3. CÁC OXIT CỦA NITƠ
- Nitơ oxit (N2O): N2O là loại khí gây hiệu ứng nhà
kính, được sinh ra trong quá trình đốt các nhiên liệu
hoá thạch. Hàm lượng của nó đang tăng dần trên
phạm vi toàn cầu, hàng năm khoảng từ 0,2 -,3%. Một
lượng nhỏ N2O khác xâm nhập vào khí quyển do kết
quả của quá trình nitrat hoá các loại phân bón hữu cơ
và vô cơ. N2O xâm nhập vào không khí sẽ không thay
đổi dạng trong thời gian dài, chỉ khi đạt tới những
tầng trên của khí quyển nó mới tác động một cách
chậm chạp với nguyên tử oxy
3. CÁC OXIT CỦA NITƠ
- Các oxyd nitơ (NO và NO2) là khí cấu tạo của khí
quyển. Nhưng chúng là sản phẩm với số lượng quan
trọng của sự cháy ở nhiệt độ cao và nhất là các máy
nổ xăng và dầu. Chúng là những chất có vai trò
đáng kể trong ONKK. NO2 là một khí bền vững,
màu vàng sậm, làm giảm tầm nhìn và tạo nên màu
nâu đặc trưng bao phủ vùng đô thị. Nó có độ hấp
thụ mạnh đối với tia cực tím tạo nên ô nhiễm quang
hóa học. NO2 cũng tạo ra mưa acid.
3. CÁC OXIT CỦA NITƠ
Khí N2O gây thủng tầng ozon như thế nào?
Khoảng độ cao 11 - 50 km so với mặt biển được coi là tầng
bình lưu của khí quyển. Trong tầng này dường như không còn
mây nên bức xạ cực tím (UV) của mặt trời rất mạnh. Trong điều
kiện này có nhiều phản ứng quang hoá xảy ra, trong đó có phản
ứng tạo ôzôn. Dưới sự tác động của tia UV bước sóng ngắn
(242nm) các phân tử oxy bị bẻ gãy thành các nguyên tử
O2 → O(3P) + O(3P)
Sau đó O(3P) tác dụng với phân tử O2 để tạo ra phân tử O3 (ôzôn)
O(3P) +O2.= O3
3. CÁC OXIT CỦA NITƠ
Trung bình ở độ cao 20 -25 km nồng độ O3 tối đa có thể đạt
7ppm. Lớp này gọi là lớp giầu ôzôn. Ở các vùng cực, lớp này ở
gần mặt đất hơn vài km so với ở vùng xích đạo.
Lớp giầu ôzôn của khí quyển có khả năng hấp thụ mạnh các tia
UV (nhất là ở vùng sóng 254nm) và cả các tia đỏ (ở vùng 600 nm)
và sự hấp thụ này rất quan trọng trong quá trình phân phối năng
lượng của khí quyển phía bên dưới, làm thay đổi quá trình đối lưu
của không khí và ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự sống trên trái đất vì
chính các tia UV có tác động trực tiếp đến các phân tử ADN của
các tế bào.
Cũng vì lý do trên mà chiếc "áo" ôzôn được xem như lá chắn bảo
vệ sự sống trên mặt đất. Sự mỏng đi hoặc dầy lên của lớp giầu
ôzôn trong khí quyển do nhiều yếu tố quyết định và đến nay người
ta cho rằng một số chất tồn tại trong khí quyển như các NOx, các
hợp chất clo-flo cacbon (CFC) có vai trò quan trọng trong việc
phá huy tầng ôzôn.
3. CÁC OXIT CỦA NITƠ
Các NOx có thể do con người (nền công nghiệp)
hoặc do các hiện tượng tự nhiên tạo ra (sấm,
sét...), nhưng các CFC thì duy nhất chỉ xuất phát
từ hoạt dộng của con người. Các CFC, đặc biệt
CFCl3 (R11), CF2Cl2 (R12), và CHClF2 (R22) đã
được dùng lâu nay trong công nghiệp lạnh hoặc
trong công nghiệp tạo bột xốp polyurethan. Hàng
năm trên thế giới đã sử dụng trên 2 triệu tấn các
chất này và một lượng không nhỏ của chúng bị
phát thải vào không khí.
3. CÁC OXIT CỦA NITƠ
R11, R12 không có chứa nhóm CH được gọi là
các chất CFC "cứng". Chúng rất khó bị kết hợp
hoặc phá huỷ nên chúng dần dần khuyếch tán khắp
bầu khí quyển và tồn tại lâu hàng trăm năm. Chỉ có
các CFC "mềm" như R22> mới bị phân huỷ dần
từng phần trong tầng đối lưu.
Các CFC trong tầng bình lưu sẽ bị tác động
của ta UV ngắn (< 230 nm) và bị bật gốc clo Cl*
ra. Cl* sẽ tiếp tục tác dụng với ôzôn (O3) và các
gốc ôxy (*O*) để thành phản ứng tiếp diễn liên tục
phá huỷ ôzôn
3. CÁC OXIT CỦA NITƠ
CFC → Cl*
Cl* + O3 → ClO* + O2
ClO* + *O* → Cl* + O2
Theo ước tính, hiện nay các phản ứng trên có thể làm
mất từ 2-8% lượng ôzôn trong các tầng bình lưu dưới độ cao
100 km.
Giêng ở vùng Nam Cực lượng mất ôzôn càng trầm
trọng, nhất là vào mùa đông. Vì vào mùa đông có sự tạo các
đám mây ty do các sol khí núi lửa. Các đám mây ty chứa các
tinh thể băng rất nhỏ và trên bề mặt các hạt băng này sẽ sảy ra
các phản ứng dị thể giữa CFC, ôzôn và *O* để duy trì các
phản ứng phá huỷ ôzôn . Ngoài ra còn một loạt phản ứng nữa
liên quan đến sự có mặt của NO2 trong tầng bình lưu để tạo ra
Cl* và phá huỷ ôzôn.
3. CÁC OXIT CỦA NITƠ
Cũng vì lý do trên, các chất CFC ngoài gây
hiệu ứng nhà kính, còn bị quy kết là nguyên
nhân quan trọng làm mỏng lớp ôzôn của khí
quyển và theo Nghị định thư Montreal,
người ta đang cố gắng cắt giảm sự sản xuất
và sử dụng các chất này, đặc biệt là các
CFC "cứng
Nitơ - Nguyên nhân của sự ấm lên
toàn cầu
Việc thải ra khí cacbonic, nhiệt độ Trái Đất tăng
lên, băng tan và khí hậu thất thường luôn có mặt
trong những bản tin hằng ngày. Nhưng có phải sự
quan tâm của chúng ta đến khí cacbonic đã che
mắt chúng ta trước sự đe dọa của một tác nhân
nguy hiểm hơn? Thủ phạm gây ra hiện tượng ấm
lên toàn cầu chính là Nitơ và việc xem nhẹ nó sẽ
dẫn đến những thiệt hại rất lớn tới cả sức khoẻ của
con người lẫn môi trường
Nitơ - Nguyên nhân của sự ấm lên toàn cầu
Khí nitơ trong thiên nhiên
Nitơ là một khí thiết yếu của cuộc sống. Thực vật, động vật và vi
khuẩn, tất cả đều sử dụng Nitơ (trong các amino acid, thành phần cấu
tạo nên protein – chất đạm).
Protein không chỉ cho phép chúng ta phát triển và hoạt động mà chúng
còn hình thành cơ sở của hầu hết mọi phản ứng hoá học trong cơ thể con
người.
Nguồn Nitơ chính của chúng ta là từ khí quyển, nơi mà chúng hiện diện
dưới dạng khí Nitơ (N2), còn gọi là đạm khí. Tuy nhiên ở dạng khí, Nitơ
rất trơ và chỉ một số lượng nhỏ sinh vật có thể sử dụng nó. Quá trình tự
nhiên của việc sử dụng khí nitơ và chuyển hoá nó thành những hợp chất
hữu dụng (có ích) gọi là cố định đạm, và được thực hiện bởi vi khuẩn cố
định đạm (và thỉnh thoảng là sấm sét).
Khả năng kết hợp hay cố định nitơ là đặc trưng quan trọng của công
nghiệp hóa chất hiện đại, trong đó Nitơ (cùng với khí thiên nhiên) được
chuyển hóa thành amôniắc (phương pháp Haber
Nitơ - Nguyên nhân của sự ấm lên
toàn cầu
Ammoniac về mặt sinh học dễ tiếp cận hơn khí Nitơ và
được sử dụng bởi vi khuẩn nitrat hoá để tạo thành các anion
nitrit (NO2-) và sau đó là nitrat (NO3-). Những ion nitrat này
là dạng Nitơ mà thực vật có thể hấp thụ được, và như thế
tức là dạng đưa Nitơ vào chuỗi thức ăn của chúng ta.
Nhưng nếu toàn bộ lượng Nitơ trong khí quyển rốt cuộc đều
bị hấp thụ bởi động vật và thực vật thì chắc chắn sẽ có sự
thiếu hụt Nitơ. May thay có những vi khuẩn có khả năng
khử Nitơ nhằm hoàn thành chu trình tự nhiên của Nitơ và
chuyển hoá nó thành chất khí N2.
Nitơ - Nguyên nhân của sự ấm lên
toàn cầu
Chu trình này một cách tự nhiên được điều chỉnh
bởi tốc độ mà vi khuẩn có thể chuyển hoá một hợp
chất này thành một hợp chất khác và bởi số lượng vi
khuẩn có sẵn trong đất. Trước đây, việc này dẫn đến
một giới hạn tự nhiên của Nitơ trong tự nhiên, điều
này dẫn đến việc luôn tồn tại một ngưỡng nitơ nhất
định trong tầng sinh quyển. Tuy nhiên sự tiến bộ kỹ
thuật đã đột ngột làm tăng giới hạn tự nhiên này lên,
và những hậu quả của nó đã có ảnh hưởng sâu rộng.
Vậy chuyện gì đã xảy ra?
Nitơ - Nguyên nhân của sự ấm lên
toàn cầu
Các vi khuẩn lấy Nitơ từ không khí và chuyển đổi thành
những hỗn hợp mà thực vật và động vật có thể sử dụng được.
Nguyên nhân của việc lượng Nitơ tăng quá cao (thừa Nitơ)
Sự khởi đầu của cuộc cách mạng công nghiệp đã báo trước
một sự thay đổi nghiêm trọng làm ảnh hưởng lớn đến sự cân
bằng Nitơ.
Việc đốt cháy những nguyên liệu dưới lòng đất như than đá,
dầu mỏ với qui mô lớn đã giải phóng những lượng lớn Nitơ
oxit (bao gồm cả đinitơ oxit hay N2O).
Điều này trở nên nghiêm trọng hơn khi Thế chiến I diễn ra, với
sự phát triển của quá trình Haber-Bosch (quá trình điều chế
NH3 từ khí N2 mà không có sự tham gia của vi khuẩn cố định
đạm nói trên).
Nitơ - Nguyên nhân của sự ấm lên
toàn cầu
Lượng khí ammonia được sản xuất trở thành một
nguồn tài nguyên đáng kể và được sử dụng làm
nguyên liệu sản xuất những thứ phân bón rẻ tiền cho
hoa màu. Việc đốt rừng làm rẫy cũng như sản xuất
nylon cũng góp phần đáng kể vào sự gia tăng lương
Nitơ. Tuy nhiên, tầm quan trọng của nông nghiệp
trên thế giới khiến chúng ta phân vân về việc có nên
dừng điều chế Nitơ nhân tạo hay không? Tại sao
chúng ta lại muốn quay trở lại giới hạn tự nhiên của
chu trình Nitơ.
Nitơ - Nguyên nhân của sự ấm lên toàn cầu
Có hai đối tượng chính chịu ảnh hưởng xấu của các hợp chất của N: môi
trường và sức khoẻ con người. Khi khí đinitơ oxit (N2O) lên đến tầng
bình lưu và phá huỷ tầng ozone, dẫn đến sự gia tăng lượng bức xạ cực
tím, gây ung thư da và đục thuỷ tinh thể.
Trớ trêu thay khi N2O ở gần mặt đất nó có thể tạo thành ozone, từ đó tạo
thành sương mù vào những ngày nắng nóng và không có gió. Sương mù
đó gây ra các bệnh đường hô hấp, phá hoại buồng phổi, tăng nguy cơ ung
thư cũng như làm giảm sức đề kháng của con người. Nitơ oxit cũng hòa
tan hơi nước trong không khí và tạo thành mưa acid, bào mòn đá, các vật
dụng bằng kim loại cũng như nhà cửa.
Năm 1967 một cây cầu trên sông Ohio bị sập do mưa acid, khiến 46
người chết. Không chỉ thế, ngay đến con người, thực vật (bao gồm cả cây
trồng của chúng ta) cũng gặp nguy hiểm.
Mối liên hệ giữa mưa acid, bệnh Alzheimer và các vấn đề về não bộ đã
được nhiều nhà khoa học lưu ý. Vậy tóm lại, đây là tin xấu !
Nitơ - Nguyên nhân của sự ấm lên
toàn cầu
Còn nhiều vấn đề khác nữa. Việc lạm dụng phân bón
hoa màu cũng như các hợp chất của nitơ để nuôi gia
súc đã dẫn đến một lượng lớn nitơ chảy vào trong các
ao hồ. Hậu quả là tảo phát triển mạnh ngoài sự kiểm
soát nhờ vào “dòng lũ” Nitơ này, lấy hết nguồn oxy
trong nước và lấp đi ánh sáng mặt trời, làm tôm cá
chết ngạt và ngăn cản quá trình quang hợp ở các thực
vật sống dưới nước. Đáng lo ngại là lượng Nitơ ở hồ
tại Na uy đã tăng lên gấp đôi trong 10 năm qua và ở
Bắc Âu người ta đang thải ra lượng nitơ với tốc độ
gấp 100 lần tự nhiên. Tương lai của những cái hồ này
xem ra vô cùng u ám.
Nitơ - Nguyên nhân của sự ấm lên
toàn cầu
Quay trở lại với đất, lượng nitơ trong đất tăng cũng khiến
một số loài thực có thể thắng thế hơn so với số còn lại. Sự
“phục vụ” này có thể giúp chúng lợi dụng số Nitơ thừa để
phát triển một cách nhanh chóng, và điều này hiển nhiên
số phận của những loài khác sẽ trở nên tăm tối vì mất đi
nhiều nguồn tài nguyên. Các loài thực vật khác dần dần
biến mất (tuyệt chủng), ảnh hưởng đến các loài động vật,
côn trùng, chim muông ăn các loài này để sống. Đây
chính là hiện tượng đã khiến cho nhiều khu rừng ở Hà Lan
trở nên khan hiếm các chủng loại động thực vật.
Nitơ - Nguyên nhân của sự ấm lên
toàn cầu
Cuối cùng, nitơ oxit cũng gây ra hiện tượng trái
đất nóng dần lên. Dù nồng độ nitơ oxit trong
không khí ít hơn đáng kể so với nồng độ CO2, mối
nguy hại tiềm tàng do chúng gây ra làm ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe và môi trường lại nhiều
gấp 300 lần.
CÁC HỢP CHẤT CỦA OXIT NITO CÓ TRONG
KHÍ THẢI XE HƠI LÀM Ô NHIỄM MÔI
TRƯỜNG
Chúng ta thường thấy khi khởi động và trong quá
trình xe hơi vận hành, ống khói củ xe thường xả
ra khói đen hoặc khói màu trắng. Đó là những gì
mà ta gọi là khí thải từ xe hơi, chúng là một trong
những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí .
Trong khí thải của xe hơi có nito và hợp chất
oxit nito,CO và một số hợp chất của muối.Chúng
đều là những hợp chất có hại cho con người sẽ
tích tụ lại