SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 88
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ TUYẾT CHINH
“PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN Ở VIỆT NAM”
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ TUYẾT CHINH
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Doãn Hồng Nhung
Hà Nội - 2014
3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY
HÔN .................................................................................................................. 6
1.1. Khái quát chung về tranh chấp quyền sử dụng đất .................................... 6
1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn.................11
1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng......................................................................13
1.3.1. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng..........................................17
1.3.2. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ chồng............................................26
1.4. Nguyên tắc chung của giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ
chồng ly hôn.....................................................................................................29
1.5. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn..34
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN ...................................37
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp về quyền sử
dụng đất khi vợ chồng ly hôn...........................................................................37
2.1.1. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước giao đất........................................38
2.1.2. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước cho thuê đất.................................41
2.1.3. Đối với quyền sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế chung,
nhận thế chấp trong thời kỳ hôn nhân......................................................................45
2.1.4. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất ..........47
2.1.5. Đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng được Nhà nước công nhận quyền sử
dụng đất.....................................................................................................................48
2.2. Tình hình chung của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ
chồng ly hôn ở Việt Nam .................................................................................59
2.2.1. Những thuận lợi trong quá trình áp dụng pháp luật.......................................61
4
2.2.2. Những khó khăn phát sinh khi áp dụng pháp luật hiện hành ........................63
2.2.3. Nguyên nhân chủ yếu khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất...............65
CHƢƠNG 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN..................................................71
3.1. Kiến nghị về hoàn thiện quy phạm pháp luật ...........................................71
3.2. Kiến nghị về tổ chức thực hiện giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
khi vợ chồng ly hôn..........................................................................................73
3.3. Các giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai....76
KẾT LUẬN......................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................80
5
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả trong tài liệu luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên đặc biệt quan trọng của quốc gia. Sự gia tăng về dân số
cũng như sự phát triển về kinh tế đã làm cho những tranh chấp phát sinh về vấn đề
đất đai ngày càng nhiều, các quan hệ về đất đai ngày càng phong phú, đa dạng và
phức tạp.
Tranh chấp đất đai tiếp tục là vấn đề phức tạp và ngày càng phổ biến ở Việt
Nam. Vì thế mà các quan hệ về đất đai cần phải có những chế định pháp luật điều
chỉnh nhằm ổn định trật tự chung trong xã hội. Đặc biệt cần phải xem xét việc giải
quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý nhà
nước đối với đất đai và là những biện pháp để pháp luật đất đai phát huy được vai
trò trong đời sống xã hội.
Tranh chấp đất đai trong quan hệ hôn nhân và gia đình là một loại tranh chấp
phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt là tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp đất đai trong lĩnh vực này
hiện nay đang khó khăn và cũng là khâu yếu trong công tác giải quyết các tranh
chấp về đất đai. Do đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc phân
chia đất đai trong vấn đề ly hôn; trên cơ sở đó đề ra đường lối giải quyết các tranh
chấp này một cách tương đối cụ thể để lành mạnh hoá quan hệ đất đai; mang lại
niềm tin cho xã hội là việc làm rất cần thiết.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhưng kéo theo đó là thực tế xã hội
ngày càng phức tạp khiến cho quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi
vợ chồng ly hôn gặp nhiều biến động. Điều đó liên quan trực tiếp đến quyền và lợi
ích của mọi cá nhân trong xã hội, đặc biệt là các cặp vợ chồng.
Luật đất đai năm 2003 cùng các văn bản pháp luật khác như Luật nhà ở năm
2005, Luật hôn nhân gia đình năm 2000… ở nước ta là cơ sở cho công tác giải
7
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn được thuận lợi. Tuy nhiên
thực tế nhiều trường hợp giải quyết tranh chấp về vấn đề này còn gặp nhiều khó
khăn, phức tạp.
Ở địa phương việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly
hôn gặp nhiều khó khăn. Mà nguyên nhân chủ yếu là do người dân không nắm vững
pháp luật; hay do các cán bộ Nhà nước có trách nhiệm giải quyết tranh chấp không
thực hiện đúng thẩm quyền, trình độ chưa bắt kịp với thực tế cuộc sống, hệ thống
pháp luật về vấn đề này còn nhiều bất cập...
Theo thống kê của Tòa án Nhân dân tối cao, năm 2010, nước ta có gần
88.000 vụ ly hôn, tăng hơn 9.700 vụ so với năm 2009. Theo một kết quả nghiên cứu
được công bố năm 2008 của Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa (Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn TP.HCM), tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam tăng nhanh và chiếm 31% - 40%,
nghĩa là cứ ba cặp kết hôn thì có một cặp ly hôn. Nhưng dù cho ly hôn vì lý do gì
thì khi phân chia tài sản, đặc biệt là đất đai (tài sản có giá trị lớn) luôn được các bên
quan tâm. Vì thế đòi hỏi pháp luật phải điều chỉnh các mối quan hệ này sao cho phù
hợp với nhu cầu của xã hội.
Với mục đích nghiên cứu, làm rõ những quy định về giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn; tìm hiểu và đóng góp một phần hiểu biết
của mình vào quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Tôi đã chọn đề tài: “Pháp
luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ở Việt Nam”
làm luận văn thạc sỹ của mình.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi là luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành kinh tế, luận
văn này bao gồm những quy định về lý luận, thực tiễn có liên quan đến áp dụng
pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam
với tư cách là một hình thức cụ thể, chủ yếu và sinh động của hoạt động áp dụng
pháp luật. Luận văn khái quát những vấn đề chung trong việc áp dụng pháp luật về
giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam để thấy
8
được những khó khăn, bất cập đang tồn tại. Từ đó đưa ra những đánh giá, nhận
xét cũng như đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn, bất cập ấy.
Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn trong khoảng thời gian từ năm 2008
đến năm 2012 tại Việt Nam.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh về
những vấn đề liên quan đến đề tài như: Tác giả Trần Hoàng Châu, “Tranh chấp đất
đai và thẩm quyền giải quyết của Tòa án”, Luận văn Thạc sỹ Luật học – Khoa Luật
– Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Tác giả Phạm Đức Thắng, “các vấn đề về
giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay”, khóa luận tốt nghiệp cử nhân – Khoa Luật
– Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001... Những luận văn này tuy đã được nghiên
cứu từ cách đây khá lâu nhưng những vấn đề lý luận của luận văn vẫn mang ý nghĩa
sâu sắc và có tính kế thừa cao cho những công trình nghiên cứu về sau.
Vấn đề giải quyết tranh chấp về đất đai luôn là chủ đề được xã hội quan tâm,
đặc biệt những năm gần đây rất nhiều tác giả nghiên cứu và viết về vấn đề này như:
tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan (2008), “Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng
khi ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình năm 2000”, luận văn thạc sỹ luật học - Khoa
Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; TS. Doãn Hồng Nhung (2009), “Pháp luật
đất đai và vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ”, tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 23(160) tháng 12/2009, tr. 48-50; Tác giả Hạnh Nguyên (2013), Bài viết
“quyền về đất đai của phụ nữ sau ly hôn: vẫn thiệt đơn, thiệt kép”, Phụ nữ Việt
Nam, 44 (3779), tr.14; Tác giả Hoàng Thị Thái Hoa (2005), vấn đề ly hôn – nhìn từ
sự tác động của yếu tố văn hóa truyền thống, thông tin khoa học phân viện nghiên
cứu văn hóa thông tin tại Huế, số tháng 9/2005, trang 59-71; Tác giả Lê Thị Tuyết
Chinh (2010), “giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn”, luận
văn cử nhân – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội ...
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu, thu thập thông tin: trong khóa luận này, phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là tìm kiếm thông tin qua các tài liệu được lưu trữ trong
9
thư viện trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia
Hà Nội với một số luật của các nước trên thế giới và các tài liệu trên mạng internet
và các phương tiện thông tin đại chúng …
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: phân chia cái toàn thể của đối tượng
nghiên cứu thành những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu
phát hiện ra những thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó và từ đó hiểu rõ hơn
về từng khía cạnh của vấn đề. Tổng hợp những kết quả nghiên cứu từng mặt, từng
khía cạnh để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung. Hai phương pháp này được
sử dụng song song để bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong nghiên cứu. Từ đó đưa ra
những nhận định đúng đắn để giúp cho quá trình nghiên cứu đạt được kết quả tốt.
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch: hai phương pháp nghiên cứu này tuy
trái ngược nhau nhưng lại là một phần không thể thiếu của nhau. Chúng hỗ trợ nhau
và hỗ trợ cho công tác nghiên cứu. Phương pháp quy nạp và diễn dịch được sử dụng
chủ yếu trong chương I của luận văn để lý giải những nguyên tắc, nguyên lý, giả
thuyết, kết luận, định nghĩa, khái niệm …
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp chung
nhất trong công tác nghiên cứu. Luận văn vận dụng phương pháp này trong việc xem
xét đánh giá thực trạng công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng
ly hôn tại Việt Nam trong những điều kiện cụ thể và các mối quan hệ khác.
Ngoài ra, luận văn còn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp thu thập số liệu, xử lý thông tin, thống kê, phân tích, so sánh… nhằm
đưa ra được những thông tin, số liệu chính xác, những biện pháp tối ưu phục vụ cho
công tác nghiên cứu bám sát với thực tiễn đời sống.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam. Qua đó thấy được
những nguyên nhân chủ yếu (chủ quan và khách quan) dẫn đến những tranh chấp
này, từ đó đưa ra những biện pháp ngăn chặn và phương pháp giải quyết khi
tranh chấp xảy ra.
10
Trên cơ sở đưa ra những giải pháp có tính khả thi cao nhằm đảm bảo việc áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly
hôn đạt hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp cũng như đáp
ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng phát triển hiện nay.
7. Bố cục luận văn bao gồm:
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn còn gồm
có 3 chương:
CHƢƠNG 1 – Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
CHƢƠNG 2 – Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất khi vợ chồng ly hôn
CHƢƠNG 3 – Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất khi vợ chồng ly hôn
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu không tránh khỏi những thiếu sót, vì
vậy tác giả rất mong nhận được những lời nhận xét, đánh giá góp ý để có thêm kinh
nghiệm nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
khi vợ chồng ly hôn và giải quyết tranh chấp đất đai nói chung.
11
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
KHI VỢ CHỒNG LY HÔN
1.1. Khái quát chung về tranh chấp quyền sử dụng đất
Tranh chấp đất đai hiện nay rất đa dạng, phong phú, nhiều khi nhiều mâu
thuẫn đan xen lẫn nhau. Để thấy rõ một cách toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản
về tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ta phải xem xét nó nằm ở vị
trí nào trong các dạng tranh chấp đất đai phổ biến hiện nay và nó có vai trò như thế
nào trong các quan hệ pháp luật cũng như trong xã hội.
Tranh chấp đất đai có thể được chia thành hai loại lớn, đó là tranh chấp mà
trong đó cần xác định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đất đang tranh chấp và
tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng đất hợp pháp, tranh chấp
chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trong
dạng tranh chấp này luôn luôn có sự tranh chấp giữa các bên về quyền quản lý,
quyền sử dụng một diện tích nào đó hoặc một phần trong diện tích đó. Việc xác
định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đất tranh chấp đó là trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có thể chia thành các dạng như sau:
- Thứ nhất: Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp về
địa giới hành chính. Loại tranh chấp này thường xuyên xảy ra giữa người ở hai tỉnh,
hai huyện, hai xã với nhau, tập trung ở những nơi có vị trí quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, văn hóa, ở những vị trí dọc theo triền sông lớn, những vùng có
địa giới hành chính không rõ ràng, không có mốc giới nhưng là vị trí quan trọng, ở
những nơi có nguồn lâm, thổ sản quý hiếm. Cùng với việc chia tách các đơn vị hành
chính tỉnh, huyện, xã thì tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính tương
đối nhiều.
- Thứ hai: Tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với quyền sử dụng
đất: thực chất đây là dạng tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với đất có
nguồn gốc trước đây thuộc quyền sở hữu của họ hoặc người thân của họ mà do
12
nhiều nguyên nhân khác nhau họ không còn quản lý, sử dụng nữa. Bây giờ những
người này đòi lại người đang quản lý, sử dụng dẫn đến tranh chấp. Trong dạng tranh
chấp này có những dạng sau:
+ Một là: Đòi lại đất, tài sản của họ, của người thân trong các giai đoạn khác
nhau trước đây qua các cuộc điều chỉnh đã chia, cấp cho người khác: Sau cải cách
ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp. Đặc
biệt từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp theo mô hình sản xuất tập
thể, quản lý tập trung. Ruộng đất và các tư liệu sản xuất của nông dân được tập
trung vào hợp tác xã. Đến khi thực hiện Nghị quyết Trung Ương 10/TW năm 1988,
đất đai được phân chia đến hộ gia đình, cá nhân để sản xuất. Do việc phân chia đất
đai không hợp lý một số cán bộ xã, huyện đã làm sai như chia đất sản xuất cho
những người không phải là nông dân để rồi những người này đem bán, cho thuê,
trong khi đó nông dân không có đất sản xuất, một số hộ trước khi vào tập đoàn, hợp
tác xã có đất, đến khi giải thể họ không có đất để canh tác. Một số hộ thực hiện
chính sách nhường cơm xẻ áo của Nhà nước trong những năm 1981 – 1986 đã
nhường đất cho những người khác sử dụng, nay đòi lại… Ở miền Nam, Nhà nước
thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa đất đai, nhà cửa, tư
liệu sản xuất của địa chủ, tư bản và tay sai chế độ cũ hoặc giao nhà cửa, đất đai cho
người khác sử dụng, đến nay do có sự hiểu lầm về chính sách họ cũng đòi lại những
người đang quản lý, sử dụng. Ngoài ra, một số người bỏ đi nơi khác ở, ra nước
ngoài sinh sống cũng trở về đòi lại đất đai, tài sản trước đây của họ đã được giao
cho người khác quản lý, sử dụng.
+ Hai là: Tranh chấp giữa những người làm nghề thủ công, nay thất nghiệp
trở về đòi lại ruộng của những người làm nông nghiệp: Những người làm nghề thủ
công trước đây đã được phân ruộng để sản xuất, để ở, sau đó họ không sản xuất
nông nghiệp nữa hoặc chuyển đi nơi khác để làm nghề, đến nay họ trở về đòi lại đất
để sản xuất, để ở.
+ Ba là: Tranh chấp đòi lại đất, tài sản của nhà thờ, các dòng tu, chùa chiền,
miếu, nhà thờ họ. Dạng tranh chấp này thường xảy ra như sau: Trước đây do hoàn
13
cảnh lịch sử chính quyền địa phương đã mượn đất của các cơ sở nói trên để sử dụng
hoặc tịch thu một số cơ sở để làm trụ sở cơ quan, trường học… đến nay các cơ
sở đó đòi lại nhưng Nhà nước không trả lại được nên dẫn đến khiếu kiện của
các cơ sở đó.
Ngoài ra, trong những trường hợp nói trên, một số người được các nhà thờ,
dòng tu, chùa chiền, nhà thờ họ cho đất để ở họ đã xây dựng nhà kiên cố, hoặc
lấn chiếm thêm đất của các cơ sở nói trên dẫn đến việc các cơ sở nói trên đòi lại
đất, nhà.
+ Bốn là: Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ: Dạng
tranh chấp này phát sinh do việc một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất, cho ở
nhờ. Có vụ cho mượn, thuê trong thời gian gần đây, có vụ cho mượn, thuê cách đây
vài chục năm (nhất là ở miền Nam). Trong nhiều trường hợp không làm hợp đồng,
chỉ giao kết bằng miệng dẫn đến khi bên cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ đòi lại
hoặc là hết hạn hợp đồng, hoặc là bên mượn, thuê, ở nhờ đã xây dựng nhà kiên cố
thì việc tranh chấp này càng trở nên phức tạp.
- Thứ ba: Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng
đất khi vợ chồng ly hôn: đây là trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất hoặc tài
sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn. Đất tranh chấp có thể là đất
nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc đất để ở; có thể là giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa
một bên ly hôn với hộ gia đình vợ hoặc chồng hoặc có thể xảy ra khi bố mẹ cho con
đất đến khi ly hôn thì cha mẹ đòi lại…
- Thứ tư: Tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền
với quyền sử dụng đất: đây là dạng tranh chấp do người có quyền sử dụng đất, tài
sản gắn liền với đất đã chết mà không để lại di chúc, hoặc để lại di chúc không phù
hợp với quy định của pháp luật và những người hưởng thừa kế không thỏa thuận
được với nhau về phân chia thừa kế hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến
tranh chấp.
- Thứ năm: Tranh chấp giữa những người sử dụng với nhau về ranh giới giữa
các vùng đất được phép sử dụng và quản lý: đây là tranh chấp về ranh giới. Loại
14
tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh giới hoặc hai bên không xác
định được với nhau về ranh giới, một số trường hợp chiếm luôn diện tích đất của
người khác. Những trường hợp tranh chấp này xảy ra thường do ranh giới đất giữa
những người sử dụng đất liền kề không rõ, đất này thường sang nhượng nhiều lần
bàn giao không rõ ràng.
Ngoài ra, việc tranh chấp ranh giới xảy ra nhiều khi do lỗi của các cơ quan
nhà nước, đó là khi cấp đất cơ quan cấp đất có ghi diện tích, nhưng không đo đạc cụ
thể khi giao đất chỉ căn cứ vào giấy cấp đất và đơn kê khai diện tích của đương sự.
Sau này khi đương sự đo lại thấy diện tích đất ít hơn so với quyết định cấp đất cũng
như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc khi cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có phần diện tích chồng lên nhau. Do đó cũng gây nên tranh chấp giữa các
hộ liền kề nhau. Khi giải quyết tranh chấp, các cơ quan có thẩm quyền phải xác
định phần đất tranh chấp đó là thuộc quyền sử dụng của ai.
- Thứ sáu: Tranh chấp giữa đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới với
đồng bào dân tộc sở tại: đây là dạng tranh chấp thường xảy ra ở vùng Tây Nguyên.
Việc di dân, đặc biệt là di dân tự do khi đến nơi ở mới không phải lúc nào chính
quyền sở tại cũng cấp đất cho người dân di cư, dẫn đến việc người mới đến phá
rừng, lấn chiếm đất đai dẫn đến những tranh chấp với đồng bào dân tộc sở tại.
- Thứ bảy: Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử
dụng đất khác với nhân dân địa phương: do cơ chế trước đây nên dẫn đến tình trạng
các nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội bao chiếm một lượng lớn đất đai,
không sử dụng hết đất để đất bỏ hoang hoặc cho người dân sử dụng theo hình thức
phát canh, thu tô. Mặt khác, nhiều nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội
quản lý đất đai lỏng lẻo dẫn đến tình trạng người dân chiếm đất để sử dụng. Do đó
cũng dẫn đến những tranh chấp đất đai.
- Thứ tám: Các dạng tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử
dụng đất hợp pháp, tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Trong các dạng tranh chấp này thì người đang sử dụng
đất đã sử dụng đất hợp pháp, không có ai tranh chấp. Tuy nhiên, khi sử dụng quyền
15
và nghĩa vụ sử dụng đất của mình như: thực hiện các giao dịch về dân sự hoặc do
chủ trương, chính sách của Nhà nước như giải tỏa, trưng dụng, trưng mua hoặc do
người khác gây thiệt hại, hoặc bị hạn chế về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của
mình mà dẫn đến tranh chấp. Có các dạng như sau:
+ Một là: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng đất.
+ Hai là: Tranh chấp do người khác gây thiệt hại hoặc hạn chế quyền và
nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất.
+ Ba là: Tranh chấp về mục đích sử dụng, đặc biệt là tranh chấp về đất nông
nghiệp với đất lâm nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm, giữa đất trồng cao su
với đất trồng cà phê, giữa đất nông nghiệp với đất thổ cư trong quá trình phân bố và
quy hoạch sử dụng. Trong thực tế trường hợp tranh chấp này xảy ra như sau: do
mục đích sử dụng đất nên Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng để giao cho
người khác sử dụng với mục đích khác, dẫn đến người đang sử dụng khiếu kiện việc
chuyển mục đích sử dụng đất hay khiếu kiện việc thu hồi hoặc khiếu kiện người
được giao đất sử dụng với mục đích khác. Mặt khác, người được Nhà nước giao đất
chuyển mục đích sử dụng khiếu kiện người đang sử dụng đất phải giao đất cho
mình theo quyết định giao đất.
+ Bốn là: Tranh chấp về giải tỏa mặt bằng phục vụ các công trình công cộng,
lợi ích quốc gia và mức đền bù khi thực hiện giải tỏa. Trong tranh chấp dạng này
chủ yếu là khiếu kiện về giá đất bồi thường, diện tích đất được bồi thường, giá cả
đất tái định cư và bồi thường không đúng người, giải tỏa quá mức quy định để chừa
đất cấp cho các đối tượng khác. Trong tình hình hiện nay, việc quy hoạch mở mang
đường, đô thị quá lớn dẫn đến việc tranh chấp loại này rất gay gắt, phức tạp, có
nhiều người, tập thể đồng loạt khiếu kiện.
Hiện nay ngoài những tranh chấp như đã kể trên, còn có một loại tranh chấp
nữa, đó là tranh chấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai tức là tranh chấp
hành chính về đất đai. Các dạng tranh chấp thuộc loại này nảy sinh khi các đương
16
sự quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước về
đất đai hoặc cán bộ quản lý nhà nước về đất đai áp dụng đã ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của họ. Ví dụ: Các quyết định về giao đất, thu hồi đất, cho thuê
đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, các quyết định về giải quyết tranh chấp đất đai.
Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ
chồng ly hôn là một dạng tranh chấp phổ biến mà hiện nay các cơ quan pháp luật
của Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết. Cũng
thấy được rằng việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với
quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn có vai trò rất lớn đối với xã hội nói chung,
góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân trong xã hội, đặc biệt
là các cặp vợ chồng.
1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Theo quy định của pháp luật Việt Nam chỉ có thể hiểu “Tranh chấp đất đai
là tranh chấp về quyền sử dụng đất”. Sở dĩ Th.s Lưu Quốc Thái – Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh có kết luận như vậy vì: thứ nhất, theo khoản 1 Điều 5
Luật Đất đai năm 2003 quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu”; thứ hai, Điều 202 Luật đất đai năm 2013 có quy định: “Tranh
chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND xã,
phường, thị trấn nơi có tranh chấp. UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối
hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ
chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất đai”; thứ ba, Điều 160 Nghị định số
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai năm 2003 quy định:
“Tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai thì các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan
hành chính để được giải quyết”; thứ tư, đến nay các thuật ngữ tranh chấp đất đai và
tranh chấp quyền sử dụng đất đã được sử dụng như những thuật ngữ thay thế cho
nhau kể từ Luật Đất đai năm 1986 đến nay mà không hề có sự phân biệt.
17
Luật Đất đai năm 2003 lần đầu tiên tại khoản 26 điều 4 và tiếp tục được quy
định tại khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai là
tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên
trong quan hệ đất đai”.
Qua đó ta có thể thấy được, khái niệm “tranh chấp đất đai” là tranh chấp một
tổng thể những yếu tố hợp nhất chứ không phải là việc tranh chấp từng quyền và
nghĩa vụ đơn lẻ hay tranh chấp về quyền và nghĩa vụ khác của người sử dụng đất có
liên quan đến các quyền và nghĩa vụ nêu trên. Cách hiểu này đặt khái niệm tranh
chấp đất đai trong mối quan hệ không thể tách rời với tất cả các quy định có liên
quan, chứ không phải cô lập nó hoặc đặt nó lên trên tất cả các quy định khác nhằm
phát huy trí tưởng tượng một cách thái quá, dẫn đến những suy diễn không phù hợp.
Có nghĩa là, không thể “trộn lẫn” tranh chấp đất đai với những tranh chấp dân sự
thuần túy có liên quan đến đất đai.
Tranh chấp đất đai là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc xác định
quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai, phát sinh trực tiếp
hoặc gián tiếp trong quản lý và sử dụng đất đai.
Vậy từ đó ta có thể rút ra một định nghĩa như sau:
Tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan
hệ đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất [18,7].
Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xét giải quyết tranh chấp đất đai là một
trong những biện pháp quản lý Nhà nước đối với đất đai. Đó là biện pháp vô
cùng quan trọng để pháp Luật đất đai phát huy được vai trò của mình trong đời
sống xã hội.
Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là việc vận dụng các quy định của
pháp luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của
nhân dân.
Kết hôn là một hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly
hôn là một hiện tượng bất bình thường, là mặt trái của hôn nhân nhưng đó lại là mặt
không thể thiếu khi hôn nhân tan vỡ. Vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng thì ly hôn là
18
sự cần thiết cho cả hai, vì nó giải phóng cho hai vợ chồng, các con cũng như thành
viên khác trong gia đình thoát khỏi mâu thuẫn, xung đột, bế tắc trong cuộc sống.
Vậy ly hôn là gì?
Theo quy định tại Khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì
“Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết định theo
yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”. Hay nói cách khác ly hôn là sự
chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Sau khi kết hôn vì những lý do nhất
định, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng mâu thuẫn, quan điểm sống
không thể dung hòa, đời sống chung không thể kéo dài làm ảnh hưởng đến các
thành viên khác trong gia đình và ảnh hưởng đến việc nuôi dạy giáo dục con cái. Vì
thế ly hôn là giải pháp cho cả hai bên để mỗi bên tự tìm hạnh phúc cho mình. Qua
đó đảm bảo quyền tự do, bình đẳng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
mỗi người theo quy định của pháp luật.
Qua những phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về tranh chấp
quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn như sau: “tranh chấp quyền sử dụng đất
khi vợ ly hôn là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng và những người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về đất đai khi quan hệ hôn nhân của họ
chấm dứt và tranh chấp về quyền sử dụng đất đó được Tòa án công nhận
hoặc quyết định”.
1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng
Kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó phản ánh sự chung
sống của hai vợ chồng và con cái (nếu có). Như là một tất yếu của cuộc sống chung,
vợ và chồng thực hiện những quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn
tại và phát triển của gia đình. Đây là những quan hệ xảy ra phổ biến trong xã hội và
chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về hôn nhân và gia đình, trong một quy
chế được gọi là “chế độ tài sản của vợ chồng” (được quy định tại các Điều sau:
Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 32; Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình) [10].
Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng của pháp luật Hôn
nhân và gia đình, đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều luật gia và
19
các nhà áp dụng pháp luật. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc
chặt chẽ vào chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, chế độ tài sản của vợ
chồng ở mỗi quốc gia và trong cùng một đất nước ở các giai đoạn phát triển có thể
là khác nhau.
Thực tế có hai trường phái pháp luật mang hai quan điểm khác nhau về vấn
đề này. Phần lớn pháp luật của các nước trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa
thuận của vợ chồng về chế độ tài sản, vì vậy, một mặt pháp luật dự liệu một chế độ
tài sản của vợ chồng, mặt khác quy định những người kết hôn có quyền lập hôn ước
(Contrat de marriage – tiếng Pháp). Chế độ tài sản do pháp luật dự liệu chỉ có hiệu
lực áp dụng trong trường hợp hai vợ chồng không có hôn ước hoặc hôn ước được
lập ra nhưng vô hiệu do vi phạm những quy định của luật chung. Chỉ có một số
nước như Hungari, Roumani, Tiệp Khắc, Arhentina, Việt Nam và một số bang của
Mehico duy trì duy nhất một chế độ tài sản pháp định đối với vợ chồng.
Bộ luật dân sự Pháp năm 1804 đã tổ chức một cách có hệ thống các chế độ
tài sản của vợ chồng. Điều đó được thể hiện qua việc thiết lập một hệ thống các quy
định chung nhằm bảo vệ cuộc sống gia đình – được gọi là chế độ cơ sở, theo đó các
chế độ tài sản của vợ chồng, nhất là những chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ
chồng (chế độ ước định) phải triệt để tuân theo. Tại các Điều từ 212 đến 226 Bộ luật
dân sự Pháp năm 1804 đã quy định những quyền và nghĩa vụ riêng biệt của vợ
chồng với một tinh thần chung nhất là: vợ chồng cùng nhau đảm bảo điều hành gia
đình về tinh thần và vật chất, chăm lo việc dậy dỗ con cái và chuẩn bị cho tương lai
của chúng (Điều 213), đặc biệt các điều từ 214 đến 226 tập hợp nên một chế định
pháp lý mà học thuyết của Pháp gọi là chế độ cơ sở của các chế độ tài sản của vợ
chồng (Le resgime primaire hoặc Le statut de base). Đây là những quy định về các
quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống gia
đình. Đó là những vấn đề: đóng góp vào việc chi tiêu của gia đình, bảo vệ chỗ ở của
gia đình … Theo quy định của Điều 226, các quy định trên có hiệu lực đối với tất cả
các quan hệ vợ chồng, bất kể họ lựa chọn chế độ hôn sản nào. Trong bối cảnh thừa
nhận nhiều chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ cơ sở giữ vai trò chủ đạo, nhất là đối
20
với chế độ hôn sản ước định, nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cho sự ổn
định cuộc sống gia đình.
Chế độ tài sản của vợ chồng trong luật của Cộng hòa Pháp dựa trên nguyên
tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của vợ chồng nhưng không thể tách rời nghĩa vụ của
họ đối với đời sống chung của gia đình. Điều đó tạo điều kiện cho vợ, chồng có thể
thực hiện những quan hệ tài sản phù hợp với tình hình kinh tế của bản thân, mang
lại lợi ích cho gia đình và cá nhân mỗi bên vợ, chồng.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của Việt Nam chỉ tập trung quy định về
một chế độ tài sản pháp định (chế độ cộng đồng toàn sản – tài sản mà vợ chồng có
được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng), tức là pháp luật Việt Nam
không quy định một điều luật nào về quyền lập hôn ước của vợ chồng. Nhà lập
pháp không dự liệu bất kỳ một điều khoản nào cho phép vợ chồng lập hôn ước,
nhưng cũng không ấn định những quy định cấm. Trong bối cảnh đó, nhìn chung
giới luật gia và những người áp dụng pháp luật đều cho rằng chế độ hôn sản pháp
định có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ hôn nhân hợp pháp. Do vậy, mọi
thỏa thuận của vợ chồng trái với các quy định của chế độ hôn sản pháp định cần bị
tuyên bố là vô hiệu khi có tranh chấp xảy ra.
Nhìn chung có thể hiểu khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng như sau:
“Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quan hệ sở hữu của vợ
chồng, cụ thể là các quy định về căn cứ xác lập tài sản chung và riêng của vợ,
chồng; phạm vi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các
trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng”.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả nghiên cứu về vấn đề
quyền sử dụng đất trong quan hệ hôn nhân và việc xác định quyền sử dụng đất là tài
sản chung, tài sản riêng của vợ chồng.
Có thể nói quyền sử dụng đất là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất
đai. Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân [24, Điều 5, Điều 17].
21
Khi phân tích quyền sở hữu đất đai, chúng ta thấy với tư cách là chủ sở hữu
đại diện, Nhà nước có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai.
Trong các quyền năng đó quyền sử dụng là có nghĩa thực tế lớn nhất, trực tiếp đem
lại lợi ích cho chủ sở hữu. Nhưng Nhà nước không phải là chủ thể trực tiếp sử dụng
đất mà gián tiếp sử dụng đất thông qua các tổ chức, cá nhân bằng cách giao đất, cho
thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất của những người sử dụng đất ổn định.
Theo quy định của Bộ Luật dân sự năm 2005 thì quyền sử dụng là quyền
“khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” [29, Điều 192]. Người
không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản trong các trường hợp được
chủ sở hữu chuyển quyền sử dụng hoặc do pháp luật quy định.
Quyền sử dụng đất là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất đai.
Thông qua giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất, Nhà nước trao
cho người nhận đất các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, trong đó có sự
phân biệt theo loại đất, theo đối tượng sử dụng, theo hình thức giao đất hoặc thuê
đất. Quyền sử dụng đất có sự khác nhau về mục đích sử dụng và đối tượng sử dụng
đất. Quyền sử dụng đất nông nghiệp khác với quyền sử dụng đất ở; quyền sử dụng
đất của hộ gia đình, cá nhân khác với quyền sử dụng đất của tổ chức. Quyền sử
dụng đất là một quyền dân sự, theo đó người sử dụng được quyền khai thác công
dụng, các thuộc tính có lợi từ đất nhằm mang lại lợi ích cho mình.
Ở nước ta các tổ chức, cá nhân không phải là chủ sở hữu đất nhưng được
Nhà nước trao cho quyền sử dụng đất. Đây là một quyền năng đặc biệt không giống
với quyền sử dụng bất kỳ một tài sản nào khác. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
quyền sử dụng đất đai thuộc về người sử dụng đất. Hay nói cách khác quyền sử
dụng đất đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai, được người sở hữu đất chuyển cho
người sử dụng đất thực hiện và trở thành một loại quyền tài sản của người sử dụng
đất. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, xong quyền sử dụng đất lại thuộc về cá nhân
hoặc tổ chức. Người sử dụng đất không chỉ được khai thác các lợi ích từ đất một
cách ổn định, lâu dài mà họ còn được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các giao
dịch dân sự và kinh tế có liên quan đến đất đai. Có thể nói, Nhà nước đã giao cho
22
người sử dụng đất quyền định đoạt số phận pháp lý của thửa đất mà mình được sử
dụng trong khuôn khổ pháp lý quy định, nhờ đó người sử dụng đất ngoài việc khai
thác, sử dụng đất còn có thể chủ động thực hiện chuyển quyền sử dụng đất cho
người khác khi không có nhu cầu hoặc điều kiện sử dụng.
Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013, Bộ
Luật Dân sự năm 1995 và Bộ Luật Dân sự năm 2005 đều khẳng định cá nhân, tổ
chức có quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, không thể đồng nhất quyền sở hữu đất đai
với quyền sử dụng đất bởi chúng có sự khác biệt cả về nội dung và ý nghĩa cụ thể.
Dựa trên những quy định của pháp luật đất đai hiện hành cùng với những
quy định về chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, ta có thể nhận thấy rằng, vợ chồng có thể là một trong số những chủ thể được
Nhà nước trao quyền sử dụng đất và song song với nó là việc thực hiện các nghĩa vụ
của người sử dụng đất. Chính vì vậy, quyền sử dụng đất với tư cách là một
quyền tài sản có thể là tài sản chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của mỗi
bên vợ, chồng.
1.3.1. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng
Khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “quyền sử
dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng
chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.
Điều 58 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 bảo
hộ quyền sở hữu công dân quy định: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản
khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”.
Việc xác định khối tài sản chung của vợ chồng căn cứ vào sự tồn tại của
quan hệ hôn nhân – quan hệ vợ chồng. Theo khoản 7 điều 8 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng
tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Thời kỳ hôn nhân bắt
23
đầu từ khi kết hôn tức là ngày Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn – nơi thường
trú của vợ hoặc chồng công nhận, vào sổ đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận
kết hôn cho hai vợ chồng. Quan hệ hôn nhân chấm dứt khi một bên vợ, chồng chết
hoặc vợ chồng ly hôn (từ khi phán quyết ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật).
Các tài sản mà vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (trong đó có quyền sử dụng
đất) đều được coi là tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền bình đẳng trong
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo
ra tài sản hay công sức đóng góp của mỗi bên.
Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt và có giá trị lớn. Trên thực tế, người
chồng thường nắm giữ toàn bộ tài sản trong gia đình và thường đứng tên trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc quy định quyền sử dụng đất có được
sau khi kết hôn cũng là tài sản chung của vợ chồng có ý nghĩa đảm bảo sự bình
đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ tài sản. Vấn đề chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc sau khi ly hôn là nhà ở, quyền sử dụng đất rất
phức tạp do các giấy tờ pháp lý liên quan đến quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một
người và việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung hay riêng để đảm bảo lợi
ích chính đáng của mỗi người là rất khó khăn. Việc Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định một cách rõ ràng quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi
kết hôn là tài sản chung, hoặc có được trước khi kết hôn mà vợ chồng thỏa thuận là
tài sản chung là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi
chia tài sản chung của vợ chồng.
Do quan hệ hôn nhân được xác lập, tính cộng đồng và mục đích của quan
hệ hôn nhân là nhu cầu khách quan để nhà làm luật dự liệu tài sản chung của vợ
chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất [25, Điều 27]. Quy định này hoàn toàn phù
hợp với Điều 40, 214 của Bộ Luật Dân sự về quyền bình đẳng của vợ chồng,
quyền sở hữu chung và phù hợp với truyền thống gia đình Việt Nam. Chính sự
hợp nhất về tài sản chung của vợ chồng là yếu tố tạo nên sự hài hòa và bền chặt
hơn trong quan hệ gia đình.
24
1.3.1.1. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước giao, giao khoán,
cho thuê sau khi kết hôn
Vợ chồng được Nhà nước giao, giao khoán hay cho thuê quyền sử dụng đất
sau khi kết hôn thì quyền sử dụng đất đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng. Nhưng
nếu sau khi kết hôn mà vợ hoặc chồng được Nhà nước giao, giao khoán hay cho
thuê quyền sử dụng đất riêng thì đó là tài sản chung của mỗi bên vợ, chồng [3, Điều
24, Điều 25]. Nhà nước có thể giao đất cho vợ chồng theo hình thức có thu tiền sử
dụng đất hay không thu tiền sử dụng đất tùy từng loại đất và mục đích sử dụng
chúng như thế nào theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật Đất đai năm 2013: Nhà
nước giao đất không thu tiền sử dụng đất trong trường hợp “Hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được
giao đất nông nghiệp trong hạn mức quy định tại Điều 129 của Luật này” và Khoản
1,4,5 Điều 34 Luật Đất đai năm 2003: Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
trong trường hợp sau: “1.Hộ gia đình, cá nhân được giao đất ở;…4.Hộ gia đình, cá
nhân được giao đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; 5.Hộ gia
đình, cá nhân sử dụng đất để xây dựng công trình công cộng có mục đích kinh
doanh;…”, nhưng quy định tại Điều 55 Luật Đất đai năm 2013 thu hẹp lại chỉ còn
4 đối tượng giao đất có thu tiền sử dụng đất: “1. Hộ gia đình, cá nhân được giao đất
ở ...; 4 Tổ chức kinh tế được giao đất thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa trang,
nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng”. Việc giao đất
cho các chủ thể thông qua hình thức cho thuê đất được Nhà nước thực hiện thông
qua các cơ quan có thẩm quyền. Nhà nước cho thuê đất dưới hai hình thức chính
đó là: thu tiền thuê đất hàng năm và thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian
thuê. Theo quy định của Luật đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 thì việc
Nhà nước cho thuê đất chỉ gồm có 2 hình thức như trên, còn Luật đất đai năm
1993 thì bao gồm có ba hình thức đó là: thu tiền thuê đất hàng năm, thu tiền thuê
đất nhiều năm và thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Nhìn chung,
Luật Đất đai năm 2013, Luật đất đai năm 2003 đã có những đổi mới khá tiên tiến
so với Luật đất đai năm 1993 về vấn đề này.
25
Theo khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai năm 2013 quy định thì có 7 trường hợp
Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm và các đối tượng chủ yếu là hộ
gia đình và cá nhân, còn trường hợp Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê thì đối tượng chủ yếu là người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
1.3.1.2. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được từ thu nhập hợp pháp trong
thời kỳ hôn nhân
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng cùng nhau chung sức tạo lập của cải vật
chất để phục vụ cho nhu cầu sống chung của gia đình. Thông thường tài sản do vợ,
chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều được xác định là tài sản chung vợ chồng.
Những tài sản đó có thể là do vợ và chồng cùng trực tiếp lao động, hoặc do một
trong hai bên trực tiếp lao động để làm ra sản phẩm, sản phẩm đó để dùng trong gia
đình, còn dư ra, đem bán để có sự tích lũy, cũng có thể toàn bộ sản phẩm do vợ
chồng làm ra đều đem bán, tạo ra thu nhập cho gia đình; tài sản chung cũng có thể
hình thành qua việc được trả công lao động, thuê người khác làm, do tổ chức sản
xuất, kinh doanh mà có v.v…
Có thể thấy rằng thông qua sức lao động của vợ, chồng được thể hiện dưới
các hình thức khác nhau để tạo nguồn thu nhập, tạo ra tài sản trong gia đình, dù các
tài sản đó được hình thành dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả quyền sử dụng
đất), nhưng nếu đó là kết quả của lao động chân chính, đều được công nhận là tài
sản chung vợ chồng.
Ngoài những thu nhập đã được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 27, thì những thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền
trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng
được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247, Điều 248, Điều 249,
Điều 250, Điều 251, Điều 252 Bộ luật Dân sự năm 2005 … trong thời kỳ hôn nhân.
Do đó, quyền sử dụng đất mà vợ chồng tạo dựng, có được từ nguồn thu nhập
hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
26
1.3.1.3. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho
chung hoặc vợ chồng nhận thế chấp
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung
hoặc vợ chồng nhận thế chấp là trường hợp xác lập tài sản chung của vợ chồng dựa
trên quyền định đoạt của chủ sử dụng hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Điều 631 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định: “cá nhân có quyền lập di chúc
để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp
luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”, qua quy định này chúng ta có
thể nhận thấy, theo pháp luật hiện hành có hai hình thức thừa kế đó là thừa kế theo
di chúc và thừa kế theo pháp luật. Nếu quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ, chồng có
được do thừa kế theo pháp luật là tài sản riêng của mỗi bên vì thừa kế theo pháp luật
là thừa kế theo hàng thừa kế, vợ chồng được hưởng di sản thừa kế với tư cách riêng
của mình, thì không phát sinh sở hữu chung. Trường hợp vợ chồng cùng hàng thừa
kế theo quy định của pháp luật về thừa kế thì quyền sử dụng đất được thừa kế theo
hàng thừa kế, theo suất thừa kế vẫn là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng. Quyền sử
dụng đất đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng tự nguyện nhập tài sản
riêng của mình vào khối tài sản chung hoặc có thỏa thuận là tài sản chung của vợ
chồng. Chỉ có quyền sử dụng đất mà cả hai vợ chồng được thừa kế chung theo di
chúc mà trong đó người để lại di chúc không phân biệt kỷ phần tài sản cho mỗi bên
vợ chồng được hưởng mới là tài sản chung của vợ chồng.
Trong quan hệ tặng, cho cũng sẽ tương tự như vậy, nếu như vợ hoặc chồng
được tặng, cho riêng hoặc trong hợp đồng tặng, cho người để lại di chúc đã xác định
kỷ phần từ trước cho mỗi bên vợ chồng thì về nguyên tắc đó là tài sản riêng của mỗi
bên vợ chồng, và nó sẽ là tài sản chung nếu như vợ hoặc chồng tự nguyện nhập vào
khối tài sản chung hay vợ chồng thỏa thuận đó là tài sản chung, hoặc nếu như trong
hợp đồng tặng cho thể hiện ý chí cho chung quyền sử dụng đất cho cả hai vợ chồng,
không phân biệt cụ thể phần quyền của mỗi người thì quyền sử dụng đất đó sẽ là tài
sản chung của vợ chồng.
27
Về vấn đề vợ chồng nhận thế chấp, trong khoản 2 Điều 26 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
Hôn nhân và gia đình có quy định như sau: “trong trường hợp vợ chồng nhận thế
chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba thì khi ly hôn, quyền nhận thế chấp đất
cũng là tài sản chung của vợ chồng”. Qua đó, khi vợ chồng nhận thế chấp quyền sử
dụng đất từ người thứ ba thì quyền nhận thế chấp quyền sử dụng đất đó cũng là tài
sản chung của vợ chồng. Việc vợ, chồng hoặc các thành viên khác trong gia đình
thực hiện các giao dịch dân sự bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh là để phục
vụ nhu cầu hàng ngày của gia đình, để tạo ra của cải vật chất đảm bảo tốt nhất
lợi ích của các thành viên trong gia đình. Những hoạt động đó được thực hiện
và tạo ra của cải trong thời kỳ hôn nhân, do vậy những tài sản đó là tài sản
chung của vợ chồng.
1.3.1.4. Quyền sử dụng đất mà mỗi bên có được trước khi kết hôn do được
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, nhận thế chấp hoặc quyền sử dụng đất mà mỗi
bên được Nhà nước giao, cho thuê trước khi kết hôn có thỏa thuận là tài sản chung
Quyền sử dụng đất mà mỗi bên có được trước khi kết hôn hay được thừa kế
riêng là tài sản riêng của mỗi người. Nhưng khi hai vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung, nó sẽ là tài sản chung và khi ly hôn, tài sản này sẽ được chia cho cả hai vợ
chồng. Đây là một quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Quy định này rất phù hợp với truyền thống
đạo đức và thực tế đời sống gia đình Việt Nam; nó đảm bảo quyền tự định đoạt tài
sản của vợ chồng. Trong cuộc sống hôn nhân, nhu cầu ăn chung, ở chung, vì lợi ích
chung của gia đình đã khiến một bên vợ hoặc chồng tự nguyện đưa tài sản riêng của
mình vào khối tài sản chung để dễ quản lý, sử dụng, đảm bảo tốt nhất nhu cầu thiết
yếu của gia đình.
Trong thực tế hiện nay, có nhiều cặp vợ chồng chỉ đồng ý tài sản riêng của
mình là tài sản chung của vợ chồng qua “lời nói”, do vậy khi xảy ra tranh chấp, bên
cho rằng tài sản đó thuộc sở hữu chung có nghĩa vụ chứng minh, nếu không chứng
minh được thì nó vẫn là tài sản riêng của bên kia. Chính vì vậy, Khoản 1 Điều 13
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi
28
hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử
dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của mỗi bên của mỗi
bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 2 điều
32 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 phải được lập thành văn bản, có chữ
ký của cả vợ hoặc chồng. Văn bản đó có thể được công chứng hoặc chứng thực theo
quy định của pháp luật”.
1.3.1.5. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước công nhận trong
thời kỳ hôn nhân
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước công nhận trong thời kỳ
hôn nhân là trường hợp mà vợ chồng được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất
từ việc chia tách, sáp nhập theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, từ
kết quả của việc giải quyết tranh chấp của Tòa án hay của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong những căn cứ xác định
quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng. Có thể nói đây là chứng cứ pháp
lý quan trọng chứng minh quyền của chủ sử dụng đất và là căn cứ pháp lý quan
trọng để giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Vì vậy, Nhà nước
tạo mọi điều kiện thuận lợi để người chủ quyền sử dụng đất đăng ký và được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì quyền sử dụng đất là loại tài sản đặc biệt
quan trọng nên theo luật định trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi tên
cả hai vợ chồng thì mới khẳng định đó là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên,
trong Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hướng dẫn: “trong giấy chứng nhận
quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài
sản chung của vợ chồng, nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong
giấy chứng nhận quyền sở hữu phải có nghĩa vụ chứng minh”. Quy định này làm
hạn chế ý nghĩa của Khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo
hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán trong trường hợp có tranh chấp thì người có
nghĩa vụ chứng minh là người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, nhưng
thực tế thì trong trường hợp có tranh chấp người có nghĩa vụ chứng minh phải là
29
người không có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu và chứng minh tài sản đó
là tài sản chung của vợ chồng chứ không phải là tài riêng của bên kia.
Nhà làm luật đã sử dụng nguyên tắc suy đoán trong việc xác định khối tài
sản chung của vợ chồng ngoài việc dự liệu căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại
tài sản thuộc sở hữu chung. Nguyên tắc suy đoán này không đủ cơ sở để xác định là
tài sản riêng của vợ chồng có thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay không,
nhưng nguyên tắc này đảm bảo được sự công bằng trên cơ sở vì lợi ích chung của
gia đình. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 27 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000, và đó cũng là cơ sở để công nhận tài sản chung của vợ chồng
nếu như vợ hoặc chồng không chứng minh được quyền sử dụng đất là tài sản
riêng của mình.
Trên đây là những cơ sở xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ
chồng. Và đó là những cơ sở để khi giải quyết tranh chấp Tòa án không gặp khó
khăn, đồng thời đảm bảo được lợi ích chính đáng của đương sự.
1.3.1.6. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi thường trong
thời kỳ hôn nhân
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất
trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Nếu quyền sử dụng đất Nhà
nước thu hồi là tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng, khi Nhà nước thực hiện
chính sách bồi thường thì giá trị quyền sử dụng đất đó được nhà nước bồi thường là
tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
Theo Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Việc bồi thường
được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi,
nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể
của loại đất thu hồi do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định
thu hồi đất”.Qua đó chúng ta có thể thấy rằng, nếu quyền sử dụng đất mà mỗi bên
vợ chồng có được do Nhà nước bồi thường từ quyền sử dụng phần đất bị thu hồi sẽ
là tài sản riêng của mỗi bên nếu phần quyền sử dụng đất bị thu hồi ban đầu là tài sản
riêng của mỗi bên vợ chồng, do đó không phát sinh sở hữu chung. Quyền sử dụng
30
đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi thường là tài sản chung khi một bên vợ hoặc
chồng tự nguyện sát nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng.
Trong trường hợp quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi
thường là tài sản chung của vợ chồng mà vợ chồng chưa thực hiện nghĩa vụ tài
chính về đất đai theo quy đinh của pháp luật thì trước khi bồi thường Nhà nước sẽ
trừ đi phần giá trị nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện trong giá trị được bồi thường.
Nếu việc bồi thường diễn ra đúng lúc vợ chồng xin ly hôn chia tài sản là quyền sử
dụng đất được bồi thường thì tùy theo tỷ lệ phần giá trị mỗi bên được hưởng Nhà
nước sẽ xác định phần nghĩa vụ tài chính cần phải thực hiện của mỗi bên.
Ví dụ một trường hợp như sau: Vợ chồng anh Hưng (cán bộ công chức Nhà
nước) và chị Liên (nông dân) xin ly hôn chia tài sản chung là quyền sử dụng đất
được Nhà nước bồi thường là đất nông nghiệp. Trong trường hợp này chị Liên là
người có nhu cầu trực tiếp sử dụng đất. Nếu như Nhà nước không có đất nông
nghiệp để bồi thường cho vợ chồng anh chị, thì căn cứ điểm b khoản 1 Điều 24
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình: “Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có
điều kiện trực tiếp sử dụng đất, thì người đó có quyền được tiếp tục sử dụng toàn bộ
đất đó sau khi đã thỏa thuận với bên kia; nếu không thỏa thuận được thì bên sử
dụng đất phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà bên đó
được hưởng theo mức do hai bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu
cầu Tòa án giải quyết” . Căn cứ khoản 1 Điều 84 Luật Đất đai năm 2013: “Trường
hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất mà không có đất để bồi
thường cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc bồi thường bằng tiền, còn được hỗ
trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm ”. Trường hợp của anh Hưng và chị
Liên sẽ giải quyết như sau: chị Liên là người được ưu tiên nhận phần đất nông
nghiệp nếu vợ chồng chị có ly hôn, nhưng nếu phần đất đó bị Nhà nước thu hồi mà
Nhà nước không có đất để bồi thường thì Nhà nước ngoài việc bồi thường bằng tiền
thì còn phải hỗ trợ để chị Liên ổn định cuộc sống, bên cạnh đó đào tạo nghề và bố
trí việc làm mới cho chị Liên để chị có thể đảm bảo được cuộc sống của mình.
31
1.3.2.Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ chồng
Khoản 1 Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;
tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản
được chia riêng cho vợ chồng theo quy định tại khoản 1 điều 29 và điều 30 của
Luật này, đồ dùng, tư trang cá nhân”.
Quyền sử dụng đất là quyền tài sản, vì vậy nó có thể là tài sản chung của vợ
chồng hoặc là tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng. Trước khi kết hôn, cá nhân
bằng sức lao động và nghề nghiệp của mình có thể tạo ra được khối tài sản lớn như
quyền sử dụng đất, hoặc quyền sử dụng đất cũng có thể được tặng, cho, thừa kế
riêng, những tài sản này được tạo lập trước thời kỳ hôn nhân và không thể coi là tài
sản chung của vợ chồng nếu không có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền sử dụng đất
đó. Tuy nhiên, do một số yếu tố khách quan nên trước đây Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959 quy định những tài sản mà vợ, chồng có được đều là tài sản chung
của vợ chồng, không phân biệt nguồn gốc và thời điểm xác lập quyền sở hữu (chế
độ cộng đồng toàn sản). Điều này dẫn đến tình trạng một số người mưu cầu lợi ích
kinh tế để hưởng lợi cho riêng mình chứ không vì mục đích cao đẹp của hôn nhân là
xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định: “vợ, chồng có
quyền đầu tư kinh doanh riêng, do đó có quyền yêu cầu tòa án hoặc tự thỏa thuận
với nhau chia tài sản chung để lấy tài sản riêng đó sử dụng vào mục đích kinh
doanh của mình”. Quyền sử dụng đất là tài sản có giá trị thực tế và giá trị sử dụng
lớn. Khi kinh doanh riêng thua lỗ dẫn đến phá sản doanh nghiệp, trước hết người vợ
hoặc người chồng phải lấy tài sản riêng của mình để chịu trách nhiệm về tài sản.
Chỉ khi nào tài sản riêng không đủ thì mới lấy phần tài sản của người đó trong khối
tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ của mình. Như vậy, quyền lợi của mỗi bên vợ,
chồng cũng như mọi người khác trong xã hội được bảo vệ. Trước khi kết hôn, vợ và
chồng đều là những chủ thể pháp lý độc lập với các quyền và nghĩa vụ hoàn toàn
32
độc lập không có sự ràng buộc pháp lý trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình. Do
đó, quyền sử dụng đất đương nhiên là tài sản riêng của mỗi bên. Quyền sử dụng đất
này cũng có thể do vợ, chồng được tặng, cho riêng hay thừa kế riêng.
Quyền sử dụng đất được thừa kế, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, nếu
vợ hoặc chồng không tự nguyện nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng khi hôn
nhân còn tồn tại thì đương nhiên vẫn là tài sản riêng của mỗi người.
Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng được chia riêng cho vợ,
chồng theo khoản 1 Điều 29 và Điều 30 (chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn
nhân còn tồn tại). Vợ hoặc chồng có thể sử dụng quyền sử dụng đất là tài sản riêng
đó để đầu tư kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng.
Một nguyên tắc quan trọng đã được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 kế
thừa từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là “vợ, chồng có quyền nhập hoặc
không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”. Như vậy, quyền sử dụng đất của
vợ chồng có trước khi kết hôn, được thừa kế riêng, tặng cho riêng sẽ là tài sản
riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng, nó chỉ có thể là tài sản chung khi vợ chồng có
thỏa thuận.
Mặc dù pháp luật Việt Nam tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu
riêng về tài sản của vợ chồng nhưng không thừa nhận (và không cho phép) việc vợ,
chồng xác lập chế độ biệt sản trong hôn nhân như phần lớn các nước tư bản. Ví dụ
như ở Hoa kỳ, hậu hôn ước qui định về quyền lợi về tài sản trong thời kì hôn nhân
bao gồm: qui định về việc giới hạn hay từ bỏ việc cấp dưỡng; đặt khối tài sản có
được trong suốt thời kì hôn nhân trong tình trạng riêng biệt. Như vậy có thể nói kiểu
hậu hôn ước này cũng là một hình thức chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân,
hậu hôn ước này phải được lập thành văn bản có chữ kí của cả hai vợ chồng, giá trị
của hậu hôn ước chỉ được công nhận khi tài sản riêng của nhau được các bên biết
rõ, không có sự hăm dọa, gian dối hay cưỡng bức trong việc lập hôn ước. Sau khi
lập hậu hôn ước, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ biệt sản.
Luật hôn nhân gia đình Trung Quốc có quy định riêng về hợp đồng hôn
nhân ở Chương II, do đó việc phải làm trước khi kết hôn của các vợ chồng Trung
33
Quốc đó là ký một bản hợp đồng hôn nhân với các điều kiện như cả hai phải tự
nguyện, không có sự can thiệp của bên thứ ba [31, Điều 5]; nữ 20 tuổi, nam 22 tuổi
[31, Điều 6]; không có quan hệ huyết thống 3 đời, không bị bệnh nan y [31, Điều 7]
... và hợp đồng hôn nhân phải đăng ký với cơ quan đăng ký kết hôn [31, Điều 8].
Qua đó chúng ta có thể thấy được rằng, việc quy định về hợp đồng hôn nhân trong
Luật hôn nhân gia đình Trung Quốc năm 1980 sửa đổi, bổ sung năm 2001 là một
bước tiến mới, nó góp phần tạo lập sự tin tưởng, độc lập cho cuộc hôn nhân. Nếu
như cuộc hôn nhân tốt đẹp thì điều đó có thể là không cần thiết nhưng nếu có mâu
thuẫn xảy ra giữa các cặp vợ chồng thì đây đúng là một biện pháp ưu việt tránh
được nhiều tranh cãi trong quá trình giải quyết ly hôn. Bởi đăng ký kết hôn là tiền
đề, là cơ sở để các cơ quan tư pháp căn cứ trong việc phân chia tài sản chung, tài
sản riêng của vợ chồng.
Chi phối toàn bộ chế độ tài sản trong quan hệ vợ chồng theo pháp luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam đó là nguyên tắc sở hữu chung hợp nhất luôn là nguyên
tắc chủ đạo, chi phối toàn bộ chế độ tài sản trong quan hệ vợ chồng theo pháp luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình,
việc nhập tài sản riêng của vợ chồng là nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản
khác có giá trị lớn vào khối tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản
có chữ ký của cả vợ và chồng. Văn bản này có thể được công chứng, chứng thực
theo quy định của pháp luật. Đây là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp về tài
sản chung, tài sản riêng. Tranh chấp về quyền sử dụng đất thường xảy ra khá phức
tạp, vì vậy một khi giữa vợ và chồng đã có văn bản thỏa thuận (có chữ ký của hai
bên) tài sản riêng của một bên nhập vào tài sản chung của vợ chồng thì tài sản đó
sẽ là tài sản chung của vợ chồng và khi ly hôn thì tài sản đó sẽ chia đôi cho mỗi
bên vợ chồng.
Pháp luật về hôn nhân gia đình cần có những quy định về việc vợ chồng
được quyền lựa chọn về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn, có quy định
như vậy mới đáp ứng được với xu hướng phát triển của xã hội, đảm bảo quyền và
34
lợi ích của vợ chồng và phù hợp với xu thế chung của hệ thống pháp luật trên thế
giới.
1.4. Nguyên tắc chung của giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi
vợ chồng ly hôn
Nguyên tắc chung khi giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi vợ
chồng ly hôn là những tư tưởng chỉ đạo trong quá giải quyết tranh chấp về quyền sử
dụng đất khi vợ chồng ly hôn.
Xuất phát từ những quy định về thành phần tài sản chung của vợ chồng tại
Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và những tài sản nào là tài sản riêng
của vợ, chồng tại Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, ta có thể rút ra một
nguyên tắc chung nhất khi chia tài sản của vợ chồng, đó là việc chia tài sản của vợ
chồng chỉ đặt ra đối với những tài sản nào là tài sản chung, nếu không phải là tài sản
chung thì không chia. Mặc dù Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không quy định
nguyên tắc này, nhưng phải khẳng định rằng đây là nguyên tắc xuất phát từ nội
dung của Luật và là nguyên tắc đầu tiên khi chia tài sản chung của vợ chồng. Rõ
ràng đối với tài sản riêng của vợ, chồng thì mỗi bên đều có toàn quyền định đoạt đối
với loại tài sản này. Chính vì vậy, giải quyết tranh chấp sử dụng đất của vợ chồng
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn chỉ đặt ra đối với quyền sử dụng đất là
tài sản chung của vợ chồng.
Pháp luật quy định một số nguyên tắc chung về đường lối giải quyết các
tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đó cũng là những nguyên tắc chung
khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. Các nguyên
tắc này xuất phát từ mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mỗi bên vợ,
chồng, các thành viên trong gia đình và lợi ích của xã hội. Cho nên, trong quá trình
giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án cần
phải quán triệt tuân theo các nguyên tắc chia tài sản quy định tại Điều 95 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000.
Trước hết là nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng.
Khoản 1 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: “ Việc chia tài sản khi ly
35
hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó”. Như vậy, khi
ly hôn, tài sản của vợ chồng được chia như thế nào trước hết phụ thuộc vào chính ý
chí của họ. Pháp luật rất coi trọng và khuyến khích sự thỏa thuận của vợ chồng về
việc chia tài sản khi ly hôn. Song sự thỏa thuận này phải phù hợp với các nguyên
tắc của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, bảo đảm tính tự nguyện, không có sự
cưỡng bức, lừa dối.
Nếu vợ chồng không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án
sẽ quyết định chia tài sản như thế nào khi hai bên không đạt được sự thỏa thuận và
có yêu cầu giải quyết. Cho dù các bên có yêu cầu Tòa án giải quyết thì trước tiên
Tòa án cũng phải tiến hành hòa giải, hướng dẫn, giải thích, giúp đỡ để các đương sự
tự giàn xếp, thỏa thuận dưới sự giám sát và công nhận của Tòa án. Nếu tòa án tiến
hành hòa giải thành thì trước tiên Tòa án cũng phải tiến hành hòa giải thành thì việc
giải quyết tranh chấp sẽ có nhiều thuận lợi, vừa đảm bảo đúng pháp luật, đoàn kết
trong quần chúng, tránh được những mâu thuẫn, bất đồng khi ly hôn, vừa giúp cho
đương sự tiết kiệm thời gian, chi phí và công sức, bởi “ sự thỏa thuận” là kết quả
của sự phù hợp ý chí, nguyện vọng của các bên đương sự. Trường hợp vợ chồng
không thỏa thuận được với nhau, khi vợ, chồng có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định.
Khi ly hôn, tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó.
Nếu có tranh chấp thì người có tài sản riêng phải chứng minh đó là tài sản riêng của
mình. Việc chứng minh có thể bằng sự công nhận của bên kia hoặc bằng các giấy tờ
xác nhận quyền sở hữu riêng của mình (di chúc, hợp đồng, tặng cho…). Trong
trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp
là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung [25, Điều 27, khoản 3].
Trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc chia
tài sản chung khi ly hôn và yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án tiến hành phân chia
tài sản theo các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000:
36
Thứ nhất, “Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng
có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi
bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong
gia đình được coi như lao động có thu nhập” [25, Điều 95, khoản 2, điểm a]. Về
nguyên tắc, phần của vợ, chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng là bằng nhau.
Tuy vậy, trong mỗi trường hợp cụ thể, để bảo đảm quyền lợi chính đáng của mỗi
bên Tòa án có thể quyết định khác với nguyên tắc chung đó, chia theo công sức
đóng góp, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên cho công bằng và hợp lý. Khi phân chia tài
sản chung của vợ chồng, Tòa án không thể máy móc áp dụng nguyên tắc “chia đôi
tài sản” mà phải xem xét hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên (vợ chồng kết hôn lâu chưa,
ai sẽ chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, khả năng thu nhập của mỗi người ra sao…);
tình trạng tài sản (tài sản chung bao gồm tài sản nào, giá trị, nguồn gốc phát sinh tài
sản, tài sản còn hay không còn, tài sản nào có thể phân chia bằng hiện vật, tài sản
nào chia theo giá trị…).
Ngoài ra, Tòa án còn phải căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên vào
việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung, xem ai là người có công sức đóng góp
nhiều hơn, ai là người lao động chủ yếu trong gia đình…Sự đóng góp đó có thể trực
tiếp bằng sức lao động hoặc tài sản mà người đó bảo ra để tạo nên tài sản chung
của vợ chồng như dùng tài sản riêng để sửa chữa, cải tạo, tu bổ làm tăng giá trị của
tài sản chung, tài sản riêng của mỗi bên đem nhập vào tài sản chung của vợ
chồng…Trong trường hợp mặc dù không có sự đóng góp một cách trực tiếp bằng
sức lao động hay tài sản cụ thể nhưng có ý thức trong việc giữ gìn, bảo quản và phát
triển khối tài sản chung của vợ chồng thì cũng được coi là có công sức đóng góp.
Sau khi xem xét, nếu công sức đóng góp vào khối tài sản của vợ, chồng là như nhau
thì phải chia tài sản bằng nhau. Khi một trong hai bên vợ, chồng do ốm đau, bệnh
tật, nuôi con nhỏ, không có việc làm ổn định sau khi ly hôn…Ngược lại, đối với
người lười lao động lại ít đóng góp, có hành vi phá tán tài sản thì sẽ được chia phần
tài sản ít hơn bên kia.
Thứ hai, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em. Theo
khoản 6 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 “Nhà nước, xã hội và gia đình
37
có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng
cao quý của người mẹ”. Nguyên tắc này được quy định nhằm ngăn chặn tàn dư của
chế độ phong kiến, coi rẻ người phụ nữ và con cái.
Công ước CEDAW 1979 (Việt Nam ký tham gia Công ước vào 29/7/1980
phê chuẩn vào 27/11/1981) [52, Điều 16] quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ
trong quan hệ hôn nhân và gia đình:
“1. Các nước tham gia Công ước phải Áp dụng mọi biện pháp thích hợp để
xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ trong mọi vấn đề liên quan đến hôn nhân, gia
đình và đặc biệt, trên cơ sở bình đẳng nam nữ, phải bảo đảm:
a. Quyền ngang nhau trong việc kết hôn;
b. Quyền tự do như nhau trong việc lựa chọn bạn đời và chỉ kết hôn khi cả
hai hoàn toàn tự do và tự nguyện;
c. Quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ và chồng trong thời gian hôn
nhân cũng như khi hôn nhân tan vỡ;
d. Có quyền và trách nhiệm với vai trò làm cha mẹ như nhau trong mọi vấn
đề liên quan tới con cái, bất kể tình trạng hôn nhân như thế nào. Trong mọi trường
hợp, lợi ích của con cái phải được đặt lên trên hết;
e. Quyền tự do và trách nhiệm như nhau khi quyết định về số con, khoảng
cách giữa các lần sinh và có quyền tiếp cận thông tin, giáo dục và các biện pháp để
thực hiện những quyền này;
f. Quyền và trách nhiệm như nhau trong việc trông nom, giám hộ, bảo trợ,
nhận uỷ thác và nhận con nuôi hoặc có những quy định tương tự về vấn đề này
được thể hiện trong luật pháp quốc gia; trong mọi trường hợp lợi ích của con cái
phải được đặt lên trên hết;
g. Vợ chồng có quyền như nhau trong việc lựa chọn tên họ, chuyên môn và
nghề nghiệp của mình;
h. Vợ chồng có quyền như nhau trong việc sở hữu, mua sắm, kiểm soát, quản
lý, hưởng thụ và sử dụng tài sản, dù đó là tài sản không phải bỏ tiền ra mua hay có
giá trị lớn.
38
2. Việc hứa hôn và kết hôn của trẻ em phải bị coi là không có hiệu lực
pháp lý và phải tiến hành mọi hành động cần thiết, kể cả về mặt pháp luật nhằm
quy định độ tuổi tối thiểu có thể kết hôn và bắt buộc phải làm thủ tục đăng ký kết
hôn chính thức”
Theo nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em, Luật hôn
nhân gia đình còn quy định tại Điều 41: “Trong trường hợp vợ có thai, chồng chỉ có
thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm. Điều hạn chế này không áp
dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ” .
Việc phân chia tài sản khi ly hôn, về nguyên tắc, tài sản chung được chia đôi
có xem xét hợp lý đến tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi
bên nhưng phải đảm bảo “Khi chia tài sản phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và
của con chưa thành niên” Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình. Quy định này xuất
phát từ một thực tế là phần lớn phụ nữ Việt Nam sau khi lấy chồng đều về ở nhà
chồng, suốt thời gian chung sống làm ăn tần tảo, đóng góp công sức vào việc gây
dựng và phát triển khối tài sản chung của gia đình nhà chồng nên khi ly hôn, người
vợ cần được bảo đảm để tạo lập chỗ ở mới nhất là khi còn phải nuôi con chưa thành
niên. Họ cần được pháp luật, xã hội bảo vệ và quan tâm. Do đó, cần phải tạo điều
kiện cho con học tập, ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, lao động, … hạn chế
thấp nhất những khó khăn họ phải chịu. Nhất là người vợ bị tàn tật, người con đã
thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người vợ là cần thiết nhưng chỉ có ý nghĩa khi đó là quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng chứ không phải mọi đòi hỏi của người vợ khi ly hôn đều phải được
đáp ứng.
Thứ ba, nguyên tắc “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất,
kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập”
[25, Điều 95, khoản 2, điểm c]. Khi ly hôn, để đảm bảo tính liên tục trong nghề
nghiệp của người lao động, đảm bảo được đời sống, thu nhập cho họ và tránh tình
trạng sau khi ly hôn, vợ chồng không có tư liệu để sản xuất, thực hiện hoạt động
nghề nghiệp của mình thì cần phải chi cho vợ chồng được hưởng những tài sản liên
39
quan đến hoạt động nghề nghiệp của họ. Chia tài sản khi ly hôn phải phù hợp với
hoạt động nghề nghiệp của mỗi bên vợ, chồng và đảm bảo tính năng, tác dụng của
tài sản. Quy định này nhằm hạn chế những hậu quả xấu về kinh tế của việc ly hôn.
Thứ tư, “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá
trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được
hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch” [25, Điều 95, khoản
2, điểm d]. Theo đó, có hai phương thức chia tài sản chung của vợ chồng: chia
bằng hiện vật và chia theo giá trị. Với quy định này đã giúp cho Tòa án chủ động
hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Mặt khác, cũng tạo cơ sở pháp lý cho vợ
chồng lựa chọn cách phân chia phù hợp. Khi xét xử, Tòa án phải căn cứ vào tình
trạng tài sản và ý chí của mỗi bên để có cách phân chia phù hợp. Trước tiên, Tòa án
phải xem xét có thể chia tài sản bằng hiện vậy được không? Chỉ khi nào không thể
chia tài sản bằng hiện vật hoặc không thể chia đều hiện vật thì Tòa án quyết định
chia cho một bên được nhận toàn bộ hiện vật hay bên nhận hiện vật có giá trị lớn
hơn phần giá trị mà họ được hưởng phải thanh toán giá trị chênh lệch cho bên kia.
Bên cạnh đó, khi ly hôn, song song với việc phân chia tài sản thì những
nghĩa vụ chung về tài sản cũng cần phải giải quyết. Khoản 3 Điều 95 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000. Nghĩa vụ chung về tài sản bao gồm: Các khoản nợ
chung, các nghĩa vụ tài sản khác của vợ chồng. Vợ chồng có thể tự thương lượng
cách thức phân chia phần nghĩa vụ mà mỗi bên phải thực hiện, Tòa án sẽ công nhận
nếu sự thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Như vậy, pháp luật tôn
trọng sự thỏa thuận của vợ chồng đối với việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản.
Như vậy, nếu vợ chồng không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ tiến hành giải quyết
theo yêu cầu của vợ chồng.
Trên đây là những nguyên tắc chung nhất, có tính chất chủ đạo, xuyên suốt
quá trình phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn mà cơ quan áp dụng pháp luật
cũng như đương sự trong vụ án ly hôn có tranh chấp về tài sản cần phải tuân thủ.
1.5 Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng
ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong LuậtBáo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luậtnataliej4
 

Mais procurados (20)

Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đìnhĐề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docxBáo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong LuậtBáo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
 
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
Luận Văn Thạc Sĩ  Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn NhânLuận Văn Thạc Sĩ  Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
 
Luận văn: Pháp lý về định giá đất trong giải phóng mặt bằng, HOT
Luận văn: Pháp lý về định giá đất trong giải phóng mặt bằng, HOTLuận văn: Pháp lý về định giá đất trong giải phóng mặt bằng, HOT
Luận văn: Pháp lý về định giá đất trong giải phóng mặt bằng, HOT
 
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docxBáo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
 
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônGiải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAYLuận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
 
Luận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtLuận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
 
Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩm
Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩmPháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩm
Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩm
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAYLuận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội theo pháp luật đất đai, 9đ
Thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội theo pháp luật đất đai, 9đThu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội theo pháp luật đất đai, 9đ
Thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội theo pháp luật đất đai, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đaiLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
 

Semelhante a Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn

Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Xét Xử Các Vụ Án Ly Hôn Có Tranh Chấp Về Tặng Cho Quyền Sử Dụng Đất Qua Thực ...
Xét Xử Các Vụ Án Ly Hôn Có Tranh Chấp Về Tặng Cho Quyền Sử Dụng Đất Qua Thực ...Xét Xử Các Vụ Án Ly Hôn Có Tranh Chấp Về Tặng Cho Quyền Sử Dụng Đất Qua Thực ...
Xét Xử Các Vụ Án Ly Hôn Có Tranh Chấp Về Tặng Cho Quyền Sử Dụng Đất Qua Thực ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Báo cáo thực tập
Báo cáo thực tậpBáo cáo thực tập
Báo cáo thực tậpVitHong471883
 

Semelhante a Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn (20)

BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, 9 ĐIỂMBÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, 9 ĐIỂM
 
Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn Tại Hà Nội
Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn Tại Hà NộiChia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn Tại Hà Nội
Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn Tại Hà Nội
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...
 
Giải quyết tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Quảng Nam
Giải quyết tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Quảng NamGiải quyết tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Quảng Nam
Giải quyết tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Quảng Nam
 
Bài Mẫu Luận văn giải quyết tranh chấp đất đai, 9 ĐIỂM, HAY
Bài Mẫu Luận văn giải quyết tranh chấp đất đai, 9 ĐIỂM, HAYBài Mẫu Luận văn giải quyết tranh chấp đất đai, 9 ĐIỂM, HAY
Bài Mẫu Luận văn giải quyết tranh chấp đất đai, 9 ĐIỂM, HAY
 
Pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại huyện...
Pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại huyện...Pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại huyện...
Pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại huyện...
 
Luận văn: Pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
Luận văn: Pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đaiLuận văn: Pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
Luận văn: Pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
 
Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn x...
Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn x...Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn x...
Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn x...
 
Pháp Luật Hòa Giải Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai.doc
Pháp Luật Hòa Giải Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai.docPháp Luật Hòa Giải Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai.doc
Pháp Luật Hòa Giải Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai.doc
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
 
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hônĐề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...
 
Xét Xử Các Vụ Án Ly Hôn Có Tranh Chấp Về Tặng Cho Quyền Sử Dụng Đất Qua Thực ...
Xét Xử Các Vụ Án Ly Hôn Có Tranh Chấp Về Tặng Cho Quyền Sử Dụng Đất Qua Thực ...Xét Xử Các Vụ Án Ly Hôn Có Tranh Chấp Về Tặng Cho Quyền Sử Dụng Đất Qua Thực ...
Xét Xử Các Vụ Án Ly Hôn Có Tranh Chấp Về Tặng Cho Quyền Sử Dụng Đất Qua Thực ...
 
Đề Tài Trình Tự Giải Quyết Việc Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn
Đề Tài Trình Tự Giải Quyết Việc Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly HônĐề Tài Trình Tự Giải Quyết Việc Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn
Đề Tài Trình Tự Giải Quyết Việc Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...
 
Báo cáo thực tập
Báo cáo thực tậpBáo cáo thực tập
Báo cáo thực tập
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
 
Đề tài: Quy trình giải quyết tranh chấp đất đai theo qui định pháp luật và th...
Đề tài: Quy trình giải quyết tranh chấp đất đai theo qui định pháp luật và th...Đề tài: Quy trình giải quyết tranh chấp đất đai theo qui định pháp luật và th...
Đề tài: Quy trình giải quyết tranh chấp đất đai theo qui định pháp luật và th...
 
Hòa Giải Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai.doc
Hòa Giải Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai.docHòa Giải Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai.doc
Hòa Giải Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai.doc
 

Mais de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Mais de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Último

SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 

Último (20)

SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 

Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ TUYẾT CHINH “PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN Ở VIỆT NAM” LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ TUYẾT CHINH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Doãn Hồng Nhung Hà Nội - 2014
  • 3. 3 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN .................................................................................................................. 6 1.1. Khái quát chung về tranh chấp quyền sử dụng đất .................................... 6 1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn.................11 1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng......................................................................13 1.3.1. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng..........................................17 1.3.2. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ chồng............................................26 1.4. Nguyên tắc chung của giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn.....................................................................................................29 1.5. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn..34 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN ...................................37 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn...........................................................................37 2.1.1. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước giao đất........................................38 2.1.2. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước cho thuê đất.................................41 2.1.3. Đối với quyền sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế chung, nhận thế chấp trong thời kỳ hôn nhân......................................................................45 2.1.4. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất ..........47 2.1.5. Đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất.....................................................................................................................48 2.2. Tình hình chung của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ở Việt Nam .................................................................................59 2.2.1. Những thuận lợi trong quá trình áp dụng pháp luật.......................................61
  • 4. 4 2.2.2. Những khó khăn phát sinh khi áp dụng pháp luật hiện hành ........................63 2.2.3. Nguyên nhân chủ yếu khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất...............65 CHƢƠNG 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN..................................................71 3.1. Kiến nghị về hoàn thiện quy phạm pháp luật ...........................................71 3.2. Kiến nghị về tổ chức thực hiện giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn..........................................................................................73 3.3. Các giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai....76 KẾT LUẬN......................................................................................................79 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................80
  • 5. 5 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong tài liệu luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN
  • 6. 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên đặc biệt quan trọng của quốc gia. Sự gia tăng về dân số cũng như sự phát triển về kinh tế đã làm cho những tranh chấp phát sinh về vấn đề đất đai ngày càng nhiều, các quan hệ về đất đai ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp. Tranh chấp đất đai tiếp tục là vấn đề phức tạp và ngày càng phổ biến ở Việt Nam. Vì thế mà các quan hệ về đất đai cần phải có những chế định pháp luật điều chỉnh nhằm ổn định trật tự chung trong xã hội. Đặc biệt cần phải xem xét việc giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai và là những biện pháp để pháp luật đất đai phát huy được vai trò trong đời sống xã hội. Tranh chấp đất đai trong quan hệ hôn nhân và gia đình là một loại tranh chấp phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt là tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp đất đai trong lĩnh vực này hiện nay đang khó khăn và cũng là khâu yếu trong công tác giải quyết các tranh chấp về đất đai. Do đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc phân chia đất đai trong vấn đề ly hôn; trên cơ sở đó đề ra đường lối giải quyết các tranh chấp này một cách tương đối cụ thể để lành mạnh hoá quan hệ đất đai; mang lại niềm tin cho xã hội là việc làm rất cần thiết. 2. Đối tƣợng nghiên cứu Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhưng kéo theo đó là thực tế xã hội ngày càng phức tạp khiến cho quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn gặp nhiều biến động. Điều đó liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của mọi cá nhân trong xã hội, đặc biệt là các cặp vợ chồng. Luật đất đai năm 2003 cùng các văn bản pháp luật khác như Luật nhà ở năm 2005, Luật hôn nhân gia đình năm 2000… ở nước ta là cơ sở cho công tác giải
  • 7. 7 quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn được thuận lợi. Tuy nhiên thực tế nhiều trường hợp giải quyết tranh chấp về vấn đề này còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Ở địa phương việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn gặp nhiều khó khăn. Mà nguyên nhân chủ yếu là do người dân không nắm vững pháp luật; hay do các cán bộ Nhà nước có trách nhiệm giải quyết tranh chấp không thực hiện đúng thẩm quyền, trình độ chưa bắt kịp với thực tế cuộc sống, hệ thống pháp luật về vấn đề này còn nhiều bất cập... Theo thống kê của Tòa án Nhân dân tối cao, năm 2010, nước ta có gần 88.000 vụ ly hôn, tăng hơn 9.700 vụ so với năm 2009. Theo một kết quả nghiên cứu được công bố năm 2008 của Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa (Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM), tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam tăng nhanh và chiếm 31% - 40%, nghĩa là cứ ba cặp kết hôn thì có một cặp ly hôn. Nhưng dù cho ly hôn vì lý do gì thì khi phân chia tài sản, đặc biệt là đất đai (tài sản có giá trị lớn) luôn được các bên quan tâm. Vì thế đòi hỏi pháp luật phải điều chỉnh các mối quan hệ này sao cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Với mục đích nghiên cứu, làm rõ những quy định về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn; tìm hiểu và đóng góp một phần hiểu biết của mình vào quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình. 3. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi là luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành kinh tế, luận văn này bao gồm những quy định về lý luận, thực tiễn có liên quan đến áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam với tư cách là một hình thức cụ thể, chủ yếu và sinh động của hoạt động áp dụng pháp luật. Luận văn khái quát những vấn đề chung trong việc áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam để thấy
  • 8. 8 được những khó khăn, bất cập đang tồn tại. Từ đó đưa ra những đánh giá, nhận xét cũng như đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn, bất cập ấy. Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2012 tại Việt Nam. 4. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh về những vấn đề liên quan đến đề tài như: Tác giả Trần Hoàng Châu, “Tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết của Tòa án”, Luận văn Thạc sỹ Luật học – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Tác giả Phạm Đức Thắng, “các vấn đề về giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay”, khóa luận tốt nghiệp cử nhân – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001... Những luận văn này tuy đã được nghiên cứu từ cách đây khá lâu nhưng những vấn đề lý luận của luận văn vẫn mang ý nghĩa sâu sắc và có tính kế thừa cao cho những công trình nghiên cứu về sau. Vấn đề giải quyết tranh chấp về đất đai luôn là chủ đề được xã hội quan tâm, đặc biệt những năm gần đây rất nhiều tác giả nghiên cứu và viết về vấn đề này như: tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan (2008), “Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình năm 2000”, luận văn thạc sỹ luật học - Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; TS. Doãn Hồng Nhung (2009), “Pháp luật đất đai và vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23(160) tháng 12/2009, tr. 48-50; Tác giả Hạnh Nguyên (2013), Bài viết “quyền về đất đai của phụ nữ sau ly hôn: vẫn thiệt đơn, thiệt kép”, Phụ nữ Việt Nam, 44 (3779), tr.14; Tác giả Hoàng Thị Thái Hoa (2005), vấn đề ly hôn – nhìn từ sự tác động của yếu tố văn hóa truyền thống, thông tin khoa học phân viện nghiên cứu văn hóa thông tin tại Huế, số tháng 9/2005, trang 59-71; Tác giả Lê Thị Tuyết Chinh (2010), “giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn”, luận văn cử nhân – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội ... 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu, thu thập thông tin: trong khóa luận này, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tìm kiếm thông tin qua các tài liệu được lưu trữ trong
  • 9. 9 thư viện trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia Hà Nội với một số luật của các nước trên thế giới và các tài liệu trên mạng internet và các phương tiện thông tin đại chúng … - Phương pháp phân tích và tổng hợp: phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu thành những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu phát hiện ra những thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó và từ đó hiểu rõ hơn về từng khía cạnh của vấn đề. Tổng hợp những kết quả nghiên cứu từng mặt, từng khía cạnh để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung. Hai phương pháp này được sử dụng song song để bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong nghiên cứu. Từ đó đưa ra những nhận định đúng đắn để giúp cho quá trình nghiên cứu đạt được kết quả tốt. - Phương pháp quy nạp và diễn dịch: hai phương pháp nghiên cứu này tuy trái ngược nhau nhưng lại là một phần không thể thiếu của nhau. Chúng hỗ trợ nhau và hỗ trợ cho công tác nghiên cứu. Phương pháp quy nạp và diễn dịch được sử dụng chủ yếu trong chương I của luận văn để lý giải những nguyên tắc, nguyên lý, giả thuyết, kết luận, định nghĩa, khái niệm … - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp chung nhất trong công tác nghiên cứu. Luận văn vận dụng phương pháp này trong việc xem xét đánh giá thực trạng công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam trong những điều kiện cụ thể và các mối quan hệ khác. Ngoài ra, luận văn còn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp thu thập số liệu, xử lý thông tin, thống kê, phân tích, so sánh… nhằm đưa ra được những thông tin, số liệu chính xác, những biện pháp tối ưu phục vụ cho công tác nghiên cứu bám sát với thực tiễn đời sống. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam. Qua đó thấy được những nguyên nhân chủ yếu (chủ quan và khách quan) dẫn đến những tranh chấp này, từ đó đưa ra những biện pháp ngăn chặn và phương pháp giải quyết khi tranh chấp xảy ra.
  • 10. 10 Trên cơ sở đưa ra những giải pháp có tính khả thi cao nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn đạt hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp cũng như đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng phát triển hiện nay. 7. Bố cục luận văn bao gồm: Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn còn gồm có 3 chương: CHƢƠNG 1 – Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn CHƢƠNG 2 – Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn CHƢƠNG 3 – Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy tác giả rất mong nhận được những lời nhận xét, đánh giá góp ý để có thêm kinh nghiệm nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn và giải quyết tranh chấp đất đai nói chung.
  • 11. 11 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN 1.1. Khái quát chung về tranh chấp quyền sử dụng đất Tranh chấp đất đai hiện nay rất đa dạng, phong phú, nhiều khi nhiều mâu thuẫn đan xen lẫn nhau. Để thấy rõ một cách toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản về tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ta phải xem xét nó nằm ở vị trí nào trong các dạng tranh chấp đất đai phổ biến hiện nay và nó có vai trò như thế nào trong các quan hệ pháp luật cũng như trong xã hội. Tranh chấp đất đai có thể được chia thành hai loại lớn, đó là tranh chấp mà trong đó cần xác định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đất đang tranh chấp và tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng đất hợp pháp, tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trong dạng tranh chấp này luôn luôn có sự tranh chấp giữa các bên về quyền quản lý, quyền sử dụng một diện tích nào đó hoặc một phần trong diện tích đó. Việc xác định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đất tranh chấp đó là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có thể chia thành các dạng như sau: - Thứ nhất: Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp về địa giới hành chính. Loại tranh chấp này thường xuyên xảy ra giữa người ở hai tỉnh, hai huyện, hai xã với nhau, tập trung ở những nơi có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, ở những vị trí dọc theo triền sông lớn, những vùng có địa giới hành chính không rõ ràng, không có mốc giới nhưng là vị trí quan trọng, ở những nơi có nguồn lâm, thổ sản quý hiếm. Cùng với việc chia tách các đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã thì tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính tương đối nhiều. - Thứ hai: Tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất: thực chất đây là dạng tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với đất có nguồn gốc trước đây thuộc quyền sở hữu của họ hoặc người thân của họ mà do
  • 12. 12 nhiều nguyên nhân khác nhau họ không còn quản lý, sử dụng nữa. Bây giờ những người này đòi lại người đang quản lý, sử dụng dẫn đến tranh chấp. Trong dạng tranh chấp này có những dạng sau: + Một là: Đòi lại đất, tài sản của họ, của người thân trong các giai đoạn khác nhau trước đây qua các cuộc điều chỉnh đã chia, cấp cho người khác: Sau cải cách ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp. Đặc biệt từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp theo mô hình sản xuất tập thể, quản lý tập trung. Ruộng đất và các tư liệu sản xuất của nông dân được tập trung vào hợp tác xã. Đến khi thực hiện Nghị quyết Trung Ương 10/TW năm 1988, đất đai được phân chia đến hộ gia đình, cá nhân để sản xuất. Do việc phân chia đất đai không hợp lý một số cán bộ xã, huyện đã làm sai như chia đất sản xuất cho những người không phải là nông dân để rồi những người này đem bán, cho thuê, trong khi đó nông dân không có đất sản xuất, một số hộ trước khi vào tập đoàn, hợp tác xã có đất, đến khi giải thể họ không có đất để canh tác. Một số hộ thực hiện chính sách nhường cơm xẻ áo của Nhà nước trong những năm 1981 – 1986 đã nhường đất cho những người khác sử dụng, nay đòi lại… Ở miền Nam, Nhà nước thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa đất đai, nhà cửa, tư liệu sản xuất của địa chủ, tư bản và tay sai chế độ cũ hoặc giao nhà cửa, đất đai cho người khác sử dụng, đến nay do có sự hiểu lầm về chính sách họ cũng đòi lại những người đang quản lý, sử dụng. Ngoài ra, một số người bỏ đi nơi khác ở, ra nước ngoài sinh sống cũng trở về đòi lại đất đai, tài sản trước đây của họ đã được giao cho người khác quản lý, sử dụng. + Hai là: Tranh chấp giữa những người làm nghề thủ công, nay thất nghiệp trở về đòi lại ruộng của những người làm nông nghiệp: Những người làm nghề thủ công trước đây đã được phân ruộng để sản xuất, để ở, sau đó họ không sản xuất nông nghiệp nữa hoặc chuyển đi nơi khác để làm nghề, đến nay họ trở về đòi lại đất để sản xuất, để ở. + Ba là: Tranh chấp đòi lại đất, tài sản của nhà thờ, các dòng tu, chùa chiền, miếu, nhà thờ họ. Dạng tranh chấp này thường xảy ra như sau: Trước đây do hoàn
  • 13. 13 cảnh lịch sử chính quyền địa phương đã mượn đất của các cơ sở nói trên để sử dụng hoặc tịch thu một số cơ sở để làm trụ sở cơ quan, trường học… đến nay các cơ sở đó đòi lại nhưng Nhà nước không trả lại được nên dẫn đến khiếu kiện của các cơ sở đó. Ngoài ra, trong những trường hợp nói trên, một số người được các nhà thờ, dòng tu, chùa chiền, nhà thờ họ cho đất để ở họ đã xây dựng nhà kiên cố, hoặc lấn chiếm thêm đất của các cơ sở nói trên dẫn đến việc các cơ sở nói trên đòi lại đất, nhà. + Bốn là: Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ: Dạng tranh chấp này phát sinh do việc một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất, cho ở nhờ. Có vụ cho mượn, thuê trong thời gian gần đây, có vụ cho mượn, thuê cách đây vài chục năm (nhất là ở miền Nam). Trong nhiều trường hợp không làm hợp đồng, chỉ giao kết bằng miệng dẫn đến khi bên cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ đòi lại hoặc là hết hạn hợp đồng, hoặc là bên mượn, thuê, ở nhờ đã xây dựng nhà kiên cố thì việc tranh chấp này càng trở nên phức tạp. - Thứ ba: Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn: đây là trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn. Đất tranh chấp có thể là đất nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc đất để ở; có thể là giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa một bên ly hôn với hộ gia đình vợ hoặc chồng hoặc có thể xảy ra khi bố mẹ cho con đất đến khi ly hôn thì cha mẹ đòi lại… - Thứ tư: Tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất: đây là dạng tranh chấp do người có quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đã chết mà không để lại di chúc, hoặc để lại di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật và những người hưởng thừa kế không thỏa thuận được với nhau về phân chia thừa kế hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp. - Thứ năm: Tranh chấp giữa những người sử dụng với nhau về ranh giới giữa các vùng đất được phép sử dụng và quản lý: đây là tranh chấp về ranh giới. Loại
  • 14. 14 tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh giới hoặc hai bên không xác định được với nhau về ranh giới, một số trường hợp chiếm luôn diện tích đất của người khác. Những trường hợp tranh chấp này xảy ra thường do ranh giới đất giữa những người sử dụng đất liền kề không rõ, đất này thường sang nhượng nhiều lần bàn giao không rõ ràng. Ngoài ra, việc tranh chấp ranh giới xảy ra nhiều khi do lỗi của các cơ quan nhà nước, đó là khi cấp đất cơ quan cấp đất có ghi diện tích, nhưng không đo đạc cụ thể khi giao đất chỉ căn cứ vào giấy cấp đất và đơn kê khai diện tích của đương sự. Sau này khi đương sự đo lại thấy diện tích đất ít hơn so với quyết định cấp đất cũng như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phần diện tích chồng lên nhau. Do đó cũng gây nên tranh chấp giữa các hộ liền kề nhau. Khi giải quyết tranh chấp, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định phần đất tranh chấp đó là thuộc quyền sử dụng của ai. - Thứ sáu: Tranh chấp giữa đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới với đồng bào dân tộc sở tại: đây là dạng tranh chấp thường xảy ra ở vùng Tây Nguyên. Việc di dân, đặc biệt là di dân tự do khi đến nơi ở mới không phải lúc nào chính quyền sở tại cũng cấp đất cho người dân di cư, dẫn đến việc người mới đến phá rừng, lấn chiếm đất đai dẫn đến những tranh chấp với đồng bào dân tộc sở tại. - Thứ bảy: Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử dụng đất khác với nhân dân địa phương: do cơ chế trước đây nên dẫn đến tình trạng các nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội bao chiếm một lượng lớn đất đai, không sử dụng hết đất để đất bỏ hoang hoặc cho người dân sử dụng theo hình thức phát canh, thu tô. Mặt khác, nhiều nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội quản lý đất đai lỏng lẻo dẫn đến tình trạng người dân chiếm đất để sử dụng. Do đó cũng dẫn đến những tranh chấp đất đai. - Thứ tám: Các dạng tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng đất hợp pháp, tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trong các dạng tranh chấp này thì người đang sử dụng đất đã sử dụng đất hợp pháp, không có ai tranh chấp. Tuy nhiên, khi sử dụng quyền
  • 15. 15 và nghĩa vụ sử dụng đất của mình như: thực hiện các giao dịch về dân sự hoặc do chủ trương, chính sách của Nhà nước như giải tỏa, trưng dụng, trưng mua hoặc do người khác gây thiệt hại, hoặc bị hạn chế về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của mình mà dẫn đến tranh chấp. Có các dạng như sau: + Một là: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. + Hai là: Tranh chấp do người khác gây thiệt hại hoặc hạn chế quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất. + Ba là: Tranh chấp về mục đích sử dụng, đặc biệt là tranh chấp về đất nông nghiệp với đất lâm nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm, giữa đất trồng cao su với đất trồng cà phê, giữa đất nông nghiệp với đất thổ cư trong quá trình phân bố và quy hoạch sử dụng. Trong thực tế trường hợp tranh chấp này xảy ra như sau: do mục đích sử dụng đất nên Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng để giao cho người khác sử dụng với mục đích khác, dẫn đến người đang sử dụng khiếu kiện việc chuyển mục đích sử dụng đất hay khiếu kiện việc thu hồi hoặc khiếu kiện người được giao đất sử dụng với mục đích khác. Mặt khác, người được Nhà nước giao đất chuyển mục đích sử dụng khiếu kiện người đang sử dụng đất phải giao đất cho mình theo quyết định giao đất. + Bốn là: Tranh chấp về giải tỏa mặt bằng phục vụ các công trình công cộng, lợi ích quốc gia và mức đền bù khi thực hiện giải tỏa. Trong tranh chấp dạng này chủ yếu là khiếu kiện về giá đất bồi thường, diện tích đất được bồi thường, giá cả đất tái định cư và bồi thường không đúng người, giải tỏa quá mức quy định để chừa đất cấp cho các đối tượng khác. Trong tình hình hiện nay, việc quy hoạch mở mang đường, đô thị quá lớn dẫn đến việc tranh chấp loại này rất gay gắt, phức tạp, có nhiều người, tập thể đồng loạt khiếu kiện. Hiện nay ngoài những tranh chấp như đã kể trên, còn có một loại tranh chấp nữa, đó là tranh chấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai tức là tranh chấp hành chính về đất đai. Các dạng tranh chấp thuộc loại này nảy sinh khi các đương
  • 16. 16 sự quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai hoặc cán bộ quản lý nhà nước về đất đai áp dụng đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ví dụ: Các quyết định về giao đất, thu hồi đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các quyết định về giải quyết tranh chấp đất đai. Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn là một dạng tranh chấp phổ biến mà hiện nay các cơ quan pháp luật của Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết. Cũng thấy được rằng việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn có vai trò rất lớn đối với xã hội nói chung, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân trong xã hội, đặc biệt là các cặp vợ chồng. 1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn Theo quy định của pháp luật Việt Nam chỉ có thể hiểu “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền sử dụng đất”. Sở dĩ Th.s Lưu Quốc Thái – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có kết luận như vậy vì: thứ nhất, theo khoản 1 Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”; thứ hai, Điều 202 Luật đất đai năm 2013 có quy định: “Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND xã, phường, thị trấn nơi có tranh chấp. UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất đai”; thứ ba, Điều 160 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai thì các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan hành chính để được giải quyết”; thứ tư, đến nay các thuật ngữ tranh chấp đất đai và tranh chấp quyền sử dụng đất đã được sử dụng như những thuật ngữ thay thế cho nhau kể từ Luật Đất đai năm 1986 đến nay mà không hề có sự phân biệt.
  • 17. 17 Luật Đất đai năm 2003 lần đầu tiên tại khoản 26 điều 4 và tiếp tục được quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Qua đó ta có thể thấy được, khái niệm “tranh chấp đất đai” là tranh chấp một tổng thể những yếu tố hợp nhất chứ không phải là việc tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ đơn lẻ hay tranh chấp về quyền và nghĩa vụ khác của người sử dụng đất có liên quan đến các quyền và nghĩa vụ nêu trên. Cách hiểu này đặt khái niệm tranh chấp đất đai trong mối quan hệ không thể tách rời với tất cả các quy định có liên quan, chứ không phải cô lập nó hoặc đặt nó lên trên tất cả các quy định khác nhằm phát huy trí tưởng tượng một cách thái quá, dẫn đến những suy diễn không phù hợp. Có nghĩa là, không thể “trộn lẫn” tranh chấp đất đai với những tranh chấp dân sự thuần túy có liên quan đến đất đai. Tranh chấp đất đai là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc xác định quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai, phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong quản lý và sử dụng đất đai. Vậy từ đó ta có thể rút ra một định nghĩa như sau: Tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất [18,7]. Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xét giải quyết tranh chấp đất đai là một trong những biện pháp quản lý Nhà nước đối với đất đai. Đó là biện pháp vô cùng quan trọng để pháp Luật đất đai phát huy được vai trò của mình trong đời sống xã hội. Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là việc vận dụng các quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của nhân dân. Kết hôn là một hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hôn là một hiện tượng bất bình thường, là mặt trái của hôn nhân nhưng đó lại là mặt không thể thiếu khi hôn nhân tan vỡ. Vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng thì ly hôn là
  • 18. 18 sự cần thiết cho cả hai, vì nó giải phóng cho hai vợ chồng, các con cũng như thành viên khác trong gia đình thoát khỏi mâu thuẫn, xung đột, bế tắc trong cuộc sống. Vậy ly hôn là gì? Theo quy định tại Khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”. Hay nói cách khác ly hôn là sự chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Sau khi kết hôn vì những lý do nhất định, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng mâu thuẫn, quan điểm sống không thể dung hòa, đời sống chung không thể kéo dài làm ảnh hưởng đến các thành viên khác trong gia đình và ảnh hưởng đến việc nuôi dạy giáo dục con cái. Vì thế ly hôn là giải pháp cho cả hai bên để mỗi bên tự tìm hạnh phúc cho mình. Qua đó đảm bảo quyền tự do, bình đẳng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân mỗi người theo quy định của pháp luật. Qua những phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn như sau: “tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ ly hôn là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về đất đai khi quan hệ hôn nhân của họ chấm dứt và tranh chấp về quyền sử dụng đất đó được Tòa án công nhận hoặc quyết định”. 1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng Kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó phản ánh sự chung sống của hai vợ chồng và con cái (nếu có). Như là một tất yếu của cuộc sống chung, vợ và chồng thực hiện những quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình. Đây là những quan hệ xảy ra phổ biến trong xã hội và chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về hôn nhân và gia đình, trong một quy chế được gọi là “chế độ tài sản của vợ chồng” (được quy định tại các Điều sau: Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 32; Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình) [10]. Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng của pháp luật Hôn nhân và gia đình, đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều luật gia và
  • 19. 19 các nhà áp dụng pháp luật. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, chế độ tài sản của vợ chồng ở mỗi quốc gia và trong cùng một đất nước ở các giai đoạn phát triển có thể là khác nhau. Thực tế có hai trường phái pháp luật mang hai quan điểm khác nhau về vấn đề này. Phần lớn pháp luật của các nước trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản, vì vậy, một mặt pháp luật dự liệu một chế độ tài sản của vợ chồng, mặt khác quy định những người kết hôn có quyền lập hôn ước (Contrat de marriage – tiếng Pháp). Chế độ tài sản do pháp luật dự liệu chỉ có hiệu lực áp dụng trong trường hợp hai vợ chồng không có hôn ước hoặc hôn ước được lập ra nhưng vô hiệu do vi phạm những quy định của luật chung. Chỉ có một số nước như Hungari, Roumani, Tiệp Khắc, Arhentina, Việt Nam và một số bang của Mehico duy trì duy nhất một chế độ tài sản pháp định đối với vợ chồng. Bộ luật dân sự Pháp năm 1804 đã tổ chức một cách có hệ thống các chế độ tài sản của vợ chồng. Điều đó được thể hiện qua việc thiết lập một hệ thống các quy định chung nhằm bảo vệ cuộc sống gia đình – được gọi là chế độ cơ sở, theo đó các chế độ tài sản của vợ chồng, nhất là những chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ ước định) phải triệt để tuân theo. Tại các Điều từ 212 đến 226 Bộ luật dân sự Pháp năm 1804 đã quy định những quyền và nghĩa vụ riêng biệt của vợ chồng với một tinh thần chung nhất là: vợ chồng cùng nhau đảm bảo điều hành gia đình về tinh thần và vật chất, chăm lo việc dậy dỗ con cái và chuẩn bị cho tương lai của chúng (Điều 213), đặc biệt các điều từ 214 đến 226 tập hợp nên một chế định pháp lý mà học thuyết của Pháp gọi là chế độ cơ sở của các chế độ tài sản của vợ chồng (Le resgime primaire hoặc Le statut de base). Đây là những quy định về các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống gia đình. Đó là những vấn đề: đóng góp vào việc chi tiêu của gia đình, bảo vệ chỗ ở của gia đình … Theo quy định của Điều 226, các quy định trên có hiệu lực đối với tất cả các quan hệ vợ chồng, bất kể họ lựa chọn chế độ hôn sản nào. Trong bối cảnh thừa nhận nhiều chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ cơ sở giữ vai trò chủ đạo, nhất là đối
  • 20. 20 với chế độ hôn sản ước định, nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cho sự ổn định cuộc sống gia đình. Chế độ tài sản của vợ chồng trong luật của Cộng hòa Pháp dựa trên nguyên tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của vợ chồng nhưng không thể tách rời nghĩa vụ của họ đối với đời sống chung của gia đình. Điều đó tạo điều kiện cho vợ, chồng có thể thực hiện những quan hệ tài sản phù hợp với tình hình kinh tế của bản thân, mang lại lợi ích cho gia đình và cá nhân mỗi bên vợ, chồng. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của Việt Nam chỉ tập trung quy định về một chế độ tài sản pháp định (chế độ cộng đồng toàn sản – tài sản mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng), tức là pháp luật Việt Nam không quy định một điều luật nào về quyền lập hôn ước của vợ chồng. Nhà lập pháp không dự liệu bất kỳ một điều khoản nào cho phép vợ chồng lập hôn ước, nhưng cũng không ấn định những quy định cấm. Trong bối cảnh đó, nhìn chung giới luật gia và những người áp dụng pháp luật đều cho rằng chế độ hôn sản pháp định có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ hôn nhân hợp pháp. Do vậy, mọi thỏa thuận của vợ chồng trái với các quy định của chế độ hôn sản pháp định cần bị tuyên bố là vô hiệu khi có tranh chấp xảy ra. Nhìn chung có thể hiểu khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng như sau: “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quan hệ sở hữu của vợ chồng, cụ thể là các quy định về căn cứ xác lập tài sản chung và riêng của vợ, chồng; phạm vi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng”. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả nghiên cứu về vấn đề quyền sử dụng đất trong quan hệ hôn nhân và việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Có thể nói quyền sử dụng đất là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất đai. Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân [24, Điều 5, Điều 17].
  • 21. 21 Khi phân tích quyền sở hữu đất đai, chúng ta thấy với tư cách là chủ sở hữu đại diện, Nhà nước có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai. Trong các quyền năng đó quyền sử dụng là có nghĩa thực tế lớn nhất, trực tiếp đem lại lợi ích cho chủ sở hữu. Nhưng Nhà nước không phải là chủ thể trực tiếp sử dụng đất mà gián tiếp sử dụng đất thông qua các tổ chức, cá nhân bằng cách giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất của những người sử dụng đất ổn định. Theo quy định của Bộ Luật dân sự năm 2005 thì quyền sử dụng là quyền “khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” [29, Điều 192]. Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản trong các trường hợp được chủ sở hữu chuyển quyền sử dụng hoặc do pháp luật quy định. Quyền sử dụng đất là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất đai. Thông qua giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất, Nhà nước trao cho người nhận đất các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, trong đó có sự phân biệt theo loại đất, theo đối tượng sử dụng, theo hình thức giao đất hoặc thuê đất. Quyền sử dụng đất có sự khác nhau về mục đích sử dụng và đối tượng sử dụng đất. Quyền sử dụng đất nông nghiệp khác với quyền sử dụng đất ở; quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân khác với quyền sử dụng đất của tổ chức. Quyền sử dụng đất là một quyền dân sự, theo đó người sử dụng được quyền khai thác công dụng, các thuộc tính có lợi từ đất nhằm mang lại lợi ích cho mình. Ở nước ta các tổ chức, cá nhân không phải là chủ sở hữu đất nhưng được Nhà nước trao cho quyền sử dụng đất. Đây là một quyền năng đặc biệt không giống với quyền sử dụng bất kỳ một tài sản nào khác. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất đai thuộc về người sử dụng đất. Hay nói cách khác quyền sử dụng đất đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai, được người sở hữu đất chuyển cho người sử dụng đất thực hiện và trở thành một loại quyền tài sản của người sử dụng đất. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, xong quyền sử dụng đất lại thuộc về cá nhân hoặc tổ chức. Người sử dụng đất không chỉ được khai thác các lợi ích từ đất một cách ổn định, lâu dài mà họ còn được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các giao dịch dân sự và kinh tế có liên quan đến đất đai. Có thể nói, Nhà nước đã giao cho
  • 22. 22 người sử dụng đất quyền định đoạt số phận pháp lý của thửa đất mà mình được sử dụng trong khuôn khổ pháp lý quy định, nhờ đó người sử dụng đất ngoài việc khai thác, sử dụng đất còn có thể chủ động thực hiện chuyển quyền sử dụng đất cho người khác khi không có nhu cầu hoặc điều kiện sử dụng. Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013, Bộ Luật Dân sự năm 1995 và Bộ Luật Dân sự năm 2005 đều khẳng định cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, không thể đồng nhất quyền sở hữu đất đai với quyền sử dụng đất bởi chúng có sự khác biệt cả về nội dung và ý nghĩa cụ thể. Dựa trên những quy định của pháp luật đất đai hiện hành cùng với những quy định về chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, ta có thể nhận thấy rằng, vợ chồng có thể là một trong số những chủ thể được Nhà nước trao quyền sử dụng đất và song song với nó là việc thực hiện các nghĩa vụ của người sử dụng đất. Chính vì vậy, quyền sử dụng đất với tư cách là một quyền tài sản có thể là tài sản chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng. 1.3.1. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng Khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”. Điều 58 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 bảo hộ quyền sở hữu công dân quy định: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Việc xác định khối tài sản chung của vợ chồng căn cứ vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân – quan hệ vợ chồng. Theo khoản 7 điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Thời kỳ hôn nhân bắt
  • 23. 23 đầu từ khi kết hôn tức là ngày Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn – nơi thường trú của vợ hoặc chồng công nhận, vào sổ đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận kết hôn cho hai vợ chồng. Quan hệ hôn nhân chấm dứt khi một bên vợ, chồng chết hoặc vợ chồng ly hôn (từ khi phán quyết ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật). Các tài sản mà vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (trong đó có quyền sử dụng đất) đều được coi là tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo ra tài sản hay công sức đóng góp của mỗi bên. Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt và có giá trị lớn. Trên thực tế, người chồng thường nắm giữ toàn bộ tài sản trong gia đình và thường đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc quy định quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn cũng là tài sản chung của vợ chồng có ý nghĩa đảm bảo sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ tài sản. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc sau khi ly hôn là nhà ở, quyền sử dụng đất rất phức tạp do các giấy tờ pháp lý liên quan đến quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một người và việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung hay riêng để đảm bảo lợi ích chính đáng của mỗi người là rất khó khăn. Việc Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định một cách rõ ràng quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung, hoặc có được trước khi kết hôn mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi chia tài sản chung của vợ chồng. Do quan hệ hôn nhân được xác lập, tính cộng đồng và mục đích của quan hệ hôn nhân là nhu cầu khách quan để nhà làm luật dự liệu tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất [25, Điều 27]. Quy định này hoàn toàn phù hợp với Điều 40, 214 của Bộ Luật Dân sự về quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền sở hữu chung và phù hợp với truyền thống gia đình Việt Nam. Chính sự hợp nhất về tài sản chung của vợ chồng là yếu tố tạo nên sự hài hòa và bền chặt hơn trong quan hệ gia đình.
  • 24. 24 1.3.1.1. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước giao, giao khoán, cho thuê sau khi kết hôn Vợ chồng được Nhà nước giao, giao khoán hay cho thuê quyền sử dụng đất sau khi kết hôn thì quyền sử dụng đất đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng. Nhưng nếu sau khi kết hôn mà vợ hoặc chồng được Nhà nước giao, giao khoán hay cho thuê quyền sử dụng đất riêng thì đó là tài sản chung của mỗi bên vợ, chồng [3, Điều 24, Điều 25]. Nhà nước có thể giao đất cho vợ chồng theo hình thức có thu tiền sử dụng đất hay không thu tiền sử dụng đất tùy từng loại đất và mục đích sử dụng chúng như thế nào theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật Đất đai năm 2013: Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất trong trường hợp “Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được giao đất nông nghiệp trong hạn mức quy định tại Điều 129 của Luật này” và Khoản 1,4,5 Điều 34 Luật Đất đai năm 2003: Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trong trường hợp sau: “1.Hộ gia đình, cá nhân được giao đất ở;…4.Hộ gia đình, cá nhân được giao đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; 5.Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất để xây dựng công trình công cộng có mục đích kinh doanh;…”, nhưng quy định tại Điều 55 Luật Đất đai năm 2013 thu hẹp lại chỉ còn 4 đối tượng giao đất có thu tiền sử dụng đất: “1. Hộ gia đình, cá nhân được giao đất ở ...; 4 Tổ chức kinh tế được giao đất thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng”. Việc giao đất cho các chủ thể thông qua hình thức cho thuê đất được Nhà nước thực hiện thông qua các cơ quan có thẩm quyền. Nhà nước cho thuê đất dưới hai hình thức chính đó là: thu tiền thuê đất hàng năm và thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Theo quy định của Luật đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 thì việc Nhà nước cho thuê đất chỉ gồm có 2 hình thức như trên, còn Luật đất đai năm 1993 thì bao gồm có ba hình thức đó là: thu tiền thuê đất hàng năm, thu tiền thuê đất nhiều năm và thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Nhìn chung, Luật Đất đai năm 2013, Luật đất đai năm 2003 đã có những đổi mới khá tiên tiến so với Luật đất đai năm 1993 về vấn đề này.
  • 25. 25 Theo khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai năm 2013 quy định thì có 7 trường hợp Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm và các đối tượng chủ yếu là hộ gia đình và cá nhân, còn trường hợp Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê thì đối tượng chủ yếu là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài. 1.3.1.2. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được từ thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng cùng nhau chung sức tạo lập của cải vật chất để phục vụ cho nhu cầu sống chung của gia đình. Thông thường tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều được xác định là tài sản chung vợ chồng. Những tài sản đó có thể là do vợ và chồng cùng trực tiếp lao động, hoặc do một trong hai bên trực tiếp lao động để làm ra sản phẩm, sản phẩm đó để dùng trong gia đình, còn dư ra, đem bán để có sự tích lũy, cũng có thể toàn bộ sản phẩm do vợ chồng làm ra đều đem bán, tạo ra thu nhập cho gia đình; tài sản chung cũng có thể hình thành qua việc được trả công lao động, thuê người khác làm, do tổ chức sản xuất, kinh doanh mà có v.v… Có thể thấy rằng thông qua sức lao động của vợ, chồng được thể hiện dưới các hình thức khác nhau để tạo nguồn thu nhập, tạo ra tài sản trong gia đình, dù các tài sản đó được hình thành dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả quyền sử dụng đất), nhưng nếu đó là kết quả của lao động chân chính, đều được công nhận là tài sản chung vợ chồng. Ngoài những thu nhập đã được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 27, thì những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247, Điều 248, Điều 249, Điều 250, Điều 251, Điều 252 Bộ luật Dân sự năm 2005 … trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, quyền sử dụng đất mà vợ chồng tạo dựng, có được từ nguồn thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
  • 26. 26 1.3.1.3. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung hoặc vợ chồng nhận thế chấp Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung hoặc vợ chồng nhận thế chấp là trường hợp xác lập tài sản chung của vợ chồng dựa trên quyền định đoạt của chủ sử dụng hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế. Điều 631 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định: “cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”, qua quy định này chúng ta có thể nhận thấy, theo pháp luật hiện hành có hai hình thức thừa kế đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Nếu quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ, chồng có được do thừa kế theo pháp luật là tài sản riêng của mỗi bên vì thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, vợ chồng được hưởng di sản thừa kế với tư cách riêng của mình, thì không phát sinh sở hữu chung. Trường hợp vợ chồng cùng hàng thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế thì quyền sử dụng đất được thừa kế theo hàng thừa kế, theo suất thừa kế vẫn là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng. Quyền sử dụng đất đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng tự nguyện nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung hoặc có thỏa thuận là tài sản chung của vợ chồng. Chỉ có quyền sử dụng đất mà cả hai vợ chồng được thừa kế chung theo di chúc mà trong đó người để lại di chúc không phân biệt kỷ phần tài sản cho mỗi bên vợ chồng được hưởng mới là tài sản chung của vợ chồng. Trong quan hệ tặng, cho cũng sẽ tương tự như vậy, nếu như vợ hoặc chồng được tặng, cho riêng hoặc trong hợp đồng tặng, cho người để lại di chúc đã xác định kỷ phần từ trước cho mỗi bên vợ chồng thì về nguyên tắc đó là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng, và nó sẽ là tài sản chung nếu như vợ hoặc chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung hay vợ chồng thỏa thuận đó là tài sản chung, hoặc nếu như trong hợp đồng tặng cho thể hiện ý chí cho chung quyền sử dụng đất cho cả hai vợ chồng, không phân biệt cụ thể phần quyền của mỗi người thì quyền sử dụng đất đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng.
  • 27. 27 Về vấn đề vợ chồng nhận thế chấp, trong khoản 2 Điều 26 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình có quy định như sau: “trong trường hợp vợ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba thì khi ly hôn, quyền nhận thế chấp đất cũng là tài sản chung của vợ chồng”. Qua đó, khi vợ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất từ người thứ ba thì quyền nhận thế chấp quyền sử dụng đất đó cũng là tài sản chung của vợ chồng. Việc vợ, chồng hoặc các thành viên khác trong gia đình thực hiện các giao dịch dân sự bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh là để phục vụ nhu cầu hàng ngày của gia đình, để tạo ra của cải vật chất đảm bảo tốt nhất lợi ích của các thành viên trong gia đình. Những hoạt động đó được thực hiện và tạo ra của cải trong thời kỳ hôn nhân, do vậy những tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng. 1.3.1.4. Quyền sử dụng đất mà mỗi bên có được trước khi kết hôn do được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, nhận thế chấp hoặc quyền sử dụng đất mà mỗi bên được Nhà nước giao, cho thuê trước khi kết hôn có thỏa thuận là tài sản chung Quyền sử dụng đất mà mỗi bên có được trước khi kết hôn hay được thừa kế riêng là tài sản riêng của mỗi người. Nhưng khi hai vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung, nó sẽ là tài sản chung và khi ly hôn, tài sản này sẽ được chia cho cả hai vợ chồng. Đây là một quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Quy định này rất phù hợp với truyền thống đạo đức và thực tế đời sống gia đình Việt Nam; nó đảm bảo quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng. Trong cuộc sống hôn nhân, nhu cầu ăn chung, ở chung, vì lợi ích chung của gia đình đã khiến một bên vợ hoặc chồng tự nguyện đưa tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung để dễ quản lý, sử dụng, đảm bảo tốt nhất nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong thực tế hiện nay, có nhiều cặp vợ chồng chỉ đồng ý tài sản riêng của mình là tài sản chung của vợ chồng qua “lời nói”, do vậy khi xảy ra tranh chấp, bên cho rằng tài sản đó thuộc sở hữu chung có nghĩa vụ chứng minh, nếu không chứng minh được thì nó vẫn là tài sản riêng của bên kia. Chính vì vậy, Khoản 1 Điều 13 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi
  • 28. 28 hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của mỗi bên của mỗi bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 2 điều 32 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ hoặc chồng. Văn bản đó có thể được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật”. 1.3.1.5. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước công nhận trong thời kỳ hôn nhân Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước công nhận trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp mà vợ chồng được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất từ việc chia tách, sáp nhập theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, từ kết quả của việc giải quyết tranh chấp của Tòa án hay của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong những căn cứ xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng. Có thể nói đây là chứng cứ pháp lý quan trọng chứng minh quyền của chủ sử dụng đất và là căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Vì vậy, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để người chủ quyền sử dụng đất đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì quyền sử dụng đất là loại tài sản đặc biệt quan trọng nên theo luật định trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi tên cả hai vợ chồng thì mới khẳng định đó là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, trong Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hướng dẫn: “trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng, nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải có nghĩa vụ chứng minh”. Quy định này làm hạn chế ý nghĩa của Khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán trong trường hợp có tranh chấp thì người có nghĩa vụ chứng minh là người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, nhưng thực tế thì trong trường hợp có tranh chấp người có nghĩa vụ chứng minh phải là
  • 29. 29 người không có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu và chứng minh tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng chứ không phải là tài riêng của bên kia. Nhà làm luật đã sử dụng nguyên tắc suy đoán trong việc xác định khối tài sản chung của vợ chồng ngoài việc dự liệu căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản thuộc sở hữu chung. Nguyên tắc suy đoán này không đủ cơ sở để xác định là tài sản riêng của vợ chồng có thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay không, nhưng nguyên tắc này đảm bảo được sự công bằng trên cơ sở vì lợi ích chung của gia đình. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, và đó cũng là cơ sở để công nhận tài sản chung của vợ chồng nếu như vợ hoặc chồng không chứng minh được quyền sử dụng đất là tài sản riêng của mình. Trên đây là những cơ sở xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng. Và đó là những cơ sở để khi giải quyết tranh chấp Tòa án không gặp khó khăn, đồng thời đảm bảo được lợi ích chính đáng của đương sự. 1.3.1.6. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi thường trong thời kỳ hôn nhân Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Nếu quyền sử dụng đất Nhà nước thu hồi là tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng, khi Nhà nước thực hiện chính sách bồi thường thì giá trị quyền sử dụng đất đó được nhà nước bồi thường là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng. Theo Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất”.Qua đó chúng ta có thể thấy rằng, nếu quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ chồng có được do Nhà nước bồi thường từ quyền sử dụng phần đất bị thu hồi sẽ là tài sản riêng của mỗi bên nếu phần quyền sử dụng đất bị thu hồi ban đầu là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng, do đó không phát sinh sở hữu chung. Quyền sử dụng
  • 30. 30 đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi thường là tài sản chung khi một bên vợ hoặc chồng tự nguyện sát nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi thường là tài sản chung của vợ chồng mà vợ chồng chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy đinh của pháp luật thì trước khi bồi thường Nhà nước sẽ trừ đi phần giá trị nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện trong giá trị được bồi thường. Nếu việc bồi thường diễn ra đúng lúc vợ chồng xin ly hôn chia tài sản là quyền sử dụng đất được bồi thường thì tùy theo tỷ lệ phần giá trị mỗi bên được hưởng Nhà nước sẽ xác định phần nghĩa vụ tài chính cần phải thực hiện của mỗi bên. Ví dụ một trường hợp như sau: Vợ chồng anh Hưng (cán bộ công chức Nhà nước) và chị Liên (nông dân) xin ly hôn chia tài sản chung là quyền sử dụng đất được Nhà nước bồi thường là đất nông nghiệp. Trong trường hợp này chị Liên là người có nhu cầu trực tiếp sử dụng đất. Nếu như Nhà nước không có đất nông nghiệp để bồi thường cho vợ chồng anh chị, thì căn cứ điểm b khoản 1 Điều 24 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình: “Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất, thì người đó có quyền được tiếp tục sử dụng toàn bộ đất đó sau khi đã thỏa thuận với bên kia; nếu không thỏa thuận được thì bên sử dụng đất phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà bên đó được hưởng theo mức do hai bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết” . Căn cứ khoản 1 Điều 84 Luật Đất đai năm 2013: “Trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất mà không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc bồi thường bằng tiền, còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm ”. Trường hợp của anh Hưng và chị Liên sẽ giải quyết như sau: chị Liên là người được ưu tiên nhận phần đất nông nghiệp nếu vợ chồng chị có ly hôn, nhưng nếu phần đất đó bị Nhà nước thu hồi mà Nhà nước không có đất để bồi thường thì Nhà nước ngoài việc bồi thường bằng tiền thì còn phải hỗ trợ để chị Liên ổn định cuộc sống, bên cạnh đó đào tạo nghề và bố trí việc làm mới cho chị Liên để chị có thể đảm bảo được cuộc sống của mình.
  • 31. 31 1.3.2.Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ chồng Khoản 1 Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ chồng theo quy định tại khoản 1 điều 29 và điều 30 của Luật này, đồ dùng, tư trang cá nhân”. Quyền sử dụng đất là quyền tài sản, vì vậy nó có thể là tài sản chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng. Trước khi kết hôn, cá nhân bằng sức lao động và nghề nghiệp của mình có thể tạo ra được khối tài sản lớn như quyền sử dụng đất, hoặc quyền sử dụng đất cũng có thể được tặng, cho, thừa kế riêng, những tài sản này được tạo lập trước thời kỳ hôn nhân và không thể coi là tài sản chung của vợ chồng nếu không có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền sử dụng đất đó. Tuy nhiên, do một số yếu tố khách quan nên trước đây Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định những tài sản mà vợ, chồng có được đều là tài sản chung của vợ chồng, không phân biệt nguồn gốc và thời điểm xác lập quyền sở hữu (chế độ cộng đồng toàn sản). Điều này dẫn đến tình trạng một số người mưu cầu lợi ích kinh tế để hưởng lợi cho riêng mình chứ không vì mục đích cao đẹp của hôn nhân là xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định: “vợ, chồng có quyền đầu tư kinh doanh riêng, do đó có quyền yêu cầu tòa án hoặc tự thỏa thuận với nhau chia tài sản chung để lấy tài sản riêng đó sử dụng vào mục đích kinh doanh của mình”. Quyền sử dụng đất là tài sản có giá trị thực tế và giá trị sử dụng lớn. Khi kinh doanh riêng thua lỗ dẫn đến phá sản doanh nghiệp, trước hết người vợ hoặc người chồng phải lấy tài sản riêng của mình để chịu trách nhiệm về tài sản. Chỉ khi nào tài sản riêng không đủ thì mới lấy phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ của mình. Như vậy, quyền lợi của mỗi bên vợ, chồng cũng như mọi người khác trong xã hội được bảo vệ. Trước khi kết hôn, vợ và chồng đều là những chủ thể pháp lý độc lập với các quyền và nghĩa vụ hoàn toàn
  • 32. 32 độc lập không có sự ràng buộc pháp lý trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình. Do đó, quyền sử dụng đất đương nhiên là tài sản riêng của mỗi bên. Quyền sử dụng đất này cũng có thể do vợ, chồng được tặng, cho riêng hay thừa kế riêng. Quyền sử dụng đất được thừa kế, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, nếu vợ hoặc chồng không tự nguyện nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại thì đương nhiên vẫn là tài sản riêng của mỗi người. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng được chia riêng cho vợ, chồng theo khoản 1 Điều 29 và Điều 30 (chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại). Vợ hoặc chồng có thể sử dụng quyền sử dụng đất là tài sản riêng đó để đầu tư kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Một nguyên tắc quan trọng đã được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 kế thừa từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là “vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”. Như vậy, quyền sử dụng đất của vợ chồng có trước khi kết hôn, được thừa kế riêng, tặng cho riêng sẽ là tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng, nó chỉ có thể là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Mặc dù pháp luật Việt Nam tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu riêng về tài sản của vợ chồng nhưng không thừa nhận (và không cho phép) việc vợ, chồng xác lập chế độ biệt sản trong hôn nhân như phần lớn các nước tư bản. Ví dụ như ở Hoa kỳ, hậu hôn ước qui định về quyền lợi về tài sản trong thời kì hôn nhân bao gồm: qui định về việc giới hạn hay từ bỏ việc cấp dưỡng; đặt khối tài sản có được trong suốt thời kì hôn nhân trong tình trạng riêng biệt. Như vậy có thể nói kiểu hậu hôn ước này cũng là một hình thức chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, hậu hôn ước này phải được lập thành văn bản có chữ kí của cả hai vợ chồng, giá trị của hậu hôn ước chỉ được công nhận khi tài sản riêng của nhau được các bên biết rõ, không có sự hăm dọa, gian dối hay cưỡng bức trong việc lập hôn ước. Sau khi lập hậu hôn ước, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ biệt sản. Luật hôn nhân gia đình Trung Quốc có quy định riêng về hợp đồng hôn nhân ở Chương II, do đó việc phải làm trước khi kết hôn của các vợ chồng Trung
  • 33. 33 Quốc đó là ký một bản hợp đồng hôn nhân với các điều kiện như cả hai phải tự nguyện, không có sự can thiệp của bên thứ ba [31, Điều 5]; nữ 20 tuổi, nam 22 tuổi [31, Điều 6]; không có quan hệ huyết thống 3 đời, không bị bệnh nan y [31, Điều 7] ... và hợp đồng hôn nhân phải đăng ký với cơ quan đăng ký kết hôn [31, Điều 8]. Qua đó chúng ta có thể thấy được rằng, việc quy định về hợp đồng hôn nhân trong Luật hôn nhân gia đình Trung Quốc năm 1980 sửa đổi, bổ sung năm 2001 là một bước tiến mới, nó góp phần tạo lập sự tin tưởng, độc lập cho cuộc hôn nhân. Nếu như cuộc hôn nhân tốt đẹp thì điều đó có thể là không cần thiết nhưng nếu có mâu thuẫn xảy ra giữa các cặp vợ chồng thì đây đúng là một biện pháp ưu việt tránh được nhiều tranh cãi trong quá trình giải quyết ly hôn. Bởi đăng ký kết hôn là tiền đề, là cơ sở để các cơ quan tư pháp căn cứ trong việc phân chia tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Chi phối toàn bộ chế độ tài sản trong quan hệ vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đó là nguyên tắc sở hữu chung hợp nhất luôn là nguyên tắc chủ đạo, chi phối toàn bộ chế độ tài sản trong quan hệ vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, việc nhập tài sản riêng của vợ chồng là nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác có giá trị lớn vào khối tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản có chữ ký của cả vợ và chồng. Văn bản này có thể được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. Đây là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp về tài sản chung, tài sản riêng. Tranh chấp về quyền sử dụng đất thường xảy ra khá phức tạp, vì vậy một khi giữa vợ và chồng đã có văn bản thỏa thuận (có chữ ký của hai bên) tài sản riêng của một bên nhập vào tài sản chung của vợ chồng thì tài sản đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng và khi ly hôn thì tài sản đó sẽ chia đôi cho mỗi bên vợ chồng. Pháp luật về hôn nhân gia đình cần có những quy định về việc vợ chồng được quyền lựa chọn về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn, có quy định như vậy mới đáp ứng được với xu hướng phát triển của xã hội, đảm bảo quyền và
  • 34. 34 lợi ích của vợ chồng và phù hợp với xu thế chung của hệ thống pháp luật trên thế giới. 1.4. Nguyên tắc chung của giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn Nguyên tắc chung khi giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn là những tư tưởng chỉ đạo trong quá giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn. Xuất phát từ những quy định về thành phần tài sản chung của vợ chồng tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và những tài sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng tại Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, ta có thể rút ra một nguyên tắc chung nhất khi chia tài sản của vợ chồng, đó là việc chia tài sản của vợ chồng chỉ đặt ra đối với những tài sản nào là tài sản chung, nếu không phải là tài sản chung thì không chia. Mặc dù Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không quy định nguyên tắc này, nhưng phải khẳng định rằng đây là nguyên tắc xuất phát từ nội dung của Luật và là nguyên tắc đầu tiên khi chia tài sản chung của vợ chồng. Rõ ràng đối với tài sản riêng của vợ, chồng thì mỗi bên đều có toàn quyền định đoạt đối với loại tài sản này. Chính vì vậy, giải quyết tranh chấp sử dụng đất của vợ chồng quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn chỉ đặt ra đối với quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật quy định một số nguyên tắc chung về đường lối giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đó cũng là những nguyên tắc chung khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. Các nguyên tắc này xuất phát từ mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mỗi bên vợ, chồng, các thành viên trong gia đình và lợi ích của xã hội. Cho nên, trong quá trình giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án cần phải quán triệt tuân theo các nguyên tắc chia tài sản quy định tại Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trước hết là nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng. Khoản 1 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: “ Việc chia tài sản khi ly
  • 35. 35 hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó”. Như vậy, khi ly hôn, tài sản của vợ chồng được chia như thế nào trước hết phụ thuộc vào chính ý chí của họ. Pháp luật rất coi trọng và khuyến khích sự thỏa thuận của vợ chồng về việc chia tài sản khi ly hôn. Song sự thỏa thuận này phải phù hợp với các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, bảo đảm tính tự nguyện, không có sự cưỡng bức, lừa dối. Nếu vợ chồng không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án sẽ quyết định chia tài sản như thế nào khi hai bên không đạt được sự thỏa thuận và có yêu cầu giải quyết. Cho dù các bên có yêu cầu Tòa án giải quyết thì trước tiên Tòa án cũng phải tiến hành hòa giải, hướng dẫn, giải thích, giúp đỡ để các đương sự tự giàn xếp, thỏa thuận dưới sự giám sát và công nhận của Tòa án. Nếu tòa án tiến hành hòa giải thành thì trước tiên Tòa án cũng phải tiến hành hòa giải thành thì việc giải quyết tranh chấp sẽ có nhiều thuận lợi, vừa đảm bảo đúng pháp luật, đoàn kết trong quần chúng, tránh được những mâu thuẫn, bất đồng khi ly hôn, vừa giúp cho đương sự tiết kiệm thời gian, chi phí và công sức, bởi “ sự thỏa thuận” là kết quả của sự phù hợp ý chí, nguyện vọng của các bên đương sự. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau, khi vợ, chồng có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định. Khi ly hôn, tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó. Nếu có tranh chấp thì người có tài sản riêng phải chứng minh đó là tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể bằng sự công nhận của bên kia hoặc bằng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu riêng của mình (di chúc, hợp đồng, tặng cho…). Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung [25, Điều 27, khoản 3]. Trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc chia tài sản chung khi ly hôn và yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án tiến hành phân chia tài sản theo các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:
  • 36. 36 Thứ nhất, “Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập” [25, Điều 95, khoản 2, điểm a]. Về nguyên tắc, phần của vợ, chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng là bằng nhau. Tuy vậy, trong mỗi trường hợp cụ thể, để bảo đảm quyền lợi chính đáng của mỗi bên Tòa án có thể quyết định khác với nguyên tắc chung đó, chia theo công sức đóng góp, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên cho công bằng và hợp lý. Khi phân chia tài sản chung của vợ chồng, Tòa án không thể máy móc áp dụng nguyên tắc “chia đôi tài sản” mà phải xem xét hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên (vợ chồng kết hôn lâu chưa, ai sẽ chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, khả năng thu nhập của mỗi người ra sao…); tình trạng tài sản (tài sản chung bao gồm tài sản nào, giá trị, nguồn gốc phát sinh tài sản, tài sản còn hay không còn, tài sản nào có thể phân chia bằng hiện vật, tài sản nào chia theo giá trị…). Ngoài ra, Tòa án còn phải căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung, xem ai là người có công sức đóng góp nhiều hơn, ai là người lao động chủ yếu trong gia đình…Sự đóng góp đó có thể trực tiếp bằng sức lao động hoặc tài sản mà người đó bảo ra để tạo nên tài sản chung của vợ chồng như dùng tài sản riêng để sửa chữa, cải tạo, tu bổ làm tăng giá trị của tài sản chung, tài sản riêng của mỗi bên đem nhập vào tài sản chung của vợ chồng…Trong trường hợp mặc dù không có sự đóng góp một cách trực tiếp bằng sức lao động hay tài sản cụ thể nhưng có ý thức trong việc giữ gìn, bảo quản và phát triển khối tài sản chung của vợ chồng thì cũng được coi là có công sức đóng góp. Sau khi xem xét, nếu công sức đóng góp vào khối tài sản của vợ, chồng là như nhau thì phải chia tài sản bằng nhau. Khi một trong hai bên vợ, chồng do ốm đau, bệnh tật, nuôi con nhỏ, không có việc làm ổn định sau khi ly hôn…Ngược lại, đối với người lười lao động lại ít đóng góp, có hành vi phá tán tài sản thì sẽ được chia phần tài sản ít hơn bên kia. Thứ hai, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em. Theo khoản 6 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 “Nhà nước, xã hội và gia đình
  • 37. 37 có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ”. Nguyên tắc này được quy định nhằm ngăn chặn tàn dư của chế độ phong kiến, coi rẻ người phụ nữ và con cái. Công ước CEDAW 1979 (Việt Nam ký tham gia Công ước vào 29/7/1980 phê chuẩn vào 27/11/1981) [52, Điều 16] quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình: “1. Các nước tham gia Công ước phải Áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ trong mọi vấn đề liên quan đến hôn nhân, gia đình và đặc biệt, trên cơ sở bình đẳng nam nữ, phải bảo đảm: a. Quyền ngang nhau trong việc kết hôn; b. Quyền tự do như nhau trong việc lựa chọn bạn đời và chỉ kết hôn khi cả hai hoàn toàn tự do và tự nguyện; c. Quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ và chồng trong thời gian hôn nhân cũng như khi hôn nhân tan vỡ; d. Có quyền và trách nhiệm với vai trò làm cha mẹ như nhau trong mọi vấn đề liên quan tới con cái, bất kể tình trạng hôn nhân như thế nào. Trong mọi trường hợp, lợi ích của con cái phải được đặt lên trên hết; e. Quyền tự do và trách nhiệm như nhau khi quyết định về số con, khoảng cách giữa các lần sinh và có quyền tiếp cận thông tin, giáo dục và các biện pháp để thực hiện những quyền này; f. Quyền và trách nhiệm như nhau trong việc trông nom, giám hộ, bảo trợ, nhận uỷ thác và nhận con nuôi hoặc có những quy định tương tự về vấn đề này được thể hiện trong luật pháp quốc gia; trong mọi trường hợp lợi ích của con cái phải được đặt lên trên hết; g. Vợ chồng có quyền như nhau trong việc lựa chọn tên họ, chuyên môn và nghề nghiệp của mình; h. Vợ chồng có quyền như nhau trong việc sở hữu, mua sắm, kiểm soát, quản lý, hưởng thụ và sử dụng tài sản, dù đó là tài sản không phải bỏ tiền ra mua hay có giá trị lớn.
  • 38. 38 2. Việc hứa hôn và kết hôn của trẻ em phải bị coi là không có hiệu lực pháp lý và phải tiến hành mọi hành động cần thiết, kể cả về mặt pháp luật nhằm quy định độ tuổi tối thiểu có thể kết hôn và bắt buộc phải làm thủ tục đăng ký kết hôn chính thức” Theo nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em, Luật hôn nhân gia đình còn quy định tại Điều 41: “Trong trường hợp vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ” . Việc phân chia tài sản khi ly hôn, về nguyên tắc, tài sản chung được chia đôi có xem xét hợp lý đến tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên nhưng phải đảm bảo “Khi chia tài sản phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của con chưa thành niên” Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình. Quy định này xuất phát từ một thực tế là phần lớn phụ nữ Việt Nam sau khi lấy chồng đều về ở nhà chồng, suốt thời gian chung sống làm ăn tần tảo, đóng góp công sức vào việc gây dựng và phát triển khối tài sản chung của gia đình nhà chồng nên khi ly hôn, người vợ cần được bảo đảm để tạo lập chỗ ở mới nhất là khi còn phải nuôi con chưa thành niên. Họ cần được pháp luật, xã hội bảo vệ và quan tâm. Do đó, cần phải tạo điều kiện cho con học tập, ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, lao động, … hạn chế thấp nhất những khó khăn họ phải chịu. Nhất là người vợ bị tàn tật, người con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ là cần thiết nhưng chỉ có ý nghĩa khi đó là quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng chứ không phải mọi đòi hỏi của người vợ khi ly hôn đều phải được đáp ứng. Thứ ba, nguyên tắc “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” [25, Điều 95, khoản 2, điểm c]. Khi ly hôn, để đảm bảo tính liên tục trong nghề nghiệp của người lao động, đảm bảo được đời sống, thu nhập cho họ và tránh tình trạng sau khi ly hôn, vợ chồng không có tư liệu để sản xuất, thực hiện hoạt động nghề nghiệp của mình thì cần phải chi cho vợ chồng được hưởng những tài sản liên
  • 39. 39 quan đến hoạt động nghề nghiệp của họ. Chia tài sản khi ly hôn phải phù hợp với hoạt động nghề nghiệp của mỗi bên vợ, chồng và đảm bảo tính năng, tác dụng của tài sản. Quy định này nhằm hạn chế những hậu quả xấu về kinh tế của việc ly hôn. Thứ tư, “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch” [25, Điều 95, khoản 2, điểm d]. Theo đó, có hai phương thức chia tài sản chung của vợ chồng: chia bằng hiện vật và chia theo giá trị. Với quy định này đã giúp cho Tòa án chủ động hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Mặt khác, cũng tạo cơ sở pháp lý cho vợ chồng lựa chọn cách phân chia phù hợp. Khi xét xử, Tòa án phải căn cứ vào tình trạng tài sản và ý chí của mỗi bên để có cách phân chia phù hợp. Trước tiên, Tòa án phải xem xét có thể chia tài sản bằng hiện vậy được không? Chỉ khi nào không thể chia tài sản bằng hiện vật hoặc không thể chia đều hiện vật thì Tòa án quyết định chia cho một bên được nhận toàn bộ hiện vật hay bên nhận hiện vật có giá trị lớn hơn phần giá trị mà họ được hưởng phải thanh toán giá trị chênh lệch cho bên kia. Bên cạnh đó, khi ly hôn, song song với việc phân chia tài sản thì những nghĩa vụ chung về tài sản cũng cần phải giải quyết. Khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Nghĩa vụ chung về tài sản bao gồm: Các khoản nợ chung, các nghĩa vụ tài sản khác của vợ chồng. Vợ chồng có thể tự thương lượng cách thức phân chia phần nghĩa vụ mà mỗi bên phải thực hiện, Tòa án sẽ công nhận nếu sự thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Như vậy, pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng đối với việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản. Như vậy, nếu vợ chồng không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ tiến hành giải quyết theo yêu cầu của vợ chồng. Trên đây là những nguyên tắc chung nhất, có tính chất chủ đạo, xuyên suốt quá trình phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn mà cơ quan áp dụng pháp luật cũng như đương sự trong vụ án ly hôn có tranh chấp về tài sản cần phải tuân thủ. 1.5 Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn