SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 77
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN HUYỀN TRANG
PH¸P LUËT VÒ B¶O §¶M QUYÒN CñA NG¦êI LAO §éNG
TRONG QU¸ TR×NH GI¶I QUYÕT Y£U CÇU
TUY£N Bè PH¸ S¶N DOANH NGHIÖP ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN HUYỀN TRANG
PH¸P LUËT VÒ B¶O §¶M QUYÒN CñA NG¦êI LAO §éNG
TRONG QU¸ TR×NH GI¶I QUYÕT Y£U CÇU
TUY£N Bè PH¸ S¶N DOANH NGHIÖP ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HỮU CHÍ
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Huyền Trang
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ
SẢN DOANH NGHIỆP ........................................................................ 9
1.1. Phá sản và phá sản doanh nghiệp........................................................ 9
1.2. Tác động của phá sản doanh nghiệp đến quyền lợi của người
lao động.................................................................................................. 11
1.3. Sự cần thiết bảo đảm quyền của người lao động trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp .............. 12
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN..................................................18
2.1. Nhóm quyền tham gia thủ tục phá sản............................................. 18
2.1.1. Thực trạng pháp luật .............................................................................. 18
2.1.2. Thực tiễn thực hiện................................................................................. 22
2.2. Nhóm quyền liên quan đến quan hệ lao động ................................. 24
2.2.1. Thực trạng pháp luật .............................................................................. 24
2.2.2. Thực tiễn thực hiện................................................................................. 28
2.3. Nhóm quyền lợi hậu phá sản.............................................................. 35
2.3.1. Thực trạng pháp luật .............................................................................. 35
2.3.2. Thực tiễn thực hiện................................................................................. 36
2.4. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện...... 38
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM............................................................................................ 40
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật ................................................ 40
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật theo hướng dự báo.............................................. 40
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu hội nhập và điều kiện
kinh tế, xã hội của nước ta..................................................................... 41
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật trên cơ sở dung hòa mối quan hệ giữa doanh
nghiệp và người lao động ...................................................................... 42
3.2. Các kiến nghị cụ thể............................................................................. 44
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hiện hành ............................................ 44
3.2.2. Một số biện pháp bảo đảm và tổ chức thực hiện pháp luật ................. 56
KẾT LUẬN............................................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 69
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT KÝ HIỆU VIẾT TẮT TÊN CỦA KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1. BHXH Bảo hiểm xã hội
2. BHYT Bảo hiểm y tế
3. BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
4. LĐ-TB&XH Lao động – Thương binh và Xã hội
5. TNHH Trách nhiệm hữu hạn
6. TAND Tòa án nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam đang trong quá trình tham gia hội nhập vào nền kinh tế
thương mại thế giới, đánh dấu bằng một loạt các sự kiện tích cực: gia nhập và
trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới-
WTO song song với việc tiến hành ký kết nhiều hiệp định thương mại song
phương, đa phương: hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương-
TPP, Hiệp định thương mại tự do- FTA, ký kết thành lập cộng đồng chung
ASEAN… Đồng nghĩa với việc đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào một môi
trường kinh doanh sôi động, chịu tác động một cách mạnh mẽ từ quy luật
cạnh tranh, trong hoàn cảnh đó, các doanh nghiệp có cấu trúc giản đơn, không
đủ năng lực cạnh tranh sẽ dần dần dẫn tới “mất khả năng thanh toán” các
khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh và đi đến phá sản.
Khi doanh nghiệp phá sản, người lao động bị nợ lương, trợ cấp theo
hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể… là nhóm chủ nợ có lực
lượng khá đông đảo, là đối tượng bị thiệt hại thường xuyên và trước hết tại
các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, nhưng khả năng nhận thức và tự
bảo vệ cho những quyền lợi bị xâm phạm của mình lại rất yếu ớt và hạn chế.
Đến nay, pháp luật về phá sản doanh nghiệp và pháp luật về lao động
đã có những bước tiến lớn trong việc ghi nhận cũng như xây dựng các phương
thức đảm bảo quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những quy định pháp
luật chưa thực sự rõ ràng; giải quyết phá sản doanh nghiệp vẫn đang là một
vấn đề mới mẻ, thực hiện bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vẫn đang là một vấn
đề còn nhiều vướng mắc và nan giải.
2
Thông qua việc nghiên cứu lý luận, quy định pháp luật hiện hành, đề tài
sẽ cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ rõ nguyên nhân, để từ đó
kiến nghị những giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật về việc ghi
nhận và bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận,
thực tiễn và kiến giải hoàn thiện pháp luật để có thể bảo vệ một cách tối đa
quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Để đạt được mục đích trên, đề tài có nhiệm
vụ như sau:
Pháp luật về bảo đảm quyền lợi người lao động trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp liên quan đến hai lĩnh vực: pháp
luật lao động và pháp luật phá sản doanh nghiệp, bởi vậy, để có một cái nhìn
đúng đắn và đầy đủ về vấn đề này, chắc chắn cần phải làm rõ một số nội dung
liên quan đến phá sản doanh nghiệp, bao gồm các nội dung liên quan đến khái
niệm phá sản, hậu quả của hiện tượng phá sản, vai trò điều chỉnh của luật phá
sản… kết hợp đi sâu vào việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong
quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong pháp luật
phá sản và lao động. Nhiệm vụ này sẽ đi theo lộ trình:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về phá sản và vấn đề bảo vệ quyền
lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
- Tìm hiểu và nhận thức về thực trạng các quy định hiện hành và thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi
của người lao động trong quá trình thực hiện phá sản doanh nghiệp.
3
- Trên cơ sở nhận thức về mặt lý luận kết hợp với nghiên cứu, phân tích
các vụ việc cụ thể, đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định của
pháp luật và biện pháp tổ chức thực hiện nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền
lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về bảo đảm quyền của
người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp ở Việt Nam bao gồm các quyền tham gia thủ tục phá sản, quyền liên
quan đến quan hệ lao động, quyền lợi hậu phá sản... cả về lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận, pháp luật phá sản và pháp luật lao động là các lĩnh vực
khá rộng, do vậy luận văn không đi sâu vào phân tích tất cả các nội dung liên
quan đến phá sản doanh nghiệp hay lao động và pháp luật lao động nói chung.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính logic và tính có hệ thống, luận văn vẫn cần đề cập
tới một số nội dung có liên quan để làm rõ đề tài, dừng lại ở mức độ sơ lược
và khái quát.
Về mặt thực tiễn, luận văn nêu ra các vụ việc điển hình, nhìn nhận và
đánh giá một cách khách quan để có thể đưa ra các kiến nghị chính xác, cụ thể
nhằm giải quyết vấn đề đảm bảo quyền lợi của người lao động trong quá trình
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Về mặt thời gian, xuất phát từ tình hình thực tế là nền kinh tế Việt Nam
chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập, việc đảm bảo quyền
của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp gắn với việc ra đời của những quy phạm liên quan đến phá sản doanh
nghiệp, do vậy luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 1993
trở lại đây, kể từ khi ban hành luật phá sản đầu tiên cho đến luật phá sản 2015
nhưng không nhằm mục đích so sánh các văn bản pháp luật phá sản.
4
Về không gian, luận văn giới hạn việc tìm hiểu, so sánh ở mức độ nhất
định với pháp luật của một số quốc gia điển hình như: Cộng hòa Pháp- đại
diện cho hệ thống pháp luật Civil Law, Hoa Kỳ- điển hình của trường phái
Common Law và Trung Quốc- một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, cùng
theo đuổi chủ nghĩa xã hội và có nhiều nét tương đồng với Việt Nam.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phá sản, pháp luật về phá sản doanh nghiệp hay đảm bảo quyền lợi của
người lao động là vấn đề không mới đối với hầu hết các quốc gia có nền kinh tế
thị trường phát triển. Ở Việt Nam với đặc thù là nền kinh tế chuyển đổi, do đó
phá sản, pháp luật phá sản hay bảo đảm quyền lợi của người lao động được khá
nhiều học giả quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau về các vấn đề này đã ra đời:
- Về phá sản và pháp luật phá sản có một số công trình nghiên cứu như:
Luận văn thạc sĩ của tác giả Hà Minh Tú năm 2003 về “Nguyên nhân của
việc áp dụng hạn chế pháp luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam”; của tác giả Tạ
Văn Giang năm 2012 về “Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua
thủ tục phá sản”… Các công trình này đã nghiên cứu những vấn đề chung về
phá sản doanh nghiệp và pháp luật về phá sản doanh nghiệp, phân tích và so
sánh những đặc điểm cơ bản của luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam và của
một số nước trên thế giới, làm sáng tỏ những vấn đề chung về điều hòa lợi ích
của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản, đưa ra những biện pháp và kiến
nghị nhằm hoàn thiện luật phá sản doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực pháp luật
phá sản trong thực tiễn. Do các đề tài này đi theo hướng nghiên cứu khác nên
quyền lợi của người lao động khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ
mới được nghiên cứu ở mức độ sơ bộ, hầu như chỉ dừng lại ở quyền lợi như một
trong các chủ nợ không có bảo đảm khác tức là các lợi ích về kinh tế nói chung
chủ yếu là quyền được thanh toán tiền lương, trợ cấp.
5
Cũng có công trình nghiên cứu khoa học khác đi sâu vào bảo vệ quyền lợi
của người lao động chẳng hạn như luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thanh
Hải năm 2012: “Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước”. Công trình này đã làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận của việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, rút ra những nhận xét khoa học và đề xuất các giải pháp
cụ thể nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước- người lao động- người sử
dụng lao động. Tuy nhiên, bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp là hai trường hợp mang những nét đặc thù riêng, chịu
sự điều chỉnh của những quy phạm pháp luật riêng và do đó cần có những công
trình nghiên cứu cụ thể để có thể giải quyết thấu đáo các nội dung trên hai mặt lý
luận và thực tiễn.
Qua khảo cứu các công trình tiêu biểu đã được công bố, cho đến hiện tại,
trên phương diện nghiên cứu nói chung và với phạm vi luận văn thạc sĩ luật học
nói riêng, đề tài bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vẫn là một lĩnh vực khá mới mẻ và chưa
có nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập tới. Chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về vấn đề đảm bảo quyền lợi của người
lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Cho đến nay chỉ
mới có sách tham khảo với tựa đề “Chính sách chế độ đối với lao động trong
doanh nghiệp phá sản và giải thể” của nhà xuất bản chính trị quốc gia, xuất bản
năm 1993 đề cập khá chính xác đến nội dung mà luận văn nghiên cứu, tuy nhiên
cuốn sách chỉ mới dừng lại ở việc tập hợp các nghị định, thông tư của Chính
phủ về chính sách, chế độ đối với lao động trong các doanh nghiệp phá sản,
giải thể chứ không đi sâu phân tích, nghiên cứu, đồng thời các nội dung được
6
tập hợp khá sớm kể từ khi pháp luật phá sản ở nước ta bước đầu được xây
dựng nên đến nay, các nội dung mới chưa được cập nhật đầy đủ.
Việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp đã được ghi nhận trong pháp luật phá sản,
pháp luật lao động, từ trước cho đến nay và đang dần được hoàn thiện hơn. Tuy
nhiên, do bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay vô cùng phức tạp và nảy sinh rất
nhiều vấn đề liên quan đến quyền lợi của người lao động mà chưa được giải
quyết một cách triệt để. Với tư cách là một công cụ kiểm soát và điều chỉnh các
mối quan hệ trong xã hội, pháp luật phải nhanh chóng hoàn thiện và tiên liệu
được các vấn đề có thể xảy ra nhằm giảm thiểu các rủi ro, nguy cơ ảnh hưởng
xấu đến kinh tế, xã hội.
Pháp luật về bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn chưa thực sự bao quát
được tất cả các vấn đề nảy sinh, còn tồn tại nhiều thiếu sót, chưa thống nhất giữa
quy định và thực tiễn áp dụng vì vậy chưa thể là công cụ vững chắc để bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của người lao động trong khi luật lao động lại chưa
đủ sức điều chỉnh quan hệ này.
Trên cơ sở đó, luận văn nhằm mục đích phân tích các quy định về đảm
bảo quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản, nhìn nhận vào các hệ quả, những sự việc có thật trong thực tiễn để từ đó
đánh giá và kiến nghị những giải pháp phù hợp.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở vận dụng những quan
điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
7
Luận văn vận dụng những phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và Pháp luật, áp dụng vào tình hình cụ thể của nước ta. Các phương
pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học pháp lý cũng được đặc biệt chú
ý sử dụng trong luận văn như: phương pháp phân tích, tổng hợp các kiến thức
từ pháp luật thực định, phân tích thực tiễn để nhận thức, đánh giá thực trạng
điều chỉnh pháp luật và thực thi pháp luật; phương pháp so sánh luật học,
phương pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp, lịch sử, xã hội học pháp luật, suy
diễn logic... để giải quyết những vấn đề cơ bản của luận văn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên ở cấp thạc sĩ luật học nghiên
cứu tương đối cụ thể và có hệ thống một số vấn đề lý luận, thực tiễn pháp luật
về bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam.
Nhận thức chung nhất về quyền của người lao động trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trên hai phương diện lý luận và
thực tiễn, xem xét quyền lợi của người lao động từ góc độ đặt trong mối quan
hệ lao động chứ không phải là bất kỳ một quan hệ xã hội nào khác.
Phân tích, đánh giá trên cơ sở đối chiếu các quy định pháp luật với thực
tiễn áp dụng, tìm ra những bất cập trong các quy định về bảo đảm quyền của
người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp ở Việt Nam.
Qua nghiên cứu về lý luận, thực trạng pháp luật trong nước, kết hợp
nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới, và thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn đưa ra một số kiến giải nhằm
nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam.
8
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
- Chương 1: Khái quát chung về phá sản doanh nghiệp và bảo đảm
quyền lợi người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền lợi người lao động
trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam và
thực tiễn thực hiện.
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền lợi người lao động
trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam.
9
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP VÀ BẢO ĐẢM
QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
1.1. Phá sản và phá sản doanh nghiệp
Hiện tượng phá sản đã có từ lâu nhưng chỉ tồn tại trong một số hình
thái kinh tế xã hội nhất định, hiện tượng này khá xa lạ trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung nhưng xảy ra một cách đương nhiên và khách quan trong
nền kinh tế thị trường. Do đó, ở những nước có nền kinh tế thị trường phát
triển, chế định luật “vỡ nợ” hay “phá sản” luôn là một bộ phận không thể
thiếu trong hệ thống pháp luật về kinh doanh.
Một doanh nghiệp sẽ bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi hội đủ
những yếu tố căn cứ nhất định, tòa án có thể dựa trên những căn cứ đó để
tuyên bố doanh nghiệp phá sản kéo theo hàng loạt hậu quả sau đó, tuyên bố
này có thể gây ảnh hưởng xấu thậm chí chấm dứt luôn hoạt động kinh doanh
của con nợ, ảnh hưởng đến uy tín, ảnh hưởng đến cả tài sản của doanh nghiệp
đó. Rõ ràng, việc phá sản sẽ gây hại trực tiếp cho doanh nghiệp đó, ảnh hưởng
đến các chủ nợ, lớn hơn là ảnh hưởng đến cả nhà nước, ảnh hưởng đến nền
kinh tế, do đó nếu không có những cơ sở chắc chắn và quan điểm đúng đắn về
định nghĩa phá sản thì có thể để lại những hậu quả vô cùng to lớn.
Hiện tượng phá sản vốn đã được định nghĩa từ rất sớm. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, “chế định phá sản được hoàn chỉnh và đã được
nâng lên thành luật phá sản của nhà nước La Mã cổ đại” [14]. Ở thời kỳ này,
thuật ngữ phá sản đã được hình thành, bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng
Latinh - có nghĩa là sự khánh tận - tức là mất khả năng thanh toán.
10
Đến nay, hiện tượng phá sản đã trở nên phổ biến, các nhà nước thông
qua việc thực hiện chức năng quản lý của mình đã can thiệp sâu hơn vào quy
trình giải quyết hiện tượng phá sản doanh nghiệp. Ở mỗi quốc gia do điều
kiện kinh tế xã hội khác nhau nên có các quan niệm tương đối khác nhau
trong việc định nghĩa về phá sản.
Theo định nghĩa luật mất khả năng thanh toán năm 2002 của Cộng hòa
liên bang Nga thì thương nhân bị coi là lâm vào tình trạng phá sản nếu có đủ
hai yếu tố mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và chậm thanh toán: nếu sau
03 tháng, kể từ ngày đến hạn phải trả mà họ không trả được các món nợ và
tình trạng phá sản là “tình trạng con nợ không có khả năng thỏa mãn một
cách đầy đủ các yêu cầu của chủ nợ đối với các nghĩa vụ trả tiền hoặc các
món nợ bắt buộc phải trả khác” [8, tr. 97].
Một số nước bổ sung thêm yếu tố định lượng vào khái niệm tình trạng
phá sản chẳng hạn như quy định việc con nợ không thể thanh toán được một
khoản tiền tối thiểu nào đó nhằm khuyến khích các chủ nợ và con nợ tự giải
quyết tranh chấp có quy mô nhỏ bằng những hình thức khác giúp tiết kiệm
thời gian, công sức, tiền bạc cho các đương sự và nhà nước: luật phá sản của
Singapore năm 1999 quy định con nợ sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản khi không
trả được nợ đến hạn ít nhất là 5.000 đô la Singapore [27], luật phá sản của
Singapore năm 2015 nâng mức này lên 15.000 đô la Singapore [28], còn
trong luật phá sản Mỹ thì số tiền này phải trên 10.000 đô la Mỹ [31].
Ở Việt Nam, các nhà lập pháp ở các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng có
cùng một quan điểm về tình trạng phá sản như ở nhiều nước trên thế giới.
Thuật ngữ “phá sản” được biết đến từ thời kỳ Pháp thuộc và theo cách nói
thông thường, phá sản là tình trạng của một người bị vỡ nợ không còn bất cứ
tài sản nào để trả các khoản nợ đến hạn.
11
Tóm lại, pháp luật hầu hết các nước trên thế giới đều coi phá sản là tình
trạng người mắc nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn, bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền (tòa án) tuyên bố phá sản và
thực hiện thanh toán cho các chủ nợ theo thủ tục pháp luật phá sản quy định
trên tổng giá trị tài sản còn lại của con nợ.
Pháp luật phá sản là hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về điều
kiện mở thủ tục phá sản; địa vị pháp lý, mối quan hệ giữa các chủ thể tham
gia thủ tục phá sản; trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản; điều
kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoặc thanh lý tài sản doanh nghiệp; thi hành
quyết định tuyên bố phá sản; các vấn đề khác phát sinh trong quá trình giải
quyết vụ việc phá sản.
Phá sản là hiện tượng tất nhiên, cần thiết cho nền kinh tế thị trường.
Pháp luật phá sản chính là sự can thiệp có ý thức của nhà nước vào hiện tượng
phá sản nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt
tích cực của nó.
Pháp luật phá sản hiện nay đi theo hướng bảo vệ các nhóm quyền lợi:
trật tự kinh tế- xã hội, khẳng định vai trò của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động, quyền lợi hợp pháp của con nợ [9, tr. 23].
1.2. Tác động của phá sản doanh nghiệp đến quyền lợi của người
lao động
Với cách hiểu phá sản doanh nghiệp là hiện tượng mất khả năng thanh
toán các khoản nợ đến hạn của các doanh nghiệp, trong nhiều trường hợp,
một con nợ thường có rất nhiều chủ nợ, đến thời điểm con nợ mất khả năng
thanh toán thì tổng giá trị tài sản còn thường nhỏ hơn tổng giá trị các khoản
nợ, do vậy, tài sản còn lại của con nợ không đủ để thanh toán hết cho các
12
nghĩa vụ, việc không được thanh toán đầy đủ giá trị các khoản nợ sẽ ảnh
hưởng một cách trực tiếp đến quyền lợi của các chủ nợ.
Có thể thấy rằng đời sống của người lao động sẽ có nguy cơ hoặc thực
sự bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi không được trả lương, phụ cấp theo hợp
đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể đầy đủ và đúng thời hạn, không
được giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT),
trợ cấp thất nghiệp… do doanh nghiệp phá sản nợ đọng quỹ BHXH, và đáng
lo ngại nhất là tình trạng thất nghiệp hậu phá sản.
Bên cạnh đó, hiện tượng phá sản cũng là hiện tượng mang tính chất dây
chuyền, doanh nghiệp này phá sản đồng thời kéo hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp chủ nợ đi xuống thì không chỉ lao động của doanh nghiệp
phá sản mà ngay cả lao động của doanh nghiệp chủ nợ cũng phải chấp nhận
rủi ro chấm dứt hợp đồng lao động nhằm giảm chi phí nhân sự. Số lượng lao
động thất nghiệp tăng lên đồng nghĩa tệ nạn xã hội cũng tăng lên, nền kinh tế
chung của quốc gia đi xuống, đời sống của công dân nước đó cũng không
được đảm bảo…
1.3. Sự cần thiết bảo đảm quyền của người lao động trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và
thực tiễn không chỉ đối với cá nhân, tập thể người lao động, mà còn có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc
và toàn nhân loại. Quyền của người lao động là những quyền liên quan đến
người lao động và người sử dụng lao động, phát sinh trong quá trình sử dụng
lao động, hay nói cách khác, quyền của người lao động nằm trong mối quan
hệ lao động. Các quyền của người lao động được ghi nhận trong các Điều ước
quốc tế như: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền; Công ước quốc tế về
13
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị và các khuyến nghị của tổ chức Lao động Quốc tế. Các quyền của
người lao động mặc dù được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế,
nhưng đó chỉ là sự ghi nhận mang tính nguyên tắc chung. Các quyền trong
lĩnh vực lao động còn được ghi nhận và bảo vệ bởi rất nhiều văn kiện do tổ
chức Lao động Quốc tế khởi xướng.
Theo các văn bản này, quyền của người lao động gồm các quyền:
quyền làm việc, quyền công đoàn độc lập, quyền không bị ép làm việc không
lương, quyền nam nữ hưởng lương bằng nhau, quyền không bị phân biệt đối
xử, quyền không bị phân biệt đối xử nếu có con cái, quyền được giúp đỡ và
có việc làm thích hợp nếu bệnh tật, quyền được đào tạo, bồi dưỡng có ăn
lương, quyền không bị đuổi việc, quyền được trả lương bằng tiền, quyền
hưởng lương trên hoặc bằng mức tối thiểu, quyền được trả lương nếu chủ sử
dụng lao động bị phá sản…
Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật quốc tế có thể thấy rằng, các
quyền của người lao động là một trong những quyền hết sức quan trọng của
con người thuộc nhóm các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Các quyền
của người lao động có vai trò quan trọng đối với người lao động hoặc tập thể
người lao động. Các quyền này không chỉ được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật quốc tế (tuyên ngôn, công ước, khuyến nghị), mà còn được cụ thể
hóa và quy định trong các văn bản pháp luật quốc gia như Hiến pháp, bộ luật,
luật và được thể hiện dưới hai khía cạnh là quyền và nghĩa vụ, bởi để bảo đảm
các quyền của người lao động các quốc gia buộc phải ban hành các quy định
về nghĩa vụ thông qua việc ban hành các chính sách, chương trình để thúc đẩy
việc thực hiện các quyền của người lao động, đồng thời phải đưa ra các quy
định mang tính chế tài xử lý khi các quyền này bị xâm phạm.
14
Quyền của người lao động trong hoàn cảnh doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản từ trước đến nay vẫn được các văn bản pháp luật chuyên ngành
phá sản và lao động của các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm điều
chỉnh bởi khi doanh nghiệp phá sản thì sẽ làm cho khối lượng lớn người lao
động bị thất nghiệp, nhu cầu về việc làm cũng trở nên cấp thiết, việc làm
không ổn định, không thường xuyên và phù hợp dẫn tới thu nhập bấp bênh,
cuộc sống không đảm bảo, tệ nạn và tội phạm xã hội tăng đáng kể, đồng nghĩa
với việc tăng gánh nặng đối với kinh tế, xã hội của quốc gia, khu vực.
Đảm bảo quyền lợi của người lao động chính là một bước trong tiến
trình xây dựng, phát triển nền kinh tế bởi ở bất kỳ một đất nước nào, lực
lượng lao động luôn đông đảo chiếm đa số đặc biệt là ở các quốc gia đang
phát triển. Người lao động có thể là cán bộ, nhân viên làm công tác quản lý,
những công nhân, thợ kỹ thuật…. họ có ở khắp mọi nơi, làm việc để có được
thu nhập (bao gồm tiền lương, tiền thưởng, các chế độ an sinh…) nhằm mục
đích đảm bảo cuộc sống của mình và đóng thuế cho nhà nước bằng nhiều hình
thức, họ chính là lực lượng tạo ra và cũng chính là lực lượng tiêu thụ hàng
hóa trên thị trường, thúc đẩy nền kinh tế phát triển cũng bằng nhiều cách.
Tuỳ theo chế độ chính trị - xã hội và định hướng mà pháp luật từng
quốc gia trên thế giới theo đuổi, quan điểm của nhà nước trong việc ưu tiên
bảo vệ lợi ích của nhóm chủ thể nào mà chức năng bảo vệ các nhóm quyền lợi
của pháp luật phá sản có những quy định mang tính đặc thù. Trong pháp luật
phá sản hiện đại, vấn đề bảo vệ quyền lợi người lao động được đặc biệt quan
tâm. Khẳng định quyền của người lao động trong thủ tục phá sản cũng chính
là tôn trọng nhân quyền, mục đích mà bất kỳ một đất nước văn minh nào nói
riêng và nhân loại tiến bộ hiện nay đều đang hướng tới. Pháp luật của hầu hết
các nước đều ghi nhận quyền của người lao động trong suốt quá trình tố tụng
và bình đẳng với các chủ nợ khác bởi việc đảm bảo quyền của họ là thực sự
15
cần thiết. Pháp luật phá sản ở một số nước theo chủ nghĩa xã hội và đang phát
triển như Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, nhóm người lao động, là những thành phần yếu thế nhưng lại đóng
vai trò chủ chốt trong xã hội và nền kinh tế, quyền lợi của họ lại càng đặc biệt
được bảo vệ.
Quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp ngày càng được phát triển và thừa nhận một cách
rộng rãi, thể hiện ở các quyền như: quyền được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản trong trường hợp doanh nghiệp không trả lương, các khoản nợ khác;
quyền tham gia hội nghị chủ nợ, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp;
quyền giám sát doanh nghiệp được áp dụng thủ tục phục hồi, quyền được ưu
tiên thanh toán nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác… Ngoài ra, cơ chế
phục hồi của doanh nghiệp cũng là một chế định có mục đích bảo vệ quyền
lợi người lao động, vì nếu doanh nghiệp có thể phục hồi được thì người lao
động cũng thoát khỏi tình trạng thất nghiệp về sau.
Pháp luật phá sản nước nào trên thế giới cũng quy định các quyền để họ
có thể tham gia tự bảo vệ lợi ích của mình. Cần nhận thấy rằng khi một doanh
nghiệp “mất khả năng thanh toán” các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh
doanh thì người lao động bị nợ lương, phụ cấp khác theo hợp đồng lao động
sẽ vừa là chủ nợ và cũng sẽ là nạn nhân. Cơ sở đầu tiên để họ thực hiện quyền
của mình, dù là ở tư cách nào đi nữa, trước hết vẫn là quyền nộp đơn lên cơ
quan tư pháp có thẩm quyền, cụ thể là Tòa án.
Hiện nay, pháp luật phá sản thế giới phân chia chủ nợ thành ba loại: chủ
nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm.
Pháp luật cho phép các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần
có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, áp dụng
16
thủ tục thanh lý toàn bộ tài sản còn lại của doanh nghiệp để trả nợ cho các chủ
nợ. Người lao động trong trường hợp này sẽ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản doanh nghiệp với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm.
Người lao động có thể trực tiếp hoặc thông qua đại diện của chính
mình tham gia hội nghị chủ nợ với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm, gián
tiếp giám sát thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp hoặc thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản thông qua
quản tài viên. Nhóm quyền lợi này có thể tạm gọi là quyền tham gia thủ tục
phá sản. Người lao động cũng như các chủ nợ khác trong hội nghị chủ nợ, có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến lợi ích của
mình, có quyền thông qua hay không thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại hay không tồn
tại của con nợ.
Ngoài ra, cũng cần đặc biệt lưu ý về quyền liên quan đến quan hệ lao
động, đặc biệt là quyền được thanh toán tiền lương trong doanh nghiệp phá
sản bởi đây là một vấn đề phức tạp bao gồm nội dung nghĩa vụ thanh toán
như tiền lương, phụ cấp, trợ cấp thôi việc… quyền ưu tiên thanh toán: được
thanh toán sau các chủ nợ có bảo đảm… Về lý thuyết, rất khó để tìm thấy bất
cứ ý kiến nào phản đối quan niệm người lao động được bồi thường tiền lương
và các quyền lợi khác mà họ đáng được hưởng khi doanh nghiệp phá sản.
Nhưng về thực tế thì “người lao động thường là chủ nợ tiếp xúc nhiều nhất
với doanh nghiệp phá sản nhưng họ không thể đánh giá được nguy cơ phá
sản của doanh nghiệp như các đối tượng chủ nợ khác” [26, tr.1], sau khi
doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ thường không còn
tài sản để thực hiện nghĩa vụ với người lao động.
Hậu phá sản doanh nghiệp, vấn đề đặt ra cấp bách nhất là quyền có việc
17
làm. Đây là yếu tố cơ bản để bảo đảm sự tồn tại thực tế của con người, đồng
thời cũng là yếu tố để bảo đảm nhân phẩm và lòng tự trọng của người lao
động. Quyền có việc làm được coi là quyền hiến định trong pháp luật quốc tế,
cụ thể, Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 ghi nhận: “Mọi
người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm...” [30, Điều 23]; Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội cũng xác định các yếu tố
của “quyền có việc làm” [25, Điều 6]. So với quyền của người lao động khi
doanh nghiệp phá sản, quyền có việc làm hẹp hơn, tuy nhiên, đây lại là một
quyền cơ bản nhất, quan trọng nhất trong lĩnh vực lao động việc làm và hậu
phá sản. Quyền có việc làm chính là tiền đề, điều kiện quan trọng để thực hiện
các quyền khác của người lao động nói riêng và các quyền của con người nói
chung, như quyền về nhà ở, quyền về giáo dục, văn hoá..... Chỉ khi quyền có
việc làm được đảm bảo thực hiện, thì các quyền khác của con người mới có ý
nghĩa. Luật việc làm 2013 của Việt Nam đã bước đầu thể hiện sự quan tâm
sâu sắc đến vấn đề này.
18
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
Nền kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các quy luật
trong nền kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật cung- cầu,
không chỉ các doanh nghiệp sử dụng lao động mà chính người lao động cũng
lao đao để tìm chỗ đứng và tồn tại. Trong bối cảnh đó, Đảng và nhà nước ta
đã xác định mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, phát
huy nhân tố vì con người, trước hết là người lao động “Phát triển, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và coi đây
là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất
nước” [5, tr. 41], phải tăng cường bảo vệ người lao động, trọng tâm là các
doanh nghiệp. Có thể thấy bảo vệ người lao động đã trở thành một nguyên tắc
cơ bản và quan trọng trong chủ trương xây dựng pháp luật lao động hiện
hành, đồng thời được ghi nhận một cách nghiêm túc trong pháp luật phá sản
Việt Nam xuyên suốt từ trước đến nay. Bảo đảm quyền lợi của người lao
động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt
Nam được thể hiện trong quá trình xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật
trên phương diện ba nhóm quyền:
2.1. Nhóm quyền tham gia thủ tục phá sản
2.1.1. Thực trạng pháp luật
- Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ trả lương và các khoản nợ
khác cho người lao động đúng hạn, người lao động được coi như chủ nợ không
19
có bảo đảm và có các quyền và nghĩa vụ như chủ nợ không có bảo đảm.
Nhằm thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với người lao động,
luật phá sản của các nước cũng như tại Việt Nam đều ghi nhận quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động. Khi doanh nghiệp
hoặc mất khả năng thanh toán tiền lương và các loại trợ cấp cho người lao
động hoặc chậm thanh toán sau một khoảng thời gian nhất định kể từ ngày
đến hạn thanh toán thì người lao động có thể buộc doanh nghiệp thực hiện
các nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập
thể bằng cách nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp đến cơ
quan có thẩm quyền giải quyết.
Luật phá sản Việt Nam trước đây quy định người lao động không được
tự nộp đơn mà phải cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn. Cơ
chế cử người đại diện được quy định khá phức tạp gây ra nhiều khó khăn cho
người lao động, hạn chế và gần như vô hiệu hoá quyền nộp đơn của người lao
động trong doanh nghiệp.
Hiện nay, quyền của người lao động trong thủ tục phá sản ngày càng
được khuyến khích và tăng cường hơn nữa, luật phá sản năm 2014 quy định
không chỉ đại diện tập thể người lao động là công đoàn cơ sở, công đoàn cấp
trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở mà chính
người lao động cũng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu hết
thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ
khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa
vụ thanh toán.
Trên quan điểm tạo điều kiện và khuyến khích người lao động đứng ra
tự bảo vệ cho quyền lợi của mình, luật phá sản Việt Nam khẳng định người
lao động, đại diện người lao động khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
20
không phải nộp lệ phí, án phí phá sản theo quy định của pháp luật về án phí,
lệ phí tòa án nhân dân (TAND) như các đối tượng chủ nợ khác.
Việc người lao động có thể trực tiếp nộp đơn yêu cầu tham gia thủ tục
phá sản được coi như một sự tiến bộ nhằm giúp người lao động bị nợ lương
thực hiện quyền của mình một cách dễ dàng hơn nhưng khi thực hiện chắc
chắn sẽ gây khó khăn cho các bên bởi quy định tại các văn bản còn chưa rõ
ràng. Nếu nhiều người lao động cùng nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
doanh nghiệp thì sẽ khiến cho tình hình trở nên phức tạp.
- Quyền tham gia hội nghị chủ nợ
Ngoài việc quy định cho người lao động có quyền nộp đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp, luật phá sản của Việt Nam cũng đi theo xu
hướng của pháp luật phá sản nhiều nước, coi người lao động là đối tượng
thuộc nhóm chủ nợ không có bảo đảm, được quyền tham gia quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trao cho người lao động
hoặc đại diện người lao động quyền tham gia hội nghị chủ nợ, có quyền
đưa ra ý kiến, thảo luận và thông qua các nội dung liên quan đến việc giải
quyết quyền lợi của mình, thỏa thuận áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động
sản xuất kinh doanh hay áp dụng thủ tục tuyên bố phá sản, thanh lý tài sản
để thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
bị mở thủ tục phá sản.
Trong khi hiểu biết và nhận thức của người lao động còn hạn chế,
nhiều trường hợp người lao động thực sự cần đến cơ chế ủy quyền, cần được
đại diện công đoàn đứng ra thay mặt đòi quyền lợi cho mình thì các văn bản
luật và dưới luật liên quan lại không quy định rõ về vấn đề cử đại diện. Nếu
lại cử đại diện trong điều kiện thiếu hướng dẫn cụ thể, thì chẳng khác nào lại
tiếp tục đi theo nội dung của luật phá sản cũ, làm cho các bên lúng túng khi
21
tham gia tố tụng trong khi người lao động cũng là thành viên của hội nghị
chủ nợ, mà ý kiến của hội nghị chủ nợ vô cùng quan trọng đối với sự sống
còn của doanh nghiệp.
- Quyền giám sát các tài sản của doanh nghiệp phá sản
Luật phá sản 2014 quy định trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi
hoạt động sản xuất kinh doanh hay thủ tục phá sản, thanh lý tài sản, đại diện
người lao động nói riêng và hội nghị chủ nợ nói chung được quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản doanh nghiệp thông báo về tình trạng
tài sản của con nợ. Thông qua đó, thực hiện quyền được giám sát khoản nợ
của mình nhưng không làm mất trật tự và ảnh hưởng đến quyền lợi của con
nợ, quyền lợi các chủ nợ khác…
Quyền này không được quy định một cách trực tiếp và người lao động
hay đại diện người lao động cũng không trực tiếp quản lý tài sản của con nợ.
Người lao động hoặc đại diện người lao động thực hiện quyền giám sát này
thông qua quản tài viên hay doanh nghiệp thanh lý, quản lý tài sản. Định kỳ
theo một thời hạn nhất định, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản báo cáo về tình hình tài sản của con nợ lên đại diện cơ quan có thẩm
quyền giải quyết thủ tục phá sản và các chủ nợ để các bên được biết.
- Quyền quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hay thủ tục phá sản
đối với doanh nghiệp
Cùng với việc ghi nhận quyền tham gia hội nghị chủ nợ, người lao
động và đại diện người lao động có quyền tham gia bỏ phiếu, thể hiện ý kiến
và thực hiện quyền quyết định nên áp dụng thủ tục phục hồi hay thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Nghị quyết của hội nghị
chủ nợ chính là cơ sở nền tảng cho việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định phục hồi hay phá sản doanh nghiệp, là cơ sở quyết định sự sống còn
22
của doanh nghiệp.
- Quyền giám sát thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Tương tự như quyền giám sát tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán, người lao động, đại diện người lao động nói riêng hay hội nghị
chủ nợ nói chung cũng không được phép trực tiếp tham gia hoạt động quản lý,
giám sát doanh nghiệp thực hiện phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh.
quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ thực hiện giám sát
trực tiếp hoạt động phục hồi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thực
hiện báo cáo định kỳ kết quả hoạt động này cho đại diện cơ quan có thẩm
quyền và hội nghị chủ nợ.
- Quyền tham gia thủ tục phá sản và thanh lý tài sản doanh nghiệp
Khi hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động
sản xuất kinh doanh của con nợ, đại diện cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ
nghị quyết của hội nghị chủ nợ để tuyên bố phá sản doanh nghiệp và tiến
hành thanh lý tài sản của doanh nghiệp đó. Trong suốt quá trình này, hội nghị
chủ nợ đương nhiên có cả đại diện người lao động được triệu tập, tham gia và
được biết các thông tin liên quan đến quyền lợi của mình
2.1.2. Thực tiễn thực hiện
Việc áp dụng các quy định của pháp luật phá sản và pháp luật lao động
vào thực tiễn, quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu
thủ tục phá sản doanh nghiệp mặc dù còn rất nhiều khó khăn nhưng cũng có
nhiều chuyển biến tích cực, khẳng định chủ trương nhất quán của nhà nước là
bảo vệ quyền lợi của người lao động trong thực hiện tố tụng phá sản.
Nếu như trước đây, người lao động chưa ý thức về địa vị pháp lý của
mình trong thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, thường chịu thiệt thòi
23
đứng nhìn các chủ nợ tranh nhau lấy nợ trên tài sản của doanh nghiệp nơi mà
mình làm việc hoặc đôi khi tham gia lấy nợ một cách vô tổ chức gây mất trật
tự thì nay, qua các tài liệu, sách báo, sự tuyên truyền của các tổ chức công
đoàn mà họ đã dần nhận thức được tư cách chủ nợ của mình và biện pháp để
thực hiện bảo vê cho quyền lợi của mình, thường là thông qua các tổ chức
công đoàn để nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Hiện nay, người lao động dưới sự hướng dẫn của tổ chức công đoàn đã
tự ý thức được những quyền lợi mà mình được hưởng khi doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản, điều này khiến việc giải quyết quyền lợi cho họ trở
nên chủ động và dễ dàng hơn trước đây.
Bên cạnh đó, từ luật phá sản 2004 trở về trước chưa làm rõ được nhiều
nội dung, do đó đảm bảo quyền tham gia thủ tục tố tụng phá sản của người
lao động trong thực tiễn gặp nhiều khó khăn, chẳng hạn như:
Quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là một rào
cản lớn, chẳng khác nào đánh đố với người lao động bị nợ lương. Bởi việc
người lao động muốn “cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công
đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã
đó” [15, Điều 14] thì phải được quá nửa số người lao động trong doanh
nghiệp tán thành bằng bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ kí, trường hợp doanh nghiệp
có quy mô lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động
được cử hợp pháp phải được quá nửa số người được cử đại diện từ các đơn vị
trực thuộc tán thành…
Thông thường, hiện tượng nợ lương của người lao động phần nào đã
thể hiện doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ và mất dần khả năng thanh toán,
các cơ quan chức năng cần phải thực hiện chức năng quản lý của mình và hạn
chế trước hết diễn biến xấu có thể xảy ra, tuy nhiên trong thực tế, các cơ quan
24
hữu quan chưa làm được điều này, biểu hiện như sau:
Vai trò của tổ chức đại diện người lao động và nhận thức của chính
người lao động mặc dù đã được nâng cao hơn trước đây rất nhiều nhưng vẫn
chưa đáng kể, năng lực của chính cán bộ công đoàn còn yếu kém, chưa đủ sức
dẫn dắt và định hướng cho người lao động tự bảo vệ quyền lợi của chính
mình. Thực tế xảy ra ở nhiều nơi thậm chí người lao động còn thỏa hiệp với
doanh nghiệp để không thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, tự từ chối quyền
có tổ chức đại diện cho quyền lợi của chính mình, lý do đầu tiên và lớn nhất
là do tổ chức công đoàn hoạt động chưa thực sự hiệu quả.
Ngoài ra ở nhiều nơi, thanh tra Sở LĐ-TB&XH chưa có một chuyên đề
thanh tra riêng về vấn đề tiền lương tại các doanh nghiệp, đồng thời vẫn chưa
mạnh tay thực hiện biện pháp xử phạt hành vi vi phạm trong lĩnh vực này.
Bời vậy người lao động ở những doanh nghiệp chưa đủ điều kiện thành lập tổ
chức công đoàn nhiều khi muốn thông báo về tình trạng nợ lương cũng không
biết phải báo ai, báo như thế nào.
2.2. Nhóm quyền liên quan đến quan hệ lao động
2.2.1. Thực trạng pháp luật
Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản đồng nghĩa với các món nợ phải
trả nhiều hơn khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh như
vậy, việc chủ nợ nào được ưu tiên thanh toán trước, ai phải xếp hàng sau là
vấn đề mà luật phá sản nước nào cũng phải quan tâm giải quyết. Các chủ nợ
luôn luôn có mối quan tâm đặc biệt về vấn đề này vì thứ tự đó ảnh hưởng rất
lớn đến lợi ích chính đáng của họ.
Pháp luật phá sản của nhiều nước trên thế giới đều đặt khoản nợ lương
và các trợ cấp liên quan đến BHXH, bảo hiểm y tế đối với người lao động,
quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và các thỏa thuận khác giữa người sử
25
dụng lao động là doanh nghiệp phá sản và tập thể người lao động… được ưu
tiên thanh toán ở hàng thứ hai sau chi phí phá sản trong số các khoản nợ
không có bảo đảm, thậm chí được thanh toán trước các khoản nợ thuế. Kiểu
quy định này không chỉ tồn tại ở pháp luật phá sản của các nước như Trung
Quốc, Việt Nam, Canada [29, Mục 60]… Tuy nhiên cũng có một số nước, các
khoản nợ này phải được thanh toán sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho
nhà nước với mục đích đảm bảo nguồn thu công đủ để duy trì gánh nặng công
cộng, trường hợp này đơn cử ở pháp luật phá sản Mỹ.
Luật phá sản Việt Nam chỉ ưu tiên bảo đảm quyền lợi cho hai nhóm
chủ nợ là chủ nợ có bảo đảm và người lao động bị nợ lương, trợ cấp và các
khoản nợ khác theo hợp đồng lao động, thỏa ước tập thể; ngoài ra không phân
biệt ưu tiên cho thành phần kinh tế nào khác.
Thực chất của việc giải quyết phá sản là việc xử lý mối quan hệ về lợi
ích tài sản giữa các chủ nợ với con nợ. Để đảm bảo bình ổn xã hội, luật phá
sản cố gắng đến mức tối đa bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ, làm sao để khi
thanh lý vẫn còn tài sản để thanh toán cho các chủ nợ. Thứ tự về việc phân
chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản theo pháp luật phá sản
Việt Nam hiện hành như sau: chi phí phá sản; nợ lương, trợ cấp thôi việc,
BHXH, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng
lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết; nợ phát sinh nhằm mục đích
phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh; nghĩa vụ tài chính đối với nhà
nước... Như vậy, việc ưu tiên bảo vệ chủ nợ là người lao động thể hiện ở chỗ
pháp luật phá sản xếp người lao động vào hàng ưu tiên đứng trên các loại chủ
nợ không có bảo đảm kể cả chủ nợ là nhà nước. Điều này đã trở thành nguyên
tắc thanh toán các khoản nợ của pháp luật phá sản nhiều nước trên thế giới.
Khi tiến hành thủ tục phân chia tài sản để thanh toán cho các chủ nợ,
26
người lao động được thanh toán các khoản nợ sau đây:
- Tiền lương
Theo quy định của pháp luật lao động hiện hành, doanh nghiệp phải trả
lương cho người lao động trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn. Tiền lương ở
đây bao gồm lương cơ bản và các khoản phụ cấp lương, các khoản bổ sung
khác có liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao
động, trừ tiền thưởng, tiền ăn giữa ca, các khoản hỗ trợ, trợ cấp của người sử
dụng lao động không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong
hợp đồng lao động... Trong trường hợp doanh nghiệp chậm trả lương quá ba
tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán (là căn cứ để người lao động nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp) thì doanh nghiệp ngoài việc thanh
toán tiền lương gốc còn phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả
chậm nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân
hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương, khi ngân hàng nhà
nước Việt Nam không quy định trần lãi suất thì được tính theo lãi suất huy
động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng của ngân hàng thương mại, nơi doanh
nghiệp, cơ quan mở tài khoản giao dịch thông báo tại thời điểm trả lương.
- Trợ cấp và các quyền lợi khác
Người lao động làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên được
hưởng trợ cấp thôi việc, cứ một năm làm việc được hưởng trợ cấp nửa tháng
lương và phụ cấp nếu có cùng các quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và
thỏa ước lao động tập thể.
Nếu doanh nghiệp không đóng hoặc chậm đóng, dẫn đến phát sinh lãi
thì doanh nghiệp phải có trách nhiệm bù đắp phần thiếu hụt thời gian đóng
BHXH và bồi thường các khoản trợ cấp phát sinh mà lẽ ra trong thời gian đó
người lao động đáng ra được hưởng. Cần một chế tài đủ mạnh, bảo đảm tính
27
khả thi để buộc doanh nghiệp bồi thường quyền lợi cho người lao động. Thế
nhưng, việc này luật BHXH vẫn còn bỏ ngỏ.
Luật BHXH 2014 đã quy định rõ hành vi vi phạm pháp luật về BHXH:
không đóng BHXH, đóng không đúng thời gian quy định, không đúng mức
quy định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị “xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật” [19, Điều 122]. Tuy nhiên, bộ luật hình sự lại
không quy định tội danh cụ thể nào liên quan đến BHXH, vì thế việc vận
dụng để xử lý hình sự những trường hợp doanh nghiệp trốn đóng BHXH cho
người lao động rất khó thực hiện.
Nhà nước không phải không có những biện pháp để xử lý tình trạng nợ
lương của doanh nghiệp trước khi những diễn biến xấu trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có thể xảy ra, điển hình như nghị định
95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao
động, BHXH, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng, người lao động có thể yêu cầu thanh tra chuyên ngành về lao động
hoặc UBND cấp huyện, nơi doanh nghiệp hoạt động xử lý hành vi vi phạm.
Nghị định này có quy định: “phạt tiền người sử dụng lao động có hành vi trả
lương không đúng hạn theo quy định” [3, Điều 13], nhưng việc áp dụng trong
thực tiễn lại không hiệu quả, quy định này rơi vào quên lãng bởi rất ít khi
được nhắc đến và mức phạt thì quá ít ỏi so với hành vi vi phạm và hậu quả từ
hành vi vi phạm.
Mới đây nhất là Nghị định 05/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động, tuy nhiên để triển khai và
đưa vào thực tiễn áp dụng những quy định này còn nhiều điều đáng bàn bởi
28
chưa có thông tư hướng dẫn triển khai thực hiện ngay tại thời điểm nghị định
được ban hành khiến các cơ quan chức năng còn lúng túng khi áp dụng, nhất
là về việc quy định trách nhiệm của từng cơ quan cụ thể. Đơn cử như:
Quy định đối với trường hợp doanh nghiệp chậm trả lương, nợ lương
sẽ bị xử phạt phải “trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm
nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn một tháng do ngân hàng
nhà nước công bố tại thời điểm trả lương” [4, Điều 24]. Có nghĩa là nếu bị
chậm trả lương 15 ngày thì một người lao động có mức lương khoảng
5.000.000 VNĐ chỉ nhận được khoảng 3.000 VNĐ tiền lãi. Số tiền lãi này là
quá nhỏ, trong khi hậu quả của việc chậm lương đối với người lao động lại
vô cùng lớn.
- Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, người lao động
có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản ra
quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để buộc
người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ
cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho mình.
2.2.2. Thực tiễn thực hiện
Trong quá trình thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, doanh
nghiệp phải báo cáo quản tài viên hoặc của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản “trước khi trả lương cho người lao động” [7]. Điều này chưa có hướng dẫn
cụ thể gây khó khăn và chậm trễ trong việc trả lương cho người lao động trong
khi cuộc sống của người lao động chủ yếu dựa vào tiền lương.
Khi thanh lý tài sản, nợ lương, trợ cấp thôi việc, quyền lợi khác theo
hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký được ưu tiên thanh toán
ở hàng thứ hai trong các khoản nợ có bảo đảm tuy nhiên, trong nhiều trường
29
hợp, sau khi thanh toán các khoản nợ có bảo đảm doanh nghiệp thường không
còn tài sản thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Quy định khi xảy ra tình trạng chậm lương, người lao động có quyền có
ý kiến, khiếu nại, tố cáo. Trong trường hợp này, người lao động có quyền ủy
quyền cho công đoàn cơ sở để đòi quyền lợi cho mình. Nếu người lao động và
công đoàn không đòi thì đương nhiên số tiền đó thuộc về doanh nghiệp, còn
tiền bị phạt sẽ được bổ sung ngân sách nhà nước. Yêu cầu doanh nghiệp
trả lương đã khó thì việc đòi doanh nghiệp phải trả lãi khi chậm lương lại
càng không phải là vấn đề đơn giản. Vậy người lao động được gì ngoài việc
thực hiện những thủ tục phiền nhiễu, phức tạp rồi đổi lại chỉ để doanh nghiệp
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình? Thông thường thì người lao động sẽ chờ
đợi và hi vọng doanh nghiệp thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thay vì nhận
được đúng lương của mình nhưng lại có nguy cơ mất việc hoặc những khó
khăn bằng cách này hay cách khác mà doanh nghiệp tạo ra khi công đoàn
chẳng đủ sức để bảo vệ họ. Bên cạnh đó, đối với những người lao động bị nợ
lương tại các doanh nghiệp đã phá sản hoặc đang ở bờ vực phá sản thì việc
đòi lương còn khó khăn và lâu dài hơn.
Khi doanh nghiệp nợ lương của người lao động, nếu các cơ quan
chức năng làm đúng trách nhiệm, nghiêm khắc thực hiện xử phạt hành vi vi
phạm thì có thể được xem là giải pháp giúp người lao động bảo vệ quyền
lợi cho mình. Nhưng cần hiểu rằng tính khả thi của các văn bản xử phạt
hoàn toàn không cao, bởi việc kiểm tra xử phạt không dễ đặc biệt là đối với
những doanh nghiệp nằm chờ phá sản thì biện pháp này chỉ mang tính chất
tình thế, tạm thời.
Tình trạng chậm trả lương, nợ lương người lao động tại các doanh
nghiệp dưới nhiều hình thức đang diễn ra, nhưng cơ quan chức năng cũng
30
chưa có một thống kê, tổng hợp cụ thể doanh nghiệp nào nợ lương, nợ bao
nhiêu, nợ bao lâu… do đó chưa có những giải pháp cụ thể, phù hợp, chỉ đến
khi có những vụ việc lùm xùm, gây hậu quả nặng nề, được báo chí và dư luận
đưa tin thì cơ quan chức năng mới vào cuộc. Có thể thấy rằng, sự quan tâm,
nắm bắt của các cơ quan chức năng chưa được thực hiện đầy đủ. Trong thời
gian qua đã có rất nhiều vụ việc điển hình chẳng hạn như vụ việc tại Công ty
liên doanh Lenex.
Vào tháng 4-2012, Công ty Lenex đã “cho gần 50 công nhân tạm ngừng
làm việc với mức lương doanh nghiệp phải trả là 2 triệu đồng/người/tháng; hỗ
trợ tiền tìm việc 2 triệu đồng/người” [12] do hoạt động sản xuất kinh doanh
gặp khó khăn. Tuy nhiên sau đó, do không còn hoạt động nên công ty không
trả được những khoản này cho người lao động.
Trong suốt khoảng thời gian công ty Lenex nợ lương 15 tháng, Luật
phá sản 2004 đang có hiệu lực, tiêu chí xác định doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán chưa rõ ràng, vì thế người lao động cũng không có quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp để buộc doanh nghiệp thanh toán
lương cho mình.
Theo phán quyết của TAND thành phố Biên Hòa, công ty phải thi hành
án trước cho lao động trực tiếp làm việc tại xưởng 1,4 tỷ đồng. Nhưng mức
chi trả cho mỗi lao động chỉ hơn 30% trong tổng số tiền họ được nhận do tài
sản của công ty mới chỉ thanh lý được một phần với số tiền là 365 triệu đồng.
Sau khi thực hiện bán đấu giá một số tài sản cố định khác của công ty liên
doanh Lenex, cơ quan thi hành án sẽ tiếp tục chi trả phần còn lại cho người
lao động và những doanh nghiệp mà công ty Lenex còn nợ.
Đa số người lao động đều biết công ty chắc chắn rồi cũng phá sản,
nhưng vì chưa được nhận lương trong một thời gian dài nên không ai dám
31
nghỉ, nhưng càng làm càng bị nợ nhiều. Thực tế, với trường hợp ở công ty
Lenex, người lao động cũng thông cảm với tình trạng khó khăn của doanh
nghiệp, nhưng nếu không được trả lương, người lao động không bảo đảm
được cuộc sống, do đó họ mới phải nhờ pháp luật can thiệp. Chính vì lý do
chỉ đến khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trầm trọng, đi đến phá sản
thì người lao động mới lên tiếng để bảo vệ cho quyền lợi của mình mà gây ra
khó khăn rất lớn cho chính họ và cho cả các cơ quan chức năng.
Công ty nói trên không chỉ nợ lương mà còn “trốn” đóng BHXH cho
người lao động. Trong khi đó, lương tháng của công nhân vẫn bị công ty trích
ra để nộp BHXH, họ vẫn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình nên có quyền
được hưởng những gì tương ứng với công sức bỏ ra. Còn doanh nghiệp chiếm
dụng vốn của người lao động là cố tình làm trái pháp luật thì doanh nghiệp
phải bị pháp luật xử lý. Người lao động hoàn toàn không có lỗi trong việc
doanh nghiệp trốn đóng BHXH.
Tình trạng này xảy ra hàng loạt ở nhiều tỉnh thành trên cả nước, điển
hình như tại Nghệ An, công ty cổ phần Xây dựng cầu đường Nghệ An hiện
đang nợ BHXH hơn 3,2 tỷ đồng, 138 lao động vẫn chưa được chốt sổ
BHXH. Hàng trăm người lao động phải nghỉ việc, nợ lương nhưng khó có
khả năng đòi được; hay như công ty cổ phần Vinaconex 16 hiện đang nợ
BHXH hơn 4,7 tỷ đồng, và có hàng trăm lao động đang bị nợ lương, chưa
được chốt sổ BHXH [1].
Tương tự như vụ việc tại công ty Liên doanh Lenex, nhiều trường
hợp khác liên quan đến việc người lao động không được giải quyết quyền
lợi thỏa đáng chẳng hạn như trường hợp tại công ty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH) Sao Đại Hùng.
Từ năm 2009, do làm ăn thất bát dẫn đến phá sản, Công ty TNHH Sao
32
Đại Hùng (trụ sở tại Khu công nghiệp Suối Dầu, huyện Cam Lâm, Khánh
Hòa) đã nợ lương của 326 người lao động với tổng số nợ là 4,1 tỉ đồng [23].
Tháng 4-2011, công đoàn công ty Sao Đại Hùng được người lao động
ủy quyền đã đại diện làm đơn kiện đòi nợ lương lên TAND tỉnh Khánh Hòa.
Tuy nhiên, tòa từ chối thụ lý vì cho rằng đây là vụ kiện tranh chấp cá nhân
giữa từng người lao động với chủ sử dụng lao động chứ không phải tranh
chấp lao động tập thể nên vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND huyện Cam
Lâm. Trong khi đó, TAND huyện Cam Lâm thì cho rằng đây là vụ kiện lao
động tập thể, thẩm quyền giải quyết thuộc TAND tỉnh Khánh Hòa. TAND
tỉnh Khánh Hòa chính là nơi có thẩm quyền giải quyết tiếp vụ kiện theo quy
định tại điểm a khoản 1 điều 34 bộ luật tố tụng dân sự: tòa án cấp tỉnh có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với
người sử dụng lao động đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao
động không đồng ý với quyết định của hội đồng trọng tài lao động, sau khi
các bên tiến hành một số thủ tục tiền tố tụng.
Sau một thời gian hai tòa chỉ qua chỉ lại, trong số 326 người lao động bị
nợ lương chỉ còn 163 người kiên trì nộp đơn kiện riêng lẻ lên TAND huyện
Cam Lâm để đòi lại quyền lợi. Tuy nhiên, sau đó đã có tới 50 hồ sơ của họ bị
tòa trả lại vì không đủ thủ tục, 12 hồ sơ bị đình chỉ và chỉ có 92 hồ sơ được
đưa ra xét xử, trong 92 phiên tòa này đều không hề có tranh luận vì ngay từ
đầu phía bị đơn đã chấp nhận, xác nhận nợ lương của tất cả 326 công nhân có
danh sách cụ thể kèm theo, tổng số tiền nhận được của 92 trường hợp được
tòa xét xử là 1,1 tỉ đồng. Nhưng theo thủ tục thì vẫn phải xử theo đúng trình
tự của một phiên tòa thông thường nên rất mất thời gian.
Công ty TNHH một thành viên Phát triển trang phục phụ nữ kiểu Pháp
33
FLD Việt Nam (gọi tắt là công ty FLD Việt Nam) được thành lập từ năm
2001. Năm 2008, chủ đầu tư nước ngoài bỏ trốn. Trong quá trình giải quyết
các thủ tục phá sản của công ty FLD, TAND tỉnh Khánh Hòa đã giữ lại
khoảng 10 tỉ đồng để giải quyết các khoản nợ của công ty này, trong đó có nợ
các loại đối với BHXH tỉnh Khánh Hòa.
Theo BHXH tỉnh Khánh Hòa, tính đến hết tháng 6-2013, công ty FLD
còn nợ hơn 7 tỉ đồng gồm tiền BHXH, BHYT, BHTN cho công nhân và hơn
1,5 tỉ đồng tiền lãi phạt nộp chậm.
Đến tháng 8-2013, TAND tỉnh đã chuyển trả là 5,4 tỉ đồng tiền BHXH
(chưa bao gồm 1,5 tỉ đồng tiền lãi phạt nộp chậm) cho BHXH tỉnh Khánh
Hòa bởi theo quy định, công ty đã phá sản thì không thể tính lãi. Tuy nhiên cơ
quan BHXH lại cho rằng theo luật BHXH, tòa phải chuyển cả khoản hơn 1,5
tỉ đồng tiền lãi phạt nộp chậm này thì mới chốt sổ BHXH cho công nhân
được. Đến nay, công ty FLD đã bán cho chủ đầu tư mới, làm thủ tục hoạt
động trở lại sau khi phá sản xong. Nhưng giữa hai cơ quan BHXH và TAND
tỉnh Khánh Hòa không thống nhất được với nhau nên người lao động của chỉ
được tính thời gian tham gia BHXH đến tháng 9-2012, trong khi thực tế
người lao động đã đóng đến tháng 6-2013. Tình huống này chưa được các văn
bản pháp luật liên quan dự liệu do đó khi sự việc xảy ra, UBND tỉnh đã yêu
cầu cơ quan BHXH và TAND tỉnh Khánh Hòa gửi văn bản lên cấp trên xin ý
kiến giải quyết tình huống này với chủ trương miễn đóng tiền lãi phạt nộp
chậm 1,5 tỉ đồng.
Tiếp đó, Chính phủ cũng ban hành Nghị định 95/2013/NĐ-CP quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH và đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, có hiệu lực từ ngày
10/10/2013; theo đó, doanh nghiệp, cơ quan chậm trả lương cho người lao
34
động có thể bị phạt từ 5-50 triệu đồng.
Thêm vào đó, hiện tượng doanh nghiệp bị nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản ở Việt Nam hiện nay khá hiếm hoi, xuất phát từ tâm lý chung và phổ
biến trong xã hội là còn có thái độ thiếu thiện cảm đối với những người chủ
doanh nghiệp hay người quản lý, điều hành doanh nghiệp bị phá sản, nhiều
khi coi phá sản là một sự việc rất nặng nề, một tình trạng vô cùng tồi tệ, thậm
chí còn liên tưởng tới những vấn đề hình sự như lừa đảo, gian trá, tham ô… vì
vậy mặc dù doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán
nhưng bản thân các doanh nghiệp vẫn không chủ động nộp đơn yêu cầu tuyên
bố phá sản lên tòa án, tìm mọi cách trì hoãn việc nộp đơn, thậm chí buông
xuôi, bỏ mặc doanh nghiệp và không làm bất cứ một thủ tục nào để chấm dứt
sự tồn tại của doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp đều lảng tránh thủ tục
phá sản, mà tìm những phương thức khác như giải thể, sát nhập… để chấm
dứt sự tồn tại của mình. Trường hợp của nhiều công ty như công ty Compunet
VN, công ty Marison, công ty Joan Việt… là những ví dụ điển hình, chủ
doanh nghiệp đã tự bỏ về nước mà không thực hiện việc nộp đơn khi biết
doanh nghiệp của mình lâm vào tình trạng phá sản.
Ngoài ra, có nhiều nguyên nhân khiến doanh nghiệp ngừng hoạt động
kinh doanh mà không tiến hành thủ tục giải thể, như ý thức chấp hành pháp
luật của chủ doanh nghiệp, trốn tránh nghĩa vụ tài chính…, nhưng nguyên
nhân chính là việc thiếu chế tài xử lý đối với hành vi này. Hiện tại, việc quản
lý doanh nghiệp trong quá trình hoạt động gần như chỉ có cơ quan thuế kiểm
tra, khi phát hiện doanh nghiệp bỏ trốn, cơ quan thuế thông báo cho chính
quyền địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động, cơ quan công an, đơn vị cấp
giấy đăng ký kinh doanh… Còn việc giải quyết doanh nghiệp bỏ trốn như thế
nào thì chưa được quy định. Hệ quả là, ý thức tôn trọng pháp luật của chủ
35
doanh nghiệp không cao, thậm chí thiếu tôn trọng pháp luật.
2.3. Nhóm quyền lợi hậu phá sản
2.3.1. Thực trạng pháp luật
Quyền được giải quyết vấn đề việc làm khi doanh nghiệp phá sản.
Quyền này vốn không được quy định và thực hiện bắt buộc ở pháp luật phá
sản của bất kỳ nước nào, nhưng theo tư duy của pháp luật phá sản hiện đại, đề
cao quyền của công dân và theo hướng xây dựng nhà nước, xã hội văn minh
trên cơ sở ý thức được tầm quan trọng của việc giải quyết việc làm hậu phá
sản doanh nghiệp đối với sự phát triển xã hội mà các nước có quan điểm tiến
bộ đều có những chủ trương, chính sách tái sử dụng nguồn lực lao động từ các
doanh nghiệp phá sản bằng nhiều phương pháp khác nhau.
Phương pháp đầu tiên phải kể đến khuyến khích doanh nghiệp thực
hiện phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh thay vì tuyên bố phá sản doanh
nghiệp ngay khi mở thủ tục phá sản, việc này không những có ý nghĩa quan
trọng đối với con nợ mà còn là một biện pháp giảm gánh nặng nhu cầu việc
làm đối với người lao động. Song song với phương pháp này, nhiều nước
cũng xây dựng các chính sách phát triển, đào tạo lại nguồn lực lao động…
Nhà nước, cụ thể là các cơ quan hữu quan đã có sự quan tâm đặc biệt
đến việc giải quyết việc làm cho người lao động sau khi doanh nghiệp phá
sản, chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực. Luật việc làm năm 2013 ra đời
đã thể hiện tinh thần trên bằng việc khẳng định các cơ quan, tổ chức trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật về việc làm; tạo việc làm; bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên luật việc làm năm 2013 trong thời gian đầu có hiệu lực đã
bộc lộ một số khuyết điểm, nhiều thắc mắc của người lao động chưa được giải
36
quyết kịp thời và thỏa đáng.
Cụ thể là trong quá trình làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp, quy
định về việc người thất nghiệp sẽ bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp nếu
sau 2 lần từ chối nhận việc do trung tâm dịch vụ việc làm - nơi đang hưởng
trợ cấp thất nghiệp - giới thiệu mà không có lý do chính đáng đã và đang gây
bất lợi cho người lao động: lý do không chính đáng theo quy định tại Nghị
định 28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật việc làm
về bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là từ chối nếu việc làm phù hợp với ngành
nghề, trình độ của người lao động đã được đào tạo; việc làm mà người lao
động đó đã từng làm. Vậy nếu người lao động từ chối 2 lần do việc làm dưới
năng lực hay do nơi ở quá xa nơi làm việc, thiếu phương tiện đi lại có được
xem là chính đáng không và sẽ được xử lý như thế nào, điều này chưa được
các quy định pháp luật giải quyết triệt để.
Theo quy định mới từ luật việc làm 2013, người thất nghiệp sẽ được hỗ
trợ tối đa 6 tháng trợ cấp học nghề, nhưng tại một quy định khác trong cùng
luật này, người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp mà “đi học tập có thời hạn từ
đủ 12 tháng trở lên” sẽ bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp [18, Điều 53].
Như vậy, người lao động muốn được hưởng trợ cấp thất nghiệp để đi học thì
phải tìm những nghề có thời gian học dưới 12 tháng. Thực tế cho thấy đây là
quy định chưa thực sự rõ ràng, làm khó cho người lao động, quy định này
không chỉ bất cập mà còn cản trở người lao động nâng cao trình độ, làm mất
đi ý nghĩa của trợ cấp thất nghiệp.
2.3.2. Thực tiễn thực hiện
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, về nguyên tắc doanh nghiệp
vẫn hoạt động bình thường tức là hợp đồng với người lao động vẫn được duy
trì. Doanh nghiệp vẫn được phép tiến hành trả lương cho người lao động
37
nhưng phải được sự đồng ý của quản tài viên hoặc của doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản.
Khi doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất, kinh
doanh, quyền lợi của người lao động có thể vẫn tiếp tục được duy trì. Suy cho
cùng nếu kế hoạch phục hồi này được thực hiện hiệu quả sẽ không chỉ giúp
cho doanh nghiệp tiếp tục trụ lại trên thị trường mà còn giảm được gánh nặng
mất việc làm cho người lao động.
Trường hợp khác, khi phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp không được thông qua, doanh nghiệp bị tuyên bố áp
dụng hình thức phá sản và bị thanh lý tài sản thì giải quyết việc làm cho người
lao động lại là một vấn đề đáng lo ngại, không thể giải quyết nhanh trong một
sớm một chiều.
Với sự quan tâm của nhà nước nhất quán trong việc bảo vệ quyền lợi
của người lao động trong pháp luật lao động và pháp luật phá sản, nhiều chính
sách đã được thực hiện. Để hỗ trợ người lao động bị mất việc làm, bộ lao
động - thương binh và xã hội (bộ LĐ-TB&XH) đã đề nghị Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố chỉ đạo các cơ quan chức năng, các cấp ở địa phương thực
hiện nhiều giải pháp như: thống kê, khảo sát tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh và sử dụng lao động, đặc biệt ở các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ có
nguy cơ mất khả năng thanh toán, thực hiện cập nhật và cung cấp các thông
tin, các số liệu, thông tin cơ bản về thị trường lao động, đó là: cung - cầu lao
động; việc làm; BHXH; bảo hiểm thất nghiệp; triển vọng thị trường, nhu cầu
lao động... tại các bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, việc làm
này đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, hoạch định chính
sách về lĩnh vực lao động xã hội và công chúng.
Đồng thời, các cơ quan hữu quan cũng có các biện pháp để khuyến
38
khích người lao động tự tạo việc làm và thu hút thêm lao động; tăng cường
các hoạt động về thông tin thị trường lao động, tổ chức tư vấn, giới thiệu việc
làm và cung ứng lao động của các trung tâm giới thiệu việc làm để tạo điều
kiện cho người lao động bị mất việc sớm tìm được việc mới; tăng cường các
hoạt động dạy nghề và hỗ trợ người lao động học nghề để người mất việc làm
có điều kiện học nghề phù hợp. Ngoài ra, người lao động bị mất việc còn
được ưu tiên hỗ trợ vay vốn từ quỹ quốc gia về việc làm thuộc chương trình
mục tiêu quốc gia về việc làm.
Những quan tâm tích cực từ các bộ ngành đã phần nào mang lại diễn
biến lạc quan và tích cực cho thị trường lao động giữa lúc doanh nghiệp còn
gặp nhiều khó khăn như hiện nay.
2.4. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện
Có thể nhận thấy rằng vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động
trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp không chỉ
chịu sự điều chỉnh của luật phá sản mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật
lao động bởi suy cho cùng, mặc dù với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm,
người lao động vẫn là một trong các chủ thể của quan hệ pháp luật lao động.
Do chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản và liên quan đến nhiều lĩnh
vực pháp luật nên đảm bảo quyền lợi của người lao động trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn là một vấn đề
hết sức nan giải, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, cần sự phối hợp
nhuần nhuyễn, thống nhất giữa các quy định pháp luật liên quan, cần sự tham
gia của các cơ quan hữu quan,… Trong thực tế áp dụng, có nhiều vấn đề liên
quan đến lĩnh vực phá sản, lao động đòi hỏi pháp luật cần đưa ra những lời
giải hợp lý nhằm đảm bảo quyền của người lao động trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả thì nên bị đào thải khỏi thị
39
trường, để những doanh nghiệp khác làm ăn hiệu quả hơn, với khả năng sử
dụng nguồn lực của xã hội với hiệu suất cao hơn tồn tại và phát triển, việc phá
sản các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ sẽ giúp giải phóng lao động trong các
doanh nghiệp đó, người lao động sẽ được phát huy hết khả năng của mình
trong một môi trường phát triển lành mạnh khác. Nhưng điều đáng bàn là ở
Việt Nam, hiệu quả áp dụng pháp luật phá sản vào thực tiễn không cao, doanh
nghiệp “thoi thóp” nằm chờ phá sản, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao
động, doanh nghiệp muốn phá sản không phải là chuyện dễ dàng. Đây là một
hiện tượng thể hiện sự trì trệ của nền kinh tế.
Bên cạnh lĩnh vực pháp luật phá sản vận hành kém hiệu quả thì các
văn bản quy phạm pháp luật về lao động và việc làm còn thiếu tính hệ thống
và đồng bộ. Do được thực thi bởi rất nhiều luật và văn bản dưới luật khác
nhau có liên quan như bộ luật lao động, luật bảo hiểm xã hội, luật việc làm
và các văn bản do Chính phủ, các bộ, ngành ban hành nên quy định pháp
luật về việc làm còn manh mún, tản mạn, thiếu thống nhất gây khó khăn cho
công tác tập hợp, hệ thống hoá pháp luật cũng như khi cần áp dụng luật phải
tìm và vận dụng ở nhiều văn bản khác nhau. Hầu hết các quy định pháp luật
cụ thể về việc làm được thể hiện trong các văn bản dưới luật nên tính pháp
lý chưa cao, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai; quy
định pháp luật về việc làm phản ánh chưa đầy đủ những nhu cầu của xã hội,
các chế tài còn chưa đủ độ mạnh cần thiết nên hiệu quả áp dụng không cao.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ việc làm ngày càng
phát triển về số lượng, phong phú và đa dạng về hình thức, cho nên quá trình
thực hiện các chính sách, pháp luật về việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn
chế, phát sinh một số vấn đề mới về quan hệ việc làm cần được điều chỉnh
trong một văn bản luật thống nhất.
Chương 3
40
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI
LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật theo hướng dự báo
Đánh giá những tác động có thể xảy ra từ quá trình xây dựng luật, sửa
đổi bổ sung các quy định của pháp luật hoặc ban hành chính sách mới nói
chung có tác động rất lớn đến việc cải thiện hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước và nền kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng luật, ban hành chính
sách thì điều này chưa được quan tâm đúng mức. Luật được ban hành nhưng
không có khả năng đi vào thực tiễn, ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến
những đối tượng mà văn bản đó điều chỉnh.
Đánh giá tác động kinh tế - xã hội của một dự án luật chính là một công
cụ phân tích chính sách quan trọng thông qua việc cơ quan chủ trì soạn thảo
văn bản làm rõ vấn đề mà luật cần phải giải quyết, nguyên nhân của vấn đề,
các giải pháp để giải quyết vấn đề, dự báo tác động của từng phương án và lý
do chọn lựa phương án tối ưu. Từ đó văn bản luật được xây dựng phải dự liệu
được những trường hợp có thể xảy ra, điều này pháp luật các nước theo truyền
thống Civil Law cần học hỏi ở những nước theo hệ thống Common Law tính
trừu tượng và khái quát. Có một điều dễ nhận thấy rằng, khi pháp luật càng đi
sâu vào quy định chi tiết thì khi áp dụng, tính khả thi không cao, kể cả khi có
thể áp dụng thì sức sống của đạo luật đó cũng rất ngắn ngủi.
Đối với vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, cần nhìn nhận và hoàn
thiện các văn bản pháp luật liên quan như luật phá sản, luật lao động, luật
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

Mais procurados (20)

Luận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt NamLuận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt NamLuận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam
 
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tưLuận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
 
Đề tài: Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam
Đề tài: Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Thực tiễn áp dụng tại Việt NamĐề tài: Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam
Đề tài: Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAY
Đề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAYĐề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAY
Đề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAY
 
Luận văn: Quyền đối với bất động sản liền kề theo pháp luật Việt Nam hiện hành
Luận văn: Quyền đối với bất động sản liền kề theo pháp luật Việt Nam hiện hànhLuận văn: Quyền đối với bất động sản liền kề theo pháp luật Việt Nam hiện hành
Luận văn: Quyền đối với bất động sản liền kề theo pháp luật Việt Nam hiện hành
 
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk NôngLuận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
 
Luận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAYLuận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
 
thoả ước lao động tập thể
 thoả ước lao động tập thể thoả ước lao động tập thể
thoả ước lao động tập thể
 
Luận văn: Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt nam, HOTLuận văn: Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt nam, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm tiền, HOT
Đề tài: Bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm tiền, HOTĐề tài: Bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm tiền, HOT
Đề tài: Bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm tiền, HOT
 
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOTBiện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
 

Semelhante a Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

NGUYEN TRI PHUONG_TT.docx
NGUYEN TRI PHUONG_TT.docxNGUYEN TRI PHUONG_TT.docx
NGUYEN TRI PHUONG_TT.docx
HuKim48
 

Semelhante a Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp (20)

Phục hồi hoạt động kinh doanh Trong thủ tục phá sản doanh nghiệp
Phục hồi hoạt động kinh doanh Trong thủ tục phá sản doanh nghiệpPhục hồi hoạt động kinh doanh Trong thủ tục phá sản doanh nghiệp
Phục hồi hoạt động kinh doanh Trong thủ tục phá sản doanh nghiệp
 
Luận văn: Phục hồi doanh nghiệp theo Luật Phá sản 2014, HAY
Luận văn: Phục hồi doanh nghiệp theo Luật Phá sản 2014, HAYLuận văn: Phục hồi doanh nghiệp theo Luật Phá sản 2014, HAY
Luận văn: Phục hồi doanh nghiệp theo Luật Phá sản 2014, HAY
 
Bài mẫu Khóa luận đơn phương chấm dứt hợp đồng, HAY
Bài mẫu Khóa luận đơn phương chấm dứt hợp đồng, HAYBài mẫu Khóa luận đơn phương chấm dứt hợp đồng, HAY
Bài mẫu Khóa luận đơn phương chấm dứt hợp đồng, HAY
 
Báo Cáo Thực Tập Hình Thức Xử Lý Kỷ Luật Sa Thải Trong Luật Lao Động.docx
Báo Cáo Thực Tập Hình Thức Xử Lý Kỷ Luật Sa Thải Trong Luật Lao Động.docxBáo Cáo Thực Tập Hình Thức Xử Lý Kỷ Luật Sa Thải Trong Luật Lao Động.docx
Báo Cáo Thực Tập Hình Thức Xử Lý Kỷ Luật Sa Thải Trong Luật Lao Động.docx
 
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfChấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
 
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận Văn Thạc Sĩ Phục Hồi Doanh Nghiệp Theo Luật Phá Sản 2014.doc
Luận Văn Thạc Sĩ Phục Hồi Doanh Nghiệp Theo Luật Phá Sản 2014.docLuận Văn Thạc Sĩ Phục Hồi Doanh Nghiệp Theo Luật Phá Sản 2014.doc
Luận Văn Thạc Sĩ Phục Hồi Doanh Nghiệp Theo Luật Phá Sản 2014.doc
 
NGUYEN TRI PHUONG_TT.docx
NGUYEN TRI PHUONG_TT.docxNGUYEN TRI PHUONG_TT.docx
NGUYEN TRI PHUONG_TT.docx
 
Thực trạng pháp luật về quyền tự do kinh doanh và thực tiễn thực hiện tại Quả...
Thực trạng pháp luật về quyền tự do kinh doanh và thực tiễn thực hiện tại Quả...Thực trạng pháp luật về quyền tự do kinh doanh và thực tiễn thực hiện tại Quả...
Thực trạng pháp luật về quyền tự do kinh doanh và thực tiễn thực hiện tại Quả...
 
Quyền lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp có vốn nước ngoài
Quyền lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp có vốn nước ngoàiQuyền lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp có vốn nước ngoài
Quyền lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp có vốn nước ngoài
 
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt NamLuận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOTLuận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOT
 
Luận văn: Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật, 9đLuận văn: Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật, 9đ
 
Giải quyết tranh chấp lao động khi người lao động bị sa thải, 9đ
Giải quyết tranh chấp lao động khi người lao động bị sa thải, 9đGiải quyết tranh chấp lao động khi người lao động bị sa thải, 9đ
Giải quyết tranh chấp lao động khi người lao động bị sa thải, 9đ
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp lao động khi bị sa thải theo pháp luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp lao động khi bị sa thải theo pháp luậtLuận văn: Giải quyết tranh chấp lao động khi bị sa thải theo pháp luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp lao động khi bị sa thải theo pháp luật
 
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
 
Luận văn: Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động, HOTLuận văn: Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo luật lao động
Luận văn: Giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo luật lao độngLuận văn: Giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo luật lao động
Luận văn: Giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo luật lao động
 
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOTLuận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOT
 
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo luật lao động Việt Nam, HAY
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo luật lao động Việt Nam, HAYLuận văn: Bồi thường thiệt hại theo luật lao động Việt Nam, HAY
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo luật lao động Việt Nam, HAY
 

Mais de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Mais de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Último

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Kabala
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Último (20)

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 

Quyền của người lao động trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HUYỀN TRANG PH¸P LUËT VÒ B¶O §¶M QUYÒN CñA NG¦êI LAO §éNG TRONG QU¸ TR×NH GI¶I QUYÕT Y£U CÇU TUY£N Bè PH¸ S¶N DOANH NGHIÖP ë VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HUYỀN TRANG PH¸P LUËT VÒ B¶O §¶M QUYÒN CñA NG¦êI LAO §éNG TRONG QU¸ TR×NH GI¶I QUYÕT Y£U CÇU TUY£N Bè PH¸ S¶N DOANH NGHIÖP ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HỮU CHÍ HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Huyền Trang
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP ........................................................................ 9 1.1. Phá sản và phá sản doanh nghiệp........................................................ 9 1.2. Tác động của phá sản doanh nghiệp đến quyền lợi của người lao động.................................................................................................. 11 1.3. Sự cần thiết bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp .............. 12 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN..................................................18 2.1. Nhóm quyền tham gia thủ tục phá sản............................................. 18 2.1.1. Thực trạng pháp luật .............................................................................. 18 2.1.2. Thực tiễn thực hiện................................................................................. 22 2.2. Nhóm quyền liên quan đến quan hệ lao động ................................. 24 2.2.1. Thực trạng pháp luật .............................................................................. 24 2.2.2. Thực tiễn thực hiện................................................................................. 28
  • 5. 2.3. Nhóm quyền lợi hậu phá sản.............................................................. 35 2.3.1. Thực trạng pháp luật .............................................................................. 35 2.3.2. Thực tiễn thực hiện................................................................................. 36 2.4. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện...... 38 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM............................................................................................ 40 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật ................................................ 40 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật theo hướng dự báo.............................................. 40 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu hội nhập và điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta..................................................................... 41 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật trên cơ sở dung hòa mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người lao động ...................................................................... 42 3.2. Các kiến nghị cụ thể............................................................................. 44 3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hiện hành ............................................ 44 3.2.2. Một số biện pháp bảo đảm và tổ chức thực hiện pháp luật ................. 56 KẾT LUẬN............................................................................................................ 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 69
  • 6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT KÝ HIỆU VIẾT TẮT TÊN CỦA KÝ HIỆU VIẾT TẮT 1. BHXH Bảo hiểm xã hội 2. BHYT Bảo hiểm y tế 3. BHTN Bảo hiểm thất nghiệp 4. LĐ-TB&XH Lao động – Thương binh và Xã hội 5. TNHH Trách nhiệm hữu hạn 6. TAND Tòa án nhân dân
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Việt Nam đang trong quá trình tham gia hội nhập vào nền kinh tế thương mại thế giới, đánh dấu bằng một loạt các sự kiện tích cực: gia nhập và trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới- WTO song song với việc tiến hành ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương: hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương- TPP, Hiệp định thương mại tự do- FTA, ký kết thành lập cộng đồng chung ASEAN… Đồng nghĩa với việc đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào một môi trường kinh doanh sôi động, chịu tác động một cách mạnh mẽ từ quy luật cạnh tranh, trong hoàn cảnh đó, các doanh nghiệp có cấu trúc giản đơn, không đủ năng lực cạnh tranh sẽ dần dần dẫn tới “mất khả năng thanh toán” các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh và đi đến phá sản. Khi doanh nghiệp phá sản, người lao động bị nợ lương, trợ cấp theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể… là nhóm chủ nợ có lực lượng khá đông đảo, là đối tượng bị thiệt hại thường xuyên và trước hết tại các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, nhưng khả năng nhận thức và tự bảo vệ cho những quyền lợi bị xâm phạm của mình lại rất yếu ớt và hạn chế. Đến nay, pháp luật về phá sản doanh nghiệp và pháp luật về lao động đã có những bước tiến lớn trong việc ghi nhận cũng như xây dựng các phương thức đảm bảo quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những quy định pháp luật chưa thực sự rõ ràng; giải quyết phá sản doanh nghiệp vẫn đang là một vấn đề mới mẻ, thực hiện bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vẫn đang là một vấn đề còn nhiều vướng mắc và nan giải.
  • 8. 2 Thông qua việc nghiên cứu lý luận, quy định pháp luật hiện hành, đề tài sẽ cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ rõ nguyên nhân, để từ đó kiến nghị những giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật về việc ghi nhận và bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam. 2. Mục tiêu nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, người viết muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn và kiến giải hoàn thiện pháp luật để có thể bảo vệ một cách tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Để đạt được mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ như sau: Pháp luật về bảo đảm quyền lợi người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp liên quan đến hai lĩnh vực: pháp luật lao động và pháp luật phá sản doanh nghiệp, bởi vậy, để có một cái nhìn đúng đắn và đầy đủ về vấn đề này, chắc chắn cần phải làm rõ một số nội dung liên quan đến phá sản doanh nghiệp, bao gồm các nội dung liên quan đến khái niệm phá sản, hậu quả của hiện tượng phá sản, vai trò điều chỉnh của luật phá sản… kết hợp đi sâu vào việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong pháp luật phá sản và lao động. Nhiệm vụ này sẽ đi theo lộ trình: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về phá sản và vấn đề bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. - Tìm hiểu và nhận thức về thực trạng các quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động trong quá trình thực hiện phá sản doanh nghiệp.
  • 9. 3 - Trên cơ sở nhận thức về mặt lý luận kết hợp với nghiên cứu, phân tích các vụ việc cụ thể, đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật và biện pháp tổ chức thực hiện nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm các quyền tham gia thủ tục phá sản, quyền liên quan đến quan hệ lao động, quyền lợi hậu phá sản... cả về lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, pháp luật phá sản và pháp luật lao động là các lĩnh vực khá rộng, do vậy luận văn không đi sâu vào phân tích tất cả các nội dung liên quan đến phá sản doanh nghiệp hay lao động và pháp luật lao động nói chung. Tuy nhiên, để đảm bảo tính logic và tính có hệ thống, luận văn vẫn cần đề cập tới một số nội dung có liên quan để làm rõ đề tài, dừng lại ở mức độ sơ lược và khái quát. Về mặt thực tiễn, luận văn nêu ra các vụ việc điển hình, nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan để có thể đưa ra các kiến nghị chính xác, cụ thể nhằm giải quyết vấn đề đảm bảo quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Về mặt thời gian, xuất phát từ tình hình thực tế là nền kinh tế Việt Nam chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập, việc đảm bảo quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp gắn với việc ra đời của những quy phạm liên quan đến phá sản doanh nghiệp, do vậy luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 1993 trở lại đây, kể từ khi ban hành luật phá sản đầu tiên cho đến luật phá sản 2015 nhưng không nhằm mục đích so sánh các văn bản pháp luật phá sản.
  • 10. 4 Về không gian, luận văn giới hạn việc tìm hiểu, so sánh ở mức độ nhất định với pháp luật của một số quốc gia điển hình như: Cộng hòa Pháp- đại diện cho hệ thống pháp luật Civil Law, Hoa Kỳ- điển hình của trường phái Common Law và Trung Quốc- một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, cùng theo đuổi chủ nghĩa xã hội và có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. 4. Tình hình nghiên cứu đề tài Phá sản, pháp luật về phá sản doanh nghiệp hay đảm bảo quyền lợi của người lao động là vấn đề không mới đối với hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển. Ở Việt Nam với đặc thù là nền kinh tế chuyển đổi, do đó phá sản, pháp luật phá sản hay bảo đảm quyền lợi của người lao động được khá nhiều học giả quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về các vấn đề này đã ra đời: - Về phá sản và pháp luật phá sản có một số công trình nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ của tác giả Hà Minh Tú năm 2003 về “Nguyên nhân của việc áp dụng hạn chế pháp luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam”; của tác giả Tạ Văn Giang năm 2012 về “Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản”… Các công trình này đã nghiên cứu những vấn đề chung về phá sản doanh nghiệp và pháp luật về phá sản doanh nghiệp, phân tích và so sánh những đặc điểm cơ bản của luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam và của một số nước trên thế giới, làm sáng tỏ những vấn đề chung về điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản, đưa ra những biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện luật phá sản doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực pháp luật phá sản trong thực tiễn. Do các đề tài này đi theo hướng nghiên cứu khác nên quyền lợi của người lao động khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ mới được nghiên cứu ở mức độ sơ bộ, hầu như chỉ dừng lại ở quyền lợi như một trong các chủ nợ không có bảo đảm khác tức là các lợi ích về kinh tế nói chung chủ yếu là quyền được thanh toán tiền lương, trợ cấp.
  • 11. 5 Cũng có công trình nghiên cứu khoa học khác đi sâu vào bảo vệ quyền lợi của người lao động chẳng hạn như luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thanh Hải năm 2012: “Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”. Công trình này đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, rút ra những nhận xét khoa học và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước- người lao động- người sử dụng lao động. Tuy nhiên, bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là hai trường hợp mang những nét đặc thù riêng, chịu sự điều chỉnh của những quy phạm pháp luật riêng và do đó cần có những công trình nghiên cứu cụ thể để có thể giải quyết thấu đáo các nội dung trên hai mặt lý luận và thực tiễn. Qua khảo cứu các công trình tiêu biểu đã được công bố, cho đến hiện tại, trên phương diện nghiên cứu nói chung và với phạm vi luận văn thạc sĩ luật học nói riêng, đề tài bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vẫn là một lĩnh vực khá mới mẻ và chưa có nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập tới. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về vấn đề đảm bảo quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Cho đến nay chỉ mới có sách tham khảo với tựa đề “Chính sách chế độ đối với lao động trong doanh nghiệp phá sản và giải thể” của nhà xuất bản chính trị quốc gia, xuất bản năm 1993 đề cập khá chính xác đến nội dung mà luận văn nghiên cứu, tuy nhiên cuốn sách chỉ mới dừng lại ở việc tập hợp các nghị định, thông tư của Chính phủ về chính sách, chế độ đối với lao động trong các doanh nghiệp phá sản, giải thể chứ không đi sâu phân tích, nghiên cứu, đồng thời các nội dung được
  • 12. 6 tập hợp khá sớm kể từ khi pháp luật phá sản ở nước ta bước đầu được xây dựng nên đến nay, các nội dung mới chưa được cập nhật đầy đủ. Việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp đã được ghi nhận trong pháp luật phá sản, pháp luật lao động, từ trước cho đến nay và đang dần được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, do bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay vô cùng phức tạp và nảy sinh rất nhiều vấn đề liên quan đến quyền lợi của người lao động mà chưa được giải quyết một cách triệt để. Với tư cách là một công cụ kiểm soát và điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, pháp luật phải nhanh chóng hoàn thiện và tiên liệu được các vấn đề có thể xảy ra nhằm giảm thiểu các rủi ro, nguy cơ ảnh hưởng xấu đến kinh tế, xã hội. Pháp luật về bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn chưa thực sự bao quát được tất cả các vấn đề nảy sinh, còn tồn tại nhiều thiếu sót, chưa thống nhất giữa quy định và thực tiễn áp dụng vì vậy chưa thể là công cụ vững chắc để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động trong khi luật lao động lại chưa đủ sức điều chỉnh quan hệ này. Trên cơ sở đó, luận văn nhằm mục đích phân tích các quy định về đảm bảo quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, nhìn nhận vào các hệ quả, những sự việc có thật trong thực tiễn để từ đó đánh giá và kiến nghị những giải pháp phù hợp. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
  • 13. 7 Luận văn vận dụng những phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, áp dụng vào tình hình cụ thể của nước ta. Các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học pháp lý cũng được đặc biệt chú ý sử dụng trong luận văn như: phương pháp phân tích, tổng hợp các kiến thức từ pháp luật thực định, phân tích thực tiễn để nhận thức, đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp luật và thực thi pháp luật; phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp, lịch sử, xã hội học pháp luật, suy diễn logic... để giải quyết những vấn đề cơ bản của luận văn. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là công trình khoa học đầu tiên ở cấp thạc sĩ luật học nghiên cứu tương đối cụ thể và có hệ thống một số vấn đề lý luận, thực tiễn pháp luật về bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam. Nhận thức chung nhất về quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trên hai phương diện lý luận và thực tiễn, xem xét quyền lợi của người lao động từ góc độ đặt trong mối quan hệ lao động chứ không phải là bất kỳ một quan hệ xã hội nào khác. Phân tích, đánh giá trên cơ sở đối chiếu các quy định pháp luật với thực tiễn áp dụng, tìm ra những bất cập trong các quy định về bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam. Qua nghiên cứu về lý luận, thực trạng pháp luật trong nước, kết hợp nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, và thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn đưa ra một số kiến giải nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam.
  • 14. 8 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu thành 3 chương, bao gồm: - Chương 1: Khái quát chung về phá sản doanh nghiệp và bảo đảm quyền lợi người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. - Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền lợi người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam và thực tiễn thực hiện. - Chương 3: Một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền lợi người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam.
  • 15. 9 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP 1.1. Phá sản và phá sản doanh nghiệp Hiện tượng phá sản đã có từ lâu nhưng chỉ tồn tại trong một số hình thái kinh tế xã hội nhất định, hiện tượng này khá xa lạ trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nhưng xảy ra một cách đương nhiên và khách quan trong nền kinh tế thị trường. Do đó, ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, chế định luật “vỡ nợ” hay “phá sản” luôn là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật về kinh doanh. Một doanh nghiệp sẽ bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi hội đủ những yếu tố căn cứ nhất định, tòa án có thể dựa trên những căn cứ đó để tuyên bố doanh nghiệp phá sản kéo theo hàng loạt hậu quả sau đó, tuyên bố này có thể gây ảnh hưởng xấu thậm chí chấm dứt luôn hoạt động kinh doanh của con nợ, ảnh hưởng đến uy tín, ảnh hưởng đến cả tài sản của doanh nghiệp đó. Rõ ràng, việc phá sản sẽ gây hại trực tiếp cho doanh nghiệp đó, ảnh hưởng đến các chủ nợ, lớn hơn là ảnh hưởng đến cả nhà nước, ảnh hưởng đến nền kinh tế, do đó nếu không có những cơ sở chắc chắn và quan điểm đúng đắn về định nghĩa phá sản thì có thể để lại những hậu quả vô cùng to lớn. Hiện tượng phá sản vốn đã được định nghĩa từ rất sớm. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, “chế định phá sản được hoàn chỉnh và đã được nâng lên thành luật phá sản của nhà nước La Mã cổ đại” [14]. Ở thời kỳ này, thuật ngữ phá sản đã được hình thành, bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng Latinh - có nghĩa là sự khánh tận - tức là mất khả năng thanh toán.
  • 16. 10 Đến nay, hiện tượng phá sản đã trở nên phổ biến, các nhà nước thông qua việc thực hiện chức năng quản lý của mình đã can thiệp sâu hơn vào quy trình giải quyết hiện tượng phá sản doanh nghiệp. Ở mỗi quốc gia do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên có các quan niệm tương đối khác nhau trong việc định nghĩa về phá sản. Theo định nghĩa luật mất khả năng thanh toán năm 2002 của Cộng hòa liên bang Nga thì thương nhân bị coi là lâm vào tình trạng phá sản nếu có đủ hai yếu tố mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và chậm thanh toán: nếu sau 03 tháng, kể từ ngày đến hạn phải trả mà họ không trả được các món nợ và tình trạng phá sản là “tình trạng con nợ không có khả năng thỏa mãn một cách đầy đủ các yêu cầu của chủ nợ đối với các nghĩa vụ trả tiền hoặc các món nợ bắt buộc phải trả khác” [8, tr. 97]. Một số nước bổ sung thêm yếu tố định lượng vào khái niệm tình trạng phá sản chẳng hạn như quy định việc con nợ không thể thanh toán được một khoản tiền tối thiểu nào đó nhằm khuyến khích các chủ nợ và con nợ tự giải quyết tranh chấp có quy mô nhỏ bằng những hình thức khác giúp tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc cho các đương sự và nhà nước: luật phá sản của Singapore năm 1999 quy định con nợ sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản khi không trả được nợ đến hạn ít nhất là 5.000 đô la Singapore [27], luật phá sản của Singapore năm 2015 nâng mức này lên 15.000 đô la Singapore [28], còn trong luật phá sản Mỹ thì số tiền này phải trên 10.000 đô la Mỹ [31]. Ở Việt Nam, các nhà lập pháp ở các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng có cùng một quan điểm về tình trạng phá sản như ở nhiều nước trên thế giới. Thuật ngữ “phá sản” được biết đến từ thời kỳ Pháp thuộc và theo cách nói thông thường, phá sản là tình trạng của một người bị vỡ nợ không còn bất cứ tài sản nào để trả các khoản nợ đến hạn.
  • 17. 11 Tóm lại, pháp luật hầu hết các nước trên thế giới đều coi phá sản là tình trạng người mắc nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền (tòa án) tuyên bố phá sản và thực hiện thanh toán cho các chủ nợ theo thủ tục pháp luật phá sản quy định trên tổng giá trị tài sản còn lại của con nợ. Pháp luật phá sản là hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về điều kiện mở thủ tục phá sản; địa vị pháp lý, mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thủ tục phá sản; trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản; điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoặc thanh lý tài sản doanh nghiệp; thi hành quyết định tuyên bố phá sản; các vấn đề khác phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản. Phá sản là hiện tượng tất nhiên, cần thiết cho nền kinh tế thị trường. Pháp luật phá sản chính là sự can thiệp có ý thức của nhà nước vào hiện tượng phá sản nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó. Pháp luật phá sản hiện nay đi theo hướng bảo vệ các nhóm quyền lợi: trật tự kinh tế- xã hội, khẳng định vai trò của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, quyền lợi hợp pháp của con nợ [9, tr. 23]. 1.2. Tác động của phá sản doanh nghiệp đến quyền lợi của người lao động Với cách hiểu phá sản doanh nghiệp là hiện tượng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của các doanh nghiệp, trong nhiều trường hợp, một con nợ thường có rất nhiều chủ nợ, đến thời điểm con nợ mất khả năng thanh toán thì tổng giá trị tài sản còn thường nhỏ hơn tổng giá trị các khoản nợ, do vậy, tài sản còn lại của con nợ không đủ để thanh toán hết cho các
  • 18. 12 nghĩa vụ, việc không được thanh toán đầy đủ giá trị các khoản nợ sẽ ảnh hưởng một cách trực tiếp đến quyền lợi của các chủ nợ. Có thể thấy rằng đời sống của người lao động sẽ có nguy cơ hoặc thực sự bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi không được trả lương, phụ cấp theo hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể đầy đủ và đúng thời hạn, không được giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), trợ cấp thất nghiệp… do doanh nghiệp phá sản nợ đọng quỹ BHXH, và đáng lo ngại nhất là tình trạng thất nghiệp hậu phá sản. Bên cạnh đó, hiện tượng phá sản cũng là hiện tượng mang tính chất dây chuyền, doanh nghiệp này phá sản đồng thời kéo hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp chủ nợ đi xuống thì không chỉ lao động của doanh nghiệp phá sản mà ngay cả lao động của doanh nghiệp chủ nợ cũng phải chấp nhận rủi ro chấm dứt hợp đồng lao động nhằm giảm chi phí nhân sự. Số lượng lao động thất nghiệp tăng lên đồng nghĩa tệ nạn xã hội cũng tăng lên, nền kinh tế chung của quốc gia đi xuống, đời sống của công dân nước đó cũng không được đảm bảo… 1.3. Sự cần thiết bảo đảm quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Quyền của người lao động là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn không chỉ đối với cá nhân, tập thể người lao động, mà còn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và toàn nhân loại. Quyền của người lao động là những quyền liên quan đến người lao động và người sử dụng lao động, phát sinh trong quá trình sử dụng lao động, hay nói cách khác, quyền của người lao động nằm trong mối quan hệ lao động. Các quyền của người lao động được ghi nhận trong các Điều ước quốc tế như: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền; Công ước quốc tế về
  • 19. 13 các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và các khuyến nghị của tổ chức Lao động Quốc tế. Các quyền của người lao động mặc dù được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế, nhưng đó chỉ là sự ghi nhận mang tính nguyên tắc chung. Các quyền trong lĩnh vực lao động còn được ghi nhận và bảo vệ bởi rất nhiều văn kiện do tổ chức Lao động Quốc tế khởi xướng. Theo các văn bản này, quyền của người lao động gồm các quyền: quyền làm việc, quyền công đoàn độc lập, quyền không bị ép làm việc không lương, quyền nam nữ hưởng lương bằng nhau, quyền không bị phân biệt đối xử, quyền không bị phân biệt đối xử nếu có con cái, quyền được giúp đỡ và có việc làm thích hợp nếu bệnh tật, quyền được đào tạo, bồi dưỡng có ăn lương, quyền không bị đuổi việc, quyền được trả lương bằng tiền, quyền hưởng lương trên hoặc bằng mức tối thiểu, quyền được trả lương nếu chủ sử dụng lao động bị phá sản… Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật quốc tế có thể thấy rằng, các quyền của người lao động là một trong những quyền hết sức quan trọng của con người thuộc nhóm các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Các quyền của người lao động có vai trò quan trọng đối với người lao động hoặc tập thể người lao động. Các quyền này không chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế (tuyên ngôn, công ước, khuyến nghị), mà còn được cụ thể hóa và quy định trong các văn bản pháp luật quốc gia như Hiến pháp, bộ luật, luật và được thể hiện dưới hai khía cạnh là quyền và nghĩa vụ, bởi để bảo đảm các quyền của người lao động các quốc gia buộc phải ban hành các quy định về nghĩa vụ thông qua việc ban hành các chính sách, chương trình để thúc đẩy việc thực hiện các quyền của người lao động, đồng thời phải đưa ra các quy định mang tính chế tài xử lý khi các quyền này bị xâm phạm.
  • 20. 14 Quyền của người lao động trong hoàn cảnh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản từ trước đến nay vẫn được các văn bản pháp luật chuyên ngành phá sản và lao động của các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm điều chỉnh bởi khi doanh nghiệp phá sản thì sẽ làm cho khối lượng lớn người lao động bị thất nghiệp, nhu cầu về việc làm cũng trở nên cấp thiết, việc làm không ổn định, không thường xuyên và phù hợp dẫn tới thu nhập bấp bênh, cuộc sống không đảm bảo, tệ nạn và tội phạm xã hội tăng đáng kể, đồng nghĩa với việc tăng gánh nặng đối với kinh tế, xã hội của quốc gia, khu vực. Đảm bảo quyền lợi của người lao động chính là một bước trong tiến trình xây dựng, phát triển nền kinh tế bởi ở bất kỳ một đất nước nào, lực lượng lao động luôn đông đảo chiếm đa số đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Người lao động có thể là cán bộ, nhân viên làm công tác quản lý, những công nhân, thợ kỹ thuật…. họ có ở khắp mọi nơi, làm việc để có được thu nhập (bao gồm tiền lương, tiền thưởng, các chế độ an sinh…) nhằm mục đích đảm bảo cuộc sống của mình và đóng thuế cho nhà nước bằng nhiều hình thức, họ chính là lực lượng tạo ra và cũng chính là lực lượng tiêu thụ hàng hóa trên thị trường, thúc đẩy nền kinh tế phát triển cũng bằng nhiều cách. Tuỳ theo chế độ chính trị - xã hội và định hướng mà pháp luật từng quốc gia trên thế giới theo đuổi, quan điểm của nhà nước trong việc ưu tiên bảo vệ lợi ích của nhóm chủ thể nào mà chức năng bảo vệ các nhóm quyền lợi của pháp luật phá sản có những quy định mang tính đặc thù. Trong pháp luật phá sản hiện đại, vấn đề bảo vệ quyền lợi người lao động được đặc biệt quan tâm. Khẳng định quyền của người lao động trong thủ tục phá sản cũng chính là tôn trọng nhân quyền, mục đích mà bất kỳ một đất nước văn minh nào nói riêng và nhân loại tiến bộ hiện nay đều đang hướng tới. Pháp luật của hầu hết các nước đều ghi nhận quyền của người lao động trong suốt quá trình tố tụng và bình đẳng với các chủ nợ khác bởi việc đảm bảo quyền của họ là thực sự
  • 21. 15 cần thiết. Pháp luật phá sản ở một số nước theo chủ nghĩa xã hội và đang phát triển như Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhóm người lao động, là những thành phần yếu thế nhưng lại đóng vai trò chủ chốt trong xã hội và nền kinh tế, quyền lợi của họ lại càng đặc biệt được bảo vệ. Quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ngày càng được phát triển và thừa nhận một cách rộng rãi, thể hiện ở các quyền như: quyền được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong trường hợp doanh nghiệp không trả lương, các khoản nợ khác; quyền tham gia hội nghị chủ nợ, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp; quyền giám sát doanh nghiệp được áp dụng thủ tục phục hồi, quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác… Ngoài ra, cơ chế phục hồi của doanh nghiệp cũng là một chế định có mục đích bảo vệ quyền lợi người lao động, vì nếu doanh nghiệp có thể phục hồi được thì người lao động cũng thoát khỏi tình trạng thất nghiệp về sau. Pháp luật phá sản nước nào trên thế giới cũng quy định các quyền để họ có thể tham gia tự bảo vệ lợi ích của mình. Cần nhận thấy rằng khi một doanh nghiệp “mất khả năng thanh toán” các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh thì người lao động bị nợ lương, phụ cấp khác theo hợp đồng lao động sẽ vừa là chủ nợ và cũng sẽ là nạn nhân. Cơ sở đầu tiên để họ thực hiện quyền của mình, dù là ở tư cách nào đi nữa, trước hết vẫn là quyền nộp đơn lên cơ quan tư pháp có thẩm quyền, cụ thể là Tòa án. Hiện nay, pháp luật phá sản thế giới phân chia chủ nợ thành ba loại: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm. Pháp luật cho phép các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, áp dụng
  • 22. 16 thủ tục thanh lý toàn bộ tài sản còn lại của doanh nghiệp để trả nợ cho các chủ nợ. Người lao động trong trường hợp này sẽ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm. Người lao động có thể trực tiếp hoặc thông qua đại diện của chính mình tham gia hội nghị chủ nợ với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm, gián tiếp giám sát thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản thông qua quản tài viên. Nhóm quyền lợi này có thể tạm gọi là quyền tham gia thủ tục phá sản. Người lao động cũng như các chủ nợ khác trong hội nghị chủ nợ, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến lợi ích của mình, có quyền thông qua hay không thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của con nợ. Ngoài ra, cũng cần đặc biệt lưu ý về quyền liên quan đến quan hệ lao động, đặc biệt là quyền được thanh toán tiền lương trong doanh nghiệp phá sản bởi đây là một vấn đề phức tạp bao gồm nội dung nghĩa vụ thanh toán như tiền lương, phụ cấp, trợ cấp thôi việc… quyền ưu tiên thanh toán: được thanh toán sau các chủ nợ có bảo đảm… Về lý thuyết, rất khó để tìm thấy bất cứ ý kiến nào phản đối quan niệm người lao động được bồi thường tiền lương và các quyền lợi khác mà họ đáng được hưởng khi doanh nghiệp phá sản. Nhưng về thực tế thì “người lao động thường là chủ nợ tiếp xúc nhiều nhất với doanh nghiệp phá sản nhưng họ không thể đánh giá được nguy cơ phá sản của doanh nghiệp như các đối tượng chủ nợ khác” [26, tr.1], sau khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ thường không còn tài sản để thực hiện nghĩa vụ với người lao động. Hậu phá sản doanh nghiệp, vấn đề đặt ra cấp bách nhất là quyền có việc
  • 23. 17 làm. Đây là yếu tố cơ bản để bảo đảm sự tồn tại thực tế của con người, đồng thời cũng là yếu tố để bảo đảm nhân phẩm và lòng tự trọng của người lao động. Quyền có việc làm được coi là quyền hiến định trong pháp luật quốc tế, cụ thể, Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 ghi nhận: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm...” [30, Điều 23]; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội cũng xác định các yếu tố của “quyền có việc làm” [25, Điều 6]. So với quyền của người lao động khi doanh nghiệp phá sản, quyền có việc làm hẹp hơn, tuy nhiên, đây lại là một quyền cơ bản nhất, quan trọng nhất trong lĩnh vực lao động việc làm và hậu phá sản. Quyền có việc làm chính là tiền đề, điều kiện quan trọng để thực hiện các quyền khác của người lao động nói riêng và các quyền của con người nói chung, như quyền về nhà ở, quyền về giáo dục, văn hoá..... Chỉ khi quyền có việc làm được đảm bảo thực hiện, thì các quyền khác của con người mới có ý nghĩa. Luật việc làm 2013 của Việt Nam đã bước đầu thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề này.
  • 24. 18 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Nền kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các quy luật trong nền kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật cung- cầu, không chỉ các doanh nghiệp sử dụng lao động mà chính người lao động cũng lao đao để tìm chỗ đứng và tồn tại. Trong bối cảnh đó, Đảng và nhà nước ta đã xác định mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, phát huy nhân tố vì con người, trước hết là người lao động “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và coi đây là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [5, tr. 41], phải tăng cường bảo vệ người lao động, trọng tâm là các doanh nghiệp. Có thể thấy bảo vệ người lao động đã trở thành một nguyên tắc cơ bản và quan trọng trong chủ trương xây dựng pháp luật lao động hiện hành, đồng thời được ghi nhận một cách nghiêm túc trong pháp luật phá sản Việt Nam xuyên suốt từ trước đến nay. Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam được thể hiện trong quá trình xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật trên phương diện ba nhóm quyền: 2.1. Nhóm quyền tham gia thủ tục phá sản 2.1.1. Thực trạng pháp luật - Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ trả lương và các khoản nợ khác cho người lao động đúng hạn, người lao động được coi như chủ nợ không
  • 25. 19 có bảo đảm và có các quyền và nghĩa vụ như chủ nợ không có bảo đảm. Nhằm thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với người lao động, luật phá sản của các nước cũng như tại Việt Nam đều ghi nhận quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động. Khi doanh nghiệp hoặc mất khả năng thanh toán tiền lương và các loại trợ cấp cho người lao động hoặc chậm thanh toán sau một khoảng thời gian nhất định kể từ ngày đến hạn thanh toán thì người lao động có thể buộc doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể bằng cách nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Luật phá sản Việt Nam trước đây quy định người lao động không được tự nộp đơn mà phải cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn. Cơ chế cử người đại diện được quy định khá phức tạp gây ra nhiều khó khăn cho người lao động, hạn chế và gần như vô hiệu hoá quyền nộp đơn của người lao động trong doanh nghiệp. Hiện nay, quyền của người lao động trong thủ tục phá sản ngày càng được khuyến khích và tăng cường hơn nữa, luật phá sản năm 2014 quy định không chỉ đại diện tập thể người lao động là công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở mà chính người lao động cũng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Trên quan điểm tạo điều kiện và khuyến khích người lao động đứng ra tự bảo vệ cho quyền lợi của mình, luật phá sản Việt Nam khẳng định người lao động, đại diện người lao động khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
  • 26. 20 không phải nộp lệ phí, án phí phá sản theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí tòa án nhân dân (TAND) như các đối tượng chủ nợ khác. Việc người lao động có thể trực tiếp nộp đơn yêu cầu tham gia thủ tục phá sản được coi như một sự tiến bộ nhằm giúp người lao động bị nợ lương thực hiện quyền của mình một cách dễ dàng hơn nhưng khi thực hiện chắc chắn sẽ gây khó khăn cho các bên bởi quy định tại các văn bản còn chưa rõ ràng. Nếu nhiều người lao động cùng nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp thì sẽ khiến cho tình hình trở nên phức tạp. - Quyền tham gia hội nghị chủ nợ Ngoài việc quy định cho người lao động có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, luật phá sản của Việt Nam cũng đi theo xu hướng của pháp luật phá sản nhiều nước, coi người lao động là đối tượng thuộc nhóm chủ nợ không có bảo đảm, được quyền tham gia quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trao cho người lao động hoặc đại diện người lao động quyền tham gia hội nghị chủ nợ, có quyền đưa ra ý kiến, thảo luận và thông qua các nội dung liên quan đến việc giải quyết quyền lợi của mình, thỏa thuận áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh hay áp dụng thủ tục tuyên bố phá sản, thanh lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán bị mở thủ tục phá sản. Trong khi hiểu biết và nhận thức của người lao động còn hạn chế, nhiều trường hợp người lao động thực sự cần đến cơ chế ủy quyền, cần được đại diện công đoàn đứng ra thay mặt đòi quyền lợi cho mình thì các văn bản luật và dưới luật liên quan lại không quy định rõ về vấn đề cử đại diện. Nếu lại cử đại diện trong điều kiện thiếu hướng dẫn cụ thể, thì chẳng khác nào lại tiếp tục đi theo nội dung của luật phá sản cũ, làm cho các bên lúng túng khi
  • 27. 21 tham gia tố tụng trong khi người lao động cũng là thành viên của hội nghị chủ nợ, mà ý kiến của hội nghị chủ nợ vô cùng quan trọng đối với sự sống còn của doanh nghiệp. - Quyền giám sát các tài sản của doanh nghiệp phá sản Luật phá sản 2014 quy định trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh hay thủ tục phá sản, thanh lý tài sản, đại diện người lao động nói riêng và hội nghị chủ nợ nói chung được quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản doanh nghiệp thông báo về tình trạng tài sản của con nợ. Thông qua đó, thực hiện quyền được giám sát khoản nợ của mình nhưng không làm mất trật tự và ảnh hưởng đến quyền lợi của con nợ, quyền lợi các chủ nợ khác… Quyền này không được quy định một cách trực tiếp và người lao động hay đại diện người lao động cũng không trực tiếp quản lý tài sản của con nợ. Người lao động hoặc đại diện người lao động thực hiện quyền giám sát này thông qua quản tài viên hay doanh nghiệp thanh lý, quản lý tài sản. Định kỳ theo một thời hạn nhất định, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản báo cáo về tình hình tài sản của con nợ lên đại diện cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục phá sản và các chủ nợ để các bên được biết. - Quyền quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hay thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp Cùng với việc ghi nhận quyền tham gia hội nghị chủ nợ, người lao động và đại diện người lao động có quyền tham gia bỏ phiếu, thể hiện ý kiến và thực hiện quyền quyết định nên áp dụng thủ tục phục hồi hay thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Nghị quyết của hội nghị chủ nợ chính là cơ sở nền tảng cho việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định phục hồi hay phá sản doanh nghiệp, là cơ sở quyết định sự sống còn
  • 28. 22 của doanh nghiệp. - Quyền giám sát thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh Tương tự như quyền giám sát tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, người lao động, đại diện người lao động nói riêng hay hội nghị chủ nợ nói chung cũng không được phép trực tiếp tham gia hoạt động quản lý, giám sát doanh nghiệp thực hiện phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh. quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ thực hiện giám sát trực tiếp hoạt động phục hồi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện báo cáo định kỳ kết quả hoạt động này cho đại diện cơ quan có thẩm quyền và hội nghị chủ nợ. - Quyền tham gia thủ tục phá sản và thanh lý tài sản doanh nghiệp Khi hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của con nợ, đại diện cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ nghị quyết của hội nghị chủ nợ để tuyên bố phá sản doanh nghiệp và tiến hành thanh lý tài sản của doanh nghiệp đó. Trong suốt quá trình này, hội nghị chủ nợ đương nhiên có cả đại diện người lao động được triệu tập, tham gia và được biết các thông tin liên quan đến quyền lợi của mình 2.1.2. Thực tiễn thực hiện Việc áp dụng các quy định của pháp luật phá sản và pháp luật lao động vào thực tiễn, quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu thủ tục phá sản doanh nghiệp mặc dù còn rất nhiều khó khăn nhưng cũng có nhiều chuyển biến tích cực, khẳng định chủ trương nhất quán của nhà nước là bảo vệ quyền lợi của người lao động trong thực hiện tố tụng phá sản. Nếu như trước đây, người lao động chưa ý thức về địa vị pháp lý của mình trong thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, thường chịu thiệt thòi
  • 29. 23 đứng nhìn các chủ nợ tranh nhau lấy nợ trên tài sản của doanh nghiệp nơi mà mình làm việc hoặc đôi khi tham gia lấy nợ một cách vô tổ chức gây mất trật tự thì nay, qua các tài liệu, sách báo, sự tuyên truyền của các tổ chức công đoàn mà họ đã dần nhận thức được tư cách chủ nợ của mình và biện pháp để thực hiện bảo vê cho quyền lợi của mình, thường là thông qua các tổ chức công đoàn để nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Hiện nay, người lao động dưới sự hướng dẫn của tổ chức công đoàn đã tự ý thức được những quyền lợi mà mình được hưởng khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, điều này khiến việc giải quyết quyền lợi cho họ trở nên chủ động và dễ dàng hơn trước đây. Bên cạnh đó, từ luật phá sản 2004 trở về trước chưa làm rõ được nhiều nội dung, do đó đảm bảo quyền tham gia thủ tục tố tụng phá sản của người lao động trong thực tiễn gặp nhiều khó khăn, chẳng hạn như: Quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là một rào cản lớn, chẳng khác nào đánh đố với người lao động bị nợ lương. Bởi việc người lao động muốn “cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó” [15, Điều 14] thì phải được quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp tán thành bằng bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ kí, trường hợp doanh nghiệp có quy mô lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp phải được quá nửa số người được cử đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành… Thông thường, hiện tượng nợ lương của người lao động phần nào đã thể hiện doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ và mất dần khả năng thanh toán, các cơ quan chức năng cần phải thực hiện chức năng quản lý của mình và hạn chế trước hết diễn biến xấu có thể xảy ra, tuy nhiên trong thực tế, các cơ quan
  • 30. 24 hữu quan chưa làm được điều này, biểu hiện như sau: Vai trò của tổ chức đại diện người lao động và nhận thức của chính người lao động mặc dù đã được nâng cao hơn trước đây rất nhiều nhưng vẫn chưa đáng kể, năng lực của chính cán bộ công đoàn còn yếu kém, chưa đủ sức dẫn dắt và định hướng cho người lao động tự bảo vệ quyền lợi của chính mình. Thực tế xảy ra ở nhiều nơi thậm chí người lao động còn thỏa hiệp với doanh nghiệp để không thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, tự từ chối quyền có tổ chức đại diện cho quyền lợi của chính mình, lý do đầu tiên và lớn nhất là do tổ chức công đoàn hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Ngoài ra ở nhiều nơi, thanh tra Sở LĐ-TB&XH chưa có một chuyên đề thanh tra riêng về vấn đề tiền lương tại các doanh nghiệp, đồng thời vẫn chưa mạnh tay thực hiện biện pháp xử phạt hành vi vi phạm trong lĩnh vực này. Bời vậy người lao động ở những doanh nghiệp chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức công đoàn nhiều khi muốn thông báo về tình trạng nợ lương cũng không biết phải báo ai, báo như thế nào. 2.2. Nhóm quyền liên quan đến quan hệ lao động 2.2.1. Thực trạng pháp luật Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản đồng nghĩa với các món nợ phải trả nhiều hơn khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh như vậy, việc chủ nợ nào được ưu tiên thanh toán trước, ai phải xếp hàng sau là vấn đề mà luật phá sản nước nào cũng phải quan tâm giải quyết. Các chủ nợ luôn luôn có mối quan tâm đặc biệt về vấn đề này vì thứ tự đó ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích chính đáng của họ. Pháp luật phá sản của nhiều nước trên thế giới đều đặt khoản nợ lương và các trợ cấp liên quan đến BHXH, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và các thỏa thuận khác giữa người sử
  • 31. 25 dụng lao động là doanh nghiệp phá sản và tập thể người lao động… được ưu tiên thanh toán ở hàng thứ hai sau chi phí phá sản trong số các khoản nợ không có bảo đảm, thậm chí được thanh toán trước các khoản nợ thuế. Kiểu quy định này không chỉ tồn tại ở pháp luật phá sản của các nước như Trung Quốc, Việt Nam, Canada [29, Mục 60]… Tuy nhiên cũng có một số nước, các khoản nợ này phải được thanh toán sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho nhà nước với mục đích đảm bảo nguồn thu công đủ để duy trì gánh nặng công cộng, trường hợp này đơn cử ở pháp luật phá sản Mỹ. Luật phá sản Việt Nam chỉ ưu tiên bảo đảm quyền lợi cho hai nhóm chủ nợ là chủ nợ có bảo đảm và người lao động bị nợ lương, trợ cấp và các khoản nợ khác theo hợp đồng lao động, thỏa ước tập thể; ngoài ra không phân biệt ưu tiên cho thành phần kinh tế nào khác. Thực chất của việc giải quyết phá sản là việc xử lý mối quan hệ về lợi ích tài sản giữa các chủ nợ với con nợ. Để đảm bảo bình ổn xã hội, luật phá sản cố gắng đến mức tối đa bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ, làm sao để khi thanh lý vẫn còn tài sản để thanh toán cho các chủ nợ. Thứ tự về việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản theo pháp luật phá sản Việt Nam hiện hành như sau: chi phí phá sản; nợ lương, trợ cấp thôi việc, BHXH, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết; nợ phát sinh nhằm mục đích phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh; nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước... Như vậy, việc ưu tiên bảo vệ chủ nợ là người lao động thể hiện ở chỗ pháp luật phá sản xếp người lao động vào hàng ưu tiên đứng trên các loại chủ nợ không có bảo đảm kể cả chủ nợ là nhà nước. Điều này đã trở thành nguyên tắc thanh toán các khoản nợ của pháp luật phá sản nhiều nước trên thế giới. Khi tiến hành thủ tục phân chia tài sản để thanh toán cho các chủ nợ,
  • 32. 26 người lao động được thanh toán các khoản nợ sau đây: - Tiền lương Theo quy định của pháp luật lao động hiện hành, doanh nghiệp phải trả lương cho người lao động trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn. Tiền lương ở đây bao gồm lương cơ bản và các khoản phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác có liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động, trừ tiền thưởng, tiền ăn giữa ca, các khoản hỗ trợ, trợ cấp của người sử dụng lao động không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động... Trong trường hợp doanh nghiệp chậm trả lương quá ba tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán (là căn cứ để người lao động nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp) thì doanh nghiệp ngoài việc thanh toán tiền lương gốc còn phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương, khi ngân hàng nhà nước Việt Nam không quy định trần lãi suất thì được tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng của ngân hàng thương mại, nơi doanh nghiệp, cơ quan mở tài khoản giao dịch thông báo tại thời điểm trả lương. - Trợ cấp và các quyền lợi khác Người lao động làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên được hưởng trợ cấp thôi việc, cứ một năm làm việc được hưởng trợ cấp nửa tháng lương và phụ cấp nếu có cùng các quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể. Nếu doanh nghiệp không đóng hoặc chậm đóng, dẫn đến phát sinh lãi thì doanh nghiệp phải có trách nhiệm bù đắp phần thiếu hụt thời gian đóng BHXH và bồi thường các khoản trợ cấp phát sinh mà lẽ ra trong thời gian đó người lao động đáng ra được hưởng. Cần một chế tài đủ mạnh, bảo đảm tính
  • 33. 27 khả thi để buộc doanh nghiệp bồi thường quyền lợi cho người lao động. Thế nhưng, việc này luật BHXH vẫn còn bỏ ngỏ. Luật BHXH 2014 đã quy định rõ hành vi vi phạm pháp luật về BHXH: không đóng BHXH, đóng không đúng thời gian quy định, không đúng mức quy định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị “xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” [19, Điều 122]. Tuy nhiên, bộ luật hình sự lại không quy định tội danh cụ thể nào liên quan đến BHXH, vì thế việc vận dụng để xử lý hình sự những trường hợp doanh nghiệp trốn đóng BHXH cho người lao động rất khó thực hiện. Nhà nước không phải không có những biện pháp để xử lý tình trạng nợ lương của doanh nghiệp trước khi những diễn biến xấu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có thể xảy ra, điển hình như nghị định 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, người lao động có thể yêu cầu thanh tra chuyên ngành về lao động hoặc UBND cấp huyện, nơi doanh nghiệp hoạt động xử lý hành vi vi phạm. Nghị định này có quy định: “phạt tiền người sử dụng lao động có hành vi trả lương không đúng hạn theo quy định” [3, Điều 13], nhưng việc áp dụng trong thực tiễn lại không hiệu quả, quy định này rơi vào quên lãng bởi rất ít khi được nhắc đến và mức phạt thì quá ít ỏi so với hành vi vi phạm và hậu quả từ hành vi vi phạm. Mới đây nhất là Nghị định 05/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động, tuy nhiên để triển khai và đưa vào thực tiễn áp dụng những quy định này còn nhiều điều đáng bàn bởi
  • 34. 28 chưa có thông tư hướng dẫn triển khai thực hiện ngay tại thời điểm nghị định được ban hành khiến các cơ quan chức năng còn lúng túng khi áp dụng, nhất là về việc quy định trách nhiệm của từng cơ quan cụ thể. Đơn cử như: Quy định đối với trường hợp doanh nghiệp chậm trả lương, nợ lương sẽ bị xử phạt phải “trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn một tháng do ngân hàng nhà nước công bố tại thời điểm trả lương” [4, Điều 24]. Có nghĩa là nếu bị chậm trả lương 15 ngày thì một người lao động có mức lương khoảng 5.000.000 VNĐ chỉ nhận được khoảng 3.000 VNĐ tiền lãi. Số tiền lãi này là quá nhỏ, trong khi hậu quả của việc chậm lương đối với người lao động lại vô cùng lớn. - Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, người lao động có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản ra quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho mình. 2.2.2. Thực tiễn thực hiện Trong quá trình thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải báo cáo quản tài viên hoặc của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản “trước khi trả lương cho người lao động” [7]. Điều này chưa có hướng dẫn cụ thể gây khó khăn và chậm trễ trong việc trả lương cho người lao động trong khi cuộc sống của người lao động chủ yếu dựa vào tiền lương. Khi thanh lý tài sản, nợ lương, trợ cấp thôi việc, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký được ưu tiên thanh toán ở hàng thứ hai trong các khoản nợ có bảo đảm tuy nhiên, trong nhiều trường
  • 35. 29 hợp, sau khi thanh toán các khoản nợ có bảo đảm doanh nghiệp thường không còn tài sản thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Quy định khi xảy ra tình trạng chậm lương, người lao động có quyền có ý kiến, khiếu nại, tố cáo. Trong trường hợp này, người lao động có quyền ủy quyền cho công đoàn cơ sở để đòi quyền lợi cho mình. Nếu người lao động và công đoàn không đòi thì đương nhiên số tiền đó thuộc về doanh nghiệp, còn tiền bị phạt sẽ được bổ sung ngân sách nhà nước. Yêu cầu doanh nghiệp trả lương đã khó thì việc đòi doanh nghiệp phải trả lãi khi chậm lương lại càng không phải là vấn đề đơn giản. Vậy người lao động được gì ngoài việc thực hiện những thủ tục phiền nhiễu, phức tạp rồi đổi lại chỉ để doanh nghiệp thực hiện đúng nghĩa vụ của mình? Thông thường thì người lao động sẽ chờ đợi và hi vọng doanh nghiệp thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thay vì nhận được đúng lương của mình nhưng lại có nguy cơ mất việc hoặc những khó khăn bằng cách này hay cách khác mà doanh nghiệp tạo ra khi công đoàn chẳng đủ sức để bảo vệ họ. Bên cạnh đó, đối với những người lao động bị nợ lương tại các doanh nghiệp đã phá sản hoặc đang ở bờ vực phá sản thì việc đòi lương còn khó khăn và lâu dài hơn. Khi doanh nghiệp nợ lương của người lao động, nếu các cơ quan chức năng làm đúng trách nhiệm, nghiêm khắc thực hiện xử phạt hành vi vi phạm thì có thể được xem là giải pháp giúp người lao động bảo vệ quyền lợi cho mình. Nhưng cần hiểu rằng tính khả thi của các văn bản xử phạt hoàn toàn không cao, bởi việc kiểm tra xử phạt không dễ đặc biệt là đối với những doanh nghiệp nằm chờ phá sản thì biện pháp này chỉ mang tính chất tình thế, tạm thời. Tình trạng chậm trả lương, nợ lương người lao động tại các doanh nghiệp dưới nhiều hình thức đang diễn ra, nhưng cơ quan chức năng cũng
  • 36. 30 chưa có một thống kê, tổng hợp cụ thể doanh nghiệp nào nợ lương, nợ bao nhiêu, nợ bao lâu… do đó chưa có những giải pháp cụ thể, phù hợp, chỉ đến khi có những vụ việc lùm xùm, gây hậu quả nặng nề, được báo chí và dư luận đưa tin thì cơ quan chức năng mới vào cuộc. Có thể thấy rằng, sự quan tâm, nắm bắt của các cơ quan chức năng chưa được thực hiện đầy đủ. Trong thời gian qua đã có rất nhiều vụ việc điển hình chẳng hạn như vụ việc tại Công ty liên doanh Lenex. Vào tháng 4-2012, Công ty Lenex đã “cho gần 50 công nhân tạm ngừng làm việc với mức lương doanh nghiệp phải trả là 2 triệu đồng/người/tháng; hỗ trợ tiền tìm việc 2 triệu đồng/người” [12] do hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn. Tuy nhiên sau đó, do không còn hoạt động nên công ty không trả được những khoản này cho người lao động. Trong suốt khoảng thời gian công ty Lenex nợ lương 15 tháng, Luật phá sản 2004 đang có hiệu lực, tiêu chí xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán chưa rõ ràng, vì thế người lao động cũng không có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp để buộc doanh nghiệp thanh toán lương cho mình. Theo phán quyết của TAND thành phố Biên Hòa, công ty phải thi hành án trước cho lao động trực tiếp làm việc tại xưởng 1,4 tỷ đồng. Nhưng mức chi trả cho mỗi lao động chỉ hơn 30% trong tổng số tiền họ được nhận do tài sản của công ty mới chỉ thanh lý được một phần với số tiền là 365 triệu đồng. Sau khi thực hiện bán đấu giá một số tài sản cố định khác của công ty liên doanh Lenex, cơ quan thi hành án sẽ tiếp tục chi trả phần còn lại cho người lao động và những doanh nghiệp mà công ty Lenex còn nợ. Đa số người lao động đều biết công ty chắc chắn rồi cũng phá sản, nhưng vì chưa được nhận lương trong một thời gian dài nên không ai dám
  • 37. 31 nghỉ, nhưng càng làm càng bị nợ nhiều. Thực tế, với trường hợp ở công ty Lenex, người lao động cũng thông cảm với tình trạng khó khăn của doanh nghiệp, nhưng nếu không được trả lương, người lao động không bảo đảm được cuộc sống, do đó họ mới phải nhờ pháp luật can thiệp. Chính vì lý do chỉ đến khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trầm trọng, đi đến phá sản thì người lao động mới lên tiếng để bảo vệ cho quyền lợi của mình mà gây ra khó khăn rất lớn cho chính họ và cho cả các cơ quan chức năng. Công ty nói trên không chỉ nợ lương mà còn “trốn” đóng BHXH cho người lao động. Trong khi đó, lương tháng của công nhân vẫn bị công ty trích ra để nộp BHXH, họ vẫn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình nên có quyền được hưởng những gì tương ứng với công sức bỏ ra. Còn doanh nghiệp chiếm dụng vốn của người lao động là cố tình làm trái pháp luật thì doanh nghiệp phải bị pháp luật xử lý. Người lao động hoàn toàn không có lỗi trong việc doanh nghiệp trốn đóng BHXH. Tình trạng này xảy ra hàng loạt ở nhiều tỉnh thành trên cả nước, điển hình như tại Nghệ An, công ty cổ phần Xây dựng cầu đường Nghệ An hiện đang nợ BHXH hơn 3,2 tỷ đồng, 138 lao động vẫn chưa được chốt sổ BHXH. Hàng trăm người lao động phải nghỉ việc, nợ lương nhưng khó có khả năng đòi được; hay như công ty cổ phần Vinaconex 16 hiện đang nợ BHXH hơn 4,7 tỷ đồng, và có hàng trăm lao động đang bị nợ lương, chưa được chốt sổ BHXH [1]. Tương tự như vụ việc tại công ty Liên doanh Lenex, nhiều trường hợp khác liên quan đến việc người lao động không được giải quyết quyền lợi thỏa đáng chẳng hạn như trường hợp tại công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Sao Đại Hùng. Từ năm 2009, do làm ăn thất bát dẫn đến phá sản, Công ty TNHH Sao
  • 38. 32 Đại Hùng (trụ sở tại Khu công nghiệp Suối Dầu, huyện Cam Lâm, Khánh Hòa) đã nợ lương của 326 người lao động với tổng số nợ là 4,1 tỉ đồng [23]. Tháng 4-2011, công đoàn công ty Sao Đại Hùng được người lao động ủy quyền đã đại diện làm đơn kiện đòi nợ lương lên TAND tỉnh Khánh Hòa. Tuy nhiên, tòa từ chối thụ lý vì cho rằng đây là vụ kiện tranh chấp cá nhân giữa từng người lao động với chủ sử dụng lao động chứ không phải tranh chấp lao động tập thể nên vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND huyện Cam Lâm. Trong khi đó, TAND huyện Cam Lâm thì cho rằng đây là vụ kiện lao động tập thể, thẩm quyền giải quyết thuộc TAND tỉnh Khánh Hòa. TAND tỉnh Khánh Hòa chính là nơi có thẩm quyền giải quyết tiếp vụ kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 34 bộ luật tố tụng dân sự: tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của hội đồng trọng tài lao động, sau khi các bên tiến hành một số thủ tục tiền tố tụng. Sau một thời gian hai tòa chỉ qua chỉ lại, trong số 326 người lao động bị nợ lương chỉ còn 163 người kiên trì nộp đơn kiện riêng lẻ lên TAND huyện Cam Lâm để đòi lại quyền lợi. Tuy nhiên, sau đó đã có tới 50 hồ sơ của họ bị tòa trả lại vì không đủ thủ tục, 12 hồ sơ bị đình chỉ và chỉ có 92 hồ sơ được đưa ra xét xử, trong 92 phiên tòa này đều không hề có tranh luận vì ngay từ đầu phía bị đơn đã chấp nhận, xác nhận nợ lương của tất cả 326 công nhân có danh sách cụ thể kèm theo, tổng số tiền nhận được của 92 trường hợp được tòa xét xử là 1,1 tỉ đồng. Nhưng theo thủ tục thì vẫn phải xử theo đúng trình tự của một phiên tòa thông thường nên rất mất thời gian. Công ty TNHH một thành viên Phát triển trang phục phụ nữ kiểu Pháp
  • 39. 33 FLD Việt Nam (gọi tắt là công ty FLD Việt Nam) được thành lập từ năm 2001. Năm 2008, chủ đầu tư nước ngoài bỏ trốn. Trong quá trình giải quyết các thủ tục phá sản của công ty FLD, TAND tỉnh Khánh Hòa đã giữ lại khoảng 10 tỉ đồng để giải quyết các khoản nợ của công ty này, trong đó có nợ các loại đối với BHXH tỉnh Khánh Hòa. Theo BHXH tỉnh Khánh Hòa, tính đến hết tháng 6-2013, công ty FLD còn nợ hơn 7 tỉ đồng gồm tiền BHXH, BHYT, BHTN cho công nhân và hơn 1,5 tỉ đồng tiền lãi phạt nộp chậm. Đến tháng 8-2013, TAND tỉnh đã chuyển trả là 5,4 tỉ đồng tiền BHXH (chưa bao gồm 1,5 tỉ đồng tiền lãi phạt nộp chậm) cho BHXH tỉnh Khánh Hòa bởi theo quy định, công ty đã phá sản thì không thể tính lãi. Tuy nhiên cơ quan BHXH lại cho rằng theo luật BHXH, tòa phải chuyển cả khoản hơn 1,5 tỉ đồng tiền lãi phạt nộp chậm này thì mới chốt sổ BHXH cho công nhân được. Đến nay, công ty FLD đã bán cho chủ đầu tư mới, làm thủ tục hoạt động trở lại sau khi phá sản xong. Nhưng giữa hai cơ quan BHXH và TAND tỉnh Khánh Hòa không thống nhất được với nhau nên người lao động của chỉ được tính thời gian tham gia BHXH đến tháng 9-2012, trong khi thực tế người lao động đã đóng đến tháng 6-2013. Tình huống này chưa được các văn bản pháp luật liên quan dự liệu do đó khi sự việc xảy ra, UBND tỉnh đã yêu cầu cơ quan BHXH và TAND tỉnh Khánh Hòa gửi văn bản lên cấp trên xin ý kiến giải quyết tình huống này với chủ trương miễn đóng tiền lãi phạt nộp chậm 1,5 tỉ đồng. Tiếp đó, Chính phủ cũng ban hành Nghị định 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, có hiệu lực từ ngày 10/10/2013; theo đó, doanh nghiệp, cơ quan chậm trả lương cho người lao
  • 40. 34 động có thể bị phạt từ 5-50 triệu đồng. Thêm vào đó, hiện tượng doanh nghiệp bị nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ở Việt Nam hiện nay khá hiếm hoi, xuất phát từ tâm lý chung và phổ biến trong xã hội là còn có thái độ thiếu thiện cảm đối với những người chủ doanh nghiệp hay người quản lý, điều hành doanh nghiệp bị phá sản, nhiều khi coi phá sản là một sự việc rất nặng nề, một tình trạng vô cùng tồi tệ, thậm chí còn liên tưởng tới những vấn đề hình sự như lừa đảo, gian trá, tham ô… vì vậy mặc dù doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nhưng bản thân các doanh nghiệp vẫn không chủ động nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản lên tòa án, tìm mọi cách trì hoãn việc nộp đơn, thậm chí buông xuôi, bỏ mặc doanh nghiệp và không làm bất cứ một thủ tục nào để chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp đều lảng tránh thủ tục phá sản, mà tìm những phương thức khác như giải thể, sát nhập… để chấm dứt sự tồn tại của mình. Trường hợp của nhiều công ty như công ty Compunet VN, công ty Marison, công ty Joan Việt… là những ví dụ điển hình, chủ doanh nghiệp đã tự bỏ về nước mà không thực hiện việc nộp đơn khi biết doanh nghiệp của mình lâm vào tình trạng phá sản. Ngoài ra, có nhiều nguyên nhân khiến doanh nghiệp ngừng hoạt động kinh doanh mà không tiến hành thủ tục giải thể, như ý thức chấp hành pháp luật của chủ doanh nghiệp, trốn tránh nghĩa vụ tài chính…, nhưng nguyên nhân chính là việc thiếu chế tài xử lý đối với hành vi này. Hiện tại, việc quản lý doanh nghiệp trong quá trình hoạt động gần như chỉ có cơ quan thuế kiểm tra, khi phát hiện doanh nghiệp bỏ trốn, cơ quan thuế thông báo cho chính quyền địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động, cơ quan công an, đơn vị cấp giấy đăng ký kinh doanh… Còn việc giải quyết doanh nghiệp bỏ trốn như thế nào thì chưa được quy định. Hệ quả là, ý thức tôn trọng pháp luật của chủ
  • 41. 35 doanh nghiệp không cao, thậm chí thiếu tôn trọng pháp luật. 2.3. Nhóm quyền lợi hậu phá sản 2.3.1. Thực trạng pháp luật Quyền được giải quyết vấn đề việc làm khi doanh nghiệp phá sản. Quyền này vốn không được quy định và thực hiện bắt buộc ở pháp luật phá sản của bất kỳ nước nào, nhưng theo tư duy của pháp luật phá sản hiện đại, đề cao quyền của công dân và theo hướng xây dựng nhà nước, xã hội văn minh trên cơ sở ý thức được tầm quan trọng của việc giải quyết việc làm hậu phá sản doanh nghiệp đối với sự phát triển xã hội mà các nước có quan điểm tiến bộ đều có những chủ trương, chính sách tái sử dụng nguồn lực lao động từ các doanh nghiệp phá sản bằng nhiều phương pháp khác nhau. Phương pháp đầu tiên phải kể đến khuyến khích doanh nghiệp thực hiện phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh thay vì tuyên bố phá sản doanh nghiệp ngay khi mở thủ tục phá sản, việc này không những có ý nghĩa quan trọng đối với con nợ mà còn là một biện pháp giảm gánh nặng nhu cầu việc làm đối với người lao động. Song song với phương pháp này, nhiều nước cũng xây dựng các chính sách phát triển, đào tạo lại nguồn lực lao động… Nhà nước, cụ thể là các cơ quan hữu quan đã có sự quan tâm đặc biệt đến việc giải quyết việc làm cho người lao động sau khi doanh nghiệp phá sản, chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực. Luật việc làm năm 2013 ra đời đã thể hiện tinh thần trên bằng việc khẳng định các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về việc làm; tạo việc làm; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên luật việc làm năm 2013 trong thời gian đầu có hiệu lực đã bộc lộ một số khuyết điểm, nhiều thắc mắc của người lao động chưa được giải
  • 42. 36 quyết kịp thời và thỏa đáng. Cụ thể là trong quá trình làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp, quy định về việc người thất nghiệp sẽ bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp nếu sau 2 lần từ chối nhận việc do trung tâm dịch vụ việc làm - nơi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp - giới thiệu mà không có lý do chính đáng đã và đang gây bất lợi cho người lao động: lý do không chính đáng theo quy định tại Nghị định 28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật việc làm về bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là từ chối nếu việc làm phù hợp với ngành nghề, trình độ của người lao động đã được đào tạo; việc làm mà người lao động đó đã từng làm. Vậy nếu người lao động từ chối 2 lần do việc làm dưới năng lực hay do nơi ở quá xa nơi làm việc, thiếu phương tiện đi lại có được xem là chính đáng không và sẽ được xử lý như thế nào, điều này chưa được các quy định pháp luật giải quyết triệt để. Theo quy định mới từ luật việc làm 2013, người thất nghiệp sẽ được hỗ trợ tối đa 6 tháng trợ cấp học nghề, nhưng tại một quy định khác trong cùng luật này, người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp mà “đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên” sẽ bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp [18, Điều 53]. Như vậy, người lao động muốn được hưởng trợ cấp thất nghiệp để đi học thì phải tìm những nghề có thời gian học dưới 12 tháng. Thực tế cho thấy đây là quy định chưa thực sự rõ ràng, làm khó cho người lao động, quy định này không chỉ bất cập mà còn cản trở người lao động nâng cao trình độ, làm mất đi ý nghĩa của trợ cấp thất nghiệp. 2.3.2. Thực tiễn thực hiện Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, về nguyên tắc doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường tức là hợp đồng với người lao động vẫn được duy trì. Doanh nghiệp vẫn được phép tiến hành trả lương cho người lao động
  • 43. 37 nhưng phải được sự đồng ý của quản tài viên hoặc của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Khi doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh, quyền lợi của người lao động có thể vẫn tiếp tục được duy trì. Suy cho cùng nếu kế hoạch phục hồi này được thực hiện hiệu quả sẽ không chỉ giúp cho doanh nghiệp tiếp tục trụ lại trên thị trường mà còn giảm được gánh nặng mất việc làm cho người lao động. Trường hợp khác, khi phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không được thông qua, doanh nghiệp bị tuyên bố áp dụng hình thức phá sản và bị thanh lý tài sản thì giải quyết việc làm cho người lao động lại là một vấn đề đáng lo ngại, không thể giải quyết nhanh trong một sớm một chiều. Với sự quan tâm của nhà nước nhất quán trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động trong pháp luật lao động và pháp luật phá sản, nhiều chính sách đã được thực hiện. Để hỗ trợ người lao động bị mất việc làm, bộ lao động - thương binh và xã hội (bộ LĐ-TB&XH) đã đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo các cơ quan chức năng, các cấp ở địa phương thực hiện nhiều giải pháp như: thống kê, khảo sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng lao động, đặc biệt ở các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ có nguy cơ mất khả năng thanh toán, thực hiện cập nhật và cung cấp các thông tin, các số liệu, thông tin cơ bản về thị trường lao động, đó là: cung - cầu lao động; việc làm; BHXH; bảo hiểm thất nghiệp; triển vọng thị trường, nhu cầu lao động... tại các bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, việc làm này đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách về lĩnh vực lao động xã hội và công chúng. Đồng thời, các cơ quan hữu quan cũng có các biện pháp để khuyến
  • 44. 38 khích người lao động tự tạo việc làm và thu hút thêm lao động; tăng cường các hoạt động về thông tin thị trường lao động, tổ chức tư vấn, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động của các trung tâm giới thiệu việc làm để tạo điều kiện cho người lao động bị mất việc sớm tìm được việc mới; tăng cường các hoạt động dạy nghề và hỗ trợ người lao động học nghề để người mất việc làm có điều kiện học nghề phù hợp. Ngoài ra, người lao động bị mất việc còn được ưu tiên hỗ trợ vay vốn từ quỹ quốc gia về việc làm thuộc chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Những quan tâm tích cực từ các bộ ngành đã phần nào mang lại diễn biến lạc quan và tích cực cho thị trường lao động giữa lúc doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn như hiện nay. 2.4. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện Có thể nhận thấy rằng vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp không chỉ chịu sự điều chỉnh của luật phá sản mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động bởi suy cho cùng, mặc dù với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm, người lao động vẫn là một trong các chủ thể của quan hệ pháp luật lao động. Do chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản và liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật nên đảm bảo quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn là một vấn đề hết sức nan giải, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, cần sự phối hợp nhuần nhuyễn, thống nhất giữa các quy định pháp luật liên quan, cần sự tham gia của các cơ quan hữu quan,… Trong thực tế áp dụng, có nhiều vấn đề liên quan đến lĩnh vực phá sản, lao động đòi hỏi pháp luật cần đưa ra những lời giải hợp lý nhằm đảm bảo quyền của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Một doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả thì nên bị đào thải khỏi thị
  • 45. 39 trường, để những doanh nghiệp khác làm ăn hiệu quả hơn, với khả năng sử dụng nguồn lực của xã hội với hiệu suất cao hơn tồn tại và phát triển, việc phá sản các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ sẽ giúp giải phóng lao động trong các doanh nghiệp đó, người lao động sẽ được phát huy hết khả năng của mình trong một môi trường phát triển lành mạnh khác. Nhưng điều đáng bàn là ở Việt Nam, hiệu quả áp dụng pháp luật phá sản vào thực tiễn không cao, doanh nghiệp “thoi thóp” nằm chờ phá sản, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, doanh nghiệp muốn phá sản không phải là chuyện dễ dàng. Đây là một hiện tượng thể hiện sự trì trệ của nền kinh tế. Bên cạnh lĩnh vực pháp luật phá sản vận hành kém hiệu quả thì các văn bản quy phạm pháp luật về lao động và việc làm còn thiếu tính hệ thống và đồng bộ. Do được thực thi bởi rất nhiều luật và văn bản dưới luật khác nhau có liên quan như bộ luật lao động, luật bảo hiểm xã hội, luật việc làm và các văn bản do Chính phủ, các bộ, ngành ban hành nên quy định pháp luật về việc làm còn manh mún, tản mạn, thiếu thống nhất gây khó khăn cho công tác tập hợp, hệ thống hoá pháp luật cũng như khi cần áp dụng luật phải tìm và vận dụng ở nhiều văn bản khác nhau. Hầu hết các quy định pháp luật cụ thể về việc làm được thể hiện trong các văn bản dưới luật nên tính pháp lý chưa cao, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai; quy định pháp luật về việc làm phản ánh chưa đầy đủ những nhu cầu của xã hội, các chế tài còn chưa đủ độ mạnh cần thiết nên hiệu quả áp dụng không cao. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ việc làm ngày càng phát triển về số lượng, phong phú và đa dạng về hình thức, cho nên quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, phát sinh một số vấn đề mới về quan hệ việc làm cần được điều chỉnh trong một văn bản luật thống nhất. Chương 3
  • 46. 40 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật theo hướng dự báo Đánh giá những tác động có thể xảy ra từ quá trình xây dựng luật, sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật hoặc ban hành chính sách mới nói chung có tác động rất lớn đến việc cải thiện hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước và nền kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng luật, ban hành chính sách thì điều này chưa được quan tâm đúng mức. Luật được ban hành nhưng không có khả năng đi vào thực tiễn, ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến những đối tượng mà văn bản đó điều chỉnh. Đánh giá tác động kinh tế - xã hội của một dự án luật chính là một công cụ phân tích chính sách quan trọng thông qua việc cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản làm rõ vấn đề mà luật cần phải giải quyết, nguyên nhân của vấn đề, các giải pháp để giải quyết vấn đề, dự báo tác động của từng phương án và lý do chọn lựa phương án tối ưu. Từ đó văn bản luật được xây dựng phải dự liệu được những trường hợp có thể xảy ra, điều này pháp luật các nước theo truyền thống Civil Law cần học hỏi ở những nước theo hệ thống Common Law tính trừu tượng và khái quát. Có một điều dễ nhận thấy rằng, khi pháp luật càng đi sâu vào quy định chi tiết thì khi áp dụng, tính khả thi không cao, kể cả khi có thể áp dụng thì sức sống của đạo luật đó cũng rất ngắn ngủi. Đối với vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, cần nhìn nhận và hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan như luật phá sản, luật lao động, luật