính chất pháp lý hình sự áp dụng đối với người phạm tội thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế chủ yếu. Tuy nhiên, TNHS là khái niệm rộng hơn khái niệm hình phạt. TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, còn hình phạt chỉ là một trong những biện pháp cưỡng chế thể hiện nội dung của TNHS. Chính vì thế, quan điểm coi TNHS của người phạm tội chỉ là trách nhiệm của người phải chịu
  • 15. 9 biện pháp cưỡng chế của Nhà nước là hình phạt là không phù hợp. Quan điểm coi TNHS của người phạm tội là nghĩa vụ của một người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước về hành vi phạm tội của mình theo tác giả cũng không phù hợp. Về bản chất thì nghĩa vụ pháp lý hình sự và trách nhiệm pháp lý hình sự là khác nhau. Khi đề cập đến nghĩa vụ pháp lý của một người là đề cập đến khả năng người đó có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý, còn khi nói đến trách nhiệm pháp lý hình sự của một người chính là nói đến việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý trái với ý chí của người có nghĩa vụ. TNHS của người phạm tội, với tính cách là một dạng của trách nhiệm pháp lý, không phải là nghĩa vụ mà một người có thể phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc người đó thực hiện tội phạm mà chính là việc phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của người phạm tội trước Nhà nước do việc người đó đã thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, theo quan điểm của tác giả thì, nếu không có bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án thì không thể nói đến TNHS đối với một người. Tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và Điều 13 BLTTHS 2015 đã khẳng định một nguyên tắc quan trọng nhằm bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp hình sự - nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo đó, “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Bản án kết tội có hiệu lực do Tòa án tuyên chính là cơ sở pháp lý xác nhận người bị buộc tội chính thức bị coi là có tội. Vì vậy, có thể nói, TNHS được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án và TNHS mà một người phải chịu trước Nhà nước chỉ có thể được xác nhận một cách chính thức khi bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, tác giả cho rằng, để xác định khái niệm TNHS của người phạm tội trước hết nhận biết các đặc điểm vốn có của nó. Qua nghiên cứu các quan điểm nêu trên về khái niệm TNHS của người phạm tội, đồng thời căn cứ vào các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến việc giải quyết vấn đề TNHS của người phạm tội cũng như thực tiễn áp dụng các quy phạm ấy. Chúng ta nhận thấy TNHS của người phạm tội có các đặc điểm sau: Thứ nhất, TNHS của người phạm tội là hậu quả pháp lý của việc thực hiện
  • 16. 10 tội phạm. Thứ hai, TNHS là một dạng trách nhiệm nghiêm khắc nhất trong các trách nhiệm pháp lý. Thứ ba, TNHS của người phạm tội là trách nhiệm cá nhân của người phạm tội trước Nhà nước. Thứ tư, TNHS của người phạm tội được xác định bằng trình tự đặc biệt được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự. Thứ năm, TNHS được phản ánh trong bản án hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa án. Như vậy, từ sự tìm hiểu các quan điểm khác nhau về TNHS của người phạm tội kết hợp với việc nhận thức một số vấn đề mang tính lý luận có liên quan đến TNHS của người phạm tội, theo tác giả, khái niệm TNHS của người phạm tội có thể được định nghĩa như sau: “Trách nhiệm hình sự của người phạm tội là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm mà người phạm tội phải chịu những tác động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự trước Nhà nước gồm bản án kết tội của Tòa án, hình phạt mà Tòa án quyết định và án tích.” 1.1.1.3. Cơ sở của trách nhiệm hình sự của người phạm tội Việc tìm hiểu về cơ sở của TNHS đòi hỏi chúng ta phải phân tích dưới góc độ cơ sở triết học và cơ sở pháp lý. - Cơ sở triết học Nghiên cứu về cơ sở triết học của TNHS là trả lời câu hỏi: dựa trên cơ sở nào mà Nhà nước có quyền buộc một người phải chịu TNHS về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện? Trả lời cho câu hỏi này đòi hỏi phải giải quyết vấn đề triết học về tự do ý chí, về mối quan hệ giữa tính tất yếu và tính tự do trong hành vi của con người. TNHS của người phạm tội chỉ đặt ra đối với hành vi của con người và nhằm điều chỉnh hành vi của con người. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hoặc không hành động. Những ý tưởng, ý nghĩ, đặc tính cá nhân của con người chưa được biểu hiện ra dưới dạng hành vi cụ thể thì không phải chịu sự điều chỉnh của
  • 17. 11 pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Mối quan hệ giữa tính tất yếu và tính tự do trong hành vi của con người thể hiện ở sự tương tác giữa các điều kiện khách quan bên ngoài với con người. Tính tất yếu trong hành vi của con người thể hiện ở chỗ, hành vi của con người được hình thành và thực hiện một cách có quy luật, là kết quả của sự tác động của các điều kiện tự nhiên, xã hội đến con người. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con người lệ thuộc tuyệt đối vào hoàn cảnh khách quan. Hành vi phạm tội là kết quả của sự suy xét của lý trí và sự quyết định của ý chí. Vì vậy, trong cùng một hoàn cảnh, cùng chịu sự tác động như nhau của điều kiện bên ngoài, nhưng mọi người lại có cách xử sự khác nhau. Tính tự do trong hành vi thể hiện ở chỗ tuy bị hoàn cảnh khách quan tác động đến nhưng con người không mất đi khả năng tự do lựa chọn hành vi của mình. Cơ sở quy kết TNHS đối với người phạm tội chính là ở chỗ họ đã thể hiện tự do ý chí trong việc lựa chọn xử sự trái pháp luật trong khi có thể lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. - Cơ sở pháp lý Cơ sở pháp lý của TNHS của người phạm tội là căn cứ có tính chất bắt buộc chung do luật hình sự quy định và phải dựa vào đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể đặt vấn đề TNHS của người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được luật hình sự quy định là tội phạm. Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam chưa có quan điểm thống nhất về cơ sở pháp lý của TNHS. Có quan điểm cho rằng “cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của TNHS, là điều kiện cần và đủ của TNHS” [38, tr.246]. Quan điểm khác cho rằng cơ sở pháp lý của TNHS là “việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm” [5, tr.133]. Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng cơ sở pháp lý của TNHS chính là cấu thành tội phạm. Ở nước ta, cơ sở pháp lý của TNHS của người phạm tội được ghi nhận tại khoản 1 Điều 2 BLHS 2015: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Quy định này thể hiện tinh thần của nguyên tắc pháp chế XHCN, theo đó, những căn cứ là cơ sở của TNHS của người
  • 18. 12 phạm tội, của việc áp dụng hình phạt hoặc miễn hình phạt cũng như các hình thức TNHS khác với tính cách là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội đều phải do pháp luật hình sự quy định. Nói cách khác, quy định của pháp luật hình sự về một hành vi bị coi là tội phạm là cơ sở pháp lý của TNHS của người phạm tội. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Trong Bộ luật hình sự hiện hành, vấn đề TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội được nhà làm luật quy định trong một chương riêng thuộc Phần chung – Chương XII. Trong đó quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội; các biện pháp phi hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (bao gồm các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng); vấn đề hình phạt, quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các vấn đề khác có liên quan. Thuật ngữ người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm. TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội là TNHS người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm, hành vi của họ xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đây là đối tượng mang những đặc điểm về thể chất và tâm sinh lý đặc biệt, đòi hỏi phải áp dụng TNHS với họ thông qua những trình tự, thủ tục tố tụng nhất định. Bên cạnh những đặc điểm nói chung của TNHS của người phạm tội thì TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn mang những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, đây là dạng TNHS đặc biệt áp dụng đối với người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm, được quy định trong một chương riêng, thể hiện rõ nét tính nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng cũng như sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước ta đối với nhóm chủ thể này. Thứ hai, phạm vi chịu TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội hẹp hơn so với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Ngoài các căn cứ miễn TNHS đối với người phạm tội thì người dưới 18 tuổi phạm tội còn được miễn TNHS đối với một số tội phạm nếu
  • 19. 13 đáp ứng các điều kiện luật định. Bên cạnh đó, về loại hình phạt có thể áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng hẹp hơn so với người phạm tội từ đủ 18 tuổi. Các hình phạt tù chung thân, tử hình, các hình phạt bổ sung không thể được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Các hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn tuy được phép áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng cũng tùy vào loại tội phạm mà họ thực hiện. Thứ ba, TNHS áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội về mức độ nghiêm khắc có giảm nhẹ hơn so với người đủ 18 tuổi phạm tội. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và các biện pháp giám sát, giáo dục đều là những biện pháp ít hà khắc hơn và được ưu tiên áp dụng thay vì áp dụng hình phạt. Các hình phạt nhằm cách ly hoàn toàn người phạm tội ra khỏi xã hội như tù chung thân và tử hình đều không áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khung hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng thấp hơn so với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Thứ tư, TNHS áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mang ý nghĩa giáo dục, cải tạo là chính. Việc thu hẹp phạm vi chịu TNHS cũng như mức độ nghiêm khắc trong việc áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm giảm tính trừng trị và tăng tính giáo dục, cải tạo qua đó giúp họ trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội. Dựa trên nền tảng khái niệm TNHS của người phạm tội và những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau: “Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm phải chịu những tác động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự trước Nhà nước gồm bản án kết tội của Tòa án, hình phạt mà Tòa án quyết định và án tích.” 1.1.3. Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Nghiên cứu các đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi phạm tội trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố độ tuổi, môi trường, gia định, nhà trường
  • 20. 14 và xã hội, có thể rút ra một số đặc thù sau: Thứ nhất, từ những hạn chế về mặt thể chất cũng như tâm sinh lý của lứa tuổi này, có thể thấy năng lực TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội hạn chế hơn so với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm sinh lý. Ở giai đoạn này, sự mất cân bằng bên trong cơ thể diễn ra do các bộ phận phát triển không đồng đều. Đồng thời, tuyến nội tiết hoạt động mạnh gây ra sự hoạt động thiếu ổn định của hệ thần kinh, dễ bị xúc động mạnh, có những phản ứng nóng nảy vô cớ cũng như hành vi bất thường. Đôi khi, chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt mà họ có những hành vi thái quá, thiếu kiềm chế dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Bên cạnh đó, cảm nhận về “tính người lớn” của bản thân cũng chính là nét tâm lý đặc trưng của nhóm đối tượng này. Yếu tố tâm lý này tạo nên khoảng cách trong hoạt động giao tiếp giữa họ với cha mẹ, khiến họ có nhu cầu giao tiếp cao hơn đối với bạn đồng trang lứa. Những phát triển mạnh mẽ về thể chất và chức năng sinh lý càng khiến họ có ấn tượng sâu sắc rằng bản thân đã trưởng thành và đòi hỏi nhu cầu độc lập, muốn tự hành động, tự đưa ra quyết định theo ý kiến riêng. Tuy nhiên, khi nhu cầu độc lập phát triển theo hướng thái quá, dễ dẫn đến các hành vi như ngang bướng, bảo thủ, dễ tự ái, khoe khoang, phô trương, hành động mang tính phiêu lưu, mạo hiểm. Không giống với sự phát triển như “vũ bão” về mặt thể chất cũng như tâm lý của nhóm đối tượng này, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ vẫn còn quá ít ỏi đặc biệt là nhận thức về pháp luật. Dẫn đến dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào các hoạt động phạm pháp. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng bản thân họ lại không biết mình phạm tội, không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình mang lại. Một số còn cho rằng hành vi của mình là hợp pháp, là tự bảo vệ quyền lợi của bản thân, hay góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Nhìn chung, khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của người dưới 18 tuổi phạm tội hạn chế hơn so với người đã thành niên, vì thế, không thể coi người dưới 18 tuổi phạm tội có năng lực TNHS toàn phần như người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Mặt khác, tuy người dưới 18 tuổi dễ bị dụ dỗ, kích động tham gia thực hiện tội
  • 21. 15 phạm nhưng nhìn chung ý thức phạm tội vẫn chưa sâu sắc, sự giáo dục của nhà trường, xã hội cũng như gia đình vẫn có những tác động lớn đến nhận thức và hành vi của họ để giúp họ rời xa con đường phạm tội. Vì lẽ đó, việc cải tạo, giúp đỡ họ trở thành công dân có ích cho xã hội cũng có những ưu thế nhất định so với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Thứ hai, nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy hành vi phạm tội ở người dưới 18 tuổi chủ yếu bắt nguồn từ những thiếu sót, bất cập và cả những sai lầm trong việc nuôi dưỡng, giáo dục cũng như xây dựng và tổ chức các mối quan hệ trong cuộc sống của người lớn. Môi trường xã hội hóa đầu tiên và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mỗi con người đó là gia đình. Không gì thay thế được sự giáo dục của cha mẹ đối với con cái bởi đó không chỉ là sự truyền đạt những tri thức mà còn là sự truyền đạt những kinh nghiệm sống, ứng xử giao tiếp hằng ngày và đó còn là sự bao bọc con cái trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Bên cạnh đó là nhà trường và xã hội là môi trường cung cấp tri thức, nền tảng đạo đức và sự tham chiếu trong lối sống. Do đó, đặt ra một đòi hỏi hết sức chính đáng là người dưới 18 tuổi phạm tội cần nhận được sự quan tâm và bảo trợ đặc biệt của gia đình, nhà trường, xã hội và pháp luật. Sự bảo trợ này không chỉ xuất hiện khi người dưới 18 tuổi là đối tượng bị tội phạm xâm hại, mà phải tồn tại xuyên suốt và ngay cả khi họ là chủ thể tham gia thực hiện tội phạm. Vì lẽ đó mà pháp luật không đặt lên những người dưới 18 tuổi phạm tội những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc ngang bằng với các biện pháp TNHS áp dụng với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Thứ ba, người dưới 18 tuổi là nhóm người đang ở ngưỡng cửa cuộc đời, những sai lầm trong nhận thức của họ vẫn chưa hằn sâu, còn có thể uốn nắn nếu sử dụng đúng cách, hơn nữa khả năng tiếp nhận sự giáo dục, cải tạo ở họ cũng rất lớn. Quan trọng hơn là họ vẫn còn một tương lai ở phía trước, vẫn có thể làm lại từ đầu. Điều này cho phép các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng những biện pháp, cách thức khác thay vì buộc họ phải gánh chịu những chế tài mang tính nghiêm khắc của pháp luật hình sự. Đây cũng là cơ sở để áp dụng hệ thống các biện pháp riêng ít nghiêm khắc hơn, mang tính giáo dục là chính đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
  • 22. 16 Từ những cơ sở nêu trên, nhà làm luật đã quy định những vấn đề về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thành một chương riêng trong BLHS bằng những điều luật mang tính khoan hồng đặc biệt. 1.2. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước trên thế giới 1.2.1. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật quốc tế Người dưới 18 tuổi phạm tội là một hiện tượng, thực tế tồn tại từ lâu ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Kể từ khi Liên Hợp Quốc được thành lập năm 1945, đến nay, đã có nhiều văn bản pháp lý mang tầm quốc tế về quyền con người ra đời. Hiện nay, việc tăng cường bảo vệ các quyền của trẻ em nói chung, người dưới 18 tuổi nói riêng cũng là một khía cạnh quan trọng trong hoạt động của các cơ quan và chương trình của Liên Hợp Quốc. Theo đó, Liên Hợp Quốc đã ban hành nhiều văn kiện về tư pháp người chưa thành niên như: Công ước về quyền trẻ em được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1989 và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập; bên cạnh đó là tập hợp các quy tắc, hướng dẫn tuy không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý đối với các quốc gia thành viên nhưng vẫn được các quốc gia trên thế giới đồng tình ủng hộ như Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên hay còn gọi là Các quy tắc Bắc Kinh, được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 29/11/1985; Các hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên hay còn gọi là Các hướng dẫn Ri-át, được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990; Các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990; Các hướng dẫn làm việc với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự hay còn gọi là Các hướng dẫn Viên, được khuyến nghị bởi Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hợp Quốc ngày 21/7/1997. Các văn kiện kể trên ra đời nhằm một mục tiêu chung đó là hạn chế đến mức tối thiểu việc các cơ quan tư pháp phải xử lý đối với trẻ em, người chưa thành niên
  • 23. 17 cũng như những ảnh hưởng xấu có thể xảy đến với họ trong trường hợp buộc phải áp dụng các chế tài pháp luật. Cụ thể, Công ước về quyền trẻ em định nghĩa trẻ em là “bất kỳ người nào dưới 18 tuổi” và yêu cầu các quốc gia là thành viên phải xem “lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu”. Trên tinh thần đó, tại Điều 37 của Công ước này quy định “những người dưới 18 tuổi nếu gây ra những hành động phạm pháp sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân mà không có khả năng được phóng thích”; “Việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành phù hợp với pháp luật và chỉ được coi là biện pháp cuối cùng và áp dụng trong thời hạn thích hợp ngắn nhất”. Tại Điều 40 có quy định “Mọi trẻ em bị tình nghi hay bị cáo buộc là đã vi phạm luật hình sự… được coi là vô tội cho tới khi bị chứng minh rằng đã phạm tội theo pháp luật”; bên cạnh đó còn đòi hỏi các quốc gia thành viên phải xây dựng những đạo luật, thủ tục, các cơ quan và thể chế áp dụng riêng đối với trẻ em bị tình nghi, bị cáo buộc hay bị xác nhận là đã vi phạm luật hình sự như: “Xác định độ tuổi tối thiểu mà dưới độ tuổi đó trẻ em sẽ được coi là không có khả năng vi phạm luật hình sự”; “Bất kỳ khi nào thấy thích hợp và cần thiết cần đề ra các biện pháp xử lý những trẻ em vi phạm pháp luật hình sự mà không phải sử dụng đến thủ tục tư pháp, miễn là các quyền con người và những bảo vệ pháp lý được tôn trọng đầy đủ”. Bên cạnh đó, trong Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên còn đề cập những nội dung như tại Quy tắc 8 đòi hỏi phải tôn trọng quyền riêng tư của người chưa thành niên trong tất cả các giai đoạn tố tụng, nhằm tránh những tổn hại gây ra do sự công khai quá mức hay do sự quy chụp; Quy tắc 18 đòi hỏi các quốc gia “cần cho phép cơ quan có thẩm quyền có nhiều biện pháp xử lý khác nhau, nhằm phát huy tính linh hoạt, giúp tránh việc sử dụng hình phạt giam giữ ở mức độ cao nhất có thể”; Quy tắc 28 đòi hỏi việc trả tự do có điều kiện cần được áp dụng sớm và thường xuyên, cụ thể là “Cơ quan thích hợp phải trả tự do có điều kiện ở mức độ nhiều nhất có thể được, và lệnh trả tự do phải được đưa ra trong thời gian sớm nhất có thể được”. Các nội dung và quy định nêu trên cho thấy rằng, vấn đề áp dụng pháp luật
  • 24. 18 đối với người dưới 18 tuổi nói chung và TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng đã được các quốc gia trên thế giới dành sự quan tâm đặc biệt từ lâu. Các quốc gia trên toàn cầu đã và đang nỗ lực tìm mọi cách bảo đảm hệ thống pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội tuân thủ theo đúng pháp luật quốc tế về quyền con người. 1.2.2. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi trong pháp luật một số nước trên thế giới Mặc dù tồn tại nhiều văn kiện pháp lý mang tầm quốc tế về tư pháp người chưa thành niên nêu trên, tuy nhiên, mỗi quốc gia giải quyết vấn đề TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bằng những cách thức khác nhau, thái độ khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống pháp luật và quan điểm của các nhà làm luật. Trên cơ sở đó, tác giả đã nghiên cứu một số nội dung, quy định về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội hay còn gọi là người chưa thành niên trong pháp luật hình sự Liên bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản nhằm làm rõ hơn vấn đề này. Thứ nhất, về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nhìn chung, pháp luật hình sự các nước đều đề cao nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khoản 2 Điều 57 BLHS Liên bang Nga quy định: “hình phạt tù chung thân không áp dụng đối với người phạm tội tại thời điểm người đó dưới 18 tuổi”. Khoản 2 Điều 59 BLHS Liên Bang Nga quy định: “hình phạt tử hình không áp dụng đối với người phạm tội tại thời điểm người đó dưới 18 tuổi”. Khoản 2 Điều 88 BLHS Liên Bang Nga quy định: “hình phạt tiền chỉ áp dụng đối với người chưa thành niên có thu nhập riêng hoặc tài sản riêng”. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 90 BLHS Liên Bang Nga thì người chưa thành niên phạm tội lần đầu ở mức độ nghiêm trọng nhỏ hoặc trung bình có thể được miễn TNHS và áp dụng các biện pháp mang tính giáo dục nếu có căn cứ cho rằng có thể đạt được hiệu quả cải tạo. Tại Điều 49 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm…”. Điều 54 Luật về người chưa thành niên của Nhật Bản lại quy định: “Không có người chưa thành niên nào bị kết án phải
  • 25. 19 làm việc tại một công xưởng để thay thế cho hình phạt tiền”. Thứ hai, về độ tuổi chịu TNHS. Tại khoản 1 Điều 87 BLHS Liên Bang Nga xác định “người chưa thành niên được hiểu là người đủ 14 đến 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm”. Trong khi đó, tại khoản 1 Điều 2 Luật về người chưa thành niên của Nhật Bản lại quy định: “Trong đạo luật này, người chưa thành niên là người dưới 20 tuổi, người đã thành niên là người từ 20 tuổi trở lên”. Điều 3 của Luật này quy định về thẩm quyền của Tòa án gia đình gồm: “Người chưa thành niên bị cho là đã thực hiện hành vi phạm tội; Người chưa thành niên dưới 14 tuổi bị cho là đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự; Người chưa thành niên có nguy cơ phạm tội hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự khi xem xét tính cách của họ và môi trường xung quanh vì họ có các hành vi sau: Họ có xu hướng không chịu sự kiểm soát của người giám hộ; Thường không về nhà mà không có lý do chính đáng; Thường có quan hệ với những người có xu hướng phạm tội hoặc những người có vấn đề về đạo đức hoặc thường lui tới những nơi có ảnh hưởng đến danh dự của họ; Có xu hướng thực hiện hành vi làm tổn thương về mặt đạo đức của mình hoặc của người khác”. Có thể thấy, phạm vi xử lý hình sự của luật hình sự Nhật Bản đối với người chưa thành niên là rất rộng. BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không quy định thế nào là người chưa thành niên, cũng như không có chương riêng quy định về người chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 17 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có thể hiểu rằng, người đủ 16 tuổi tại thời điểm phạm tội sẽ phải chịu TNHS, người đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS đối với một số tội phạm có tính chất nghiêm trọng như Cố ý giết người, Cố ý gây thương tích dẫn đến thương tích nặng hoặc chết người, Hiếp dâm, Cướp,… Thứ ba, các biện pháp xử lý được áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tại khoản 1 Điều 88 BLHS Liên Bang Nga quy định hệ thống hình phạt áp dụng riêng đối với người chưa thành niên bao gồm: Phạt tiền; Tước quyền tham gia các hoạt động nhất định; Lao động cải tạo; Lao động khắc phục; Phạt giam; Phạt tù có thời hạn. Khoản 2 Điều 90 BLHS Liên Bang Nga quy định các biện pháp mang tính giáo dục được áp dụng trong trường hợp miễn TNHS đối với người chưa
  • 26. 20 thành niên gồm: Cảnh cáo; Giám sát của gia đình hoặc cơ quan có thẩm quyền; Khắc phục thiệt hại đã gây ra; Hạn chế giải trí và thiết lập các yêu cầu đặc biệt về hành vi của người chưa thành niên. BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định hệ thống hình phạt chính áp dụng đối với người chưa thành niên bao gồm: Quản chế; Phạt giam hình sự; Phạt tù; hệ thống hình phạt bổ sung áp dụng đối với người chưa thành niên bao gồm: Phạt tù; Phạt tiền, phạt tiền theo ngày, lao động công ích; Tước hoặc hạn chế quyền nhất định. Điều 9 BLHS Nhật Bản quy định, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên không có sự khác biệt đối với người đã thành niên, bao gồm: Tử hình; Tù có lao động bắt buộc; Tù không có lao động bắt buộc; Phạt tiền; Phạt giam hình sự; Phạt tiền về tội hình sự nhỏ; Phạt giam vì không nộp đủ tiền phạt. Bên cạnh đó Luật về người chưa thành niên của Nhật Bản không quy định các biện pháp giám sát, giáo dục mà gọi đây là các biện pháp bảo vệ người chưa thành niên và quy định tại khoản 1 Điều 24, theo đó gồm các biện pháp: Đưa người chưa thành niên vào cơ sở giám sát; Đưa người chưa thành niên vào nhà dành cho trẻ sống một mình hoặc cơ sở bảo hộ trẻ em; Đưa người chưa thành niên vào cơ sở giáo dục người chưa thành niên. Thứ tư, quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tại khoản 1 Điều 89 BLHS Liên Bang Nga quy định: “Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên Tòa án phải cân nhắc kĩ lưỡng, bên cạnh các trường hợp được quy định tại Điều 60 của Bộ luật này, những điều kiện của cuộc sống và sự giáo dục, mức độ nhận thức, và những đặc điểm khác, kể cả ảnh hưởng của người lớn hơn lên họ”. Tại Điều 17 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định nếu một người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi mà phạm tội thì sẽ được giảm nhẹ sự trừng phạt. Trong khi đó, pháp luật hình sự Nhật Bản không quy định về mặt nguyên tắc khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Đặt trong sự so sánh giữa quy định của các quốc gia kể trên về TNHS của người chưa thành niên, có thể thấy rằng pháp luật hình sự các nước, trong xu thế chung của pháp luật quốc tế đều đề cao nguyên tắc nhân đạo. Sở dĩ có sự khác nhau nêu trên là do sự khác biệt về truyền thống lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán,
  • 27. 21 quan niệm về đạo đức. Mặt khác, còn do sự phát triển không đồng đều về kinh tế, chính trị, xã hội, sự khác biệt về đặc điểm sinh học của từng chủng người cũng như chính sách hình sự và yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở mỗi quốc gia. Tiểu kết Chương 1 Trách nhiệm hình sự của người phạm tội là một vấn đề pháp lý nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Với tư cách là nhóm chủ thể đặc biệt, người dưới 18 tuổi mang những hạn chế về mặt tâm sinh lý cũng như nhận thức và ý thức pháp luật. Có thể nói, nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy hành vi phạm tội ở người dưới 18 tuổi chủ yếu bắt nguồn từ những thiếu sót, bất cập và cả những sai lầm trong việc nuôi dưỡng, giáo dục cũng như xây dựng và tổ chức các mối quan hệ trong cuộc sống của người lớn. Vì vậy, TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng có những khác biệt cơ bản so với TNHS đối với người phạm tội nói chung. TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định trong một chương riêng với phạm vi chịu TNHS hẹp hơn, mức độ nghiêm khắc có phần giảm nhẹ hơn và mang ý nghĩa giáo dục, cải tạo là chính. Trong pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia thì vấn đề TNHS của những người chưa thành niên hay tư pháp người chưa thành niên cũng rất được quan tâm. Trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới đang ra sức bảo vệ ngày một tốt hơn quyền con người, mà trẻ em, người chưa thành niên là những thế hệ tương lai cần được quan tâm hơn hết thì nguyên tắc nhân đạo phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng, ban hành pháp luật cũng như quá trình áp dụng pháp luật hình sự đối với họ. Tuy nhiên, pháp luật hình sự mỗi quốc gia thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong vấn đề TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội là khác nhau. Quy định về mức tuổi chịu TNHS của các quốc gia là khác nhau. Hình phạt và các biện pháp khác mang tính giáo dục cũng có nhiều sự khác biệt. Điều này xuất phát từ các nguyên nhân về điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống pháp luật và quan điểm của các nhà làm luật ở mỗi quốc gia khác nhau là khác nhau.
  • 28. 22 CHƯƠNG 2 TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM 2.1. Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành 2.1.1. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành Xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý đặc biệt của người dưới 18 tuổi mà nhà làm luật đã dành riêng Chương XII trong BLHS hiện hành cho các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội, trong đó bao gồm những nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được ghi nhận tại Điều 91. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mang tính chất định hướng, xuyên suốt trong quá trình xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây chính là nội dung thể hiện trực tiếp chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Bên cạnh việc căn cứ vào những nguyên tắc xử lý chung đối với người phạm tội được quy định tại khoản 1 Điều 3 BLHS hiện hành thì cơ quan áp dụng pháp luật còn phải tuân thủ những nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cụ thể như sau: - Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi phạm tội và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Nguyên tắc này nhằm định hướng cho người tiến hành tố tụng khi quyết định lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với người dưới 18 tuổi cần tìm ra biện pháp phù
  • 29. 23 hợp nhất, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần bảo đảm đó là biện pháp tốt nhất đối với người dưới 18 tuổi, trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích khác, cũng như bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật. Đây là nguyên tắc xương sống trong hoạt động tố tụng hình sự và cũng là điểm mới hoàn thiện của BLHS 2015 so với BLHS 1999 thể hiện rõ nét sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như phù hợp với tinh thần Điều 3 Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em. Theo đó, “Trong mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, dù được thực hiện bởi các cơ quan phúc lợi xã hội của nhà nước hay tư nhân, bởi tòa án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan pháp luật, thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu.” Ngoài ra, như đã phân tích ở trên, người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống vẫn còn hạn chế, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội của họ có sự tác động lớn từ môi trường sống của họ, trong đó có phần trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội. Vì lẽ đó, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, giúp đỡ họ nhận ra và sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Điều này có nghĩa là, phải ưu tiên áp dụng các biện pháp có tính chất giáo dục, thuyết phục trước. Chỉ áp dụng hình phạt mang tính trừng trị khi có đủ căn cứ cho rằng, việc áp dụng các biện pháp mang tính giáo dục không đem lại hiệu quả. Qua đó, góp phần phòng ngừa tội phạm ở người dưới 18 tuổi cũng như phù hợp với các nguyên tắc cơ bản trong văn kiện Các hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên. Theo đó: “1. Việc phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên là một bộ phận chính yếu của phòng ngừa tội phạm trong xã hội. Bằng việc tham gia các hoạt động hợp pháp, hữu ích về mặt xã hội và có định hướng mang tính nhân văn đối với xã hội và quan niệm cuộc sống, người chưa thành niên có thể hình thành một thái độ sống không cần đến phạm tội.
  • 30. 24 2. Việc phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên một cách thành công đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn xã hội, nhằm bảo đảm sự phát triển hài hoà của người chưa thành niên, tôn trọng và phát triển nhân cách của họ.” Do chưa phát triển và hoàn thiện về các mặt, cho nên không phải bất cứ trường hợp phạm tội cụ thể nào người chưa thành niên cũng có đầy đủ năng lực TNHS, tức là khả năng nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi mà mình thực hiện và hậu quả của nó cũng như khả năng điều khiển hành vi ấy. Vì vậy, Luật Hình sự Việt Nam đòi hỏi khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào độ tuổi và khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Bên cạnh đó, luật cũng đồng thời yêu cầu các cơ quan này phải làm rõ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Yêu cầu này là vô cùng cần thiết, bởi nguyên nhân và điều kiện phạm tội có thể xuất phát từ nhiều phía, có thể xuất phát từ môi trường xã hội tiêu cực, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, sơ hở trong công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự hoặc từ chính bản thân có hoàn cảnh đặc biệt của người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ đó, cơ quan tư pháp và người tiến hành tố tụng mới có thể lựa chọn một cách phù hợp các biện pháp cần áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong giới hạn luật định, cũng như đưa ra các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa việc phạm tội của người dưới 18 tuổi. - Nguyên tắc thứ hai: Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nguyên tắc này thể hiện rõ nét tư tưởng nhân đạo của pháp luật hình sự nước ta khi đặt ra yêu cầu và giới hạn phạm vi những trường hợp cần truy cứu TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Không phải mọi trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội đều cần phải bị truy cứu TNHS mà tùy từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở cân nhắc những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Việc các đặc điểm về
  • 31. 25 nhân thân được nhà làm luật xếp trước tiên cho thấy sự đề cao mục đích giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội. Căn cứ vào đặc điểm thuộc về nhân thân của người phạm tội như độ tuổi, giới tính, hoàn cảnh gia đình, nơi cư trú, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe, hay các đặc điểm phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm,…có thể nhận định khả năng cải tạo, giáo dục của người dưới 18 tuổi phạm tội. Căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nhằm đánh giá khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi phạm tội. Căn cứ vào yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm nhằm đánh giá hành vi phạm tội mà người dưới 18 tuổi thực hiện trong bối cảnh chung trong từng thời kỳ, cũng như ở từng địa phương để từ đó bào đảm được yêu cầu phòng ngừa chung. - Nguyên tắc thứ ba: Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Nguyên tắc này cũng phù hợp với xu hướng chung trong chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của nhiều nước trên thế giới là ưu tiên áp dụng xử lý chuyển hướng. Trước đây, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu thông qua hệ thống hình phạt và loại hình phạt chủ yếu áp dụng đối với họ là tù có thời hạn. Việc cách ly khỏi xã hội ảnh hưởng tiêu cực đến họ, khiến họ có cảm giác bị bỏ rơi, bị đẩy ra lề xã hội, đồng thời có thể gây ra sự kỳ thị, xa lánh của cộng đồng. Bên cạnh đó, công tác giáo dục, cải tạo người bị kết án phạt tù vẫn tồn tại một số bất cập đã gây nhiều tác động tiêu cực đến khả năng phục hồi của người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì lẽ đó, BLHS 2015 đã quy định một nội dung quan trọng trong nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đó là việc áp dụng hình phạt đối với họ phải được coi là biện pháp sau cùng trong trường hợp cần thiết phải truy cứu TNHS người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy biện pháp tư pháp hay các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp miễn TNHS không đảm bảo hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Ngoài ra, trong trường hợp Tòa án buộc phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì thời hạn tù cần được ấn định sao cho vừa đủ để giáo dục, phục hồi,
  • 32. 26 trên cơ sở cân nhắc toàn diện điều kiện và hoàn cảnh phạm tội, nhân thân của người dưới 18 tuổi phạm tội. - Nguyên tắc thứ tư: Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nguyên tắc này góp phần cụ thể hóa nguyên tắc “việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm mục đích giáo dục”. Tử hình và tù chung thân là hai hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt được quy định tại Bộ luật hình sự, người phạm tội nói chung chỉ bị áp dụng hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và khả năng cải tạo giáo dục người phạm tội không còn nữa. Chính vì vậy đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, khi mà mục đích truy cứu TNHS đối với họ chủ yếu là nhằm giáo dục, cải tạo thì không thể cho phép áp dụng loại hình phạt này. Nguyên tắc này cũng quy định hạn chế áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều này là hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc đã phân tích ở trên. Hình phạt tù có thời hạn với đặc trưng là tước tự do của người dưới 18 tuổi phạm tội trong một thời gian nhất định, cách ly họ ra khỏi môi trường sống bình thường để buộc họ phải học tập, lao động, sinh hoạt trong một cơ sở tập trung có kỷ luật nghiêm khắc. Việc áp dụng hình phạt này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ do họ đã thực hiện những tội phạm mang tính nghiêm trọng và vì vậy cần bị xử lý bằng những chế tài nghiêm khắc mà còn xuất phát từ yêu cầu bảo vệ cộng đồng trước khả năng họ tiếp tục gây ra những hành vi nguy hiểm cũng như bảo vệ chính họ trước những yếu tố tiêu cực từ môi trường sống, có thể cản trở quá trình phục hồi, cải tạo của họ. Khi chấp hành hình phạt tù có thời hạn, người dưới 18 tuổi sẽ được dạy văn hóa, dạy nghề, giáo dục đạo đức, lối sống để họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, loại hình phạt này cũng tồn tại bên trong những hạn chế, bất cập nhất định. Với đặc tính đặc biệt của lứa tuổi này, việc cách ly họ ra khỏi môi trường sống dễ gây nên những tác động tiêu cực đối với họ. Việc tái hòa nhập cộng đồng vẫn là một vấn đề khó khăn ngay cả với người phạm
  • 33. 27 tội đã trưởng thành khi gia đình và thành viên trong cộng đồng vẫn còn thái độ xa lánh, thậm chí là miệt thị đối với họ thì đối với người dưới 18 tuổi lại càng khó khăn hơn nhiều. Chính vì vậy, BLHS 2015 đòi hỏi Tòa án phải coi hình phạt tù có thời hạn là biện pháp xử lý cuối cùng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và khi buộc phải áp dụng hình phạt này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án phải cân nhắc áp dụng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng, với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Bên cạnh đó, nguyên tắc này cũng quy định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt tạo điều kiện cho Tòa án thực hiện việc cá thể hóa hình phạt, lựa chọn biện pháp phù hợp để xử lý triệt để và công bằng đối với người bị kết án, củng cố, hỗ trợ, tăng cường cho việc áp dụng hình phạt chính qua đó đạt được mục đích của hình phạt. Tuy nhiên, như nguyên tắc đã phân tích ở trên, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, việc xử lý chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Hình phạt bổ sung áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng không có ý nghĩa thiết thực, không đảm bảo tính khả thi của hình phạt. Vì vậy, không cần thiết phải áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều này cũng phù hợp với phương hướng xây dựng, hoàn thiện của chính sách hình sự nước ta cũng như xu thế chung của thế giới là giảm việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thay thế bằng các biện pháp giám sát, giáo dục. - Nguyên tắc thứ năm: Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Tái phạm và tái phạm nguy hiểm là tình tiết bất lợi thuộc về nhân thân của người phạm tội. Theo quy định tại Điều 53 BLHS 2015 về tái phạm và tái phạm nguy hiểm thì có thể thấy, đây là trường hợp người phạm tội thể hiện khả năng cải tạo, giáo dục còn thấp và coi thường pháp luật. Pháp luật hình sự nước ta xem tái phạm và tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng của rất nhiều tội phạm và là tình tiết tăng nặng TNHS. Bởi lẽ, tái phạm và tái phạm nguy hiểm thể
  • 34. 28 hiện tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với những trường hợp phạm tội thông thường nên khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể áp dụng mức hình phạt cao hơn so với người thuộc trường hợp phạm tội bình thường. Người dưới 18 tuổi là nhóm đối tượng chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý, nhận thức về pháp luật cũng như ý thức tôn trọng pháp luật vẫn chưa cao nên dễ bị tác động tiêu cực bởi những tư tưởng xấu. Ngược lại, việc giáo dục, cải tạo đối với họ cũng có phần dễ hơn so với người đã trưởng thành. Riêng đối với người dưới 16 tuổi thì được pháp luật hình sự Việt Nam đánh giá là có năng lực TNHS kém hơn so với người từ đủ 16 tuổi. Ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên, sự nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của con người nói chung đã tương đối hoàn chỉnh nên Luật hình sự mới có sự phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc người dưới 16 tuổi phạm tội đáp ứng các điều kiện của tái phạm, tái phạm nguy hiểm thể hiện rằng công tác giám sát, giáo dục, cải tạo đối với họ chưa được thực hiện tốt, các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng chưa phát huy được hết hiệu quả và lỗi phần lớn thuộc về gia đình, xã hội khi chưa có sự quan tâm đúng mức. Trong trường hợp này, nên xem người dưới 16 tuổi phạm tội dưới phương diện là nạn nhân hơn là người có lỗi. Vì vậy, không thể xem người dưới 16 tuổi phạm tội đáp ứng các điều kiện của tái phạm, tái phạm nguy hiểm là có khả năng giáo dục, cải tạo thấp để từ đó buộc họ phải chịu TNHS nặng hơn. Có thể thấy, nguyên tắc này đã thể hiện tính nhân đạo của chính sách hình sự, tạo điều kiện để người phạm tội cải tạo tốt, trở thành công dân có ích cho xã hội. 2.1.2. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành Với sự cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội, tác giả cho rằng, biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần có những khác biệt đáng kể so với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Bộ luật hình sự năm 2015 ra đời dựa trên những kinh nghiệm lập pháp từ hai lần pháp điển hóa trước đây cùng với sự tiếp thu các tư duy tiến bộ của thế giới đã có nhiều điểm hoàn thiện, trong đó có các biện pháp xử lý hình sự áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi
  • 35. 29 phạm tội. 2.1.2.1. Các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là những biện pháp xử lý mang tính chuyển hướng lần đầu tiên được quy định trong pháp luật hình sự mà cụ thể là BLHS 2015. Như đã phân tích, một trong những nguyên tắc quan trọng trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đó là phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của họ. Cần lựa chọn phương pháp xử lý phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi này, đảm bảo họ được phát triển trong một môi trường bình thường. Tại Báo cáo đánh giá luật pháp và thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý chuyển hướng, tư pháp phục hồi với người chưa thành niên vi phạm pháp luật cũng đã chỉ ra sáu lợi ích mà biện pháp xử lý chuyển hướng đem lại. Theo đó, việc áp dụng biện pháp này sẽ đem lại kết quả nhanh hơn, chi phí thấp hơn so với biện pháp tư pháp chính thống, giảm khối lượng công việc cho các cơ quan tư pháp. Hơn nữa, việc áp dụng các biện pháp này còn giải quyết cả những nguyên nhân tiềm ẩn cũng như những nhân tố bên trong dẫn đến hoặc liên quan đến hành vi đó, tạo cơ hội cho những người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người chưa thành niên gây ra tham gia vào việc lựa chọn một biện pháp xử lý đối với hành vi của người chưa thành niên, giúp tránh sự kỳ thị, phân biệt khi bị kết tội và xử phạt mang lại những kết quả tốt cho trẻ em. Trong xu hướng chung của các nước trên thế giới cũng như đòi hỏi của Công ước Quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên, việc áp dụng các biện pháp xử lý nằm ngoài hệ thống hình phạt, mang tính răn đe, giáo dục xã hội để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã và đang mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong việc giáo dục và phòng ngừa tội phạm vị thành niên cũng như đảm bảo lợi ích cộng đồng. Theo quy định của BLHS 2015 thì các biện pháp giám sát, giáo dục được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng được miễn TNHS. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật có thể cân nhắc áp dụng một trong
  • 36. 30 ba biện pháp giám sát, giáo dục sau: Khiển trách; Hòa giải tại cộng đồng; Giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Ngoài ra, việc áp dụng các biện pháp này cũng phải tuân thủ các nguyên tắc thực hiện cũng như cách thức tổ chức thực hiện được quy định trong Nghị định 37/2018/NĐ-CP ngày 10/3/2018 quy định chi tiết thi hành các biện pháp giám sát giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự. - Khiển trách Biện pháp khiển trách với tư cách là một chế tài đặc biệt lần đầu tiên xuất hiện trong pháp luật hình sự. Trước đây, khiển trách thường được biết đến với tư cách là một hình thức xử lý kỷ luật đối với các vi phạm kỷ luật. Việc đưa biện pháp này vào hệ thống chế tài hình sự và đặc biệt chỉ áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta cũng như đề cao mục đích giáo dục hơn là trừng trị trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Biện pháp khiển trách nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ, bên cạnh đó vẫn thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật hình sự. Biện pháp này chỉ được áp dụng trong hai trường hợp:  Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 BLHS 2015.  Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án. Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định miễn TNHS và áp dụng biện pháp này là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Để áp dụng biện pháp khiển trách đòi hỏi phải có sự đồng ý bằng văn bản của người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Và việc áp dụng biện pháp khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Người bị khiển trách phải thực hiện các nghĩa vụ được quy định tại khoản 3 Điều 93 BLHS 2015 bao gồm: tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; ngoài ra, người bị khiển trách còn phải tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa
  • 37. 31 phương tổ chức và tham gia lao động với hình thức phù hợp Theo đó, cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà ấn định thời gian thực hiện các quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều 93 BLHS 2015 từ 03 tháng đến 01 năm. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp khiển trách phải tuân thủ quy định tại Điều 427 BLTTHS. - Hòa giải tại cộng đồng Hòa giải tại cộng đồng là một quy định mới của pháp luật hình sự nước ta, chủ yếu nhằm tạo cơ hội cho người phạm tội nhận thức được trách nhiệm về hành vi vi phạm và tác động của hành vi vi phạm tới nạn nhân, thể hiện sự ăn năn, hối cải của mình về hành vi vi phạm, giúp đỡ khắc phục, bồi thường hậu quả gây ra, xin lỗi nạn nhân và phục hồi quan hệ với nạn nhân khi thích hợp; còn nạn nhân thì được trực tiếp tham gia vào quá trình xử lý vụ việc và giải quyết hậu quả của hành vi vi phạm, được nhận các khoản bồi thường và khắc phục thiệt hại, được nhận lời xin lỗi…Quy định này phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như thể hiện sự tiến bộ, nhân văn, mang tính giáo dục trong nguyên tắc xử lý TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của pháp luật hình sự nước ta. Biện pháp này chỉ được áp dụng trong hai trường hợp:  Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 BLHS 2015.  Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 BLHS 2015. Hoạt động hòa giải tại cộng đồng do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức sau khi người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện của họ có văn bản đề nghị áp dụng; người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và có văn bản đề nghị miễn TNHS. Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 94 BLHS 2015 đó là xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại cùng các nghĩa vụ khác được quy định tại khoản 3 Điều 93
  • 38. 32 BLHS 2015. Trong đó, thời điểm xin lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cũng như các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều 93 BLHS 2015 sẽ do cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà ấn định. Hiện nay, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng như ban hành quyết định áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng; trình tự, thủ tục và thành phần tham gia hòa giải tại cộng đồng; người được phân công tiến hành hòa giải, lập biên bản hòa giải,… được quy định tại Điều 428 BLTTHS 2015. Tuy nhiên, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết cho việc áp dụng biện pháp này. Tác giả cho rằng, hoạt động hòa giải tại cộng đồng cũng không được xa rời các nguyên tắc hòa giải được quy định trong Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013. - Giáo dục tại xã, phường, thị trấn Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có thể hiểu là Nhà nước thông qua các cơ quan xã, phường, thị trấn, các tổ chức xã hội và gia đình tác động về mặt nhận thức cũng như tình cảm của người dưới 18 tuổi phạm tội để tìm ra nguyên nhân sâu xa của hành vi phạm tội của họ, từ đó có những biện pháp giúp đỡ hiệu quả nhất để họ nhận thức và sửa chữa sai lầm. Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn giúp cho người dưới 18 tuổi phạm tội được sống, lao động, học tập như những người bình thường khác mà vẫn có tác dụng giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Họ phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được giao trách nhiệm. Việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn bên cạnh việc đảm bảo các nguyên tắc thực hiện của một biện pháp giám sát, giáo dục nêu trên, còn phải đảm bảo những nguyên tắc được quy định tại Điều 4 Nghị định số 10/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo đó, mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người được giáo dục đều bị nghiêm cấm, việc thi hành biện pháp phải tuân theo các quy
  • 39. 33 định của pháp luật và sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình vào việc giám sát, giáo dục, giúp đỡ người được giáo dục cần được bảo đảm. Quan trọng hơn cả, việc thi hành biện pháp này phải nhằm mục đích giám sát, giáo dục, giúp đỡ người được giáo dục sửa chữa sai phạm, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng, phát triển lành mạnh, trở thành người có ích cho xã hội. Đây là một điểm mới tiến bộ trong BLHS 2015 khi biện pháp giáo dục tạo xã, phường, thị trấn được chuyển từ một biện pháp tư pháp thành một biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn TNHS. Biện pháp này chỉ được áp dụng trong hai trường hợp:  Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 BLHS 2015.  Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 BLHS 2015. Thẩm quyền áp dụng biện pháp này thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 15 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về phối hợp thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ quyết định miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện của họ có văn bản đề nghị áp dụng. Thời hạn người dưới 18 tuổi phải chấp hành biện pháp này là từ 01 năm đến 02 năm. Cùng với đó là việc thực hiện các nghĩa vụ về học tập, lao động và các nghĩa vụ khác theo quy định tại khoản 3 Điều 93 BLHS 2015. Ngoài ra, người dưới 18 tuổi còn phải chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn và chỉ được đi khỏi nơi cư trú khi được cho phép. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được quy định cụ thể tại Điều 429 BLTTHS 2015. Trong trường hợp người được giáo
  • 40. 34 dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ thì Cơ quan đã áp dụng biện pháp này có thể ra quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn dựa trên đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục,. 2.1.2.2. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Theo quy định của BLHS hiện hành thì biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp duy nhất được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy cần phải cách ly người dưới 18 tuổi phạm tội ra khỏi môi trường sống bình thường của họ bằng cách đưa họ vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ qua đó đạt được mục đích cải tạo, giáo dục đối với họ. Theo giáo trình Luật Hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thì biện pháp tư pháp là “các biện pháp hình sự được quy định trong BLHS, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt” [37, tr.300]. Với tư cách là một biện pháp tư pháp, biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng được đặt ra với mục đích thay thế cho hình phạt, ít nghiêm khắc hơn hình phạt mà vẫn đảm bảo tính giáo dục, phòng ngừa cao đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Người dưới 18 tuổi phạm tội được áp dụng biện pháp này không bị coi là có án tích theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 107 BLHS 2015. Tính nghiêm khắc của biện pháp này thể hiện ở chỗ người dưới 18 tuổi phạm tội khi chấp hành biện pháp này sẽ bị cách ly khỏi môi trường xã hội trong một thời hạn nhất định để vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ. Cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là Tòa án. Việc lựa chọn áp dụng biện pháp này phải dựa trên các yếu tố về tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân và môi trường sống của người dưới 18 tuổi phạm tội. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 96 BLHS 2015 thì thời gian giáo dục tại trường giáo dưỡng là từ 01 đến 02 năm. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp này