Download luận án tiến sĩ ngành chính trị học với đề tài: Vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ và những gợi mở đối với Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Luận án: Vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ, HAY
1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ HOA
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
VÀ NHỮNG GỢI MỞ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội năm 2017
2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ HOA
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
VÀ NHỮNG GỢI MỞ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
MÃ SỐ: 62 31 02 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS. LƯU VĂN AN
2.PGS,TS. TRỊNH THỊ XUYẾN
Hà Nội năm 2017
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Phạm Thị Hoa
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.........................8
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về vận động hành lang, vận động chính sách công
ở Anh, Pháp, Mỹ...................................................................................................8
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về vận động hành lang, vận động chính sách công
ở Việt Nam .........................................................................................................24
1.3. Đánh giá những công trình nghiên cứu..............................................................28
Chương 2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG..............33
2.1. Khái niệm và cơ sở vận đông chính sách công..................................................33
2.2. Mục đích và sự cần thiết vận động chính sách công..........................................42
2.3. Chủ thể, đối tượng và phương thức vận động chính sách công.........................47
2.4. Quy trình vận động chính sách công..................................................................54
Chương 3. VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ ...................60
3.1. Pháp luật về vận động chính sách ở Anh, Pháp, Mỹ..........................................60
3.2. Chủ thể và đối tượng của vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ............73
3.3. Quy mô, tài chính cho vận động chính sách công .............................................86
3.4. Phương thức, phương tiện vận động chính sách công .......................................95
3.5. Một số nhận xét về vận động chính sách ở Anh, Pháp, Mỹ.............................102
Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GỢI MỞ VỚI VIỆT NAM....................................117
4.1. Quan niệm về vận động chính sách công ở Việt Nam hiện nay......................117
4.2. Biểu hiện vận động chính sách công ở Việt Nam............................................120
4.3. Điều kiện, thách thức và xu hướng phát triển vận động chính sách ở Việt Nam
thời gian tới.......................................................................................................133
4.4. Một số kiến nghị đối với Nhà nước nhằm ứng xử hợp lý với vận động chính
sách công ở Việt Nam hiện nay........................................................................141
KẾT LUẬN.............................................................................................................150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................152
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................153
5. 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt Tên đầy đủ
EU Liên minh Châu Âu
NGOs Các tổ chức phi chính phủ
PNTR Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn
VASEP Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VĐCS Vận động chính sách
VĐHL Vận động hành lang
VNGO Tổ chức phi Chính phủ Việt Nam
USD Đô la Mỹ
WTO Tổ chức thương mại thế giới
6. 2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hầu hết nhà nước đều có nhiệm vụ chung là nghiên cứu, đánh giá tình
hình thực tế, so sánh và đối chiếu với các luật, điều khoản Hiến pháp hiện hành,
đưa ra những lập luận chính xác để quyết định hướng giải quyết cho những vấn
đề cấp bách, quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh cũng như sự phát triển
của một quốc gia. Vì tính chất quan trọng của chúng, pháp luật thường đặt ra
những yêu cầu khắt khe, có thể trở thành rào cản khiến cho công dân của các
quốc gia gặp khó khăn trong việc nêu quan điểm, suy nghĩ của mình với các cơ
quan, quan chức nhà nước để đóng góp vào quá trình xây dựng những quy định,
quyết định hợp lý, hiệu quả, bảo đảm tính dân chủ của xã hội. Nhằm giảm thiểu
sự xuất hiện rào cản đó giữa các cơ quan nhà nước và công dân của quốc gia, cơ
chế vận động chính sách (VĐCS) công được hình thành và phát triển. Lịch sử
VĐCS công đã bắt đầu tư rất lâu và được coi là một phần tất yếu của hoạt động
chính trị trên thế giới tuy nhiên chỉ đến những năm cuối thế kỷ XIX, yếu tố này
mới được người dân biết đến một cách rộng rãi. Cho đến nay, VĐCS công đã trở
nên phổ biến ở nhiều quốc gia và ngày càng chứng minh được sự cần thiết khách
quan của nó trong đời sống chính trị nói chung, đặc biệt là trong quy trình chính
sách của các nước. Có thể hiểu một cách khái quát, VĐCS là hoạt động được tiến
hành bởi một cá nhân hay tổ chức nhằm thuyết phục các cơ quan xây dựng và
quyết định chính sách về sự cần thiết ban hành hay sửa đổi một chính sách nào
đó vì lợi ích của bản thân họ hoặc vì cộng đồng, xã hội.
Trong nền chính trị quốc tế đương đại, tồn tại nhiều loại hình thể chế chính
trị, nhiều mô hình tổ chức quyền lực, nhiều mô hình quy trình chính sách khác
nhau và vì vậy, sự tác động của VĐCS vào quy trình chính sách ở các nước khác
nhau cũng không hoàn toàn giống nhau. Nhưng có điểm chung là ở những quốc
gia có sự tham gia của VĐCS vào quy trình chính sách công và có khung pháp lý
cho hoạt động này thì về cơ bản, hoạt động hoạch định chính sách công diễn ra
công khai hơn, các thông tin liên quan đến chính sách công được mở hơn và chất
7. 3
lượng các chính sách công cao hơn bởi lẽ các quyết định chính sách thường đúng
đắn hơn trên cơ sở những thông tin đa chiều và đã được tiếp cận, phân tích trên
nhiều bình diện. Điều này đặc biệt thấy rõ ở các nước tư bản phát triển, và ở tất cả
các mô hình thể chế chính trị. Vậy, liệu có mối liên hệ giữa các mô hình thể chế
chính trị khác nhau ấy với sự tác động của VĐCS công đến đời sống chính sách
công ở các quốc gia này?
Trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều mô hình thế chế chính trị nhưng tựu
chung lại, về mặt hình thức hay tên gọi, có thể khái quát thành hai loại là thể chế
quân chủ và thể chế cộng hòa. Còn dưới góc độ bản chất của chế độ, và xét riêng
ở những nước tư bản phát triển, có thể tiếp cận thể chế chính trị theo ba mô hình:
mô hình nghị viện, mô hình tổng thống và mô hình hỗn hợp. Tiêu biểu cho các
mô hình ấy là các quốc gia Anh, Mỹ, Pháp. Đây cũng là những quốc gia mà hoạt
động VĐCS công có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quy trình chính sách công, tạo
thành một hoạt động, một phương tiệnquan trọng trong quy trình chính sách ở
các nước này. Đây cũng chính là một trong những lí do tác giả lựa chọn nghiên
cứu VĐCS công ở cả ba quốc gia này.
Vận động chính sách công đã được áp dụng và luật hóa ở nhiều quốc gia
trên thế giới từ lâu nhưng vẫn còn là một vấn đề mới ở Việt Nam. Trong xu thế
phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế, dù muốn hay
không, dù tích cực hay bị động thì chúng ta cũng luôn là một thành viên, một chủ
thể trong đời sống chính trị quốc tế. Do đó, việc phải nghiên cứu để tìm ra những
hướng gợi mở cho Việt Nam, tìm ra những bài học từ VĐCS công trong quy
trình chính sách công ở các nước phát triển là một điều hết sức cần thiết. Hơn thế
nữa, mặc dù cơ bản các chính sách công ở Việt Nam hiện nay đã bám sát và giải
quyết được những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội nhưng phải thừa nhận vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập trong quy trình chính sách công cũng như chất lượng
hoạch định chính sách công ở nước ta. Điều đó càng cho thấy tính tất yếu của
việc nghiên cứu để làm rõ vai trò của VĐCS công ở một số nước tư bản phát
triển để từ đó tìm ra những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam.
8. 4
Vậy thì, thực tiễn VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ có những điểm tương
đồng khác biệt gì? Tính chất thể chế chính trị và các yếu tố về kinh tế, văn hóa,
xã hội cũng như những quy định pháp lý có tác động như thế nào đến thực tiễn
chính sách của mỗi nước? VĐCS công có thực sự là nhu cầu tất yếu khách quan
của các chủ thể trong đời sống xã hội, và nếu như vậy thì nhà nước nên nhìn nhận
và ứng xử thế nào với VĐCS để vừa phát huy được những tác động tích cực của
VĐCS, vừa kiểm soát và kiềm chế được những ảnh hưởng tiêu cực của nó mà vẫn
khơi dậy được động lực phát triển của các chủ thể trong đời sống xã hội?Với
những đặc thù về thể chế chính trị và quy trình chính sách, Việt Nam có thể học
hỏi được kinh nghiệm của Anh, Pháp, Mỹ trong việc nhận thức và ứng xử với
VĐCS công không và nếu có thì kinh nghiệm ấy là gì? Đó là những vấn đề đặt ra
và sẽ được nghiên cứu trong luận án này.
Vấn đề được đặt ra cấp thiết như thế, nhưng cho đến nay, chưa nhiều công
trình khai thác trực tiếp hướng nghiên cứu này. Chính vì vậy, tác giả xác định đây
còn là một mảnh đất trống cần khai phá trong nghiên cứu khoa học. Và điều đó
cũng thôi thúc tác giả lựa chọn đề tài “Vận động chính sách công ở Anh, Pháp,
Mỹ và những gợi mở đối với Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án chính trị
học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung hệ thống và làm rõ những vấn đề cơ bản về VĐCS công
như khái niệm VĐCS công, mục đích và sự cần thiết VĐCS công, chủ thể, đối
tượng và phương thức VĐCS công, khảo sát thực trạng hoạt động này ở ba nước
Anh, Pháp, Mỹ; từ đó đưa ra những đánh giá khái quát về hoạt động VĐCS công
ở ba quốc gia nêu trên; đồng thời đưa ra một số gợi mở cho VĐCS công ở Việt
Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục tiêu trên, đề tài tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ bản
như sau:
9. 5
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về VĐCS công, trong đó hệ thốngvà
phân tích khái niệm chính sách công, xác định mục đích, sự cần thiết của VĐCS,
chủ thể, đối tượng, phương thức, phương tiện vận động, khái quát những bước cơ
bản trong quá trình VĐCS.
- Khảo cứuthực trạng VĐCS công ở Anh, Mỹ, Pháp hiện nay trêncác khía
cạnh pháp luật về VĐCS, chủ thể và đối tượng, quy mô hoạt động và tài chính
cho vận động, phương tiện và phương thức vận động của từng nước vàđưa ra
những nhận xét về thực tiễn hoạt động này ở từng quốc gia.
- Từ thực tiễn VĐCS của ba nước Anh, Pháp, Mỹ, luận án làm rõ quan
niệm và những biểu hiện của VĐCS ở Việt Nam, đưa ra những gợi mở cho chính
phủ Việt Nam trong đó chủ yếu tập trung vào những khuyến nghị để Nhà nước
ứng xử phù hợp và hiệu quả hơn với VĐCS.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu trực tiếp hoạt động VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ; những biểu
hiện của VĐCS ở Việt Nam và gợi mở đối với Việt Nam từ nghiên cứu trường
hợp Anh, Pháp, Mỹ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động VĐCS ở Anh, Mỹ, Pháp là
ba quốc gia đại diện cho ba mô hình thể chế chính trị điển hình. Đồng thời, luận
án cũng nghiên cứu quan niệm và biểu hiện của VĐCS ở Việt Nam hiện nay để
trên cơ sở những nhận xét rút ra từ VĐCS ở Anh, Mỹ, Pháp tìm ra những gợi mở
cho Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền lực chính trị của nhân
dân lao động, về quyền lực nhà nước, thực thi và kiểm soát quyền lực nhà nước;
10. 6
- Một số lý thuyết chính trị học và chính sách công nhưlý thuyết về VĐCS
công, lý thuyết lựa chọn công cộng, lý thuyết nhóm, lý thuyết hành vi…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận Mác- Lênin, cụ thể
là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để có những nhìn nhận
khách quan, toàn diện về các biểu hiện của VĐCS ở các nước cũng như ở Việt
Nam.
- Phương pháp riêng: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng
tổng hợp các phương pháp như logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh,
nghiên cứu tài liệu trong đó phương pháp logic – lịch sử và phân tích – tổng hợp
kết hợp với nghiên cứu các tài liệu để tiếp cận lịch sử hình thành và phát triển của
VĐCS ở các nước, thao tác tư duy về những biểu hiện của thực tiễn VĐCS để
trên cơ sở trình bày những biểu hiện cụ thể sẽ khái quát lại để rút ra những nhận
định mang tính bản chất về VĐCS ở Anh, Pháp Mỹ và ở Việt Nam. Phương pháp
so sánh được sử dụng lồng trong các nội dung trình bày về những biểu hiện của
VĐCS trong thực tiễn chính trị và chính sách ở mỗi quốc gia, luận giải cụ thể
hơn những tương đồng và khác biệt nếu có giữa các quốc gia này để đưa ra
những đánh giá phù hợp, thuyết phục.
5. Những đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu về VĐCS công và VĐCS ở từng quốc gia không còn là vấn đề
mới mẻ, nhưng nội dung được đặt ra trong luận án đảm bảo tính mới ở hai điểm
cơ bản:
Thứ nhất là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách công phu, chi tiết về
VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ dựa trên các biểu hiện mang tính hệ thống và logic
bao gồm pháp luật VĐCS, chủ thể và đối tượng, quy mô và tài chính, hình thức,
phương pháp và phương tiện vận động.
Thứ hai, một nghiên cứu so sánh được sử dụng để nghiên cứu cho cả ba
trường hợp Anh, Pháp, Mỹ như trong đề tài này cũng lần đầu tiên được thực hiện.
Trước đó cũng đã có một số công trình trên thế giới nghiên cứu theo hướng so
11. 7
sánh nhưng chỉ tập trung vào một khía cạnh của VĐCS như những quy định về
VĐCS hoặc hiệu quả của VĐCS. Một công trình đề cập đến những vấn đề khá
căn cốt của VĐCS được khảo cứu qua bộ ba quốc gia Anh, Pháp Mỹ như trong
luận án này là hoàn toàn mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần luận giải và làm rõ những vấn đề về mặt lý luận có liên
quan đến hoạt động VĐCS ở ba nước Anh, Mỹ, Pháp, bước đầu có những đánh
giá một cách khoa học trên quan điểm mác xít về vấn đề này, đồng thời có những
tham chiếu đối với Việt Nam và làm rõ một số vấn đề có liên quan đến hoạt động
VĐCS công ở Việt Nam hiện nay.
Luận án được thực hiện sẽ là một đóng góp về mặt lý luận, làm rõ hơn về
hoạt động VĐCS công ở một số nước tư bản phát triển (Anh, Pháp, Mỹ) và kinh
nghiệm cho Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách của Việt Nam trong thời gian tới để có cái nhìn khách quan và
khoa học hơn đối với vấn đề VĐCS công ở Việt Nam.
Luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và
nghiên cứu chính trị học.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án có 4 chương 16 tiết.
12. 8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. NHÓM CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VẬN ĐỘNG HÀNH LANG,
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về vấn đề lý luận
Trong nhóm công trình này, có những vấn đề sau đây đã được bàn đến ở
những mức độ khác nhau:
Trước hết, quan niệm về chính sách công và VĐHL, VĐCS công. Nhóm
này phổ biến với không chỉ các công trình nghiên cứu mà còn hệ thống giáo trình
phong phú như: Cuốn “Chính sách công của Hoa Kỳ giai đoạn 1935 - 2001” của
tác giả Lê Vinh Danh (2001); Giáo trình “Hoạch định và phân tích chính sách
công” (2006) của tác giả Phan Ngọc Tú; Giáo trình “Khoa học chính sách công”
(2008) của Khoa chính trị học, Học viện Báo chí và tuyên truyền; Tập bài giảng
“Chính sách công” (2010) của Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền; Giáo trình “Chính sách công” (2013) của Khoa Chính sách công,
Học viện Chính sách và Phát triển; cuốn sách “Đại cương về chính sách công”
của các tác giả Nguyễn hữu Hải và Lê Văn Hòa (2013); cuốn “Chính sách công -
Những vấn đề cơ bản” của tác giả Nguyễn Hữu Hải (2016)…Cho đến nay, khoa
học chính sách công đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ với những
quan niệm phong phú về chính sách công. Dù xuất phát từ những cách tiếp cận
khác nhau thì chính sách công nhìn chung vẫn được quan niệm là những quyết
định hành động của các chủ thể quyền lực nhà nước, thể hiện quan điểm, mục
tiêu, ưu tiên của nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể trong những
điều kiện cụ thể. Vì vậy, dù chưa phải đã hoàn toàn thống nhất nhưng tựu chung
lại, các quan niệm đều chỉ ranhững đặc điểm sau đây của chính sách công: 1)
CSC là các chính sách do nhà nước ban hành để thực hiện chức năng của nhà
nước là quản lý, điều hành kinh tế - xã hội theo những mục tiêu đề ra; 2) CSC là
kết quả quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước; 3) CSC là những quyết
13. 9
định hành động, trước hết thể hiện dự định của các nhà hoạch định chính sách
nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó và sau đó là những hành vi
thực hiện các dự định đó; 4) CSC tập trung giải quyết vấn đề đang đặt ra trong
đời sống xã hội theo những mục tiêu xác định; 5) CSC bao gồm những việc nhà
nước định làm hoặc không định làm, nghĩa là không phải mọi mục tiêu của chính
sách công đều dẫn tới hành động, mà nó có thể là yêu cầu chủ thể không được
hành động; 6) CSC tác động đến các đối tượng của chính sách - là những người
chịu sự tác động hay điều tiết của chính sách, bao gồm: đối tượng trực tiếp và đối
tượng gián tiếp; 7) CSC được nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích chung của
cộng đồng hoặc của quốc gia, gắn với việc phân phối và sử dụng các nguồn lực
công của nhà nước [27, tr. 6, 7, 8].
Về VĐHL và VĐCS công, dù vẫn còn là khái niệm khá mới mẻ nhưng
cũng có nhiều công trình đưa ra quan niệm về VĐHL, VĐCS công như “Những
cơ sở của nền chính trị Mỹ” của Gary Wassrman (bản dịch của thạc sỹ Đoàn Văn
Thắng), Longman - New York, 1997 đã đưa ra khái niệm VĐHL“Vận động hành
lang là khi các cá nhân hay nhóm lợi ích gây sức ép lên chính phủ để chính phủ
hành động theo ý muốn của họ” [13, tr. 220]. Một cách phát biểu khác về VĐHL
cũng được đưa ra “VĐHL là hoạt động bao gồm những tiếp xúc cả trực tiếp hay
gián tiếp của các nhóm có tổ chức (hoặc đại diện của họ) đến các quan chức hành
chính, những nhà hoạch định chính sách, những đại biểu dân cử nhằm gây ảnh
hưởng lên quá trình hoạch định và thực hiện các chính sách ấy” [94, tr.8] như
trong “Lobbying in Europe” (vận động chính sách ở châu Âu). Riêng trong
“Lobbying in the Dark? The Effects of Policy-Making Transparency on Interest
Group Lobbying Strategies in France and Sweden”(Vận động chính sách công
trong “bóng tối”? Những ảnh hưởng của môi trường hoạch định chính sách minh
bạch lên chiến lược vận động chính sách của các nhóm lợi ích ở Pháp và Thụy
Điển), tác giả xuất phát từ kết luận của một nghiên cứu trước đó rằng VĐHL có
thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau và một trong số những hình thức quan
trọng nhất là “VĐHL thông tin” (informational lobbying) được hiểu là việc
“thuyết phục các nhà hoạch định chính sách để có những hành động cụ thể thông
14. 10
qua những điều khoản có tính chiến lược về thông tin nhằm gây ảnh hưởng đến
các cuộc tranh luận hay thông qua chính sách” [94, tr.26].
Theo bài viết “Contracts: Illegality: Lobbying” đăng trên California Law
Review thì tạiKhoản 35 điều IV, Hiến pháp bang California lại đưa ra quan điểm
VĐHL là việc tìm cách “gây ảnh hưởng đến việc bỏ phiếu cho một thành viên
của nghị viện bằng cách hối hộ, hứa tặng quà, đe dọa hoặc những cách thức
không trung thực khác” [56, tr.344]. Điều 89 của Luật Hình sự bang này lại coi
VĐCS là một loại tội danh giống như bất kỳ một tội danh nào khác và đề xuất
mức phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm với hoạt động này [56, tr.345].
Thứ hai là các công trình bàn đến chủ thể của VĐCS.“Những cơ sở của
nền chính trị Mỹ” của Gary Wassrman chỉ ra những chủ thể của VĐHL là “các
cựu Nghị sĩ hoặc những người đã từng làm trong ngành hành pháp, họ là những
người có kiến thức trong từng lĩnh vực nhất định, có kinh nghiệm chính trị và bản
thân cá nhân có quan hệ với những người hoạch định chính sách” [13, tr.220].
Cũng nói về VĐCS công ở Mỹ, “Societal Complexity and Interest-Group
Lobbying in the American States” (Sự phức tạp của xã hội và VĐCS của các
nhóm lợi ích ở các bang ở Mỹ) coi nhóm lợi ích là chủ thể chính của VĐCS và
phân chia các nhóm lợi ích tham gia vào VĐCS ở Mỹ thành 15 nhóm lớn dựa
trên lợi ích mà các nhóm này đại diện bao gồmnhóm sản xuất nông nghiệp; nhóm
hoạt động văn hóa; nhóm phát triển kinh tế; nhóm tài chính, bảo hiểm và bất
động sản; sản xuất công nghiệp; các cơ quan chính phủ; sản xuất khoáng sản; các
nhóm hỗ trợ công dân và phi lợi nhuận; nhóm theo ngành nghề; nhóm đại diện
cho ngành bán lẻ và bán buôn; nhóm những người có cùng hệ tư tưởng và những
người độc thân; giao thông vận tải; nghiệp đoàn và các tổ chức tương tự; nhóm
dịch vụ công; và các nhóm không xác định được [75, tr.490-491]. Thống nhất
quan điểm cho rằng các nhóm lợi ích là chủ thể chủ yếu tham gia VĐCS nhưng
từ thực tiễn châu Âu, tác giả của “Lobbying in Europe” đưa ra nhận định các
nhóm lớn như các tập đoàn thường chi nhiều tiền cho VĐCS hơn và cũng có
nhiều cơ hội tiếp cận các nhà hoạch định chính sách hơn các công ty nhỏ [94,
tr.18].
15. 11
“Lobbying by the Insiders: Parallels of State Agencies and Interest
Groups” (1988) (VĐCS từ bên trong: so sánh giữa vận động của các cơ quan nhà
nước và các nhóm lợi ích) của Glenn Abney đề cập đến một phương diện khác
của VĐHL là VĐHL của chính các chủ thể trong bộ máy nhà nước và chỉ ra
những nét tương đồng và khác biệt cơ bản giữa các cơ quan nhà nước và các
nhóm lợi ích với tư cách là những chủ thể tiến hành VĐCS và đưa ra mười luận
điểm đối với VĐCS của các cơ quan nhà nước trong so sánh với các nhóm lợi
ích. Như vậy, công trình này nhấn mạnh chính các cơ quan hành pháp cũng là
một chủ thể quan trọng tiến hành VĐCS một cách hiệu quả với những lợi thế đặc
biệt mà các nhóm lợi ích bên ngoài không thể có được.
“Vận động hành lang của các hiệp hội kinh tế của các nước trên thế giới,
thực trạng và xu hướng phát triển tại Việt Nam” của tác giả Trần Hữu Quỳnh
(2009) đề cập đến ba vấn đề chính coi các hiệp hội kinh tế là một trong những
chủ thể quan trọng và tham gia có hiệu quả vào quá trình VĐCS.
“Vận động hành lang trong đời sống chính trị các nước phương Tây”
(2010) của PGS. TS. Lưu Văn An phân tích vai trò của VĐHL trong nền chính trị
các nước phương Tây dựa trên sự phân loại các chủ thể tiến hành vận động bao
gồm các nhóm lợi ích, các đảng chính trị, các cơ quan nhà nước và các công dân.
Qua đó phản ánh sự phong phú, đa dạng về của chủ thể VĐCS.
Bài viết “Về các công ty xuyên quốc gia và ảnh hưởng của chúng đối với
quyền lực nhà nước”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, tháng 3 năm 2014 nhấn
mạnh các công ty xuyên quốc gia có thể gây áp lực lên các chính sách của các
nước và vì vậy có thể coi các công ty xuyên quốc gia là một trong những chủ thể
tiến hành VĐCS.
- Bài viết “Tổ chức nghiên cứu, tư vấn chính sách trong lĩnh vực chính
sách công ở một số nước trên thế giới” của tác giả Nguyễn Trọng Bình đăng trên
tạp chí Tổ chức nhà nước số 2 năm 2015 phân tích vai trò của các tổ chức nghiên
cứu, tư vấn chính sách như một chủ thể quan trọng góp phần nâng cao năng lực
chính sách công của các chính phủ. Sự phát triển của các tổ chức tư vấn và việc
16. 12
phát huy đầy đủ chức năng của chúng có tác dụng quan trọng góp phần thúc đẩy
quá trình hiện đại hóa quản trị công và nâng cao chất lượng thể chế và chính sách.
Cũng nhấn mạnh các tổ chức tư vấn như là chủ thể ngày càng tích cực VĐCS, bài
viết “Vai trò của các think tank trong hoạch định chính sách - kinh nghiệm cho
Việt Nam” của tác giả Trần Mai Hùng đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước số 229,
tháng 2 năm 2015 phân tích vai trò của think tank trong hoạch định chính sách
thông qua nghiên cứu các trường hợp think tank ở Mỹ và ở Trung Quốc. Về cơ bản
tác giả khẳng định các think tank là nơi tập hợp những chuyên gia hàng đầu về tư
duy chiến lược, đóng góp cho việc hoạch định chính sách của chính phủ các nước.
Từ đó cũng đề xuất Việt Nam nên có cơ chế để tạo dựng và phát huy vai trò của
các nhóm think tank trong đời sống chính trị nói chung và trong xây dựng chính
sách nói riêng.
Thứ ba là các công trình đề cập đến đối tượng của VĐCS
“Lobbying Legislatures” (VĐCS đối với cơ quan lập pháp) của Morten
Bennedsen and Sven E. Feldmann tập trung vào hành động VĐCS của các nhóm
lợi ích đối với riêng nhánh lập pháp, theo đó, coi các nhà lập pháp chính là một
trong những đối tượng cơ bản mà các chuyên gia VĐCS hướng tới. Cũng tập trung
vào nhánh hành pháp như đối tượng chính của hoạt động VĐCS từ các nhóm lợi
ích, “The Role of Legislators in the Determination of Interest Group
Influence”(Vai trò của các nhà lập pháp trong quyết định gây ảnh hưởng của các
nhóm lợi ích) cho rằng các nhà lập pháp là những người đóng vai trò quan trọng
trong quyết định gây ảnh hưởng của các nhóm lợi ích để đạt được mục đích của
họ.“Presidential Power and White House Lobbying” (Quyền lực Tổng thống và
VĐCS ở Nhà Trắng) của John F. Manley cho chúng ta thấy chính Tổng thống
trong thể chế chính trị Mỹ là đối tượng mà các nhóm lợi ích rất quan tâm và luôn
muốn tiếp cận trong quá trình vận động.
Thứ tư là các công trình đề cập đến các hình thức, phương pháp, phương
tiện VĐCS.“Những cơ sở của nền chính trị Mỹ” của Gary Wassrman đưa rahai
phương phápVĐHL là vận động trực tiếp và vận động gián tiếp. Theo đó VĐHL
17. 13
trực tiếp thường diễn ra trong các ủy ban của Quốc hội và trong các nhà lãnh đạo
hành pháp, VĐHL gián tiếp bao gồm các chiến dịch vận động viết thư ồ ạt, sử
dụng các ngân hàng điện thoại, VĐHL cơ sở. “Lobbying in Europe” tuy không đi
vào chi tiết nhưng cũng đề cập đến các phương thức cơ bản để VĐCS bao gồm vận
động trực tiếp và vận động gián tiếp, các hình thức biểu hiện cụ thể trong mỗi
phương thức vận động này.“Effective lobbying in Europe”(Hiệu quả của VĐCS
công ở châu Âu) có nội dung về các kênh gây ảnh hưởng đến quá trình vận động,
đặc biệt là các nguồn thông tin hữu ích, các kênh truyền thông trực tuyến, các kênh
truyền thông như mạng xã hội và các nguồn công nghệ số khác… được người dân
đánh giá là phù hợp nhất với họ và được sử dụng phổ biến hơn.“The Lobbying
Activities of Organized Interests in Federal Judicial Nominations”(Các hoạt động
VĐCS của các nhóm lợi ích đối với các thẩm phán tòa án liên bang) (2000) của
Gregory A. Caldeira, Marie Hojnacki, John R. Wright đã đề cập đến các kỹ thuật
hay phương thức VĐCS “Các kỹ thuật của VĐCS hiện đại cung cấp cho các nhóm
lợi ích có tổ chức thêm nhiều lựa chọn mang tính chiến thuật. Dù tiến hành vận
động đơn lẻ hay tập hợp trong một liên minh, các nhóm đều có thể tiến hành các
nghiên cứu, đưa ra cảnh báo cho các thành viên, tổ chức các chiến dịch viết thư tay
và gọi điện thoại, tiếp xúc với các nhà lập pháp thông qua các chuyên gia VĐCS,
cung cấp thông tin cho các phương tiện truyền thông, đăng các quảng cáo, và
nhiều kỹ thuật khác nữa” [68, tr.52, 53].
“Lobbying for Justice: Organized Interests Supreme Court Nominations,
and United StatesSenate” (VĐCS đối với ngành tư pháp: các nhóm lợi ích, thẩm
phán tòa án tối cao và các thượng nghị sĩ Mỹ)(1998) của Gregory A. Caldeira
and John R. Wright cũng đề cập đến ba dạng hoạt động hay nói đúng hơn là ba
hình thức mà các nhóm lợi ích sử dụng để gây ảnh hưởng đến số lượng cũngnhư
nội dung thông tin mà các nhà lập pháp sử dụng trong quá trình bỏ phiếu bao
gồm truyền đạt thông tin về chính sách đến các nhà lập pháp với hi vọng kết nối
quan điểm của họ với ưu tiên của mình; tạo điều kiện thuận lợi và tổ chức tập
hợp các quan điểm của dân chúng như gửi thư tay, gọi điện thoại, gửi thư tín;
18. 14
cung cấp thông tin trực tiếp cho các nhà lập pháp về kết quả của các chính sách
mà họ ủng hộ.
Thứ năm là các công trình đề cập đến môi trường hay các yếu tố ảnh
hưởng đến VĐCS.
“Information and influence: lobbying for agendas and votes” (Thông tin và
ảnh hưởng: VĐCS trong giai đoạn xác lập nghị trình và bỏ phiếu thông qua) tập
trung bàn đến tính chất và mức độ ảnh hưởng của các nhóm lợi ích đến quá trình
xây dựng luật và các chính sách trong điều kiện hoạch định chính sách với những
thông tin không đầy đủ. Theo đó khẳng định quá trình VĐCS có thể được coi như
một trò chơi với việc truyền tải thông tin chiến lược. Theo đó, các nhóm lợi ích
sẽ có những lựa chọn chiến lược VĐCS khác nhau tùy thuộc vào môi trường và
mức độ thông tin họ nắm được. Họ có thể lựa chọn vận động trực tiếp ngay từ
giai đoạn xác lập nghị trình, có thể vận động ở cả giai đoạn xác lập nghị trình lẫn
giai đoạn thông qua chính sách, tuy nhiên ảnh hưởng của thông tin đối với việc
vận động mỗi giai đoạn này là không giống nhau. Cũng chú trọng vào mối quan
hệ giữa mức độ thông tin với VĐCS, luận án“Lobbying in the Dark? The Effects
of Policy-Making Transparency on Interest Group Lobbying Strategies in France
and Sweden” chỉ ra hai môi trường với mức độ công khai thông tin khác nhau
hoàn toàn giữa Thụy Điển (mức độ minh bạch thông tin cao) và Pháp (mức độ
minh bạch thông tin thấp) để đưa ra kết luận về hiệu quả của VĐCS và đưa đến
kết luận, sự minh bạch và công khai về thông tin, nhất là những thông tin hữu
dụng (actionable information) là điều kiện cần cho VĐCS tích cực.“Societal
Complexity and Interest-Group Lobbying in the American States” lại bàn đến
mối quan hệ giữa sự phức tạp của xã hội với hoạt động VĐCS của các nhóm lợi
ích qua nghiên cứu các bang ở Mỹ và đi đến khẳng định “xã hội ngày càng phức
tạp thì hoạt động VĐCS càng gia tăng” (… society becomes more complex,
lobbying should increase as well” [75, tr.489]). Lập luận được đưa ra ở đây là
“Nếu sự gia tăng hoạt động của nhóm lợi ích này là kết quả của những bất ổn lặp
đi lặp lại xuất phát từ sự phức tạp của xã hội hiện đại, thì hệ thống kinh tế, chính
trị, xã hội càng phức tạp, số lượng các nhóm lợi ích sẽ càng tăng lên, và hoạt
19. 15
động của các nhóm lợi ích cũng ngày càng tăng theo. Tương tự như vậy, xã hội
tồn tại càng lâu, các bất ổn càng xuất hiện nhiều trong lòng hệ thống xã hội đó và
số lượng các nhóm lợi ích cũng như các hoạt động VĐCS của chúng cũng càng
tăng” [75, tr.489].“Interest Group Lobbying: Canada and the United
States”(VĐCS của các nhóm lợi ích: trường hợp Canada và Mỹ) trên cơ sở so
sánh hoạt động VĐCS của các nhóm lợi ích ở Mỹ và Canada đã khẳng định “văn
hóa chính trị và cấu trúc thể chế chính trị có tác động rõ rệt đến hiệu quả của
những nỗ lực của các nhóm lợi ích trong việc gây ảnh hưởng đến chính sách của
chính phủ” [90, tr. 71].
“Caps on Political Lobbying” tập trung phân tích tác động của tài chính
đối với các hoạt động VĐHL trong chính trị.Cũng coi tiền là một yếu tố tác động
mạnh đến đời sống chính trị và chính sách, “The Role of Legislators in the
Determination of Interest Group Influence”khẳng định, “thông thường, tiền được
coi như vật ngang giá trên thị trường chính trị nhưng những nỗ lực nhằm tìm
kiếm những bằng chứng về ảnh hưởng của tiền lên các lá phiếu thường thu được
những kết quả không thống nhất” [98, tr. 649].
“Tính công khai, minh bạch trong vận động hành lang” của GS. TS Lê
Minh Tâm, coi công khai, minh bạch là môi trường thuận lợi cho VĐHL tích cực
và bảo vệ quan điểm này bằng cách chỉ ra bốn căn cứ cho thấy sự cần thiết phải
công khai, minh bạch trong hoạt động VĐHL như:VĐHL là hoạt động mang tính
chuyên nghiệp, nhưng không mang tính chính thức vì nó được diễn ra bên ngoài
các phòng họp và làm việc chính thức của các cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định, chính sách;VĐHL là những hoạt động đa dạng và đa mục đích; VĐHL bao
gồm các hoạt động mang tính chất trung gian, VĐHL cần đến những nguồn lực
tài chính do khách hàng cung cấp, vì vậy nó có những mặt trái cần được tính đến,
đó là tình trạng ‘thiên vị” vì lợi ích kinh tế, nhằm phục vụ cho quyền lợi riêng
của cá nhân.
Thứ sáu, là các công trình đề cập đến những tác động của VĐCS
20. 16
“The Effects of Lobbying: A Comparative Assessment” (Những tác động
của VĐCS: đánh giá so sánh) của Harmon Zeigler là công trình trực tiếp đề cập
đến những tác động của VĐCS dựa trên cách tiếp cận so sánh mà cụ thể là so sánh
ảnh hưởng của VĐCS ở bốn bang sau đây của Mỹ: Massachusetts, North Carolina,
Oregon, and Utah và ở mỗi bang này, lại tập trung vào tác động của nhóm lợi ích
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội.
“Caps on Political Lobbying” trong khi phân tích các tác động của tài
chính đến VĐCS đồng thời cũng đưa ra những nhận định về một số tác động của
VĐCS đến đời sống chính trị, xã hội như sự gia tăng những người có nhu cầu vận
động, sự thiếu hụt về thông tin, sự lãng phí các nguồn lực xã hội, gia tăng sự khác
biệt giữa giá trị cá nhân và xã hội…“Interest Group Politics” (Nền chính trị nhóm
lợi ích) cũng luận giải nguy cơ bế tắc chính sách do VĐCS gây ra.
Như một cách gián tiếp đề cập đến những tác động tích cực của VĐCS,
“Lobbying for Change: Women's Lobby” (VĐCS hướng đến sự thay đổi: vận
động cho nữ giới) (1992) của Babette Kabak tập trung vào quá trình nỗ lực
VĐCS của Ủy ban về Tình trạng pháp lý của phụ nữ (Women's LegalStatus
Committee(WLSC)) cho những quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ
nữ, qua đó khẳng định VĐCS là một cách thức hữu hiệu để đấu tranh cho quyền
lợi và sự tiến bộ của phụ nữ.
“Lobbying in Europe” (VĐCS công ở châu Âu) dành một phần đề cập đến
tác động xã hội và những ảnh hưởng không mong muốn của VĐCS. Theo đó,
thông qua nghiên cứu các trường hợp ở Châu Âu, tác giả cho rằng “Khi VĐCS
không được quy định và vẫn nằm dưới sự giám sát của công chúng thì tiềm ẩn
nguy cơ gia tăng ảnh hưởng tiêu cực từ hoạt động này. Nếu không có một rào cản
mạnh mẽ về đạo đức giữa khu vực công và các nhà VĐCS, các quyết định có thể
được thực hiện không phục vụ lợi ích công cộng mà chỉ vì các lợi ích cá nhân.
Điều này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội như suy thoái môi
trường, sụp đổ hệ thống tài chính, lạm dụng quyền con người, và sự đe dọa sức
khỏe và sự an toàn của công chúng...” [94, tr.20].
21. 17
“Living with Lobbying: A growth policy co-opted by lobbyists can be
better than no growth policy at all” (1993) của Knut Anton Mork phân tích mối
quan hệ giữa mô hình tăng trưởng với VĐCS và tỉ lệ tăng trưởng với phúc lợi xã
hội, làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực của VĐCS trong đời sống chính
trị và khẳng định dù có những ảnh hưởng tiêu cực khó phủ nhận như lãng phí
nguồn lực xã hội nhưng khẳng định “VĐCS cũng có thể mang lại cho các nhà
hoạch định chính sách cơ hội để cải thiện phúc lợi xã hội mà lẽ ra có thể đã bị bỏ
qua. Vì vậy, mặc dù tốn kém, VĐCS với các chính sách về tăng trưởng có thể
được kì vọng sẽ nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như mức độ phúc lợi
xã hội” [78, tr. 605].
“Effective lobbying in Europe” (Hiệu quả của VĐCS công ở Châu Âu) là
một nghiên cứu công phu để làm rõ thế nào là VĐCS hiệu quả ở châu Âu, trong
đó đưa ra những gợi ý về những tác động tích cực và hạn chế của VĐCS theo
những tiêu chí khác nhau dựa trên đánh giá của người dân - những người được
điều tra trong nghiên cứu. Cụ thể, một số tác động tích cực của VĐCS được đề
cập bao gồm đảm bảo sự tham gia của các chủ thể kinh tế - xã hội và công dân
vào các quá trình chính trị, khả năng cung cấp những thông tin bổ ích và kịp thời,
nâng cao tầm quan trọng của vấn đề cả ở cấp quốc gia cũng như địa phương, ...
trong khi đó những tác động tiêu cực có thể là thiếu sự minh bạch dẫn đến thực
tiễn VĐCS không phát huy hiệu quả, tạo ra sức ép quá lớn trong suốt quá trình
chính sách đối với giới tinh hoa chính trị và những người giàu có trong xã hội, và
khả năng các thông tin được cung cấp không đảm bảo tính khách quan, trung
thực.
“Tính công khai, minh bạch trong vận động hành lang” của GS. TS Lê
Minh Tâm, trong khi coi công khai, minh bạch là môi trường thuận lợi cho
VĐHL tích cực và đưa ra những lập luận bảo vệ quan điểm này đồng thời cũng
nhấn mạnh VĐHL có những mặt trái cần được tính đến, đó là tình trạng ‘thiên
vị” vì lợi ích kinh tế, nhằm phục vụ cho quyền lợi riêng của cá nhân.
22. 18
1.1.2. Những công trình bàn về pháp luật và thực tiễn vận động chính
sách công ở Anh, Pháp, Mỹ
Thứ nhất là các công trình đề cập đến pháp luật hay những quy định về
VĐCS
“Control of lobbying” (Kiểm soát VĐCS) tập trung bàn về những quy định
để kiểm soát hoạt động VĐCS từ khi các bang đầu tiên của nước Mỹ đưa ra
những quy định về việc này.Cũng tương tự, “Regulation of Pressure Groups and
Lobbyists” (Quy định đối với các nhóm áp lực và các chuyên gia VĐCS) (1958)
của Belle Zeller nghiên cứu trực tiếp về những quy định đối với các nhóm áp lực
và các chuyên gia VĐCS bắt đầu từ những quy định về VĐCS ở cấp bang ở Mỹ
từ khi mới chỉ có 31 bang thông qua những quy định cho hoạt động này đến khi
có quy định mới ở ba bang là Texas, Illinois và Wisconsin. Nghiên cứu cũng
trình bày lịch sử quy định VĐCS ở Quốc hội Hoa Kỳ và đưa ra những phê phán
đối với Luật VĐCS ở cấp liên bang.
“Lobbying - Registration” (VĐCS - Quy định về đăng ký) của John. A.
Lapp tập trung bàn đến bối cảnh ra đời cũng như nội dung của quy định mới về
VĐHL ở Mỹ mà tập trung là quá trình xây dựng và thông qua những quy định
này ở một số bang của nước Mỹ cũng như ở cấp liên bang.“Lobbying” (VĐCS)
của E. Watson Kenyon cũng đề cập đến những thay đổi trong quy định về VĐHL
của một số bang ở Mỹ. “The Regulation of Lobbying” (Quy định về VĐCS) của
James K. Pollock trình bày một cách có hệ thống về những quy định và luật
VĐHL của Mỹ nhưng chủ yếu theo hướng đề cập đến sự khác nhau trong quan
điểm và quy định cụ thể về VĐHL ở các bang của nước Mỹ.“Regulating
Lobbying: a global comparison” (Quy định về VĐCS: so sánh ở cấp độ toàn
cầu)của nhóm tác giả Raj Chari, Gary Murphy, và John Hogan, nghiên cứu một
cách công phudựa trên cách tiếp cận so sánh những quy định về VĐHL của các
nước trên thế giới, cụ thể là lựa chọn các quốc gia ở Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á và
Ốtxtrâylia (khoảng 40 nước và vùng lãnh thổ)với mong muốn đưa ra những đề
xuất để thúc đẩy sự minh bạch trong quy trình hoạch định chính sách công. Công
23. 19
trình này đã xây dựng bộ chỉ số đánh giá 3 mức độ đối với các quy định về
VĐHLlà mức độ thấp (điểm từ 1 đến 29), mức trung bình (điểm từ 30 đến 59) và
mức cao (điểm từ 60 đến 100) đồng thời còn chỉ ra những đặc trưng về thể chế
của từng mức này, chỉ ra mối quan hệ giữa nhận thức về tham nhũng với mức độ
hoàn thiện của quy định về VĐHL, hơn nữa còn đưa ra những luận giải về
nguyên nhân của sự khác biệt về môi trường văn hóa, chính trị và thể chế cho
mỗi nhóm. “Lobbying in Europe” còn đề cập đến sự cần thiết phải có những quy
định đầy đủ và toàn diện về VĐCS bao gồm những tác động tiêu cực tiềm ẩn từ
VĐCS do môi trường vận động phức tạp ở châu Âu, những đòi hỏi ngày càng
cấp thiết về sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của Chính phủ, sự công khai
về thông tin để có VĐCS tích cực… và khẳng định rằng dù sẽ phải đối mặt với
nhiều khó khăn và thách thức để luật hóa VĐCS nhưng một quy định đầy đủ về
VĐCS là thực sự cần thiết để ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của
VĐCS.“Societal Complexity and Interest-Group Lobbying in the American
States” cũng đề cập ở mức khái quát những quy định về VĐCS thông qua việc
chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong những luật quy định về việc đăng ký
đối với hoạt động VĐCS ở các bang của Mỹ. Bài viết “History of the Lobbying
Disclosure Act” (Sự hình thành Luật công khai VĐCS) diễn giải lịch sử các Luật
công khai hóa hoạt động VĐCS ở Mỹ thông qua việc trình bày những nỗ lực to
lớn và rất sớm ở cấp độ liên bang trong việc luật hóa hoạt động VĐCS. Cụ thể
hơn, bài viết đề cập đến hoàn cảnh ra đời cũng như những nội dung chính của
Luật đăng ký của các thể nhân nước ngoài năm 1938 (Foreign Agents
Registration Act of 1938), Những quy định của liên bang trong Luật VĐHL năm
1946 (Federal Regulation of Lobbying Act of 1946), Luật công khai hoạt động
VĐHL năm 1995 (Lobbying Disclosure Act of 1995) và một số bổ sung, hoàn
thiện từ các Luật đó cho phù hợp với sự thay đổi của môi trường chính trị thực
tiễn.Vẫn là những điều chỉnh về luật VĐCS, “Lobbying reform” (Cải cách VĐCS)
tập trung phân tích những điều chỉnh mới của Liên bang về Luật VĐCS, nhất là
sau bê bối chính trị của Jack Abramoff và một số bê bối khác trong thực tiễn
VĐCS ở Mỹ.
24. 20
“Lobbying and transparency: A comparative analysis of regulatory
reform” (VĐCS và minh bạch: phân tích so sánh về thay đổi pháp lý) (2012) của
Craig HolmanEmail và William Luneburg cũng đề cập đến các quy định về
VĐCS ở một số quốc gia, đặc biệt đề cập đến mô hình tự điều chỉnh đối với
VĐCS ở Anh và chỉ ra hai nan giải của mô hình này trong thực tiễn dẫn đến yêu
cầu cấp thiết phải thay đổi nó, hướng tới một quy định chặt chẽ và mang tính bắt
buộc đối với VĐCS trong thời gian tới.
Gần đây nhất là công trình “Comparison of models of lobbying regulation
in EU countries”(So sánh các mô hình quy định về VĐCS giữa các quốc gia châu
Âu) (2015) là công trình nghiên cứu công phu dựa trên cách tiếp cận so sánh về
những quy định về VĐCS. Đóng góp đặc biệt của công trình này là dựa trên
những tiêu chí khác nhau đã đưa ra các cách phân loại về mô hình các quy định
VĐCS từ đó nghiên cứu hình thức quy định VĐCS ở một số nước châu Âu trong
đó có Pháp và Anh, theo đó Pháp đã xây dựng được Bộ quy tắc ứng xử đối với
VĐCS ở Thượng viện và Hạ viện năm 2009, 2010, còn Anh đã ban hành được
Luật minh bạch hoạt động VĐCS, chiến dịch vận động phi đảng phái và Luật
hành chính công đoàn năm 2014.
Thứ hai là những công trình đề cập đến thực tiễn hoạt động VĐCS ở Anh,
Pháp, Mỹ
Về VĐCS công ở Anh, có các công trình dưới đây:
“Lessons in lobbying for free trade in 19th - century Britain to concentrate
or not” (Những bài học về VĐCS cho tự do thương mại ở Anh trong thế kỷ XIX
nhằm tập trung hóa hay không) thừa nhận và áp dụng lý thuyết lựa chọn công
cộng để phân tích các hoạt động của các nhóm áp lực ở Anh trong thế kỷ XIX.
Trong số chín nội dung chính của cuốn “Lobbying: the art of political
persuasion” (VĐCS: nghệ thuật thuyết phục chính trị) (2008) củaLionel Zetter, tác
giả đã dành một chương (8)để tập trung đề cập những vấn đề rộng hơn và bao quát
bối cảnh vận động ở các tổ chức khác nhau trong phạm vi Vương quốc Anh bao
gồm Nghị viện Scotland, Nghị viện xứ Wales và Quốc hội Bắc Ireland, Chính
25. 21
quyền Anh, và chính quyền địa phương (cũng như các hiệp hội khác nhau thuộc
chính quyền này), Cơ quan lập pháp và bộ máy tư pháp.
Các công trình sau đây bàn đến VĐCS công ở Pháp
“Lobbying in Europe” trong khi đề cập đến những tác động tiêu cực của
VĐCS đã dẫn chứng một vụ bê bối trong chính trị có liên quan trực tiếp đến
VĐCS của ngành dược phẩm ở Pháp.“Lobbying in the Dark? The Effects of
Policy-Making Transparency on Interest Group Lobbying Strategies in France
and Sweden” đã đề cập đến hoạt động VĐCS của các nhóm lợi ích trong lĩnh vực
lâm nghiệp ở Pháp trong tương quan so sánh với Thụy Điển để đánh giá hiệu quả
của sự minh bạch thông tin với chất lượng chính sách cũng như thúc đẩy VĐCS
tích cực. Luận án cũng đã đề cập đến các chiến lược liên minh của các nhóm lợi
ích ở Pháp trong VĐCS.
Trong các nghiên cứu về VĐCS ở châu Âu, cả Anh và Pháp đều là các
quốc gia được lựa chọn nghiên cứu. Cụ thể, ở cả hai công trình nghiên cứu về
VĐCS được tiến hành năm 2013 và 2015 mới đây về VĐCS ở châu Âu, cả Anh
và Pháp đều là những quốc gia được lựa chọn nghiên cứu. Cụ thể hơn, trong công
trình “Effective lobbying in Europe” (2013), các tác giả nghiên cứu để làm rõ
hiệu quả của VĐCS công thông qua việc lấy ý kiến của công chúng về mức độ
ảnh hưởng trên những bình diện cụ thể của VĐCS, những kết quả ở cả Anh và
Pháp đều được thống kê và bình luận. “Lobbying in Europe” (2015) lại là một
nghiên cứu tổng hợp hơn về VĐCS ở châu Âu, trong khi khảo sát các nước và
phân tích cũng đã chỉ ra những nội dung liên quan đến những quy định về VĐCS
ở Anh và Pháp, một số biểu hiện của VĐCS công ở hai quốc gia này.
VĐCS công ở Mỹ được nghiên cứu trong rất nhiều công trình:
“Rational Economic Behavior and Lobbying on Accounting
Issues:Evidence from the Oil andGas Industry”(Hành vi duy kinh tế và VĐCS
đối với những vấn đề về kế toán: Bằng chứng từ ngành công nghiệp dầu khí) đưa
ra những bằng chứng từ nghiên cứu điều tra về mối quan hệ giữa những hành vi
26. 22
kinh tế duy lý với VĐCS đối với những vấn đề về kế toán kiểm toán từ nghiên
cứu trường hợp ngành công nghiệp dầu khí ở Mỹ.
“Interest Group Lobbying: Canada and the United States”(Các nhóm lợi ích
ở Mỹ và Canada) của Robert Presthus là tóm tắt kết quả của một nghiên cứu so
sánh về VĐCS của các nhóm lợi ích ở Mỹ và Canada trên cơ sở những điều tra
xuyên quốc gia và đưa ra kết luận mặc dù khác nhau về văn hóa chính trị, về cấu
trúc của thể chế chính trị, dù khác nhau về tính pháp lý hay mức độ phát triển của
VĐCS, các nhóm lợi ích đã đóng vai trò quan trọng như cầu nối để kết nối giữa
các chủ thể quyền lực công với các chủ thể khác trong đời sống xã hội các nước
Bắc Mỹ. Điều này ít nhiều gợi mở cho chúng ta về mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đến thực tiễn VĐCS công ở các quốc gia.
“Lobbying by Ethnic Groups and Aid Allocation”(VĐCS của các nhóm
đại diện cho các tộc người và sự phân bổ nguồn hỗ trợ) (2000) của Sajal Lahiri
and Pascalis Raimondos-Moller nghiên cứu quyết định của chính phủ ở các quốc
gia viện trợ trong việc phân bổ nguồn viện trợ của mình cho các nước kém phát
triển và đang phát triển, làm rõ những yếu tố tác động đến quyết định đó, trong
đó đặc biệt chú ý đến vai trò của các nhóm lợi ích đại diện cho các nhóm dân tộc,
đồng thời cũng nghiên cứu để chỉ ra mức độ liên quan của 3 yếu tố là tình trạng
tham nhũng, sự cạn kiệt nguồn viện trợ và thành phần dân tộc.
“Societal Complexity and Interest-Group Lobbying in the American
States”cũng là một nghiên cứu công phu về thực tiễn VĐCS công ở Mỹ.
“The Lobbying Activities of Organized Interests in Federal Judicial
Nominations” tập trung vào các hoạt động VĐCS của các nhóm lợi ích được tổ
chức đối với các vị trí được bổ nhiệm của ngành Tư pháp liên bang. Thông qua
việc lựa chọn 15 vị trí được bổ nhiệm của ngành tư pháp liên bang đến từ Tòa án
tối cao, tòa kháng án, tòa án cấp quận và Bộ tư pháp, các tác giả tập trung khai
thác ở ba nhóm hình thức vận động chính là vị trí đảm nhiệm (position taking),
thu thập và truyền tải thông tin (gathering and transmitting information), huy
động sự ủng hộ từ cơ sở (grassroots mobilization).
27. 23
“Presidential Power and White House Lobbying”của John F. Manley bàn
về quyền lực của Tổng thống Mỹ và vấn đề VĐCS ở Chính phủ Mỹ, đưa ra
những dẫn chứng về các phi vụ vận động xảy ra trong lịch sử một số đời Tổng
thống Mỹ.Coi Mỹ là cái nôi của VĐHL, “Lobbying: the art of political
persuasion” (2008) của Lionel Zetter đề cập đến VĐHL ở Mỹ tập trung vào việc
khái quát về Hiến pháp Mỹ, một số chế định như Tổng thống, cơ quan hành
pháp, cơ quan tư pháp, chính quyền địa phương và chỉ rõ sự đa dạng của VĐHL
trong các cơ quan này mặc dù những nội dung VĐHL được đề cập còn khá tản
mạn.
“Một số yếu tố ngoài chính phủ trong quá trình hoạch định chính sách đối
ngoại của Mỹ” của Diệu Anh, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 41- 2000 đã đề
cập tới VĐHL Quốc hội với tư cách là một yếu tố ngoài chính phủ tác động tới
việc hình thành và thực thi chính sách đối ngoại của Mỹ.“Vận động hành lang
trong hoạt động lập pháp các nước và xu hướng ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Chí Dũng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 79, tháng 6-2009 khảo sát
sự tham gia của VĐHL trong hoạt động lập pháp của một số nước trên thế giới,
chủ yếu tập trung nghiên cứu ở Mỹ và hoạt động VĐHL của một số nước ngoài
tại Mỹ, từ đó chỉ ra xu hướng của hoạt động này ở Việt Nam.
“Vận động hành lang của các hiệp hội kinh tế của các nước trên thế giới,
thực trạng và xu hướng phát triển tại Việt Nam”(2009) của tác giả Trần Hữu
Quỳnh (2009) cũng đề cập đến VĐHL của các hiệp hội kinh tế ở Mỹ.
1.1.3. Các công trình đề cập đến những kiến nghị, giải pháp để thúc
đẩy tính tích cựccũng như hiệu quả của vận động chính sách
“Lobbying in Europe” sau khi phân tích và làm rõ các quy định về VĐHL
ở châu Âu đã đưa ra những kiến nghị đối với các nhà hoạch định chính sách, các
nhà VĐHL chuyên nghiệp, các tổ chức và các tổ chức muốn gây ảnh hưởng đến
chính sách, và các thể chế của châu Âu để đảm bảo môi trường cho VĐHL minh
bạch, liêm chính và bình đẳng trong tiếp cận thông tin cũng như các chủ thể
quyền lực công.“Lobbying in the Dark? The Effects of Policy-Making
28. 24
Transparency on Interest Group Lobbying Strategies in France and Sweden” đưa
ra những khuyến nghị để nâng cao hiệu quả của VĐCS bao gồm:bắt đầu vận
động càng sớm càng tốt, nắm được càng nhiều thông tin càng tốt, và càng nhiều
người tham gia hoạch định và càng nhiều giai đoạn trong quá trình hoạch định thì
càng khó để thay đổi một quyết định chính sách. “Effective lobbying in Europe”
đưa ra 12 lời khuyên để VĐCS công một cách hiệu quả.
1.2. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG
VÀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM
Chính sách công ở Việt Nam được nghiên cứu trong các công trình sau
đây: “Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp” (2012) của tác
giả Nguyễn Đăng Thành, trên cơ sở đưa ra những quan niệm cơ bản về chính
sách công và đánh giá chính sách công, tác giả bàn đến hai nội dung chính:
những trở ngại trong đánh giá chính sách công hiện nay và những giải pháp tăng
cường đánh giá chính sách công. Ở nội dung thứ nhất, những tác giả chỉ ra những
trở ngại, cũng là những khó khăn, hạn chế của đánh giá chính sách công ở Việt
Nam: Thứ nhất, nhận thức về đánh giá chính sách còn đơn giản, Thứ hai, các cơ
quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá chính sách, Thứ ba,
việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi xuất hiện “vấn đề, Thứ
tư, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học, Thứ năm, đánh
giá chính sách đôi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh nhận xét của các cơ
quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi từ xã hội, từ những
đối tượng mà chính sách hướng vào. Ở nội dung thứ hai, tác giả đưa ranăm giải
pháp tăng cường công tác đánh giá chính sách công ở Việt Nam: một là, đưa việc
đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với một số chính sách quan
trọng của Nhà nước; Hai là, xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách
đầy đủ và đúng đắn; Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của
nhân dân để thấy được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính
sách; Bốn là, tổ chức nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với
tư cách chuyên gia đánh giá; Thứ năm, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc
đánh giá chính sách.Bài viết“Quá trình hoạch định chính sách tại Việt Nam,
29. 25
nghiên cứu trường hợp về luật phòng chống bạo lực gia đình”. Nghiên cứu nhằm
mô tả quá trình hoạch định luật phòng chống bạo lực gia đình tại Việt Nam, phân
tích 4 yếu tố liên quan bao gồm nhân lực, dịch vụ, xã hội dân sự và dịch vụ y tế.
Nghiên cứu được thực hiện thông qua rà soát tài liệu sẵn có và bổ sung các thông
tin còn thiếu bằng nghiên cứu định tính. Quá trình hoạch định Luật Phòng chống
Bạo lực gia đình tại Việt Nam được trình bày từ giai đoạn đầu đến khi được Quốc
hội thông qua. Bốn yếu tố nhân lực, dịch vụ, xã hội dân sự và dịch vụ y tế được
phân tích trong đó, lần đầu tiên trong quá trình hoạch định Luật Phòng chống
Bạo lực gia đình, yếu tố xã hội dân sự được đẩy mạnh và nổi bật trong quá trình
hoạch định chính sách. Nghiên cứu này nhăm mô tả chi tiết quá trình hoạch định
chính sách y tế cũng như tác động qua lại của các yếu tố liên quan (gồm nhân
lực, dịch vụ, xã hôi dân sự và dịch vụ y tế) đến quá trình hoạch định chính sách.
Thông qua phân tích các cơ chế hoạch định chính sách trong bối cảnh ở Việt
Nam, nghiên cứu này sẽ giúp xây dựng các mô hình lý giải và đánh giá các kết
quả của các chính sách y tế khác nhau. Luật phòng chống bạo lực gia đình được
chọn là trường hợp nhằm phản ánh quá trình chính sách vì tại thời điểm nghiên
cứu Luật đang được dự thảo và sửa đổi nên nghiên cứu có thể theo dõi quá trình
chính sách từ giai đoạn dự thảo cho tới giai đoạn thông qua luật.
Bài viết “Một số vấn đề về đổi mới hoạch định chính sách công ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Chung đăng trên tạp chí Tổ chức nhà nước, số 8
năm 2014 làm rõ hai nội dung cơ bản: nhận diện chính sách công và một số vấn
đề đổi mới hoạch định chính sách công. Đặc biệt, nói về đổi mới hoạch định
chính sách công, tác giả nhận định hoạch định chính sách công ở Việt Nam thời
gian qua có nhiều cải tiến và đổi mới tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập so với yêu
cầu và thực tiễn quản lý như việc hoạch định chính sách còn mang tính mệnh
lệnh và thiếu độ mở, từ đó đề xuất các hướng đổi mới như: vấn đề chính sách cần
phải xác định rõ ràng và có tính khả thi cao, hoạch định chính sách cần sự phối
hợp giữa các đơn vị tham gia và đảm bảo tính liên thông giữa các chính sách;
nâng cao tính minh bạch, tính giải trình trong hoạch định chính sách công; nâng
30. 26
cao năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức
hoạch định chính sách công.
Bài viết “Sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào quá trình
hoạch định và thực thi chính sách công”của tác giả Trần Mai Hùng đăng trên tạp
chí Quản lý nhà nước số 228, tháng 1 năm 2015 tập trung vào ba vấn đề: chính
sách và chính sách công với các giai đoạn chính của quy trình chính sách; sự
tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào quá trình hoạch định và thực thi
chính sách công; đề xuất bốn phương hướng, giải pháp để phát huy vai trò của
các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt
Nam hiện nay.
Về VĐHL, VĐCS công ở Việt Nam có các công trình sau đây:
“Vận động hành lang trong hoạt động lập pháp các nước và xu hướng ở
Việt Nam”đề cập đến những cơ sở pháp lý cho quyền công dân được tham gia
vào quá trình lập pháp ở Việt Nam, ý nghĩa cũng như những xu thế và điều kiện
cho hoạt động này ở Việt Nam.
“Vận động chính sách ở Việt Nam - những vướng mắc và giải pháp tháo
gỡ” (2008) của Vũ Xuân Tiền, trên cơ sở đưa ra quan niệm VĐCS là việc tuyên
truyền, giải thích, động viên những người nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các
chính sách tự nguyện xây dựng các chính sách theo nguyện vọng chính đáng của
người vận động, bài viết đã phân tích và đưa ra năm vướng mắc cũng là những
khó khăn lớn cần tháo gỡ đối với hoạt động VĐCS ở Việt Nam. Từ năm vướng
mắc này, bài viết cũng đề xuất năm giải pháp được xem là cấp bách nhằm tháo
gỡ những khó khăn đó.
“Vận động chính sách đối với doanh nghiệp kinh tế: cần một khung pháp
lý”(2009) của tác giả Vũ Thị Nhài bàn tới yêu cầu tạo một khung pháp lý cơ bản
cho hoạt động VĐCS của các doanh nghiệp dựa trên ba vấn đề: tiền đề pháp lý,
thực tiễn từ các doanh nghiệp và các Hiệp hội kinh tế, vai trò của các cơ quan
tham mưu và đưa ra các kiến nghị nhấn mạnh sự cấp thiết phải xây dựng và ban
31. 27
hành khung pháp lý cho loại hình VĐCS của các doanh nghiệp kinh tế trong điều
kiện hội nhập.
“Vận động chính sách: "Gót chân Asin" của các hiệp hội doanh nghiệp”
(2013)của Hồ Hường tổng hợp kết quả của báo cáo nghiên cứu: “Thực trạng
năng lực hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam” do VCCI tổ chức
và chỉ ra trong số 5 khía cạnh đánh giá năng lực doanh nghiệp bao gồm năng lực
quản trị và định hướng chiến lược, năng lực tài chính và cơ sở vật chất, năng lực
phục vụ hội viên, năng lực VĐCS, năng lực xây dựng và phát triển cộng đồng
doanh nghiệp, điểm yếu lớn nhất của các hiệp hội ngành hàng quốc gia chính là
năng lực VĐCS, chỉ đạt ở cấp độ cơ bản (mức 2 trên thang điểm 4).
Bài viết “Tổ chức và hoạt động của hội, tổ chức phi chính phủ ở nước ta”
của tác giả Nguyễn Minh Phương đăng trên tạp chí Lý luận chính trị số 3 năm
2014 nêu lên ba vấn đề: khái niệm hội và tổ chức phi chính phủ; chủ trương và
quy định về tổ chức, hoạt động của hội; và thực trạng hoạt động của các hội quần
chúng. Trong số nhiều hoạt động và hình thức tham gia của các hội quần chúng,
tác giả chỉ ra đóng góp của các hội, liên hiệp hội trong việc đóng góp ý kiến xây
dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, các chương trình dự án phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước và các địa phương cũng như tích cực tham gia vào các hoạt
động cụ thể thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,
đất nước, vận động các tổ chức phi chính phủ nước ngoài vào Việt Nam hoạt
động tài trợ cho các chương trình… và đây được coi là những hình thức biểu hiện
của VĐCS ở Việt Nam.
Bài viết “Tác động của các nhóm lợi ích đến việc ban hành chính sách”
của tác giả Nguyễn Hữu Để tập trung vào nghiên cứu về tác động của các nhóm
lợi ích đến việc ban hành chính sách ở Việt Nam hiện nay bao gồm cả tác động
tích cực và tiêu cực. Cụ thể, tác giả phân tích tác động tích cực của các nhóm lợi
ích đến việc ban hành chính sách ở Việt Nam dựa trên tác động về kinh tế, chính
trị, xã hội, đồng thời cũng chỉ ra ba tác động tiêu cực của VĐCS là sự xuất hiện
của một số nhóm lợi ích độc quyền, lũng đoạn; sự bất công bằng giữa các nhóm
32. 28
lợi ích, nhất là giữa các nhóm lớn với các nhóm yếu thế; nguy cơ của việc sử
dụng các phương thức phi pháp nhằm mua chuộc người ra quyết sách.
Cuốn “Vận động chính sách công, lý luận và thực tiễn” (2015), sách tham
khảo do GS, TSKH. Đào Trí Úc và PGS, TS. Vũ Công Giao đồng chủ biên tập
hợp 17 bài tham luận của các chuyên gia về VĐCScông trên thế giới và Việt
Nam đã được lựa chọn và trình bày trong Hội thảo cùng tên. Các bài viết đã đề
cập sâu hơn đến quan niệm cũng như thực tiễn VĐCS công ở một số quốc gia
trên thế giới, thực tiễn và kinh nghiệm cho Việt Nam. Đây có lẽ là công trình mới
nhất cũng là nghiên cứu tập trung nhất về VĐCS công, bao gồm thực tiễn và kinh
nghiệm VĐCS ở một số quốc gia trên thế giới, pháp luật về VĐCS của một số
nước, cũng bước đầu đề cập đến biểu hiện của VĐCS công ở Việt Nam. Tuy
nhiên vì chỉ là những tổng hợp những tham luận hội thảo nên những nội dung
được trình bày chưa thực sự sâu sắc và thuyết phục.
1.3. ĐÁNH GIÁ NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những kết quả đạt được
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu trên, có thể thấy, các công trình là
những nghiên cứu công phu, đáng tin cậy về những vấn đề cơ bản có liên quan
đến đề tài, cụ thể như sau:
Thứ nhất, nhóm công trình đầu tiên đã tập trung phân tích nhiều nội dung
liên quan đến VĐHL và VĐCS, trong đó về cơ bản có những nội dung sau đây đã
được thống nhất: khái niệm VĐHL, VĐCS, chủ thể và đối tượng, nội dung và
phương pháp VĐCS, môi trường và các nhân tố tác động đến VĐCS, những tác
động của VĐCS... Những nội dung được đề cập trong nhóm công trình này giúp
làm rõ hơn một số cách hiểu về VĐHL, VĐCS công, đồng thời giúp cho những
khái niệm này trở nên phổ biến hơn, quen thuộc hơn cả trong nghiên cứu khoa
học và trong thực tiễn đời sống.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ là
những nghiên cứu công phu trình bày sâu sắc những nội dung liên quan đến pháp
luật hay những quy định về VĐCS và bước đầu phân tích bối cảnh cũng như
33. 29
những thay đổi trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy định này
ở một số nước, trong đó có Anh, Pháp và đặc biệt phổ biến là Mỹ. Riêng về thực
tiễn VĐCS công ở từng nước, các công trình cũng đã đề cập ở những mức độ
khác nhau những biểu hiện của VĐCS thông qua việc tiếp cận chỉ ra quy mô của
hoạt động này, sự thay đổi rõ rệt về những đầu tư tài chính cho VĐCS, những
chủ thể, đối tượng và hình thức VĐCS đặc trưng của từng nước hoặc đưa ra
những nghiên cứu trường hợp về các vụ việc VĐCS cụ thể ở mỗi nước. Những
nghiên cứu này giúp cung cấp một bức tranh khá rõ nét giúp tác giả có những
hình dung ban đầu về VĐCS ở ba quốc gia được lựa chọn nghiên cứu trong luận
án của mình. Các phương pháp nghiên cứu được lựa chọn rất phong phú và
thuyết phục trong đó nhiều nghiên cứu lựa chọn cách tiếp cận so sánh giống với
luận án, nhất là đã có những nghiên cứu so sánh ở những mức độ và khía cạnh
nội dung khác nhau giữa từng cặp nước mà một hoặc cả hai trong số đó là những
quốc gia mà luận án nghiên cứu, đặc biệt, Anh và Pháp xuất hiện trong tất cả các
nghiên cứu về VĐCS ở châu Âu hiện nay. Một số phương pháp định tính và định
lượng được sử dụng thông qua những nỗ lực tiến hành điều tra xã hội học đã
cung cấp những cơ sở dữ liệu và dẫn chứng để làm tăng tính thuyết phục của các
kết luận nghiên cứu. Tác giả luận án kế thừa rất nhiều kết quả từ những nghiên
cứu dạng này trong luận án của mình.
Thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu về Việt Nam đã phác họa một cách
tương đối chi tiết về những vấn đề chính sách công và VĐCS công ở Việt Nam
như làm rõ được đặc thù và những bất cập trong thực tiễn chính sách ở Việt Nam
xuất phát từ đặc thù của hệ thống chính trị và các điều kiện khác. Các công trình
nhóm này cũng đã đề cập đến cơ sở cho VĐCS ở Việt Nam hiện nay và nêu một
vài biểu hiện của VĐCS ở nước ta như thông qua hoạt động của các tổ chức phi
chính phủ, những nỗ lực trong VĐCS của các doanh nghiệp Việt Nam, hoạt động
VĐCS của chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài, từ đó cũng đã đề
xuất một số giải pháp để thúc đẩy VĐCS công tích cực ở Việt Nam.
1.3.2. Những khoảng trống chưa được nghiên cứu và những vấn đề
đặt ra, cần tiếp tục nghiên cứu
34. 30
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, từ tổng quan tình hình nghiên cứu có
thể thấy còn một số khoảng trống sau đây cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ hơn:
Thứ nhất, mặc dù có khá nhiều công trình đề cập đến những nội dung cơ
bản về VĐCS như khái niệm, chủ thể, đối tượng, mục đích, phương thức, quy
trình… nhưng chưa có công trình nào tập trung vào phân biệt hai khái niệm:
VĐHL và VĐCS công để thống nhất cách hiểu cũng như phạm vi sử dụng hai
khái niệm trong thực tế còn nhiều tranh cãi này. Hơn thế nữa, dù từng vấn đề có
liên quan đến nội dung của VĐCS công đã được đề cập đến và trở đi trở lại ở
nhiều nghiên cứu nhưng một công trình tập hợp một cách hệ thống và phân tích
đầy đủ, sâu sắc và toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản về VĐCS công để làm
cơ sở khảo cứu và đánh giá thực tiễn hoạt động này ở Anh, Pháp, Mỹ là không
có. Đây chính là đóng góp đầu tiên mà luận án hướng tới thực hiện.
Thứ hai, đã có những công trình đề cập đến VĐHL, VĐCS ở Anh, Pháp và
Mỹ nhưng mới chỉ tiếp cận chung chung, khai thác ở những mức độ và chiều
cạnh nhất định, không đi sâu khảo sát và phân tích theo những nội dung mà luận
án xác định. Như trên đã chỉ ra, dù có nhiều nghiên cứu sử dụng phương pháp so
sánh nhưng đối tượng nghiên cứu không được xác định giống như trong luận án
này của tác giả. Một nghiên cứu so sánh về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ tập
trung vào mối quan hệ giữa tính thể chế (đặc thù của hệ thống chính trị và quá
trình chính sách công) với thực tiễn VĐCS lần đầu tiên được thực hiện trong luận
án của tác giả. Đặc biệt, từ thực tiễn VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ, đưa ra những
đánh giá, nhận định và rút ra những giá trị và những kinh nghiệm có tính tham
khảo cho Việt Nam hiện nay là nội dung hoàn toàn mới. Riêng nội dung liên
quan đến VĐCS công ở Pháp còn rất hạn chế.Tóm lại, một công trình đề cập một
cách có hệ thống, đầy đủ và toàn diện về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ dưới cách
tiếp cận so sánh để chỉ ra những tương đồng, đặc thù, những giá trị phổ biến và
gợi mở cho Việt Nam như trong luận án là hoàn toàn chưa có.
Riêng nhóm công trình về Việt Nam, hiện tại chưa có một công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về VĐCS công ở Việt Nam, nếu có cũng chỉ tản mạn
dừng lại ở những quy định có liên quan làm cơ sở cho hoạt động VĐCS công ở
35. 31
Việt Nam hay một số biểu hiện của VĐCS ở Việt Nam nhưng cũng không mang
tính hệ thống và chưa sâu. Đặc biệt, từ việc nghiên cứu thực tiễn VĐCS ở các
nước và từ nhận thức về biểu hiện của VĐCS công ở Việt Nam hiện nay, đưa ra
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, nhất là tập trung vào kinh nghiệm ứng
xử của Chính phủ các nước với VĐCS làm giá trị tham khảo cho Chính phủ Việt
Nam hiện nay là hướng nghiên cứu riêng của luận án này.
Từ những khoảng trống của các nhóm công trình được đề cập trong tổng
quan này, tác giả luận án sẽ tập trung vào mấy vấn đề chính: hệ thống và làm rõ
mối quan hệ giữa hai khái niệm VĐHL và VĐCS theo hướng coi VĐHL và
VĐCS là trùng nhau dựa trên bản chất và mục đích của nó; tiến hành một khảo
cứu về thực tiễn VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ dựa trên những vấn đề cơ bản
được trình bày trong cơ sở lý luận; đặt vấn đề và nghiên cứu một cách toàn diện
và hệ thống về VĐCS công ở Việt Nam bao gồm quan niệm và biểu hiện, những
quy định (nếu có) về VĐCS công và phân tích mối quan hệ giữa hệ thống chính
trị và quá trình chính sách ở Việt Nam cũng như kinh nghiệm từ VĐCS ở Anh,
Pháp, Mỹ, đề xuất những kiến nghị giúp Chính phủ Việt Nam có quan điểm đúng
đắn, khách quan và ứng xử hợp lý với VĐCS công hiện nay.
36. 32
Tiểu kết chương 1
Có thể thấy, liên quan đến đề tài luận án, có nhiều công trình được khái
quát thành bốn nhóm chính bao gồm nhóm những công trình nghiên cứu về chính
sách công, quy trình chính sách công; nhóm công trình nghiên cứu về Anh, Pháp,
Mỹ đặc biệt là về thể chế chính trị, hệ thống chính trị của ba quốc gia này; nhóm
công trình đề cập đến VĐCS; và nhóm công trình nghiên cứu về chính sách công,
VĐCS ở Việt Nam. Mỗi nhóm công trình lại bao gồm các phân nhóm nhỏ hơn,
chứa đựng những giá trị, những thành công nhất định, cung cấp những nội dung
khá phong phú, thậm chí những cách tiếp cận có giá trị định hướng và gợi mở rất
hữu ích cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và triển khai luận án. Tuy nhiên,
dù đã cố gắng nghiên cứu chi tiết các công trình, nhóm công trình trên nhưng rõ
ràng vẫn còn những khoảng trống cơ bản về mặt khoa học để tác giả lựa chọn
“VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ và những gợi mở cho Việt Nam” như một hướng
nghiên cứu riêng, mới, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn mà hoàn toàn không
trùng lắp với bất kỳ công trình nào đã được thực hiện và công bố trước đó. Điều
này cũng là những thuận lợi, thách thức và động lực giúp tác giả luận án tận dụng
để khai thác triệt để thành công từ những kết quả nghiên cứu trước để phát triển
hướng nghiên cứu của mình với kỳ vọng có thể tạo thêm một cách tiếp cận mới,
một hướng nghiên cứu mới và một nguồn tri thức có thể không hoàn toàn mới
nhưng tương đối hệ thống về vấn đề được đề cập trong luận án này.
37. 33
Chương 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
2.1. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
2.1.1. Khái niệm vận động chính sách công
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước không phải là
quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền lực được nhân dân ủy quyền và giao
quyền. Nói cách khác, chính người dân đã ủy quyền cho nhà nước với mong
muốn nhà nước thay mặt mình thực thi quyền lực công một cách hiệu quả vì
những mục tiêu nhất định, quan trọng nhất làhoạch định và thực thi chính sách
công. Tuy nhiên, trên thực tế, quan hệ ủy quyền - đại diện luôn tồn tại những vấn
đề nhất định, tất yếu nảy sinh đòi hỏi tự nhiên và chính đáng là phải kiểm soát
quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực nhà nước
lại có nguy cơ bị lạm dụng, tha hóa. Hơn nữa, quyền lực nhà nước là của nhân
dân giao cho các cơ quan nhà nước suy cho cùng là giao cho những người cụ thể
thực thi. Mà con người thì “luôn luôn chịu sự ảnh hưởng của các loại tình cảm và
dục vọng đối với các hành động của con người. Điều cũng khiến cho lý tính đôi
khi bị chìm khuất” [25, tr. 131]. Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục
vọng, thói quen hay tình cảm thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực
nhà nước càng lớn. Chính vì vậy, trong những điều kiện nhất định, người dân và
các chủ thể trong xã hội có nhu cầu tác động đến quá trình chính sách của nhà
nước nhằm làm cho các chính sách này có lợi hoặc ít nhất cũng không làm thiệt
hại đến lợi ích của mình. Điều này góp phần giải thích tính tất yếu của VĐCS
trong đời sống chính trị. Thật khó để phủ nhận rằng, ngày nay, VĐCS công ngày
càng trở thành công cụ hiệu quả trong tiến trình dân chủ hóa, từng bước tiếp cận
với những người ra quyết định và cải thiện quá trình ra quyết định. Tuy nhiên,
cũng phải thừa nhận một thực tế, VĐCS vẫn là một khái niệm còn khá mới mẻ,
xung quanh khái niệm này còn nhiều quan điểm khác nhau. Có thể hệ thống các
quan niệm sau đây về VĐCS:
38. 34
Nhóm thứ nhất, các quan niệmcho rằng VĐCS công đơn giản là cách thức
tác động hay gây ảnh hưởng đến quá trình chính sách thông qua những phương
thức, phương tiện khác nhau nhằm đạt mục đích là thay đổi chính sách theo
hướng có lợi cho chủ thể đi vận động.
Trước hết, VĐCS công được quan niệm là … “các hoạt động ảnh hưởng
đến hoạch định chính sách; hoạt động cụ thể tùy thuộc vào quy định; các loại tổ
chức phi lợi nhuận hoạt động trong việc định hình thông tin, chính sách và các
chương trình công cộng; và những lựa chọn để thay đổi xã hội và chính trị” [64,
tr.7].Quan niệm này nghiêng về tiếp cận VĐCS với tư cách là một hoạt động
được tiến hành bởi các tổ chức phi lợi nhuận.
VĐCS còn được định nghĩa là sự hỗ trợ tích cực, bí mật, hoặc vô tình cho
một chính sách cụ thể hoặc một nhóm các chính sách[79].
VĐCS được định nghĩa đơn giản là một quá trình chính trị do một cá nhân
hay một nhóm tiến hành nhằm gây ảnh hưởng lên những quyết sách hay việc
phân bổ nguồn lực trong phạm vi các thiết chế hay hệ thống chính trị, kinh tế hay
hệ thống xã hội.[119]. Cách tiếp cận này về VĐCS có nội dung rộng hơn, ngoài
việc chỉ ra mục đích của VĐCS là gây ảnh hưởng lên những quyết sách, còn bao
gồm cả việc phân bổ các nguồn lực trong những điều kiện nhất định.
Vận động được hiểu là tập hợp các hoạt động khác nhau nhằm phổ biến
thông tin tới các bên liên quan để gây dựng hỗ trợ cho một mục đích nào đó. Các
hoạt động đó có thể là phân phát tài liệu, diễu hành, tuyên truyền v.v… và đối
thoại với chính quyền.
“Vận động chính sách là hoạt động gây ảnh hưởng và thuyết phục cơ quan
nhà nước về giải pháp và nguồn lực nhằm giải quyết vấn đề lợi ích đặc thù thông
qua chính sách”[46, tr. 106].Cách tiếp cận này chỉ rõ mục đích của VĐCS là thay
đổi những lợi ích đặc thù bằng việc gây ảnh hưởng đến chính sách.
Vận động chính sách công là một quá trình gây ảnh hưởng tới chính phủ và cơ
quan chính phủ bằng cách cung cấp thông tin về chương trình nghị sự chính sách
công [81, tr.17]. Quan niệm này nhấn mạnh cách thức thực hiện VĐCS.
39. 35
Vận động chính sách công là “thuyết phục người được vận động ban hành
chính sách theo ý muốn của người vận động” [40, tr.4].Cách tiếp cận này quá
chung chung bởi vì chỉ hiểu đơn giản vận động là thuyết phục.
Vận động chính sách cũng có thể được quan niệm là bất kỳ nỗ lực nào
nhằm ảnh hưởng đến chính sách công bằng cách cung cấp thông tin, nói chuyện
với các nhà hoạch định, thể hiện lợi ích đối với việc thay đổi chính sách và các
hoạt động tương tự khác nhằm tạo ra sự thay đổi chính sách như mong muốn [73,
tr.1].
Vận động chính sách công cũng có thể được hiểu là “quá trình mà các cá
nhân hay tập thể phải trải qua để ráp nối những mục tiêu, ưu tiên của họ vào với
quá trình quyết sách của các nhà chính trị để tạo ảnh hưởng tới các kết quả chính
sách” [128].
Vận động chính sách công là “việc đề đạt yêu cầu, nguyện vọng với chính
quyền để gây ảnh hưởng lên chính sách công” [46, tr. 327].
Vận động chính sách là hoạt động trong đó một tập thể cùng chia sẻ mối
quan tâm chung và cùng nhau thúc đẩy việc thực hiện mối quan tâm đó bằng
cách tác động vào cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ban hành chính sách phù
hợp với lợi ích của mình”[46, tr. 72, 200].Cách tiếp cận này chỉ ra khả năng liên
minh trong VĐCS khi cho rằng đó là mối quan tâm của “một tập thể”.
Nhóm thứ hai tiếp cận VĐCS công như là một hoạt động mang tính chất
tích cực với ý nghĩa giúp cho quá trình chính sách trở nên minh bạch và hiệu quả
hơn:
Vận động chính sách là việc tác động để giải quyết một vấn đề gây khó
khăn, mâu thuẫn hoặc cản trở sự phát triển về kinh tế - chính trị - xã hội của một
quốc gia [46, tr. 60].Hay VĐCS là những nỗ lực có tính hệ thống nhằm tác động
đến những người ra quyết định nhằm tạo ra những chính sách phù hợp hơn với
điều kiện thực tiễn.
Vận động chính sách còn được quan niệm “là một quá trình thuyết phục
kiên trì sử dụng các phương pháp tiếp cận khác nhau tác động vào các cơ quan
40. 36
quyền lực đồng thời huy động cộng đồng nhằm hình thành chính sách mới hoặc
thay đổi chính sách đã lỗi thời”[32].
Vận động chính sách là quá trình tạo ra sự ủng hộ, xây dựng sự nhất trí,
hình thành bầu không khí thuận lợi và môi trường ủng hộ đối với một đường lối
hay một vấn đề cụ thể thông qua một hệ thống các hành động có kế hoạch và
được tổ chức tốt do một nhóm các cá nhân hay các tổ chức phối hợp với nhau
thực hiện[108].
Theo nhóm này, VĐCS theo nghĩa thông thường nhất được hiểu là quá
trình tác động vào những nhà hoạch định chính sách, những người ra quyết định
để tạo ra một chính sách phù hợp hơn, minh bạch và hiệu quả hơn.
Nhóm khác thì lại nhìn nhận VĐCS công như một hoạt động với nhiều
biểu hiện tiêu cực:
Vận động chính sáchđược quan niệm là các phương tiện mà các nhóm bị
gán cho là có ảnh hưởng tiêu cực sử dụng để thử thách và thay đổi luật, chính
sách và hệ thống cai trị.
Trong một số trường hợp, VĐCS còn được ví như “con quái vật tìm cách
luồn lách vào các phòng ban, hành lang Quốc hội của các quốc gia để lũng
đoạn”. Quan điểm này được hưởng ứng khi thực tế có nhiều vụ tai tiếng liên quan
đến các nghị sỹ ở một số nước có nguyên nhân từ các hoạt động vận động chính
sách đã được phanh phui [107].
Dù tiếp cận dưới cách nào cũng dễ nhận thấy, VĐCS có những đặc trưng
cơ bản sau :
Thứ nhất, VĐCS là quá trình tác động, gây ảnh hưởng đến các quá trình
chính sách thông qua các phương thức và phương tiện khác nhau nhằm thay đổi
chính sách theo hướng có lợi cho người vận động.
Thứ hai, chủ thể VĐCS có thể là cá nhân hay tổ chức nhưng họ hoặc là
những người thuê người khác đi vận động hoặc là những người được thuê để trực
tiếp tiến hành vận động. Đôi khi hai loại chủ thể này có thể là một nhưng trong
41. 37
nhiều trường hợp và cũng là xu thế hiện nay là các chủ thể có xu hướng thuê các
công ty hoặc các cá nhân để tiến hành vận động thay mình. Điều kiện tiên quyết
là các chủ thể VĐCS phải có sức mạnh nào đó để sử dụng như những phương
tiện hữu hiệu trong vận động bao gồm tài chính, quan hệ, thông tin, chuyên gia…
Thứ ba, đối tượng được VĐCS có thể là các cá nhân hay cơ quan, tổ chức
nhưng phải có khả năng quyết định hoặc ảnh hưởng đến các quyết định chính
sách. Họ thường là nhưng không nhất thiết là các quan chức chính phủ, các nghị
sĩ, các cơ quan thuộc chính phủ, các ủy ban chuyên môn về chính sách… mà
cũng có thể là các tổ chức tư vấn chính sách chuyên nghiệp và các thiết chế khác
có khả năng thay đổi chính sách.
Thứ tư, vận động là các hành động được tính toán kỹ lưỡng. Có nghĩa
người đi vận động luôn phải hiểu mình muốn thay đổi chính sách nào, thay đổi
như thế nào, nhằm mục đích gì để từ đó xác định xem cần tác động đến những ai,
bằng cách nào cho hiệu quả. Chỉ khi trả lời được đầy đủ những câu hỏi này, quá
trình vận động mới có khả năng thành công cao.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm VĐCS, có thể đặt nó trong sự so sánh với
khái niệm khác là vận động hành lang (VĐHL). Thực tế hiện nay vẫn chưa có sự
thống nhất trong cách tiếp cận để phân biệt hai khái niệm này.
Cách quan niệm thứ nhất cho rằng VĐCS và VĐHL là hai khái niệm khác
nhau, và trong tiếng Anh, hai khái niệm này cũng được biểu hiện bằng hai thuật
ngữ khác nhau là Lobby (vận động hành lang) và Policy Advocacy (vận động
chính sách). Tuy nhiên ngay trong cách quan niệm này cũng chưa thống nhất. Ý
kiến thứ nhất cho rằng VĐHL rộng hơn so với VĐCS công bởi vì xét về mục
đích vận động thì VĐHL là quá trình tác động đến các cơ quan hay cá nhân có
thẩm quyền để có những lợi ích phù hợp với mình, và trong quá trình đó, nếu là
VĐHL trong quá trình chính sách để có những chính sách có lợi thì được gọi là
VĐCS. Nói cách khác, theo cách quan niệm này, VĐCSchính là VĐHL trong
quá trình chính sách. Còn ý kiến thứ hai thì lại cho rằng VĐCS rộng hơn VĐHL
vì hai lẽ, thứ nhất, VĐHLchỉ nhắm đến các lợi ích cụ thể và trước mắt trong khi