SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 109
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHAN THỊ HIỀN
DẠY HỌC ĐỌC HIỂU THƠ ĐƢỜNG Ở TRƢỜNG THPT
THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN HỮU PHONG
Huế, Năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác
giả cho phép sử dụng và chưa được công bố trong bất kì một công trình
nghiên cứu nào khác.
Huế, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn
Phan Thị Hiền
Lời cảm ơn!
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Đào tạo sau Đại học, Ban giám hiệu,
Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn- Trường Đại học sư phạm Huế, Ban giám đốc
Sở Giáo dục & Đào tạo Quảng Bình, Ban giám hiệu trường THPT Nguyễn
Chí Thanh và trường THPT Lệ Thủy đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học tập, thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy, Cô đã giảng dạy, giúp đỡ,
dìu dắt tôi trong suốt khóa học vừa qua. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính
phục và biết ơn sâu sắc đấn Thầy giáo, Tiến sĩ Trần Hữu Phong - người đã
trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, xin được bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc đối với các đồng
nghiệp ở trường THPT Nguyễn Chí Thanh và trường THPT Lệ Thủy, các anh
chị học viên Cao học khóa 24 cùng tất cả bạn bẻ và người thân đã luôn sát
cánh động viên, nâng đỡ tôi về mọi mặt trong thời gian qua.
Xin trân trọng cảm ơn!.
Huế, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn
Phan Thị Hiền
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết tắt Viết đầy đủ
ĐC : Đối chứng
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
GS : Giáo sư
GS.TS : Giáo sư, tiến sĩ
TS : Tiến sĩ
SGK : Sách giáo khoa
PGS.TS : Phó giáo sư, tiến sĩ
PPDH : Phương pháp dạy học
TPVH : Tác phẩm văn học
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
TN : Thực nghiệm
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Thơ Đường là đỉnh cao của thi ca nhân loại nói chung và của văn học
Trung Hoa nói riêng. Thơ Đường không chỉ phong phú về đề tài, số lượng mà
còn đạt đến trình độ rất cao về nghệ thuật với hình tượng thơ hàm súc, ngôn
ngữ thơ tinh tế và hình thức biến hóa linh hoạt... Trải qua hơn một nghìn năm
tồn tại, thơ Đường vẫn giữ nguyên sức lay động sâu xa, để lại ấn tượng sâu
đậm trong lòng của những người quan tâm và yêu nghệ thuật thơ ca. Will
Durant trong Lịch sử văn minh Trung Hoa đã nhận xét về thể loại này như
sau: "Nó không ưa tỉ dụ, so sánh, nói bóng bẩy mà chỉ gợi cho ta về đề tài
thôi. Nó tránh sự phóng đại, những cảm xúc nồng nàn; người nào có óc già
dặn cũng thích giọng kín đáo của nó, thích những ý tại ngôn ngoại của nó..."
[11, tr.12] . Những vần thơ Đường bao giờ cũng gợi một chân trời kì diệu đầy
lôi cuốn như những suối nguồn không khi nào vơi cạn mời gọi sự thích thú
của bạn đọc. Do đó, cảm nhận được cái đẹp, cái hay của thơ Đường đã khó và
việc chuyển tải, truyền thụ cái đẹp, cái hay đó đến người khác lại còn khó
hơn. Vì sao lại có tình trạng " khó" truyền thụ, "khó" tiếp thu như vậy? Phải
chăng là do chưa tìm được phương pháp phù hợp và hiệu quả?
1.2. Với đà phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra ở nước ta,
vấn đề chất lượng nguồn lực con người được đưa lên vị trí hàng đầu. Bởi con
người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của lịch sử, xã hội. Nói đến việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không thể không kể đến giáo dục vì đây
là chìa khóa, là nền tảng làm cho xã hội ngày càng văn minh và phát triển. Do
đó, đổi mới giáo dục là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với toàn xã hội,
góp phần đáp ứng nhu cầu thiết yếu của thời đại.
Hòa chung xu thế đổi mới giáo dục của thế giới, Việt Nam đã có những
chiến lược cải cách và đổi mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Từ năm 2000, Đảng và nhà nước ta đã quan tâm chỉ đạo: tập trung mọi nguồn
lực nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện đổi mới dạy học theo hướng tích
cực hóa vai trò của người học, tạo điều kiện để học sinh, sinh viên phát huy
tích cực, tự giác, sáng tạo trong học tập, chủ động tiếp cận tri thức, hình thành
kĩ năng thực hành. Cuộc đổi mới phương pháp dạy học chủ yếu theo quan
điểm "lấy học sinh làm trung tâm", phát huy vai trò chủ động, tích cực, độc
lập sáng tạo ở người học nhằm đào tạo những con người có tri thức, đạo đức,
bản lĩnh và khả năng thực hành tri thức. Chiến lược cải cách giáo dục ở
trường Trung học phổ thông (THTP) đã áp dụng trên tất cả các môn học trong
đó có môn Ngữ văn - môn học có vị trí quan trọng hàng đầu trong việc thực
hiện mục tiêu chung của giáo dục Việt Nam: bồi dưỡng cho các em những
phẩm chất, tình cảm, thái độ ứng xử tốt đẹp trong xã hội, hình thành năng lực
cảm thụ những giá trị thẩm mĩ của nhân loại.
Đổi mới dạy học trong nhà trường phổ thông được coi là chiến lược phát
triển giáo dục nước ta hiện nay, trong đó có môn Ngữ văn. Bởi theo lời cố thủ
tướng Phạm Văn Đồng thì: “Chúng ta phải xem lại cách giảng văn trong nhà
trường của chúng ta, không nên dạy như cũ bởi vì dạy như cũ thì không
những việc dạy văn không hay mà vấn đề đào tạo con người không có kết
quả. Vì vậy, chúng ta phải dứt khoát có cách dạy khác, dạy cho học sinh phải
suy nghĩ bằng trí óc của mình và diễn tả suy nghĩ của mình như thế nào cho
tốt". Do đó, đổi mới dạy học Ngữ văn cần phải lưu tâm đến việc thiết kế
chương trình môn Ngữ văn hiện nay. Chương trình giáo dục hiện nay đã nhấn
mạnh đến cả ba phương diện về tri thức khoa học xã hội và nhân văn, về kĩ
năng và về giáo dục tình cảm thẩm mĩ; tiếp tục thực hiện nguyên tắc tích hợp
gắn kết Đọc văn với Tiếng Việt và Làm văn. Điều đặc biệt đó là cấu trúc
chương trình Ngữ văn nhất là phần văn học đã coi trọng sự phát triển của thể
loại khi đưa vào chương trình dạy học một cách đa dạng nhiều hình thức thể
loại. Trên tinh thần coi trọng sự phát triển của thể loại trong lịch sử văn học,
các văn bản văn học được sắp xếp theo các cụm thể loại. Vậy nên, dạy học tác
phẩm văn chương không thể không quan tâm đến đặc trưng thể loại.
1.3. Thực tiễn dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT hiện nay còn khá nhiều
vấn đề chưa theo kịp với yêu cầu của giáo dục hiện đại cũng như đòi hỏi của
cuộc sống. Và việc dạy học đọc - hiểu thơ Đường ở trường THPT không nằm
ngoài quỹ đạo đó. Một thực trạng phổ biến đó là học sinh (HS) "chán học"
môn văn, học đối phó, không vận dụng những hiểu biết, suy nghĩ của mình để
làm một bài văn mà quá phụ thuộc vào tài liệu tham khảo, vào các bài văn
mẫu. Những điều này đã làm giảm chức năng giáo dục, nhận thức của văn
học, đặc biệt là giáo dục về tình cảm, đạo đức, nhân cách cho thế hệ trẻ. Mặt
khác, sự phát triển, bùng nổ của công nghệ thông tin với nhiều hình thức giải
trí hấp dẫn đã tác động không nhỏ đến việc nhận thức những giá trị thẩm mỹ
trong sách vở của HS. Các em thờ ơ, bỏ qua các tác phẩm văn học nước
ngoài, huống gì là thể thơ cổ cách xa thế hệ các em hàng nghìn năm khi: ''Các
cụ xưa đã sống trong cuộc đời giản dị, êm đềm, sinh hoạt dễ dàng, tiếp xúc ít
ỏi, nên tâm hồn các cụ cũng đơn sơ, nghèo nàn, phẳng lặng, khô khan như
cuộc đời các cụ, gia dĩ văn hóa tàu tràn sang đưa đến cho ta những kỉ luật
nghiêm khắc, hẹp hòi của Khổng giáo. Các cụ ta chỉ thích các bóng trăng
vàng rọi ở trên mặt nước, ta lại thích cái ánh mặt trời buổi sáng lấp lánh, vui
vẻ ở đầu ngọn tre'' [44, tr.20].
Không chỉ HS mà một bộ phận giáo viên (GV) trong quá trình dạy học vẫn
còn vướng mắc, lúng túng trong việc lựa chọn, sử dụng phương pháp dạy học
sao cho có hiệu quả. Đa số giáo viên đã có ý thức trong đổi mới phương pháp
dạy học theo các hướng lấy HS làm trung tâm của giờ học; dạy văn theo
hướng tích hợp, vận dụng đặc trưng thể loại vào giảng dạy. Thế nhưng hiện
tượng GV khi dạy chỉ chú trọng vào việc giảng giải nội dung; phân tích cắt
nghĩa các từ khó, từ "đắt" vẫn đang diễn ra phổ biến. Thậm chí là đối với các
tác phẩm thơ ca, nhất là thể thơ Đường được coi là quy cũ, nghiêm ngặt, GV
vẫn chỉ dùng phương pháp truyền thống là bình giảng, "diễn nôm". Trong khi
đây là thể loại có hệ thống thi pháp nổi bật, đặc sắc, phải nắm và vận dụng cái
đẹp, cái hay của thể loại ấy vào bài học mới truyền tải hết giá trị của thơ
Đường đến HS.
Để góp phần khắc phục những hạn chế trên và đóng góp vào công cuộc đổi
mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn nói chung và dạy học đọc - hiểu
tác phẩm văn học nói riêng, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu ''Dạy
học đọc - hiểu thơ Đƣờng theo đặc trƣng thể loại". Dẫu biết rằng không có
phương pháp nào là vạn năng nhưng chúng tôi hi vọng hướng nghiên cứu dạy
học thơ Đường theo đặc trưng thể loại với những ưu điểm của nó sẽ là một
hướng chiến lược mới, mang lại hiệu quả trong công cuộc đổi mới phương
pháp dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) môn Ngữ văn đã và đang
được các nhà nghiên cứu hàng đầu quan tâm không chỉ trong nước mà còn ở
ngoài nước, trong đó có vấn đề dạy học tác phẩm văn chương (TPVC) theo
đặc trưng thể loại. Để thực hiện đề tài ''Dạy học đọc - hiểu thơ Đƣờng theo
đặc trƣng thể loại", chúng tôi tập trung khai thác, tiếp thu các thành tựu
nghiên cứu sau:
* Ở nƣớc ngoài
Trên thế giới, có rất nhiều công trình nghiên cứu về PPDH văn trong
nhà trường phổ thông với đóng góp to lớn trong việc tháo gỡ những vướng
mắc trong thực tiễn giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở Việt Nam. Tuy nhiên việc
dịch thuật các công trình ấy ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế.
Tài liệu được nhắc đến đầu tiên đó là trong cuốn Phương pháp giảng
dạy văn học ở trường phổ thông (1978) của tác giả V.A.Nhikônxki. Trong
công trình này, tác giả chú trọng vào những vấn đề chung về quan niệm dạy
học và đề xuất những phương pháp dạy học văn, cùng với nó là những biện
pháp, thủ thuật trong quá trình giảng dạy văn học. Tác giả cho rằng, khi sáng
tác người ta thường dùng các phụ đề như: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu
thuyết, thơ, bi kịch… cách gọi tên này không chỉ đơn giản là nói đến thể loại
của tác phẩm mà nó còn có ý định hướng người đọc khi họ tiếp xúc với tác
phẩm. Bên cạnh đó, V.A.Nhikônxki nhấn mạnh vai trò của người đọc cũng
như phương pháp hình thành cảm xúc thể loại trong giờ văn cho HS, phát huy
vai trò chủ thể của HS.
Ở Liên Xô những năm 70, công trình Phương pháp luận dạy Văn ở
trường phổ thông do GS.TS Z.Ia.Rez chủ biên và được Phan Thiều dịch vào
năm 1983 đã góp một phần không nhỏ cho ngành lí luận và PPDH văn ở nước
ta khi đề xuất những hướng nghiên cứu, những phương pháp giảng dạy văn
học một cách sáng tạo và có hệ thống và những phương pháp luận bộ môn có
triển vọng.
Năm 1983, hai tác giả E.A.Maimin và Ê.V.Xlinnhia trình bày kết quả
nghiên cứu của mình về vấn đề thể loại trong công trình Lý thuyết và thực tiễn
của phân tích văn học. Cùng với việc chỉ ra đặc trưng của 3 thể loại tự sự, trữ
tình, kịch sau khi nêu lên các con đường và nguyên tắc phân tích tác phẩm,
các tác giả đã chọn mỗi thể loại là một tác phẩm tiêu biểu để phân tích.
*Ở trong nƣớc:
Người được coi là tiên phong, đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu PPDH
văn từ những năm 60 của thế kỉ trước đó là GS. Phan Trọng Luận với nhiều
công trình nghiên cứu, những chuyên luận có giá trị to lớn như Con đường
nâng cao hiệu quả dạy văn (1978), Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học
(1983), và gần đây nhất là Phương pháp dạy văn học (2001) viết chung với
PGS Trương Dĩnh) và cuốn Văn học nhà trường – nhận diện, tiếp cận, đổi
mới (2007). Trong các công trình nghiên cứu trên, đáng chú ý nhất là công
trình Phương pháp dạy học văn. Công trình đã đi từ khái quát lí luận thực tiễn
đến phương pháp cụ thể, thiết thực trong đổi mới phương pháp dạy học văn.
Giáo sư cho rằng tác phẩm văn chương có mối liên hệ với bạn đọc và mối liên
hệ đó không những phù hợp với ý định sáng tác của tác giả mà còn thể hiện
sự nhận thức đúng đắn về con đường vận động khách quan của tác phẩm đến
cuộc sống. Cũng ở công trình này, tác giả dù không trực tiếp nêu ra phương
pháp dạy học tác phẩm theo thể loại, nhưng đã phần nào đề cập đến các đặc
trưng thi pháp với các PPDH cụ thể. Đối với cuốn Cảm thụ văn học, giảng
dạy văn học, tác giả đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu các yếu tố, các quy
luật tác động đến quá trình giảng dạy văn học và tiếp nhận văn học. Ở đây,
vai trò của người học được quan tâm, chú trọng, coi học sinh là chủ thể tiếp
nhận, từ đó đề ra các hướng phát huy năng lực của người học.
Các công trình của GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng như: Hiểu văn dạy
văn (2005), Phương pháp dạy học ngữ văn trong nhà trường phổ thông –
Những vấn đề cập nhật (2006) và Đọc hiểu tác phẩm văn chương trong nhà
trường (2008), Kĩ năng đọc hiểu văn bản (2011) đã đóng góp một phần không
nhỏ vào quá trình đổi mới PPDH. Trong Hiểu văn dạy văn, tác giả đã đề cập
trực tiếp đến việc tiếpnhận và cách lí giải, phân tích tác phẩm văn chương của
HS khi nêu ra các vấn đề cụ thể ở Phần II – Một số vấn đề phương pháp dạy
học văn, đề cao vai trò của phương pháp đọc văn trong dạy học: “Đọc văn là
một bộ phận cơ bản của một năng lực đọc nói chung, qua đó học sinh được
giáo dục để có thái độ sáng tạo đối với tác phẩm văn học” [22, tr.61]. Và với
việc bàn đến quá trình tiếp nhận văn học trong bối cảnh lí luận dạy học hiện
đại - đây là cơ sở để có thái độ tiếp nhận TPVC đúng đắn. Cuốn Phương pháp
dạy văn trong nhà trường phổ thông – Những vấn đề cập nhật đã khẳng định
"Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT
hiện nay phải đảm bảo nguyên vẹn đặc trưng bộ môn của môn học mang tính
khoa học nhân văn" [35, tr.19], như vậy, ở đây tác giả đã chỉ rõ, đề xuất các
phương pháp và giải pháp dạy học Ngữ văn THPT. Đến với Kĩ năng đọc hiểu
văn, tác giả nhấn mạnh đọc – hiểu là vấn đề cơ bản trong đổi mới nội dung và
PPDH Ngữ văn: "Đọc hiểu được thực hiện bởi năng lực và tố chất từng người
nhưng muốn đạt tới sự hiểu biết thỏa đáng đều cần phải học hỏi và thể nghiệm
lâu dài;... Ngày nay cần phải xem đọc hiểu là một bộ phận có ý nghĩa và tác
đụng đào tạo văn hóa đọc cho học sinh thông qua dạy học môn Ngữ văn" [27,
tr.50]. Cũng trong cuốn sách này, tác giả cũng đã đề cập đến việc dạy học đọc
hiểu tác phẩm văn chương theo loại thể khi đưa ra cơ sở lí luận, cơ sở thực
tiễn và mô hình hướng dẫn dạy học đọc hiểu văn bản theo thể loại, đồng thời
chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa đọc hiểu, loại thể và dạy học đọc hiểu theo
loại thể. Công trình này là tâm huyết của tác giả về một vấn đề không thể làm
ngơ và bỏ ngỏ với thời gian như đọc hiểu. Theo tác giả thì đây không phải là
vấn đề xưa cũ mà là vấn đề cũ chưa được nghiên cứu kĩ với những kết luận rõ
ràng trong khi nhà trường cần nó như một phương diện lí thuyết và kĩ năng để
đổi mới việc dạy học Ngữ văn.
Cùng với những công trình nghiên cứu về đổi mới PPDH nói trên, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành xuất bản các tài liệu liên quan đến quá trình
đổi mới chương trình - SGK Ngữ văn các lớp 10, 11, 12 nhằm cung cấp, trang
bị cho GV những kiến thức liên quan đến việc đổi mới PPDH, thiết kế giáo
án, đặc biệt là chú trọng vào hoạt động dạy học hiểu lấy HS làm trung tâm,
hình thành phương pháp tự học cho HS. Riêng Tài liệu bồi dưỡng giáo viên
thực hiện chương trình, SGK lớp 10 môn Ngữ văn đã đề ra nguyên tắc đổi
mới chương trình giáo dục, SGK phổ thông; quán triệt cụ thể về mục tiêu dạy
học bảo đảm tính khoa học và sư phạm, thể hiện tinh thần đổi mới PPDH,
đảm bảo tính thống nhất, đáp ứng nhu cầu phát triển của từng đối tượng HS.
Điểm đáng chú ý đó là cấu trúc chương trình Ngữ văn - nhất là phần văn học
đã coi trọng sự phát triển của thể loại: "Loại thể văn học đã được chú trọng và
có nhiều hình thức thể loại văn học được đưa vào chương trình phổ thông một
cách khá phong phú... Trên tinh thần coi trọng sự phát triển của loại thể trong
lịch sử phát triển văn học, các văn bản văn học được sắp xếp theo các cụm
loại thể" [3, tr.39].
Những công trình vừa đề cập ở trên là những công trình đặc sắc, tiêu
biểu trong công cuộc đổi mới PPDH văn nói chung và dạy học đọc hiểu tác
phẩm văn học nói riêng. Tiếp cận với các công trình trên, ta có thể thấy một
điều đó là hầu như công trình nào cũng có đề cập ít nhiều đến vấn đề thể loại
và việc vận dụng, khai thác thể loại tác phẩm trong quá trình dạy học Ngữ
văn. Nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, thực hiện đề tài liên quan trực tiếp
đến phương pháp dạy học đọc hiểu theo thể loại, chúng tôi đã đi sâu vào
nghiên cứu các công trình sau:
TS Hoàng Ngọc Hiến với các công trình Tập bài giảng nghiên cứu văn
học (1987); Nhập môn văn học và phân tích thể loại (2003) đã đưa ra một số
vấn đề có tính chất lí luận và đi sâu vào việc phân tích thể loại văn học. Trong
Tập bài giảng nghiên cứu văn học gồm 2 phần: Năm thể loại và Năm bài
giảng về phương pháp nghiên cứu văn học, tác giả đã trình bày đặc trưng cơ
bản của năm thể loại: kí, bi kịch, trường ca, anh hùng ca và tiểu thuyết, dựa
vào đó, GV có thể vận dụng vào công tác giảng dạy trên bình diện phân tích,
bám sát vào đặc trưng thể loại.
Đến năm 2001, TS Nguyễn Viết Chữ với chuyên luận Phương pháp
dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể đã đề ra: "Việc xác định loại thể
là vấn đề mấu chốt trong quá trình phát triển khoa học phương pháp dạy học
tác phẩm văn chương [8, tr.99]. Theo đó, tác giả cũng đã đề xuất các phương
pháp lớn trong dạy học văn; các con đường phân tích tác phẩm văn học; lí
thuyết tổ chức dạy học; phương thức để dạy học các thể loại tác phẩm tự sự,
trữ tình và văn học nước ngoài. Có thể coi đây là một trong những công trình
hữu ích, thiết thực, cung cấp cơ sở lí luận cũng như phương pháp dạy học,
nâng cao chất lượng giáo dục .
Năm 2009, TS Nguyễn Ái Học trong cuốn Phương pháp tư duy hệ
thống trong dạy học văn, bên cạnh cung cấp lí thuyết về phương pháp tư duy;
hướng dẫn thực hành phân tích, bình luận một số tác phẩm thuộc chương trình
phổ thông mới nhất... đã đề cập đến vấn đề vận dụng đặc trưng thể loại vào
phân tích tác phẩm khi đề xuất phương pháp xây dựng hệ thống tác phẩm. Ở
đây tác giả đã đi vào phân tích tác phẩm Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch) theo hướng khai thác đặc trưng loại thể: "Ở
bài thơ này, theo chúng tôi lựa chọn cách định hướng hệ thống theo loại hình,
loại thể gắn với phong cách tác giả là thích hợp nhất. Đó là việc phân tích bài
thơ dựa trên một số đặc điểm nổi bật của thi pháp thơ Đường;... Chỉ có dựa
trên đặc trưng thi pháp của thơ Đường cũng như đặc điểm phong cách thơ Lí
Bạch, học sinh mới có thể đọc - hiểu bài thơ đúng hướng, tâm hồn học sinh
mới có cơ sở thăng hoa cất cánh với vẻ đẹp độc đáo, toàn diện của thi phẩm
này" [21, tr.87].
Trên đây là một số công trình tiêu biểu về đổi mới PPDH văn và dạy
đọc - hiểu TPVH. Đi sâu vào vấn đề nghiên cứu giảng dạy văn học theo đặc
trưng thể loại, chúng tối tiến hành khảo sát các công trình sau:
Công trình sớm nhất đề cập trực tiếp đến việc dạy học TPVC theo đặc
trưng thể loại là cuốn Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể (1970) do Trần
Thanh Đạm (chủ biên) cùng nhóm tác giả Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai, Phạm
Sĩ Tuấn và Đảm Gia Cần thực hiện. Cuốn sách bước đầu đã chỉ ra mối liên hệ
mật thiết giữa thể loại và PPDH. Từ việc đi sâu vào các thể loại tự sự, trữ
tình, kịch, các tác giả đã chỉ ra những đặc điểm riêng của từng thể loại đồng
thời yêu cầu gắn với nó phải có một PPDH phù hợp. Công trình đã chỉ rõ:
"Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại thể và
người dạy cũng giảng dạy theo loại thể" [12, tr.30]. Đồng thời các tác giả
cũng đã nêu lên vai trò của thể loại và việc vận dụng thể loại vào việc giảng
dạy tác phẩm văn chương: "Loại thể văn học là một thành phần quan trọng
của hình thức nghệ thuật tác phẩm. Giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể
chính là một phương diện lớn của việc giảng dạy tác phẩm văn chương trong
sự thống nhất giữa hình thức với nội dung, một sự giảng dạy đi đúng với quy
luật và bản chất của văn học, đồng thời bảo đảm hiệu quả giáo dục cao nhất
[12, tr.44]. Tài liệu đã đóng góp một phần không nhỏ để GV dựa vào đó làm
nền tảng kiến thức cho quá trình học tập và giảng dạy.
Kế đến, năm 2001, các tác giả Nguyễn Duy Quát và Hoàng Hữu Bội
cho xuất bản cuốn Một số vấn đề dạy học văn trong nhà trường. Cuốn sách
tập hợp những bài viết của nhà nghiên cứu PPDH đã được công bố trong
khoảng những năm 1970 đến năm 2000. Các bài viết ở đây đã phân tích, chỉ
ra vai trò của việc dạy học văn trong nhà trường, trong đó nhấn mạnh yêu cầu
GV giảng dạy tác phẩm theo đặc trưng thể loại, tạo điều kiện phát huy tính
chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh qua các hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi
mở... Cuốn sách nêu nhiều ý kiến phong phú về dạy học văn, trong đó đáng
chú ý là ý kiến của Văn Tâm về “Một số suy nghĩ và biện pháp phát vấn đề
đảm bảo yêu cầu giảng văn theo đặc trưng thể loại văn học và phát huy tính
chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh trong học tập". Ở đây, tác giả cũng
nêu lên mối quan hệ giữa thể loại văn học và PPDH. Theo Văn Tâm, trong
dạy học văn, cần căn cứ vào thể loại và các yếu tố bên ngoài văn bản để thiết
kế hệ thống câu hỏi phù hợp, phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng
tạo của HS.
Trở lên là những công trình bàn về PPDH văn nói chung đã ít nhiều đề
cập đến vấn đề dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại. Ngoài những công
trình, tài liệu có tính lí luận về khoa học PPDH kể trên, các công trình nghiên
cứu về thơ Đường cũng như phương pháp giảng dạy phần văn học này đã
cung cấp cho GV và HS những kiến thức quan trọng trong quá trình dạy và
học. Hiện nay có một số tài liệu khá phổ biến trong việc nghiên cứu và giảng
dạy thơ Đường trong nhà trường như:
Cùng với việc dịch thuật, bình chú, hàng loạt các bài viết của các tác
giả Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy Thứ, Lê Đức Niệm trong Diện mạo thơ
Đường đã mang đến cho độc giả Việt Nam bức tranh toàn cảnh của thơ
Đường, giới thiệu những nét đẹp về nội dung lẫn nghệ thuật đặc sắc của các
bài thơ Đường.
Đến với Bình giảng thơ Đường (2003) của PGS.TS Nguyễn Thị Bích
Hải, bạn đọc sẽ tìm thấy một sự định hướng về phân tích và khám phá về thơ
Đường cũng như một số gợi ý trong cảm thụ, giảng dạy thể thơ này: "Vì đặc
trưng của thơ Đường là tạo lập các mối quan hệ nên người đọc thơ Đường
phải phát hiện các mối quan hệ ấy, mà để phát hiện phải dành nhiều thời gian
liên tưởng, tưởng tượng" [15, tr.22].
Đặc biệt trong Thi pháp thơ Đường (1995), tác giả Nguyễn Thị Bích
Hải không chỉ nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thi pháp của thể loại thơ Đường
như: quan niệm nghệ thuật về con người; không gian, thời gian, ngôn ngữ...
mà còn chỉ rõ cách "cảm", cách tiếp cận thể thơ này: " Người xưa đọc thơ
không phải chỉ bằng mắt. Mắt, tai... chỉ là cửa ngõ của sự tiếp xúc đầu tiên.
Còn thì phải "thẩm" thơ, tức là để người và thơ thấm vào nhau. Tác giả đã
"phổ" tâm hồn mình vào thơ thì thơ, đến lượt nó, lại khêu gợi lên nơi người
đọc một trạng thái tâm tình tương ứng" [14, tr.192].
Ngoài ra, nghiên cứu thơ Đường trong lịch sử phát triển của nó còn có
công trình của tác giả Nguyễn Khắc Phi với Thi pháp thơ Đường xuất bản
năm 1997 đã đưa ra những khái quát đặc trưng cơ bản của thơ Đường như:
thời gian, không gian; vấn đề đối ngẫu trong thơ Đường luật; đề tài; bút pháp
nghệ thuật... Nghiên cứu về tác giả có Lý Bạch tứ tuyệt của Phạm Hải Anh;
Thơ Đỗ Phủ của Trần Xuân Đề... Nghiên cứu về thể loại có Một số đặc trưng
cơ bản của thơ tứ tuyệt đời Đường của Nguyễn Sĩ Đại, Đến với Đường thi
tuyệt cú của PGS.TS Hồ Sĩ Hiệp...
Ứng dụng thành tựu của những công trình nghiên cứu về đặc trưng thể
loại thơ Đường để chúng tôi đưa vào vận dụng trong hoạt động giảng dạy các
tác phẩm thơ Đường trong trường THPT là hướng đi đúng đắn và phù hợp với
chương trình đổi mới PPDH.
Những bài viết mang tính chất tham khảo cho GV và HS làm tư liệu
trong quá trình học thơ Đường được thể hiện trong Thơ Đường ở trường phổ
thông (1995) của tác giả Hồ Sĩ Hiệp hay Phân tích bình giảng tác phẩm văn
học của Nguyễn Khắc Phi đã khám phá thơ Đường với những nét khái quát ở
phương diện ngôn từ, hình ảnh... Nhưng vì chỉ chú trọng vào phân tích, bình
giảng những giá trị về nội dung và nghệ thuật; đặc biệt chưa hướng đến nội
dung phương pháp giảng dạy ở trường phổ thông nên nó mang tính chất tài
liệu tham khảo hơn là hướng dẫn HS và GV cách tiếp cận thể thơ "khó nuốt"
này.
Một số luận văn thạc sĩ ở Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh của Phan
Thị Minh với đề tài Giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn
văn hóa và Dạy học thơ Đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực;
Chuyên luận giảng dạy thơ Đường trong trường phổ thông bằng cách tiếp
cận văn hóa của Đỗ Thị Hà Giang (chuyên viên sở GD - ĐT Bắc Giang) cũng
đã đề xuất những phương pháp để vận dụng vào quá trình dạy học thơ Đường
nhằm khơi gợi được niềm hứng thú của cả GV và HS nhưng chỉ giới hạn ở
một số định hướng và cách tiếp cận theo hướng tích cực và dưới góc nhìn văn
hóa chứ chưa đề cập đến vấn đề dạy học tác phẩm theo đặc trưng loại thể.
Điểm qua lịch sử nghiên cứu vấn đề như trên là chưa đầy đủ, nhất là
các công trình, bài báo trên các tạp chí. Nhìn chung, có thể thấy một điều
rằng, các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học văn ngày càng được
khai thác, chú trọng nhưng nghiên cứu về phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương theo đặc trưng thể loại vẫn đang còn sơ lược, hạn chế. Tuy nhiên,
những khía cạnh, vấn đề mà người đi trước đề cập đến sẽ là tài liệu quan
trọng, gợi ý thiết thực mang tính định hướng để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu
một cách có hệ thống và cụ thể hơn những biện pháp, cách thức dạy học nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học thơ Đường ở trường THPT theo đặc trưng thể loại
- vấn đề hầu như chưa được đề cập đến một cách cụ thể, chi tiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài ''Dạy học đọc - hiểu thơ Đƣờng theo đặc trƣng thể
loại", chúng tôi đề xuất hướng tiếp cận và kiểm chứng phương pháp dạy học
nhằm giải quyết một trong những vấn đề trọng tâm và phát huy năng lực sáng
tạo, chủ động của người học, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học, giúp HS
biết vận dụng, phân tích các bài thơ Đường nói riêng và các tác phẩm văn học
trong chương trình phổ thông nói chung dựa vào đặc trưng thể loại.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi tiến hành thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Về lí luận: Nghiên cứu lịch sử vấn đề và cơ sở lí luận của đề tài thông qua
việc phân tích, đánh giá, trình bày các tài liệu đã thu thập.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài thông qua việc điều
tra, khảo sát chương trình SGK Ngữ văn và thực trạng dạy học thơ Đường ở
trường THPT. Trên cơ sở đó, đề xuất các hướng tiếp cận, các biện pháp dạy
học thơ Đường theo đặc trưng thể loại nhằm tích cực hóa hoạt động nhận
thức, khả năng chủ động trong học tập của HS.
+ Thiết kế giáo án và thực nghiệm sư phạm theo những biện pháp đã đề
xuất thông qua việc tìm hiểu, phỏng vấn GV và HS.
+ Kiểm tra kết quả thực nghiệm và đánh giá hiệu quả của đề tài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là vấn đề tổ chức dạy học các bài thơ Đường ở
trường THPT theo đặc trưng thể loại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát hoạt động giảng dạy của giáo viên, năng lực tiếp cận của HS trong
các giờ dạy đọc hiểu thơ Đường ở trường THPT.
Nghiên cứu thể loại những bài thơ Đường trong SGK Ngữ văn THPT và
hướng vận dụng đặc trưng thể loại vào quá trình dạy học trong nhà trường
phổ thông.
Phân tích, đánh giá tình hình và đề xuất giải pháp phù hợp thông qua hoạt
động thực nghiệm đối với HS ở các khối lớp 10 trên địa bàn thuộc huyện Lệ
Thủy - Quảng Bình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp này dùng để tổng hợp các tài liệu, công trình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài. Trên cơ sở đó tiến hành phân tích, xử lí và rút ra cơ sở lí
luận làm tiền đề giải quyết các yêu cầu đặt ra của đề tài.
5.2. Phƣơng pháp điều tra, khảo sát
Khảo sát thực trạng dạy học các bài thơ Đường ở trường THPT thông qua
các phiếu điều tra, câu hỏi trực tiếp, phỏng vấn GV và HS để đề xuất hướng
giải quyết đúng đắn, nâng cao chất lượng dạy học thơ Đường.
5.3. Phƣơng pháp thống kê
Đây là phương pháp dùng để tổng hợp, xử lí số liệu điều tra, thực nghiệm,
phân tích và đánh giá kết quả thực nghiệm.
5.4. Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm
Sử dụng phương pháp này nhằm mục đích đánh giá, kiểm tra để xác định
tính hiệu quả, tính đúng đắn của đề tài khi đưa vào quá trình dạy học các bài
thơ Đường.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng hợp lí và hiệu quả những lí thuyết về dạy học thơ Đường
theo đặc trưng thể loại vào quá trình dạy học thì đề tài sẽ đóng góp một phần
quan trọng vào việc nâng cao chất lượng dạy học thơ Đường ở trường THPT,
đồng thời mở ra được một hướng tiếp cận mới trong công cuộc cải cách
phương pháp dạy học - đặc biệt là vấn đề dạy học theo đặc trưng thể loại.
7. Đóng góp của luận văn
* Về lí luận
Luận văn góp phần luận giải cơ sở lí luận, khẳng định tính khoa học của
việc dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại.Góp phần làm
phong phú thêm tài liệu tham khảo trong đổi mới phương pháp dạy học, đặc
biệt là dạy học đọc hiểu theo đặc trưng thể loại.
* Về thực tiễn
Bước đầu giúp GV và HS ý thức hơn về vai trò của việc vận dụng đặc
trưng thể loại vào dạy và học thơ Đường ở trường phổ thông.
Luận văn đề xuất, định hướng, cách thức tổ chức các phương pháp giảng
dạy phù hợp thông qua mô hình thiết kế giáo án dạy học các bài thơ Đường
theo đặc trưng thể loại trong chương trình Ngữ văn 10 THPT.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính
của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn cuả việc dạy học đọc hiểu thơ
Đường ở trường THPT theo đặc trưng thể loại
Chƣơng 2: Hướng dẫn học sinh đọc hiểu theo thơ Đường theo đặc trưng
thể loại
Chƣơng 3: Thực nghiệm sư phạm
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC ĐỌC - HIỂU
THƠ ĐƢỜNG Ở TRƢỜNG THPT THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1 Thể loại văn học và đặc trƣng thể loại văn học.
Tác phẩm văn học ra đời là kết quả của quá trình thai nghén, “sinh nở” của
nhà văn, nhà thơ, là sự thống nhất trọn vẹn của các yếu tố đề tài, tư tưởng
nhân vật, kết cấu, cốt truyện, lời văn. Nhưng sự thống nhất ấy lại được thực
hiện theo những quy luật nhất định, đó chính là thể loại. Đã có khá nhiều nhà
lí luận đưa ra khái niệm về thể loại. Vậy định nghĩa nào là đúng nhất, phù hợp
nhất để đưa vào nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm?
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên cũng đã đề cập đến thể loại:
“Hình thức sáng tác nghệ thuật phân chia theo phương thức phản ánh hiện
thực, vận dụng ngôn ngữ… văn học có nhiều thể loại: Tự sự, trữ tình, kịch”
[38, tr.917].
Nguyễn Như Ý trong Đại từ điển tiếng Việt lại cho rằng: “Thể loại là hình
thức sáng tác văn học nghệ thuật được đặc trưng bằng phương pháp phản ánh
hiện thực, vận dụng ngôn ngữ riêng khác” [56, tr.1555].
Ở trên là cách hiểu thông thường về nghĩa từ vựng của từ thể loại. Tuy
nhiên, nó sẽ là cơ sở để hiểu nghĩa thuật ngữ của khái niệm “thể loại” trong
chuyên ngành lí luận văn học.
Trong Lí luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên, thể loại được hiểu như
sau: “Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác
phẩm, trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức
nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể” [49, tr.220].
Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả do Lê Bá Hán chủ biên định
nghĩa: “Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành
và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể
hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của loại
hiện tượng đời sống được miêu tả và tính chất của mối quan hệ của nhà văn
đối với các loại hiện tượng đời sống ấy” [16].
Dù có sự khác nhau trong quan niệm về thể loại nhưng chung quy lại ta
thấy: Ở trong mỗi thể loại tác phẩm văn học, các loại đề tài, chủ đề, cảm
hứng, hình thức kết cấu, hình thức nhân vật luôn có sự thống nhất, quy định
lẫn nhau. Sự thống nhất nàu có được là các phương thức chiếm lĩnh đời sống,
quan điểm thẩm mĩ khác nhau của tác giả quy định nhằm tái hiện đời sống.
Do vậy, mỗi thể loại lại tạo ra một kênh giao tiếp riêng với bạn đọc (giao tiếp
thơ khác giao tiếp kịch, giao tiếp bằng tiểu thuyết khác với giao tiếp bằng các
thể loại kí…).
Thể loại tác phẩm văn học là một hiện tượng loại hình của sáng tác và giao
tiếp văn học, hình thành trên cơ sở sự lặp lại có quy luật của các yếu tố tác
phẩm. Thể loại tác phẩm được tác giả sử dụng khi sáng tác, hay để chuyển tải
một nội dung tư tưởng nào đó đến người tiếp nhận. Bởi thế, người đọc muốn
nắm bắt được tác phẩm trọn vẹn hơn, đầy đủ hơn thì không thể không quan
tâm đến các khía cạnh liên quan đến thể loại.
- Sự phân biệt "thể loại" và "loại thể":
+ Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê và nhóm tác giả coi "Loại thể như thể
loại" [38, tr.570].
+ Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý cũng cho là "Loại thể như thể
loại" [56, tr.1030].
Như vậy, theo sự phân biệt trên thì ta khó lòng có thể phân biệt rạch ròi hai
thuật ngữ “thể loại” và “loại thể”. Vì theo Lại Nguyên Ân thì tác phẩm văn
học theo một số dấu hiệu nhất định sẽ có sự giống nhau từng nhóm một, trong
đó nhóm lớn nhất là “loại” và mỗi loại có nhóm nhỏ hơn là “thể” (hoặc thể
loại, thể tài). Và theo Trần Đình Sử thì: “Bản thân thể loại có chức năng phân
loại. Khi nhà văn ghi tên thể loại khác và đánh dấu cái truyền thống mà anh ta
theo” [49, tr.190].
Dựa vào các quan niệm trên ta thấy ở cấp độ phân chia “loại” thì tác phẩm
văn học được chia thành ba loại lớn đó là: Trữ tình, tự sự và kịch. Trong mỗi
“loại” sẽ bao hàm các “thể”, đồng nghĩa với việc tác phẩm văn học nào cũng
thuộc một loại nhất định và có hình thức “thể” biểu hiện.
Như vậy, nếu muốn khám phá tác phẩm, đào sâu nghiên cứu những gì tác
phẩm ẩn chứa thì ta không thể nào bỏ qua khâu tìm hiểu về thể loại của tác
phẩm ấy. Một mặt là do tác phẩm được nhà văn xây dựng nếu không thuộc
thể loại này thì sẽ thuộc thể loại kia; mặt khác là chính đặc trưng của thể loại
của tác phẩm ấy mang lại cho ta phương thức tìm hiểu tác phẩm một cách dễ
dàng hơn. Hiểu và nắm bắt được quy luật tồn tại cũng như đặc điểm của thể
loại sẽ phầm nào giúp cho bạn đọc nói chung và HS THPT nói riêng cắt
nghĩa, lí giải tác phẩm hiệu quả hơn, sâu sắc hơn. Cách thức khai thác tác
phẩm như thế này tạo nên sự hứng thú trong học tập, đặc biệt là đối với thể
loại trữ tình như thơ Đường.
1.1.2 Thơ Đƣờng và những dấu hiệu đặc trƣng về thể loại
1.1.2.1 Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong thơ Đƣờng
Con người là trung tâm của văn học, là đối tượng chủ yếu mà các nhà văn,
nhà thơ khao khát hướng đến, nói như M.Gorki "Văn học là nhân học". Quan
niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng
khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả của người nghệ sĩ nói riêng và của
thời đại văn học nói chung. Giáo sư Trần Đình Sử đã khẳng định: "Quan niệm
nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh
giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện
trong tác phẩm của mình" [46, tr.15].
Thơ Đường xây dựng nên hai hình tượng con người: Con người vũ trụ và
Con người xã hội.
Quan niệm về con người vũ trụ là quan niệm cho rằng : Con người liên
quan mật thiết với trời đất, vũ trụ. Con người là một "tiểu vũ trụ" trong lòng
"đại vũ trụ". Đó cũng là quan niệm nghệ thuật trong thơ cổ và tồn tại mãi suốt
thời phong kiến thậm chí đến cả thời hiện đại. Con người đó xuất hiện trong
tư thế vũ trụ, đứng giữa trời đất, nối trời với đất, điểm nhìn nghệ thuật đứng
giữa trung tâm vũ trụ:
Trung tâm không gian thiên - địa (vũ)
Trung tâm thời gian tiền - hậu (trụ)
Con người đứng giữa giao điểm của không gian, thời gian mà lên tiếng.
Đó lá tiếng nói của một "tiểu vũ trụ" trong lòng thiên địa mênh mông giữa
dòng thời gian tiền hậu,vô thủy, vô chung. Con người bị giới hạn bởi không
gian hữu hạn vì thế con người trong chữ Hán khao khát tìm kiếm hôm qua và
vươn tới ngày mai.
Thơ Đường xây dựng con người theo mô hình ''pháp - thiên - địa''. Chính vì
vậy con người luôn có khát vọng hòa nhập với thiên nhiên, ở giữa trời đất,
cảm hứng với trời đất, tiếng nói hòa âm cùng vũ trụ. Con người hữu tâm, con
người tri âm là những hình tượng con người thường xuất hiện trong thơ
Đường. Những con người siêu cá thể giữa lòng thiên địa, càn khôn trong sự
hô ứng, tương giao hòa hợp với thiên nhiên, vũ trụ khiến cho khi bước vào thế
giới thơ Đường ta bước vào ''Thế giới của hòa điệu'' [14, tr.26]. Trong thơ
Đường có xuất hiện con người cá nhân nhưng chưa phổ biến. Con người cá
nhân ấy chủ yếu xuất hiện trong mối quan hệ một với tất cả.
“Thế giới hòa điệu” chỉ tồn tại trong mảng thơ sáng tác theo khuynh hướng
lãng mạn còn theo khuynh hướng hiện thực thì đó là con người xã hội, tức là
con người được nhìn nhận và đánh giá trong các mối quan hệ xã hội. Nếu như
con người vũ trụ được thể hiện trong quan hệ thống nhất, tương giao, hòa âm
thì con người xã hội chủ yếu là sự phản ánh trong quan hệ tương phản, đối
lập. Chính cách phản ánh này đã khiến cho thế giới nghệ thuật trong thơ sáng
tác theo khuynh hướng hiện thực là thế giới của sự bất bình.
Tuy có hai kiểu con người như vậy, nhưng do sự chi phối của mỹ học
truyền thống nên con người vũ trụ vẫn chiếm ưu thế và có vị trí quyết định
trong thi pháp thơ chữ Hán, làm cho thế giới nghệ thuật thơ Đường là thế giới
của sự hòa điệu.
1.1.2.2. Kết cấu và niêm luật
Thơ Đường tồn tại ở hai thể chính là Cổ thể và Cận thể (gồm luật thi và
tuyệt cú). Tương ứng với mỗi loại có những đặc trưng riêng về thi pháp.
a) Thơ cổ thể
Thơ Cổ thể gồm có hai dạng là Cổ phong và Nhạc phủ. Nhạc phủ là tên gọi
chung của nhiều loại khác nhau có nguồn gốc từ thơ nhạc phủ. Cổ phong là
thơ của thi nhân trước đời Đường thường là thơ 5 chữ hoặc 7 chữ.
Thơ Cổ thể, cả Cổ phong lẫn Nhạc phủ đều không có niêm luật nhất định,
không hạn định số câu trong bài và số chữ trong câu tương đối tự do, thường
là 5 chữ, 7 chữ nhưng cũng có khi câu dài câu ngắn không đều. Thể này
không quy định niêm luật và cũng không yêu cầu đối ngẫu.
Nhìn chung thể này dung lượng lớn hơn thơ cách luật. Thể cách không
nghiêm ngặt nên phù hợp phản ánh hiện thực cuộc sống và bộc lộ quan niệm
về con người sinh hoạt.
b) Thơ Cận thể
Thơ Cận thể có hai dạng thức chính : Luật thi và Tuyệt cú.
Luật thi gồm thất ngôn bát cú luật thi (gọi tắt là thất luật) và ngũ ngôn bát
cú luật thi (gọi tắt là ngũ luật). Tuyệt cú hay còn gọi là tứ tuyệt là thơ chỉ có 4
câu gồm Thất ngôn tuyệt cú và Ngũ ngôn tuyệt cú.
Niêm luật của Tuyệt cú tương ứng với luật với luật thi nên ở đây xét chung
là niêm luật của luật thi.
Luật thi buộc phải theo cấu trúc nhất định của thanh âm cũng như bố cục
tình ý: sự quy định này rất chặt chẽ. Một bài thơ phải đảm bảo các yêu cầu về
niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục. Cụ thể như sau:
+ Niêm: là nguyên tắc phối thanh theo chiều dọc làm các liên thơ với nhau.
Trong một bài có 4 liên, các liên thơ đi với nhau từng đôi một. Hệ thống niêm
căn cứ từ chữ thứ nhì của mỗi câu, bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc.
Nó yêu cầu câu 3 niêm câu 2, câu 5 niêm câu 4, câu 7 niêm câu 6, câu 8
niêm câu 1 tạo thành vòng tròn khép kín và cấu trúc nội tại bền chặt.
+ Luật: Là sự điều tiết âm thanh theo chiều ngang sao cho bằng trắc phù
hợp. Hệ thống này tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu từ này là bằng thì
gọi là ''Bằng khởi cách'', nếu từ này là trắc gọi là ''Trắc khởi cách''. Trong câu
các thanh bằng và trắc phải hòa hiệp cân xứng, luân phiên xen kẽ sao cho
''Đòn cân thanh điệu'' được cân bằng. Phải đảm bảo nguyên tắc ''Nhị, tứ, lục
phân minh'', chữ thứ tư làm tâm đối xứng của câu thơ, nếu thay đổi thì đòn
cân thanh điệu bị nghiêng lệch, phá vỡ sự hài hòa, cân bằng của thơ, ''Nhất,
tam, ngũ, luật bất luận'' để một khoảng tương đối thoải mái cho người làm
thơ. Riêng chữ thứ 7 đương nhiên phải đảm bảo thanh bằng nếu là chữ gieo
vần, còn không gieo vần thì phải là thanh trắc. Luật phối thanh đảm bảo bằng
trắc cân xứng, tức cân bằng âm dương, làm cho bài thơ có âm điệu hài hòa.
+ Vận: là một bài bát cú có năm vần (tuyệt cú có 2 hoặc 3 vần). Trong một
bài thơ có thể "trốn vần'' nhưng chỉ được phép trốn một lần ở câu đầu. Đã trốn
vần thì phải gieo theo nguyên tắc: Hai câu đầu phải đối nhau.
+ Đối: Đối cũng là một nguyên tắc bắt buộc của luật thi, nguyên tắc này
yêu cầu liên hai (câu 3 và 4) và liên 3 (câu 5 và 6) phải là hai ''đối liên'' - tức
là câu 4 đối câu 3 và câu 6 đối câu 5.
Đối phải đảm bảo đối về cả thanh (bằng đối với bằng, trắc đối với trắc), về
từ loại (từ loại nào đối với từ loại ấy) và cả về ý.
Trong một bài Luật thi cả 4 yêu cầu này phải đảm một cách nghiêm ngặt.
Tiết tấu (ngắt nhịp): Nhìn chung cách ngắt nhịp ở câu 7 chữ và 5 chữ đều
chẵn trước, lẻ sau (4/3 hoặc 2/2/3 nếu 7 chữ và 2/3 nếu 5 chữ). Cách ngắt nhịp
chẵn lẻ này cố định hầu như không có ngoại lệ khiến chẵn lẽ đan xen, âm
dương luân chuyển nhịp nhàng, hài hòa. Đó cũng là sự hô ứng tự nhiên với
nhịp điệu vũ trụ.
+ Bố cục: Về bố cục một bài luật thi trước nay có 2 quan niệm chính:
Chia làm 4 phần: Đề - thực - luận - kết.
Câu thứ hai ''thừa đề'' thừa tiếp ý mở đề chuyển vào thân bài.
Thực: (câu 3 và 4) có nhiệm vụ giải thích rõ ý của đầu bài.
Luận: (câu 5 và 6) phát triển rộng ý của đầu bài.
Kết: (hai câu cuối) kết thúc toàn bài.
Chia làm hai phần: tiền giải và hậu giải (đây là cách chia của Kim Thánh
Thán):
Tiền giải: 4 câu đầu
Hậu giải: 4 câu sau
Thực ra đây là cách chia của người đời sau, thi nhân không mấy quan tâm
đến việc chia tách bài thơ thành từng phần như vậy mà họ coi trọng cái ''nhất
khí'' sao cho bài thơ đảm bảo tình toàn vẹn chủ yếu theo sự vận hành đi từ
ngoại cảnh đến nội tâm nên một khi cảnh phát được tâm tình bài thơ kết thúc.
1.1.2.3. Ngôn ngữ và tứ thơ
a) Ngôn ngữ thơ Đường
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Mỗi thể loại có một đặc điểm riêng về
mặt ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ ca nói chung là mang tính hình tượng, gợi cảm
và hàm súc cao. Trong đó thơ Đường được coi là một trong những đỉnh cao
của ngôn ngữ thơ ca nhân loại.
Ngôn ngữ thơ Đường thường đơn giản nhưng rất tinh luyện, có khả năng
diễn đạt vô cùng tinh tế và phong phú. Đó là ngôn ngữ hàm súc, đa nghĩa,
ngôn ngữ đậm chất nhạc, chất họa. Tính hàm súc, đa nghĩa trong thơ Đường
trước hết là nhờ công phu tinh luyện của các nhà thơ làm sao với một mã tối
thiểu có thể đưa lại một lượng thông tin tối đa. Con chữ tinh luyện cao độ có
khả năng bao quát và chứa đựng nhiều ẩn ý, khơi gợi trường liên tưởng mạnh
mẽ. Các nhà thơ Đường chủ trương không nói hết ý mà ''ý tại ngôn ngoại'', ý
ngoài lời, ''Ngôn tận nhi, ý bất tận'' lời hết mà ý chưa hết, không trực tiếp nói
lên ý mình. Đó chính là cái diệu trong ngôn ngữ thơ Đường.
b) Tứ thơ
Thơ Đường xây dựng tứ thơ độc đáo, mới lạ. Người xưa có câu ''Học thơ
cổ là học tinh thần sáng tạo của các nhà thơ''. Đó chính là tinh thần sáng tạo tứ
thơ, hình ảnh thơ độc đáo, mới lạ. Dựa trên tư duy quan hệ, tứ thơ trong thơ
Đường tập trung làm nổi bật các mối quan hệ từ đó bật nổi những tư tưởng
độc đáo.
Các nhà thơ chú tâm khai thác các mối quan hệ tương đồng và đối lập giữa
các sự vật, các trạng thái tình cảm, khai thác các mối quan hệ xưa và nay,
mộng và thực, tiên và tục, vô cùng và hữu hạn, không gian và thời gian... Từ
tứ thơ độc đáo đó gửi gắm những nổi niềm, tâm sự của thi nhân.
1.1.2.4. Không - thời gian nghệ thuật trong thơ Đƣờng
''Không gian và thời gian nghệ thuật là hình tượng không gian và thời gian
được sáng tạo trong tác phẩm, là môi trường tồn tại của hình tượng con
người'' [14, tr.35]. Không gian và thời gian nghệ thuật cũng là yếu tố hữu cơ
của hệ thống thể loại.
Không gian và thời gian trong tác phẩm có mối quan hệ biện chứng với
nhau không thể chia tách. Ở mỗi loại tác phẩm có một kiểu không - thời gian
xác định.
a) Không gian nghệ thuật trong thơ Đường
Thơ Đường tập trung thể hiện hai loại không gian chính:
Không gian vũ trụ - môi trường tồn tại của con người vũ trụ và không gian
sinh hoạt - môi trường tồn tại của con người sinh hoạt. Tuy nhiên thơ Đường
chủ yếu xây dựng trên tư duy quan hệ, khai thác mối quan hệ hài hòa của con
người với thiên nhiên do vậy không gian vũ trụ là không gian chiếm ưu thế và
có ý nghĩa thi pháp trong thơ Đường.
Không gian trong thơ Đường chủ yếu không gian cao rộng, khoáng đạt, bộc
lộ tư tưởng ''đăng cao'' của con người vũ trụ với khát vọng chiếm lĩnh bề cao
của không gian và "viễn du'' để chiếm lĩnh bề rộng của không gian. Để diễn tả
cái cao rộng, khoáng đạt và tính giãn nở trong không gian thời Đường thường
thấy xuất hiện không gian: con đường, dòng sông, lầu cao, núi cao, sông dài,
trời rộng...
Không gian thơ Đường là không gian mang tính đối xứng với con người ở
vị trí trung tâm, khiến con người cảm thấy bé nhỏ, cô độc giữa vũ trụ vô hạn,
vô cùng.
Vì cảm giác bé nhỏ, cô độc ấy con người dấy lên khát vọng hòa nhập vào
vũ trụ, khát vọng chiếm lĩnh không gian. Do đó nên không gian luôn mang
tính mở, có xu hướng giản nở để đưa tâm hồn con người vượt không gian, có
mặt trong ''thiên địa chi du du''.
Ngoài tính chất cao rộng, khoáng đạt trong không gian, thơ Đường, đặc
biệt là thơ cách luật, chú tâm xây dựng khai thác sự tương đồng, đối lập trong
không gian: Quá khứ và hiện tại, ngày xưa và ngày nay, hiện tại và tương
lai... nhằm thể hiện sự biến thiên dâu bể, hoài vọng về thời gian và bộc lộ nỗi
niềm của thi nhân .
Thời gian sinh hoạt chủ yếu xuất hiện trong thơ cổ thể. Đó là thời gian
hiện tại của cuộc sống đời thường có thể cảm nhận một cách cụ thể trực cảm.
Tuy có tồn tại nhưng thời gian sinh hoạt không mang tính tiêu biểu cho thi
pháp thơ chữ Hán.
Như vậy, cũng giống không gian, thời gian vũ trụ có ý nghĩa thi pháp đối
với thơ Đường nhằm thể hiện quan niệm về con người vũ trụ.
1.1.3. Vấn đề dạy học đọc - hiểu trong quá trình dạy học văn
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng trong Kĩ năng đọc hiểu văn đã nhận định rằng:
“Muốn nâng cao trình độ văn hóa giáo dục cho thế hệ trẻ Việt Nam trong nền
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế để họ phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của đất nước trước ngưỡng cửa hiện đại hóa không có gì tốt hơn là
phải giáo dục họ biết tự học, học mọi lúc, mọi nơi….. Tự đọc sách là một
cách thức phổ biến của tự học để phát huy năng lực trí tuệ và lao động tinh
thần… Đọc văn góp phần giáo dục con người có văn hóa. Văn hóa đọc, đó là
đọc những tác phẩm hay và biết đọc theo những quy luật nội tại của nó” [26,
tr.7]. Thật vậy, để HS “phát huy hết năng lực trí tuệ và lao động tinh thần” thì
không thể nào tiếp tục con đường dạy học theo lối truyền thống với cơ chế
một chiều: Thầy đọc - Trò chép. Yêu cầu đặt ra ở đây là: hơn bao giờ hết cần
có sự thay đổi, điều chỉnh cách thức dạy học sao cho hợp lí, cần phải xác định
được thực chất của dạy văn là dạy cho HS phương pháp đọc hiểu (trong đó
HS đóng vai trò trung tâm của quá trình dạy học, GV là người dẫn dắt, gợi
mở, kích thích sự tò mò, sáng tạo của HS). Chương trình giáo dục và SGK
mới với cơ chế dạy học mới đang có sự chuyển dịch nhằm đáp ứng những yêu
cầu trên.
Đọc - hiểu là hoạt động đầu tiên và hữu hiệu nhất để HS tiếp xúc với tác
phẩm văn học cũng như các giá trị vốn có của nó một cách trực tiếp nhất mà
không phải thông qua bất kì một giai đoạn gián tiếp nào. HS bằng các thao
tác, biện pháp để có được sự hoạt động của trí tuệ, bắt đầu bằng sự tri giác
ngôn ngữ, hình tượng, thông qua tưởng tượng, liên tưởng để cảm nhận tác
phẩm. Vậy, vì sao nói “Đọc hiểu văn bản như là một khâu đột phá trong việc
đổi mới dạy học Ngữ văn và thi môn văn là yêu cầu bức thiết đối với việc đào
tạo nguồn nhân lực mới cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến” [46, tr.18].
Để làm rõ điều này, ta cần xem xét lại sự chuyển dịch trong quan niệm về đọc
- hiểu.
Về khái niệm “đọc - hiểu”, đã có khá nhiều tranh luận trong các hội nghị
thay SGK mới. Theo GS.TS Nguyễn Thanh Hùng: “Đọc hiểu là phạm trù
khoa học trong nghiên cứu và giảng dạy văn học. Bản thân nó là khái niệm có
quan hệ với năng lực đọc, hành động đọc, kĩ năng đọc để nắm vững ý nghĩa
của văn bản nghê thuật ngôn từ. Đọc chính xác thì hiểu đúng. Đọc kĩ, đọc
phân tích thì hiểu sâu. Đọc trải nghiệm thẩm mĩ thì hiểu được vẻ đẹp nhân
tình. Đọc sâu, đọc sáng tạo thì hiểu được cái mới” [26, tr.26]. Còn GS Phan
Trọng Luận cho rằng: “Phương thức đọc văn nhằm mục đích hiểu biết chính
xác và cặn kẽ tác phẩm văn chương, khám phá ở đó những giá trị văn chương
mới mẻ, lớn lao và hữu ích được gọi là đọc hiểu” [31]… Dù có nhiều cách
hiểu, cách định nghĩa khác nhau nhưng bản chất, mục đích của đọc hiểu chính
là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa của văn bản thông qua sự tiếp
nhận, lí giải của bạn đọc - học sinh. Mặt khác, tác phẩm văn chương là sản
phẩm của văn hóa tinh thần, muốn khám phá ý nghĩa của nó thì không thể
không vận dụng các loại tri thức.
Quá trình đọc hiểu tác phẩm văn chương của HS THPT được xác định bởi
ba yếu tố tác động qua lại với nhau: đầu tiên là bạn đọc HS với ngôn ngữ,
năng lực trí tuệ, kĩ năng đọc, học vấn đã được tích lũy, động cơ và hứng thú
học tập; tiếp đến là sự hình thành và sáng tạo tác phẩm của nhà văn; cuối
cùng là nội dung cuộc sống và chất liệu để viết tác phẩm. Dưới sự hướng dẫn
của GV, HS tự chiếm lĩnh tác phẩm thông qua hoạt động đọc hiểu. Trên tinh
thần biên soạn nội dung và giảng dạy theo hướng tích hợp giữa ba phân môn
Đọc văn, Tiếng việt và Làm văn thì Đọc văn góp phần thuận lợi nhất cho việc
dạy HS cách Làm văn và học Tiếng việt, thiết lập một hệ thống khoa học về
văn học sử, tri thức ngôn ngữ, văn hóa… trong một giờ học văn. Vì vậy, thiết
kế một giờ dạy học, GV cần vận dụng tối đa, linh hoạt các phương pháp dạy
học, không nên quá khuôn khổ, cứng nhắc làm hạn chế sự tìm tòi, tưởng
tượng của HS. Bởi theo TS Trần Hữu Phong thì cần “thiết kế theo tính chất
“mở”, dự kiến rất nhiều “khoảng trống” cho sự đối thoại, trao nhận và sẻ chia
giữa thầy giáo và học sinh” [42, tr.6].
1.1.4. Vấn đề dạy học đọc - hiểu văn bản văn học theo đặc trƣng thể loại
Tác phẩm văn học là một thế giới nghệ thuật được khái quát hóa và cụ thể
hóa sinh động cuộc sống con người, xã hội, thời đại bởi cá tính sáng tạo và
phá cách nghệ thuật riêng của tác giả thông qua hình tượng. Mỗi nhà văn, nhà
thơ khi bắt tay vào “xây dựng” tác phẩm đều lựa chọn cho mình một phương
thức thể hiện phù hợp với nội dung, tư tưởng sáng tác. Thể loại chính là
phương thức ấy - phương thức tồn tại của tác phẩm. Do đó, GV khi hướng
dẫn HS đọc hiểu tác phẩm thì cũng phải nắm vững kiến thức về thể loại và
bám sát vào đặc trưng của thể loại ấy để các em chiếm lĩnh tốt mọi khía cạnh
của tác phẩm. Bởi “Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người giảng dạy cũng
phải giảng dạy theo thể loại. Phương thức cấu tạo hình tượng mà tác giả đã sử
dụng khi sáng tác quy định phương thức cảm thụ hình tượng đó của người
đọc và từ đó cũng quy định phương thức giảng dạy của chúng ta” [12, tr.26].
Để hướng dẫn HS đọc hiểu tác phẩm văn chương theo loại thể ở trường
THPT, GV cần định hướng cho HS nhận thức được tác phẩm văn chương là
một thế giới hiện thực “ảo” được cảm nhận và diễn tả thông qua nhận thức,
đánh giá và sự đồng cảm thẩm mĩ của nhà văn. Và đặc biệt là trước khi hướng
dẫn HS đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại thì GV cần trang bị cho các
em bốn kĩ năng đọc hiểu cơ bản: kĩ năng đọc chính xác, kĩ năng đọc phân
tích, kĩ năng đọc sáng tạo, kĩ năng đọc tích lũy. Nếu trong quá trình học văn,
dưới sự định hướng của GV, ngoài việc tự phát hiện, tự phân tích, các em còn
tự rút ra những nhận xét, có sự so sánh, đối chiếu giữa tác phẩm này với tác
phẩm khác, thể loại này với thể loại khác thì đó coi như là một sự thành công
của một giờ đọc hiểu. Việc hướng dẫn HS đọc hiểu tác phẩm dựa vào đặc
trưng thể loại là một hướng đi đúng đắn. Nó không chỉ giúp các em nắm chắc,
hiểu sâu về tác phẩm đang được học mà còn tạo được một tâm lí thoải mái khi
tiếp nhận tác phẩm chứ không hề bỡ ngỡ, lúng túng như trước kia nữa. Đứng
trước một tác phẩm văn học bất kì, điều đầu tiên mà HS làm được ngay đó là
xác định: tác phẩm thuộc thể loại nào? Thể loại ấy có những đặc điểm nổi bật
gì? Nội dung của tác phẩm được thể hiện qua các phương tiện nghệ thuật đặc
trưng ra sao?... Trả lời được những câu hỏi ấy, tức là HS đã hiểu được cái
đích mà tác giả hướng đến trong quá trình sáng tác.
Theo GS. Nguyễn Thanh Hùng thì đọc hiểu tác phẩm văn chương theo đặc
trưng loại thể được trình bày theo chất liệu ngôn ngữ nghệ thuật tương ứng
với đọc hiểu từng cấu trúc ngôn từ. Ông cũng đã đưa ra các mô hình đọc hiểu,
trong đó, thể loại thơ trữ tình có mô hình như sau:
- Hướng dẫn HS nắm vững chất liệu ngôn ngữ nghệ thuật và ý nghĩa tầng
cấu trúc ngôn từ. Ngôn ngữ độc thoại về một trạng thái cảm xúc, tâm tình. Sự
kết hợp giữa nhịp điệu thơ và nhịp điệu tâm hồn.
- Hướng dẫn HS nắm vững sản phẩm nghệ thuật và ý nghĩa tầng cấu trúc
hình tượng nghệ thuật. Hình tượng cái tôi trữ tình biến hóa (nhập vai, cái tôi
hư cấu, phân vai, cái tôi phân đôi) trong dòng mạch cảm xúc. Hình tượng
nghệ thuật thống nhất với cái tôi trữ tình vầ phát triển trong không gian trải
nghiệm của cái tôi trữ tình. Phương thức trình bày nghệ thuật thường hướng
vào nội cảm, kí ức, lấy bản thân làm đối tượng phản ánh đời sống. Ngoài ra
cần lưu ý thêm độ nén ủ tâm tình, phát huy tận độ quyền lực của tình cảm, tìm
sự hòa điệu với người khác và con người khác của nhà thơ.
- Hướng dẫn HS nắm vững giá trị tư tưởng tác phẩm trong tầng cấu trúc tư
tưởng thẩm mĩ và ý vị nhân sinh. Nội dung của giá trị sản phẩm chính là chủ
đề tư tưởng và ý nghĩa nhận thức, đánh giá và thưởng thức tác phẩm gần gũi
giữa người đọc và nhà văn qua tác phẩm.
Nắm được đặc trưng cũng như vai trò, ý nghĩa của thể loại trong quá trình
dạy học là một yêu cầu thiết thực mà GV cần đáp ứng đầy đủ và kịp thời,
đồng thời phải có sự đầu tư mọi mặt từ nội dung đến phương thức giảng dạy
để đạt hiệu quả cao nhất.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khảo sát việc phân bố chƣơng trình - sách giáo khoa Ngữ Văn ở
trƣờng THPT và vị trí của các bài thơ Đƣờng.
- Mục đích khảo sát:
Đánh giá chương trình thơ Đường ở nhà trường THPT trên ba bình diện:
Số lượng, chất lượng và hình thức để thấy được sự đổi mới trong chương
trình SGK hiện nay làm định hướng cho đổi mới dạy học.
Hệ thống hóa chương trình dạy học đọc - hiểu thơ Đường, đặt trong
mối quan hệ với chương trình Ngữ văn nhằm đánh giá đúng vị trí thơ Đường
trong chương trình.
- Chương trình Ngữ văn THPT đã giới thiệu cho học sinh các thể loại
văn học mang đặc trưng của từng thời kì văn học, phù hợp với mục tiêu dạy
học theo nguyên tắc tích hợp, tạo thuận lợi cho quá trình dạy học.
- Tiềm năng tri thức về thể loại: Học sinh THPT đã được học một số
tác phẩm thơ Đường ở trường THCS, tập trung ở chương trình sách giáo khoa
lớp 7 như: Vọng Lư sơn bộc bố và Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch ; Mao ốc vị thu
phong sở phá ca của Đỗ Phủ; Hồi hương ngẫu hứng của Hạ Tri Chương;
Phong kiều dạ bạc của Trương Kế.
- Số lượng các tác phẩm văn học nước ngoài ở THPT được phân bố
hợp lí theo hướng kế thừa và phát triển chương trình văn học nước ngoài từ
THCS.
Bảng 1.1. Nội dung, thời lƣợng Văn học Nƣớc ngoài ở lớp 10
(Theo SGK cải cách áp dụng từ năm 2006 - 2007)
TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia Số tiết
1 Uy - lit - xơ trở về Sử thi - Hy Lạp 2
2 Ra ma buộc tội Sử thi - Ấn độ 2
3 Hoàng Hạc Lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng
Lí Bạch Trung
Quốc
1
4 Thu hứng Đỗ Phủ Trung
Quốc
1
5 Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu Trung
Quốc
1
6 Khuê oán Vương Xương Trung 1
Linh Quốc
7 Điều minh giản Vương Duy Trung
Quốc
1
8 Thơ Hai cư Ba shô Nhật Bản 1
9 Hồi trống cố thành La Quán Trung Trung
Quốc
2
10 Tào tháo uống rượu luận
anh hùng
La Quán Trung Trung
Quốc
1
- Nhận xét về sự phân bố các tác phẩm thơ Đường trong chương trình
sách giáo khoa THPT:
Qua bảng số liệu trên ta thấy, trong chương trình Ngữ văn THPT, về
nội dung số văn bản mới được đưa vào chương trình khá nhiều, đặc biệt là
những văn bản nhật dụng. Nhìn chung, thơ Đường chiếm một số lượng lớn cả
về dung lượng lẫn số lượng văn bản. Trong chương trình Ngữ văn THPT, thơ
Đường được sắp xếp vào chương trình phổ thông lớp 10, học kỳ I. Hai bài thơ
được đưa vào dạy chính trong chương trình đó là: Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh
Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lí Bạch (tiết 46) và Thu hứng của Đỗ Phủ
(tiết 47); ngoài ra còn có 3 bài đọc thêm: Hoàng Hạc Lâu (Thôi Hiệu), Khuê
oán (Vương Xương Linh), Điều minh giản (Vương Duy).
1.2.2. Thực trạng dạy học đọc - hiểu thơ Đƣờng ở trƣờng THPT hiện nay
1.2.2.1. Mục đích khảo sát
Trong điều kiện nghiên cứu cho phép, chúng tôi tiến hành khảo sát tình
hình dạy và học thơ Đường ở trường THPT để nắm bắt thực trạng giảng dạy
của GV cũng như sự hứng thú, năng lực tiếp thu của HS đối với mảng thơ
Đường.
Rút ra những điểm thuận lợi, khó khắn trong quá trình dạy và học thơ
Đường, từ đó lí giải nguyên nhân, tìm ra hướng khắc phục – đây có thể coi là
bước đầu để đi vào giải quyết vấn đề trọng tâm của đề tài.
1.2.2.2. Đối tƣợng và địa bàn khảo sát
Để nắm bắt được thực trạng dạy học thơ Đường ở trường THPT theo
đặc trưng thể loại, chúng tôi tiến hành khảo sát 30 giáo viên đang trực tiếp
giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại các trường THPT trên địa bàn huyện Lệ Thủy
– tỉnh Quảng Bình.
Để nắm bắt được tình hình học tập, khả năng tiếp nhận thơ Đường
của HS THPT, chúng tôi tiến hành khảo sát 320 học sinh (thuộc 8 lớp) của
trường THPT Lệ Thủy thuộc huyện Lệ Thủy,tỉnh Quảng Bình.
1.2.2.3. Cách thức và nội dung khảo sát
Chúng tôi nêu ra thực trạng dạy thông qua việc khảo sát việc tổ chức
dạy học của giáo viên và năng lực tiếp thu của học sinh lớp 10 thuộc trường
THPT ở huyện Lệ Thủy - Quảng Bình.
* Cách thức khảo sát:
- Khảo sát thông qua phiếu điều tra lấy ý kiến của giáo viên và học
sinh.
- Khảo sát thông qua việc trực tiếp dự giờ.
- Khảo sát thông qua kiểm tra, đánh giá học sinh.
* Nội dung khảo sát:
a, Phiếu điều tra
- Thực trạng dạy thơ Đƣờng của GV ở trƣờng THPT
+ Nội dung khảo sát (Phiếu điều tra - mục 2 phần mục lục).
Bảng 1.2. Thống kê thực trạng và mức độ vận dụng tri thức về
thể loại vào dạy học thơ Đƣờng của giáo viên
Câu
Các phƣơng án kiến
khác
A B c d
SL % SL % SL % SL % SL %
1 13 43,3 10 33,3 5 16,7 2 6,7
2 7 23,3 8 26,7 10 33,3 5 16.7
3 8 26,7 4 13,3 5 16,7 19 33,3 3 10
4 12 40 4 13,3 8 26,7 6 20
5 14 46,7 9 30 7 23,3
6 8 26,7 10 33,3 7 23,3 5 16,7
7 8 30 11 36,7 10 33,3
8 9 30 10 33,3 4 13,3 7 23,3
+ Đánh giá, nhận xét:
Những nhận định, đánh giá mà chúng tôi có thể rút ra qua bảng số liệu
thống kê trên đối với GV khi được hỏi về việc vận dụng tri thức thể loại vào
dạy học thơ Đường đó là:
Với tỉ lệ 43,3% GV đứng lớp cho rằng thơ Đường là một thể loại rất
khó dạy, đây là tỉ lệ rất lớn so với 16,7% (5 GV) cho là dễ dạy. Sự chênh lệch
lớn này có thể coi là điều dễ hiểu, xuất phát từ những đặc trưng của thể loại
thơ Đường như: ngôn ngữ, kết cấu, thời đại, tư tưởng thẩm mĩ. Bởi vì “khó
dạy” nên sự hứng thú trong các giào dạy thơ Đường trở nên “khan hiếm” với
tỉ lệ 23,3%. Phần lớn GV chỉ thực sự có hứng thú với một số bài được coi là
hay, là tâm đắc nhất (33,3%). Tâm lí cảm thấy “bình thường” khi giảng dạy
thơ Đường cũng chiếm tỉ lệ cao (26,7%), tức là GV lên lớp, dạy theo chương
trình SGK để hoàn thành tiêt học chứ không thực sự có cảm hứng, niềm đam
mê trong giảng dạy. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng của
một giờ dạy thơ Đường.
Căn cứ vào phiếu điều tra thì những khó khăn còn tồn tại trong quá
trình dạy thơ Đường đó là vấn đề về Thi pháp thơ (ngôn ngữ, kết cấu, niêm
luật) chiếm 33,3%. Đáng chú ý ở đây là không chỉ có những đặc điểm thuộc
về bản thân tác phẩm gây trở ngại cho GV mà còn có các nhân tố ảnh hưởng
khác, trong đó có sự thờ ơ, không hứng thú của HS (26,7%). Tiếp đến là
những yếu tố: thời đại, tư tưởng thẩm mĩ (13,3%). Sở dĩ các điển cố, điển tích
không phải là trở ngại lớn đối với GV là vì phần chú giải của SGK đã nêu ra
khá rõ ràng, chi tiết.
Về phương pháp đổi mới dạy học, kết quả khảo sát cho thấy: 26,7%
GV trả lời đã chú trọng đến đặc trưng thể loại, thông qua đặc trưng thể loại để
cắt nghĩa nội dung; 20% GV dùng phương pháp dạy học theo hướng tích hợp;
13,3% GV sử dụng phương pháp lí giải, cắt nghĩa các từ khó, điển cố, điển
tích; còn lại 40% GV vẫn sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống là
phân tích, bình giảng giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Nhìn chung,
các phương pháp dạy học trên không phải là không hiệu quả nhưng vô hình
chung sẽ khiến cho giờ học thơ Đường trở thành một giờ phân tích, bình
giảng của GV và nghe - chép của HS.
Khi được hỏi về mức độ quan tâm của GV đối với vấn đề định hướng
HS tiếp cận tác phẩm theo đặc trưng thể loại, phần lớn GV trả lời là rất quan
tâm với tỉ lệ là 46,7%, còn không quan tâm là 23,3%. Tuy nhiên, điều đáng
nói ở đây là, mặc dù ý thức được vai trò quan trọng của việc vận dụng đặc
trưng thể loại vào dạy học tác phẩm nhưng trong quá trình dạy học, GV chưa
thể nào bao quát hết các giá trị nghệ thuật, đặc trưng thể loại để hướng dẫn
HS tìm hiểu khi tỉ lệ của các yếu tố được khai thác trong tác phẩm có sự
chênh lệch: 26,7 % GV khai thác yếu tố kết cấu, niêm luật của tác phẩm;
33,3% GV khai thác yếu tố hình tượng nghệ thuật và 23,3% GV chú trọng vẻ
đẹp ngôn ngữ. Vẫn biết rằng một tiết học thơ Đường là 45 phút không thể nào
phân tích hết các khía cạnh đặc sắc của tác phẩm nhưng GV cần trang bị cho
mình các phương pháp, biện pháp hướng dẫn HS tiếp cận một cách trọn vẹn
chúng kể cả thao tác hướng dẫn tìm hiểu tác phẩm ở nhà.
Điều tra về cách thức tổ chức dạy học, xuất phát từ nguyên nhân do hạn
chế về vốn từ tiếng Hán cho nên tỉ lệ GV không hướng dẫn HS đối chiếu các
bản dịch thơ với nguyên tác hoặc có nhưng lại chỉ với một số bài chiếm 70%
trong khi chỉ có 30% GV tiến hành một cách thường xuyên. Đây là một điều
bất cập trong dạy học nhất là với thể loại thơ Đường. Với cách thức dạy học
này, sẽ tạo cho HS cách tiếp nhận hời hợt, chỉ học và soạn bài ở phần dịch thơ
chứ không quan tâm đến nguyên tác. Với câu hỏi “Thầy cô có thường xuyên
hướng dẫn HS so sánh, đối chiếu đặc trưng thể loại của thơ Đường với các thể
loại thơ khác trong chương trình không?” thì đa phần trả lời thường xuyên,
cần thiết (63,3%) vì cho rằng điều này sẽ một lần nữa khắc sâu tri thức về thể
loại cho HS, để các em có thể áp dụng vào phân tích, tìm hiểu các tác phẩm
khác trong chương trình, song vẫn còn 36,7% ý kiến không thường xuyên,
không chú trọng.
- Thực trạng học thơ Đƣờng của HS ở trƣờng THPT
+ Nội dung khảo sát (Phiếu điều tra – mục 2 phần phụ lục).
Bảng 1.3. Thống kê thực trạng học tập thơ Đƣờng của học sinh
trung học phổ thông
Câu
Các phƣơng án kiến
khác
A B C d
SL % SL % SL % SL % SL %
1 100 62,5 120 37,5
2 120 37,5 100 31,3 60 18,7 40 12,5
3 70 21,9 75 23,4 115 35,9 60 18,7
4 115 32,8 40 12,5 85 26,6 80 25 10 3,1
5 80 25 35 10,9 135 42,2 30 9,4 40 12,5
6 90 28,2 95 29,7 60 18,7 75 23,4
7 60 18,7 85 26,6 175 54,7
8 75 23,4 70 21,9 95 29,7 80 25
+ Đánh giá, nhận xét:
Từ số liệu ở bảng 1.3, chúng tôi thấy việc nhận thức của HS về việc
học thơ Đường có nhiều điều đáng quan tâm.
Với tỉ lệ 62,5% HS không cảm thấy hứng thú khi học thơ Đường , còn
lại 37,5% HS hứng thú. Sở dĩ có sự chênh lệch này bởi các em chưa nắm bắt
được đặc trưng của thể loại thơ Đường nên khi tiếp nhận cảm thấy “khó” tiếp
thu, không hứng thú. Nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng trên là phần lớn HS
chỉ thích học những thể loại thơ dễ học, dễ thuộc và gần với “thời đại” của
các em khi có tới 68,8% HS thích học các bài thuộc phonh trào Thơ mới, thơ
hiện đại mà thờ ơ với các bài thơ Đường, thơ chữ Hán. Nhận định này của HS
là có cơ sở, phải chăng đây chính là hậu quả của tâm lí dạy và học từ xưa đến
nay ở các trường phổ thông đối với thể loại thơ này.
Theo ý kiến của HS thì tỉ lệ GV thường xuyên cung cấp kiến thức về
thể loại cho các em là 21,9%; còn lại là 23,3% không cung cấp; 35,9% cung
cấp nhưng tùy từng bài; 18,7% có cung cấp nhưng không đầy đủ trong khi
đây là một việc làm rất cần thiết.
Mặc dù tỉ lệ không hứng thú với thơ Đường là khá cao song khi được
hỏi những yếu tố nào của tác phẩm làm em chú ý thì đa số các em đã biết
được những yếu tố quan trọng góp phần làm nên giá trị của thơ Đường như:
các điển cố, điển tích, bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ hàm súc, cô
đọng… Đây là điều đáng mừng cho GV trong qua trình giảng dạy khi các em
vẫn có sự chú ý đến những đặc trưng nổi bật về thể loại của thơ Đường.
Theo kết quả thống kê thì khó khăn mà các em gặp phải khi tiếp cận
thơ Đường là do: phần nguyên tác chữ Hán khó hiểu (25%); sự cách biệt về
thời đại (9,4%) và 10% là do hiểu các điển cố, điển tích chưa được rõ. Những
khó khăn trên chính là rào cản để các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp chứa
đựng trong những “mĩ từ”, ẩn ý của tác giả. Đặc biệt là với 42,2% HS cho
rằng, thơ Đường với hệ thống thi pháp, thể loại phong phú, đặc sắc nhưng khó
tiếp cận khiến các em gặp nhiều trở ngại khi thâm nhập tác phẩm, dần dần dẫn
tới tâm lí chán học, lười học và phụ thuộc vào các sách tham khảo khi soạn
bài hay làm bài kiểm tra.
Không chỉ GV mà ngay cả HS trong quá trình tiếp cận và học thơ
Đường, vấn đề dựa trên nguyên tác và đối chiếu với nguyên tác là một hoạt
động cần được sử dụng thường xuyên. Tuy nhiên vấn đề này ở đây còn nhiều
bất cập khi có 23,4% HS chỉ học tác phẩm dựa vào phần dịch thơ; 18,7% HS
tiến hành đối chiếu nguyên tác với bản dịch thơ ở một số bài. Điều này sẽ dẫn
tới sự lệch lạc trong quá trình tiếp cận tác phẩm của HS bởi nếu không xuất
phát từ nguyên tác và đối chiếu với nguyên tác, các em sẽ không thấy được
cái hay của nguyên tác và những thiếu sót trong dịch thơ để rút ra sự so sánh,
nhận xét của cá nhân.
Bởi vì nhận thức về mức độ cần thiết bám vào đặc trưng thể loại khi
học thơ Đường của HS là khá cao 45,3% cho nên khi hỏi về mục tiêu của việc
học thơ Đường theo đặc trưng thể loại, hầu hết HS đều đưa ra những mục tiêu
cụ thể đó là: nắm được đặc trưng thi pháp thơ Đường thông qua dùng nghệ
thuật để cắt nghĩa nội dung tác phẩm; biết vận dụng vào tìm hiểu, phân tích
những tác phẩm thuộc thể loại khác trong chương trình. Nhưng vẫn có một số
em vẫn còn chú trọng vào phân tích nội dung, tư tưởng mà bỏ qua việc nắm
được đặc trưng thể loại của nó.
b, Dự giờ giáo viên
Chúng tôi đã trực tiếp dự giờ dạy của một số GV để tìm hiểu thực trạng
dạy học đọc hiểu thơ Đường ở một số trường THPT:
+ Số lớp: 5 lớp
+ Số tiết: 10 tiết
+ Số GV được dự: 5 GV
+ Bài dự: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lí
Bạch).
Thông qua việc dự giờ đánh giá 1 số GV, chúng tôi nhận thấy:
trong quá trình lên lớp dạy học các tác phẩm thơ Đường ở trường THPT, hầu
hết các GV đã ý thức được hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy học,
từ đó tiến hành các cách thức dạy học theo chương trình đổi mới của Bộ GD
và ĐT. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực ấy vẫn còn tồn tại một số vấn đề
sau:
Đối với thể loại thơ Đường, GV vẫn giữ nguyên cách tiếp cận,
khai thác nội dung tác phẩm như các thể loại khác trong chương trình. Điều
này có lẽ cũng dễ hiểu vì thời lượng của một tiết học không đủ để GV áp
dụng tốt các phương pháp dạy học mới trong khi mảng thơ Đường chiếm một
số lượng tương đối lớn. Và cũng bởi vì tình trạng một GV Ngữ văn phải ôm
đồm cả văn học Việt Nam lẫn văn học các nước Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ;
từ văn học dân gian đến thơ ca hiện đại nên hệ quả mang lại là thiếu sự
chuyên môn hóa trầm trọng. Từ thực tế trên, việc GV chưa hướng dẫn HS vận
dụng đặc trưng thể loại vào phân tích tác phẩm nên các em có sự hoang mang
khi đứng trước một tác phẩm văn học với lí do đơn giản: không biết tác phẩm
thuộc thể loại nào? Đặc trưng của thể loại ấy ra sao? Dụng ý của tác giả là gì
khi sử dụng các biện pháp nghệ thuật?...
Phương pháp giảng dạy truyền thống “thầy đọc - trò chép”, “thầy
giảng - trò nghe” vẫn đang tồn tại phổ biến. Cứ như thế sẽ dẫn đến tình trạng
thụ động của HS, HS không chịu khó suy nghĩ, động não trước những câu hỏi
mà GV đưa ra, hoặc nếu có suy nghĩ thì chẳng qua là sự “sao chép” máy móc
từ tài liệu, sách tham khảo.
Hơn nữa, các câu hỏi mà GV đặt ra thường đã có đáp án trả lời sẵn
trong sách tham khảo, các câu hỏi gợi mở, dẫn dắt, nêu vấn đề chưa được sử
dụng nhiều, chủ yếu là sử dụng loại câu hỏi phát hiện, phân tích giản đơn.
Phương pháp dạy học hiện đại thông qua việc tổ chức cho HS hoạt
động nhóm đã được áp dụng nhưng chưa thực sự hiệu quả. Một số GV chưa
định hình được cách thức tổ chức cho các em tham gia thảo luận, dẫn đến tình
trạng một số em đứng ngoài cuộc, không đóng góp ý kiến. Bên cạnh đó, việc
bố trí thời gian của một tiết học thơ Đường để HS tham gia thảo luận nhóm
vẫn chưa hợp lí. Không nhất thiết là phải thảo luận tất cả các vấn đề của bài
học, nếu GV biết lựa chọn những tình huống có “vấn đề” để đưa ra thảo luận
thì kết quả đạt được sẽ tốt hơn.
Bởi vì vẫn giữ cách dạy truyền thống là “thầy giảng - trò chép”
nên việc trích giảng dựa trên bản dịch mà không có sự đối chiếu với nguyên
tác của GV đã dẫn đến lí giải sai lệch một số kiến thức. Từ sai lệch nội dung
đến sai lệch hình thức - nhất là với thể thơ Đường có hệ thống thi pháp khá
nổi bật, đặc sắc.
Bên cạnh đó, phần lớn GV chưa thực sự hiểu được vai trò của việc
dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại, GV thiên về phần giảng mà bỏ qua
phần định hướng HS tự tìm hiểu, tự khám phá tác phẩm, khiến cho HS hạn
chế việc bộc lộ cá tính sáng tạo riêng của mình, sự “đồng sáng tạo” với tác
giả, tác phẩm không được diễn ra. Mặc dù sự hứng thú của HS trong giờ học
thơ Đường là có nhưng quan trọng là cái gì của bài học sẽ đọng lại trong tư
duy nhận thức của các em?
Do đó, để có một giờ học thực sự đạt kết quả tốt thì GV cần biết
kết hợp các phương pháp giảng dạy, đặc biệt là chú trọng vận dụng tri thức
thể loại vào phân tích tác phẩm, biết điều chỉnh chương trình và giúp các em
HS trở thành chủ thể tiếp nhận trong các giờ dạy và học thơ Đường.
1.2.2.4. Nhận định và đánh giá thực trạng
* Thuận lợi:
Những bài thơ Đường được đưa vào giảng dạy trong chương trình
Ngữ văn THPT là những bài thơ nổi tiếng của các thi nhân thời Đường với
đặc điểm nổi bật là ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, dễ thuộc, giàu xúc cảm và dễ
đi sâu vào lòng người. Nội dung của các bài thơ Đường mang đậm tính nhân
văn, tình cảm chan chứa, sâu lắng đối với thiên nhiên, con người với những
hình ảnh bình dị rất đỗi quen thuộc với đặc trưng văn hóa của con người Việt
Nam. Chính điều này ít nhiều giúp các em HS cũng như GV cảm thấy yêu
thích, hứng thú khi tiếp cận thơ Đường. Bên cạnh đó, các bài thơ Đường được
giới thiệu trong SGK có đầy đủ các phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, phần
phụ chú giới thiệu về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để HS và GV đọc
và tham khảo trước khi lên lớp.
Phần lớn GV được đào tạo chuyên môn cao, số GV trẻ mới ra
trường được trang bị đầy đủ tất cả các phương pháp, kiến thức theo tinh thần
đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, đặc biệt là xu hướng dạy học tác
phẩm văn học theo đặc trưng thể loại. GV trong quá trình giảng dạy được bổ
trợ một lượng kiến thức lớn thông qua hệ thống tài liệu tham khảo: sách vở,
tạp chí, internet,.. thuận lợi cho GV nghiên cứu, tìm hiểu.
* Khó khăn, hạn chế:
Bên cạnh những mặt thuận lợi kể trên, chúng tôi nhận thấy, việc
dạy và học thơ Đường ở trường THPT cũng gặp không ít khó khăn:
+ Về phía giáo viên:
Dạy học thơ Đường luôn là một thử thách khó khăn đối với GV.
Nhiều GV còn chưa cảm nhận được hết những giá trị độc đáo, tinh tế của thơ
Đường. Điều này dẫn đến tình trạng một số bộ phận GV e dè, thậm chí là né
tránh dạy các bài thơ Đường trong các giờ thao giảng, giờ dạy mẫu.
Qua thực tế dự giờ các tiết dạy học thơ Đường của đồng nghiệp,
chúng tôi nhận thấy cách thức giảng văn theo lối truyền thống vẫn đang được
vận dụng ở những GV có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm - những người am
hiểu về văn học cổ, về các điển cố, điển tích, về chữ Hán, chữ Nôm. Nhưng
vô tình, cách giảng này sẽ dẫn đến hậu quả đó là không tạo ra sự hứng thú, sôi
nổi trong các giờ lên lớp, tạo nên một tiết học đều đều, chậm rãi mà không có
điểm nhấn để thu hút các em.
Bên cạnh phương pháp giảng văn truyền thống, một số GV sử
dụng hình thức cắt nghĩa nội dung và nghệ thuật của một bài thơ một cách
giản đơn, thuần túy. Điều này gây nên sự nhàm chán cho HS khi những giá trị
độc đáo của thơ Đường chưa được khai mở những điều tự thân nó vốn có.
Dạy học thơ Đường về căn bản là dựa vào bản dịch nên ít nhiều
các giá trị của nó không được thể hiện hết qua bản dịch. Các GV trẻ mặc dù
có tư duy nhạy bén, năng lực cảm thụ tốt nhưng việc chiếm lĩnh nhưng giá trị
độc đáo của thơ Đường còn hạn chế bởi vốn chữ Hán còn hạn hẹp.
Một số GV có ý kiến về thời lượng cho một tiết học thơ Đường chỉ
45 phút là quá ít, không đủ để phân tích trọn vẹn cả nội dung lẫn hình thức,
nhiều khi họ bỏ qua phần hình thức, nghệ thuật. Đối với các tác phẩm Hoàng
Hạc lâu (Thôi Hiệu), Khuê oán (Vương Xương Linh), Điều minh giản
(Vương Duy) dù là các bài đọc thêm nhưng mỗi bài thơ là kết tinh trong nó
những vẻ đẹp riêng, tiêu biểu cho thi pháp thơ Đường nhưng nhiều GV cho
biết họ không có thì giờ dành để hướng dẫn HS tìm hiểu bởi thời gian eo hẹp
được dành cho các bài chính khóa và bởi các bài đọc thêm không nằm trong
nội dung thi cử.
+ Về phía học sinh:
Thơ Đường với nội dung hàm súc, cô đọng, nhiều điển cố, điển
tích, từ ngữ cổ, hệ thống thi pháp với niêm luật chặt chẽ, nghiêm ngặt nên
khiến HS cảm thấy “khó”, trong quá trình tiếp cận.
Thơ Đường được đưa vào chương trình giảng dạy với các bản
phiên âm, dịch nghĩa nhiều khi chưa sát, một từ có thể có hai đến ba cách
hiểu, điều này làm cho HS trong qua trình nhận thức bị “rối”, dẫn đến sự giải
thích sai lệch của nhiều HS khi cùng đứng trước một vấn đề.
Trong chương trình SGK không có bài khái quát về thơ Đường
nên khi bắt đầu tiếp cận tác phẩm trong một thời gian tương đối ngắn sẽ làm
các em bỡ ngỡ, chưa trang bị sẵn những kiến thức cần thiết để bước vào bài
học. Tình trạng thờ ơ, thụ động, ít phát biểu ý kiến xây dựng bài, thậm chí có
những chỗ chưa hiểu nhưng các em lại không thắc mắc, không yêu cầu GV
phải giải thích nên giờ học vì thế mà trở nên đơn điệu, tẻ nhạt.
Nhịp sống hiện đại với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, công
nghệ thông tin đã thu hút sự quan tâm của thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà
trường, phần nào khiến các em ít hứng thú với các bài thơ cổ “khó hiểu”, cách
xa thời đại mà các em sống. Đó là chưa kể đến khuynh hướng ngày càng có
nhiều HS chạy theo các môn học khối tự nhiên mà coi nhẹ môn Văn cũng như
các môn thuộc khối xã hội vì theo các em phần văn học nước ngoài ở lớp 10,
11 không nằm trong phần ôn tập để phục vụ việc thi cử trong các kì thi quan
trọng.
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

Mais procurados (20)

Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
 
Tài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ văn
Tài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ vănTài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ văn
Tài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ văn
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt NamLuận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
 
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đLuận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
 
Luận án: Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam (1986-2010)
Luận án: Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam (1986-2010)Luận án: Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam (1986-2010)
Luận án: Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam (1986-2010)
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
 
Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...
Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...
Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
 

Semelhante a Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY

Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông.pdf
Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông.pdfThể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông.pdf
Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông.pdf
Man_Ebook
 
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdfchuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
LuckyStar21
 

Semelhante a Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY (20)

Luận văn: Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào các đoạn trích Tru...
Luận văn: Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào các đoạn trích Tru...Luận văn: Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào các đoạn trích Tru...
Luận văn: Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào các đoạn trích Tru...
 
Tích hợp rèn kỹ năng sống cho học sinh trong dạy học thơ trữ tình hiện đại vi...
Tích hợp rèn kỹ năng sống cho học sinh trong dạy học thơ trữ tình hiện đại vi...Tích hợp rèn kỹ năng sống cho học sinh trong dạy học thơ trữ tình hiện đại vi...
Tích hợp rèn kỹ năng sống cho học sinh trong dạy học thơ trữ tình hiện đại vi...
 
Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Chương Trình Địa Phương Ngữ Văn
Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Chương Trình Địa Phương Ngữ Văn Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Chương Trình Địa Phương Ngữ Văn
Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Chương Trình Địa Phương Ngữ Văn
 
TỔ CHỨC DẠY BÀI ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN CHO HỌC SINH LỚP ...
TỔ CHỨC DẠY BÀI ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN CHO HỌC SINH LỚP ...TỔ CHỨC DẠY BÀI ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN CHO HỌC SINH LỚP ...
TỔ CHỨC DẠY BÀI ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN CHO HỌC SINH LỚP ...
 
Skkn phương pháp giúp học sinh lớp 9 viết tốt bài tập làm văn
Skkn phương pháp giúp học sinh lớp 9 viết tốt bài tập làm vănSkkn phương pháp giúp học sinh lớp 9 viết tốt bài tập làm văn
Skkn phương pháp giúp học sinh lớp 9 viết tốt bài tập làm văn
 
SKKN Phương pháp giúp học sinh lớp 9 viết tốt bài tập làm văn
SKKN Phương pháp giúp học sinh lớp 9 viết tốt bài tập làm văn SKKN Phương pháp giúp học sinh lớp 9 viết tốt bài tập làm văn
SKKN Phương pháp giúp học sinh lớp 9 viết tốt bài tập làm văn
 
Đề tài: Dạy học phát huy năng lực người học thông qua hoạt động trải nghiệm
Đề tài: Dạy học phát huy năng lực người học thông qua hoạt động trải nghiệmĐề tài: Dạy học phát huy năng lực người học thông qua hoạt động trải nghiệm
Đề tài: Dạy học phát huy năng lực người học thông qua hoạt động trải nghiệm
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
 
Luận văn: Dạy học các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại...
Luận văn: Dạy học các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại...Luận văn: Dạy học các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại...
Luận văn: Dạy học các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại...
 
Tích hợp kiến thức văn hoá vùng miền để phát triển năng lực cho học sinh tron...
Tích hợp kiến thức văn hoá vùng miền để phát triển năng lực cho học sinh tron...Tích hợp kiến thức văn hoá vùng miền để phát triển năng lực cho học sinh tron...
Tích hợp kiến thức văn hoá vùng miền để phát triển năng lực cho học sinh tron...
 
Khoá Luận Dạy Học Truyện Ngắn Vợ Nhặt Của Kim Lân (Ngữ Văn 12, Tập 2) Theo Hư...
Khoá Luận Dạy Học Truyện Ngắn Vợ Nhặt Của Kim Lân (Ngữ Văn 12, Tập 2) Theo Hư...Khoá Luận Dạy Học Truyện Ngắn Vợ Nhặt Của Kim Lân (Ngữ Văn 12, Tập 2) Theo Hư...
Khoá Luận Dạy Học Truyện Ngắn Vợ Nhặt Của Kim Lân (Ngữ Văn 12, Tập 2) Theo Hư...
 
Khoá Luận Phát Triển Năng Lực Đọc - Hiểu Cho Học Sinh Thpt
Khoá Luận Phát Triển Năng Lực Đọc - Hiểu Cho Học Sinh ThptKhoá Luận Phát Triển Năng Lực Đọc - Hiểu Cho Học Sinh Thpt
Khoá Luận Phát Triển Năng Lực Đọc - Hiểu Cho Học Sinh Thpt
 
Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ
Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữPhân tích tác phẩm văn học trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ
Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ
 
Phân Tích Tác Phẩm Văn Học Trong Nhà Trường Từ Góc Độ Ngôn Ngữ
Phân Tích Tác Phẩm Văn Học Trong Nhà Trường Từ Góc Độ Ngôn Ngữ Phân Tích Tác Phẩm Văn Học Trong Nhà Trường Từ Góc Độ Ngôn Ngữ
Phân Tích Tác Phẩm Văn Học Trong Nhà Trường Từ Góc Độ Ngôn Ngữ
 
Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy học hiểu học đọc hiểu văn bản “ C...
Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy học hiểu học đọc hiểu văn bản “ C...Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy học hiểu học đọc hiểu văn bản “ C...
Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy học hiểu học đọc hiểu văn bản “ C...
 
Dạy học các trích đoạn truyện kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học s...
Dạy học các trích đoạn truyện kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học s...Dạy học các trích đoạn truyện kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học s...
Dạy học các trích đoạn truyện kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học s...
 
Khoá Luận Hoạt Động Ngoại Khóa Văn Học Ở Trường Trung Học Phổ Thông
Khoá Luận Hoạt Động Ngoại Khóa Văn Học Ở Trường Trung Học Phổ ThôngKhoá Luận Hoạt Động Ngoại Khóa Văn Học Ở Trường Trung Học Phổ Thông
Khoá Luận Hoạt Động Ngoại Khóa Văn Học Ở Trường Trung Học Phổ Thông
 
Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông.pdf
Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông.pdfThể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông.pdf
Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông.pdf
 
Đề tài: Tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại
Đề tài: Tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đạiĐề tài: Tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại
Đề tài: Tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại
 
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdfchuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
 

Mais de Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Mais de Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Último

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Kabala
 

Último (20)

ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHAN THỊ HIỀN DẠY HỌC ĐỌC HIỂU THƠ ĐƢỜNG Ở TRƢỜNG THPT THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN HỮU PHONG Huế, Năm 2017
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa được công bố trong bất kì một công trình nghiên cứu nào khác. Huế, tháng 9 năm 2017 Tác giả luận văn Phan Thị Hiền
  • 3. Lời cảm ơn! Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Đào tạo sau Đại học, Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn- Trường Đại học sư phạm Huế, Ban giám đốc Sở Giáo dục & Đào tạo Quảng Bình, Ban giám hiệu trường THPT Nguyễn Chí Thanh và trường THPT Lệ Thủy đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, thực hiện luận văn tốt nghiệp. Xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy, Cô đã giảng dạy, giúp đỡ, dìu dắt tôi trong suốt khóa học vừa qua. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính phục và biết ơn sâu sắc đấn Thầy giáo, Tiến sĩ Trần Hữu Phong - người đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này. Cuối cùng, xin được bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc đối với các đồng nghiệp ở trường THPT Nguyễn Chí Thanh và trường THPT Lệ Thủy, các anh chị học viên Cao học khóa 24 cùng tất cả bạn bẻ và người thân đã luôn sát cánh động viên, nâng đỡ tôi về mọi mặt trong thời gian qua. Xin trân trọng cảm ơn!. Huế, tháng 9 năm 2017 Tác giả luận văn Phan Thị Hiền
  • 4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Viết tắt Viết đầy đủ ĐC : Đối chứng GV : Giáo viên HS : Học sinh GS : Giáo sư GS.TS : Giáo sư, tiến sĩ TS : Tiến sĩ SGK : Sách giáo khoa PGS.TS : Phó giáo sư, tiến sĩ PPDH : Phương pháp dạy học TPVH : Tác phẩm văn học THPT : Trung học phổ thông THCS : Trung học cơ sở TN : Thực nghiệm
  • 5. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Thơ Đường là đỉnh cao của thi ca nhân loại nói chung và của văn học Trung Hoa nói riêng. Thơ Đường không chỉ phong phú về đề tài, số lượng mà còn đạt đến trình độ rất cao về nghệ thuật với hình tượng thơ hàm súc, ngôn ngữ thơ tinh tế và hình thức biến hóa linh hoạt... Trải qua hơn một nghìn năm tồn tại, thơ Đường vẫn giữ nguyên sức lay động sâu xa, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng của những người quan tâm và yêu nghệ thuật thơ ca. Will Durant trong Lịch sử văn minh Trung Hoa đã nhận xét về thể loại này như sau: "Nó không ưa tỉ dụ, so sánh, nói bóng bẩy mà chỉ gợi cho ta về đề tài thôi. Nó tránh sự phóng đại, những cảm xúc nồng nàn; người nào có óc già dặn cũng thích giọng kín đáo của nó, thích những ý tại ngôn ngoại của nó..." [11, tr.12] . Những vần thơ Đường bao giờ cũng gợi một chân trời kì diệu đầy lôi cuốn như những suối nguồn không khi nào vơi cạn mời gọi sự thích thú của bạn đọc. Do đó, cảm nhận được cái đẹp, cái hay của thơ Đường đã khó và việc chuyển tải, truyền thụ cái đẹp, cái hay đó đến người khác lại còn khó hơn. Vì sao lại có tình trạng " khó" truyền thụ, "khó" tiếp thu như vậy? Phải chăng là do chưa tìm được phương pháp phù hợp và hiệu quả? 1.2. Với đà phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra ở nước ta, vấn đề chất lượng nguồn lực con người được đưa lên vị trí hàng đầu. Bởi con người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của lịch sử, xã hội. Nói đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không thể không kể đến giáo dục vì đây là chìa khóa, là nền tảng làm cho xã hội ngày càng văn minh và phát triển. Do đó, đổi mới giáo dục là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với toàn xã hội, góp phần đáp ứng nhu cầu thiết yếu của thời đại. Hòa chung xu thế đổi mới giáo dục của thế giới, Việt Nam đã có những chiến lược cải cách và đổi mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Từ năm 2000, Đảng và nhà nước ta đã quan tâm chỉ đạo: tập trung mọi nguồn lực nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện đổi mới dạy học theo hướng tích cực hóa vai trò của người học, tạo điều kiện để học sinh, sinh viên phát huy tích cực, tự giác, sáng tạo trong học tập, chủ động tiếp cận tri thức, hình thành kĩ năng thực hành. Cuộc đổi mới phương pháp dạy học chủ yếu theo quan điểm "lấy học sinh làm trung tâm", phát huy vai trò chủ động, tích cực, độc lập sáng tạo ở người học nhằm đào tạo những con người có tri thức, đạo đức,
  • 6. bản lĩnh và khả năng thực hành tri thức. Chiến lược cải cách giáo dục ở trường Trung học phổ thông (THTP) đã áp dụng trên tất cả các môn học trong đó có môn Ngữ văn - môn học có vị trí quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục Việt Nam: bồi dưỡng cho các em những phẩm chất, tình cảm, thái độ ứng xử tốt đẹp trong xã hội, hình thành năng lực cảm thụ những giá trị thẩm mĩ của nhân loại. Đổi mới dạy học trong nhà trường phổ thông được coi là chiến lược phát triển giáo dục nước ta hiện nay, trong đó có môn Ngữ văn. Bởi theo lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng thì: “Chúng ta phải xem lại cách giảng văn trong nhà trường của chúng ta, không nên dạy như cũ bởi vì dạy như cũ thì không những việc dạy văn không hay mà vấn đề đào tạo con người không có kết quả. Vì vậy, chúng ta phải dứt khoát có cách dạy khác, dạy cho học sinh phải suy nghĩ bằng trí óc của mình và diễn tả suy nghĩ của mình như thế nào cho tốt". Do đó, đổi mới dạy học Ngữ văn cần phải lưu tâm đến việc thiết kế chương trình môn Ngữ văn hiện nay. Chương trình giáo dục hiện nay đã nhấn mạnh đến cả ba phương diện về tri thức khoa học xã hội và nhân văn, về kĩ năng và về giáo dục tình cảm thẩm mĩ; tiếp tục thực hiện nguyên tắc tích hợp gắn kết Đọc văn với Tiếng Việt và Làm văn. Điều đặc biệt đó là cấu trúc chương trình Ngữ văn nhất là phần văn học đã coi trọng sự phát triển của thể loại khi đưa vào chương trình dạy học một cách đa dạng nhiều hình thức thể loại. Trên tinh thần coi trọng sự phát triển của thể loại trong lịch sử văn học, các văn bản văn học được sắp xếp theo các cụm thể loại. Vậy nên, dạy học tác phẩm văn chương không thể không quan tâm đến đặc trưng thể loại. 1.3. Thực tiễn dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT hiện nay còn khá nhiều vấn đề chưa theo kịp với yêu cầu của giáo dục hiện đại cũng như đòi hỏi của cuộc sống. Và việc dạy học đọc - hiểu thơ Đường ở trường THPT không nằm ngoài quỹ đạo đó. Một thực trạng phổ biến đó là học sinh (HS) "chán học" môn văn, học đối phó, không vận dụng những hiểu biết, suy nghĩ của mình để làm một bài văn mà quá phụ thuộc vào tài liệu tham khảo, vào các bài văn mẫu. Những điều này đã làm giảm chức năng giáo dục, nhận thức của văn học, đặc biệt là giáo dục về tình cảm, đạo đức, nhân cách cho thế hệ trẻ. Mặt khác, sự phát triển, bùng nổ của công nghệ thông tin với nhiều hình thức giải trí hấp dẫn đã tác động không nhỏ đến việc nhận thức những giá trị thẩm mỹ trong sách vở của HS. Các em thờ ơ, bỏ qua các tác phẩm văn học nước ngoài, huống gì là thể thơ cổ cách xa thế hệ các em hàng nghìn năm khi: ''Các cụ xưa đã sống trong cuộc đời giản dị, êm đềm, sinh hoạt dễ dàng, tiếp xúc ít
  • 7. ỏi, nên tâm hồn các cụ cũng đơn sơ, nghèo nàn, phẳng lặng, khô khan như cuộc đời các cụ, gia dĩ văn hóa tàu tràn sang đưa đến cho ta những kỉ luật nghiêm khắc, hẹp hòi của Khổng giáo. Các cụ ta chỉ thích các bóng trăng vàng rọi ở trên mặt nước, ta lại thích cái ánh mặt trời buổi sáng lấp lánh, vui vẻ ở đầu ngọn tre'' [44, tr.20]. Không chỉ HS mà một bộ phận giáo viên (GV) trong quá trình dạy học vẫn còn vướng mắc, lúng túng trong việc lựa chọn, sử dụng phương pháp dạy học sao cho có hiệu quả. Đa số giáo viên đã có ý thức trong đổi mới phương pháp dạy học theo các hướng lấy HS làm trung tâm của giờ học; dạy văn theo hướng tích hợp, vận dụng đặc trưng thể loại vào giảng dạy. Thế nhưng hiện tượng GV khi dạy chỉ chú trọng vào việc giảng giải nội dung; phân tích cắt nghĩa các từ khó, từ "đắt" vẫn đang diễn ra phổ biến. Thậm chí là đối với các tác phẩm thơ ca, nhất là thể thơ Đường được coi là quy cũ, nghiêm ngặt, GV vẫn chỉ dùng phương pháp truyền thống là bình giảng, "diễn nôm". Trong khi đây là thể loại có hệ thống thi pháp nổi bật, đặc sắc, phải nắm và vận dụng cái đẹp, cái hay của thể loại ấy vào bài học mới truyền tải hết giá trị của thơ Đường đến HS. Để góp phần khắc phục những hạn chế trên và đóng góp vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn nói chung và dạy học đọc - hiểu tác phẩm văn học nói riêng, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu ''Dạy học đọc - hiểu thơ Đƣờng theo đặc trƣng thể loại". Dẫu biết rằng không có phương pháp nào là vạn năng nhưng chúng tôi hi vọng hướng nghiên cứu dạy học thơ Đường theo đặc trưng thể loại với những ưu điểm của nó sẽ là một hướng chiến lược mới, mang lại hiệu quả trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT hiện nay. 2. Lịch sử vấn đề Việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) môn Ngữ văn đã và đang được các nhà nghiên cứu hàng đầu quan tâm không chỉ trong nước mà còn ở ngoài nước, trong đó có vấn đề dạy học tác phẩm văn chương (TPVC) theo đặc trưng thể loại. Để thực hiện đề tài ''Dạy học đọc - hiểu thơ Đƣờng theo đặc trƣng thể loại", chúng tôi tập trung khai thác, tiếp thu các thành tựu nghiên cứu sau: * Ở nƣớc ngoài
  • 8. Trên thế giới, có rất nhiều công trình nghiên cứu về PPDH văn trong nhà trường phổ thông với đóng góp to lớn trong việc tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở Việt Nam. Tuy nhiên việc dịch thuật các công trình ấy ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Tài liệu được nhắc đến đầu tiên đó là trong cuốn Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ thông (1978) của tác giả V.A.Nhikônxki. Trong công trình này, tác giả chú trọng vào những vấn đề chung về quan niệm dạy học và đề xuất những phương pháp dạy học văn, cùng với nó là những biện pháp, thủ thuật trong quá trình giảng dạy văn học. Tác giả cho rằng, khi sáng tác người ta thường dùng các phụ đề như: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, thơ, bi kịch… cách gọi tên này không chỉ đơn giản là nói đến thể loại của tác phẩm mà nó còn có ý định hướng người đọc khi họ tiếp xúc với tác phẩm. Bên cạnh đó, V.A.Nhikônxki nhấn mạnh vai trò của người đọc cũng như phương pháp hình thành cảm xúc thể loại trong giờ văn cho HS, phát huy vai trò chủ thể của HS. Ở Liên Xô những năm 70, công trình Phương pháp luận dạy Văn ở trường phổ thông do GS.TS Z.Ia.Rez chủ biên và được Phan Thiều dịch vào năm 1983 đã góp một phần không nhỏ cho ngành lí luận và PPDH văn ở nước ta khi đề xuất những hướng nghiên cứu, những phương pháp giảng dạy văn học một cách sáng tạo và có hệ thống và những phương pháp luận bộ môn có triển vọng. Năm 1983, hai tác giả E.A.Maimin và Ê.V.Xlinnhia trình bày kết quả nghiên cứu của mình về vấn đề thể loại trong công trình Lý thuyết và thực tiễn của phân tích văn học. Cùng với việc chỉ ra đặc trưng của 3 thể loại tự sự, trữ tình, kịch sau khi nêu lên các con đường và nguyên tắc phân tích tác phẩm, các tác giả đã chọn mỗi thể loại là một tác phẩm tiêu biểu để phân tích. *Ở trong nƣớc: Người được coi là tiên phong, đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu PPDH văn từ những năm 60 của thế kỉ trước đó là GS. Phan Trọng Luận với nhiều công trình nghiên cứu, những chuyên luận có giá trị to lớn như Con đường nâng cao hiệu quả dạy văn (1978), Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học (1983), và gần đây nhất là Phương pháp dạy văn học (2001) viết chung với PGS Trương Dĩnh) và cuốn Văn học nhà trường – nhận diện, tiếp cận, đổi mới (2007). Trong các công trình nghiên cứu trên, đáng chú ý nhất là công trình Phương pháp dạy học văn. Công trình đã đi từ khái quát lí luận thực tiễn
  • 9. đến phương pháp cụ thể, thiết thực trong đổi mới phương pháp dạy học văn. Giáo sư cho rằng tác phẩm văn chương có mối liên hệ với bạn đọc và mối liên hệ đó không những phù hợp với ý định sáng tác của tác giả mà còn thể hiện sự nhận thức đúng đắn về con đường vận động khách quan của tác phẩm đến cuộc sống. Cũng ở công trình này, tác giả dù không trực tiếp nêu ra phương pháp dạy học tác phẩm theo thể loại, nhưng đã phần nào đề cập đến các đặc trưng thi pháp với các PPDH cụ thể. Đối với cuốn Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học, tác giả đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu các yếu tố, các quy luật tác động đến quá trình giảng dạy văn học và tiếp nhận văn học. Ở đây, vai trò của người học được quan tâm, chú trọng, coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, từ đó đề ra các hướng phát huy năng lực của người học. Các công trình của GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng như: Hiểu văn dạy văn (2005), Phương pháp dạy học ngữ văn trong nhà trường phổ thông – Những vấn đề cập nhật (2006) và Đọc hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường (2008), Kĩ năng đọc hiểu văn bản (2011) đã đóng góp một phần không nhỏ vào quá trình đổi mới PPDH. Trong Hiểu văn dạy văn, tác giả đã đề cập trực tiếp đến việc tiếpnhận và cách lí giải, phân tích tác phẩm văn chương của HS khi nêu ra các vấn đề cụ thể ở Phần II – Một số vấn đề phương pháp dạy học văn, đề cao vai trò của phương pháp đọc văn trong dạy học: “Đọc văn là một bộ phận cơ bản của một năng lực đọc nói chung, qua đó học sinh được giáo dục để có thái độ sáng tạo đối với tác phẩm văn học” [22, tr.61]. Và với việc bàn đến quá trình tiếp nhận văn học trong bối cảnh lí luận dạy học hiện đại - đây là cơ sở để có thái độ tiếp nhận TPVC đúng đắn. Cuốn Phương pháp dạy văn trong nhà trường phổ thông – Những vấn đề cập nhật đã khẳng định "Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay phải đảm bảo nguyên vẹn đặc trưng bộ môn của môn học mang tính khoa học nhân văn" [35, tr.19], như vậy, ở đây tác giả đã chỉ rõ, đề xuất các phương pháp và giải pháp dạy học Ngữ văn THPT. Đến với Kĩ năng đọc hiểu văn, tác giả nhấn mạnh đọc – hiểu là vấn đề cơ bản trong đổi mới nội dung và PPDH Ngữ văn: "Đọc hiểu được thực hiện bởi năng lực và tố chất từng người nhưng muốn đạt tới sự hiểu biết thỏa đáng đều cần phải học hỏi và thể nghiệm lâu dài;... Ngày nay cần phải xem đọc hiểu là một bộ phận có ý nghĩa và tác đụng đào tạo văn hóa đọc cho học sinh thông qua dạy học môn Ngữ văn" [27, tr.50]. Cũng trong cuốn sách này, tác giả cũng đã đề cập đến việc dạy học đọc hiểu tác phẩm văn chương theo loại thể khi đưa ra cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn và mô hình hướng dẫn dạy học đọc hiểu văn bản theo thể loại, đồng thời chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa đọc hiểu, loại thể và dạy học đọc hiểu theo
  • 10. loại thể. Công trình này là tâm huyết của tác giả về một vấn đề không thể làm ngơ và bỏ ngỏ với thời gian như đọc hiểu. Theo tác giả thì đây không phải là vấn đề xưa cũ mà là vấn đề cũ chưa được nghiên cứu kĩ với những kết luận rõ ràng trong khi nhà trường cần nó như một phương diện lí thuyết và kĩ năng để đổi mới việc dạy học Ngữ văn. Cùng với những công trình nghiên cứu về đổi mới PPDH nói trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành xuất bản các tài liệu liên quan đến quá trình đổi mới chương trình - SGK Ngữ văn các lớp 10, 11, 12 nhằm cung cấp, trang bị cho GV những kiến thức liên quan đến việc đổi mới PPDH, thiết kế giáo án, đặc biệt là chú trọng vào hoạt động dạy học hiểu lấy HS làm trung tâm, hình thành phương pháp tự học cho HS. Riêng Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, SGK lớp 10 môn Ngữ văn đã đề ra nguyên tắc đổi mới chương trình giáo dục, SGK phổ thông; quán triệt cụ thể về mục tiêu dạy học bảo đảm tính khoa học và sư phạm, thể hiện tinh thần đổi mới PPDH, đảm bảo tính thống nhất, đáp ứng nhu cầu phát triển của từng đối tượng HS. Điểm đáng chú ý đó là cấu trúc chương trình Ngữ văn - nhất là phần văn học đã coi trọng sự phát triển của thể loại: "Loại thể văn học đã được chú trọng và có nhiều hình thức thể loại văn học được đưa vào chương trình phổ thông một cách khá phong phú... Trên tinh thần coi trọng sự phát triển của loại thể trong lịch sử phát triển văn học, các văn bản văn học được sắp xếp theo các cụm loại thể" [3, tr.39]. Những công trình vừa đề cập ở trên là những công trình đặc sắc, tiêu biểu trong công cuộc đổi mới PPDH văn nói chung và dạy học đọc hiểu tác phẩm văn học nói riêng. Tiếp cận với các công trình trên, ta có thể thấy một điều đó là hầu như công trình nào cũng có đề cập ít nhiều đến vấn đề thể loại và việc vận dụng, khai thác thể loại tác phẩm trong quá trình dạy học Ngữ văn. Nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, thực hiện đề tài liên quan trực tiếp đến phương pháp dạy học đọc hiểu theo thể loại, chúng tôi đã đi sâu vào nghiên cứu các công trình sau: TS Hoàng Ngọc Hiến với các công trình Tập bài giảng nghiên cứu văn học (1987); Nhập môn văn học và phân tích thể loại (2003) đã đưa ra một số vấn đề có tính chất lí luận và đi sâu vào việc phân tích thể loại văn học. Trong Tập bài giảng nghiên cứu văn học gồm 2 phần: Năm thể loại và Năm bài giảng về phương pháp nghiên cứu văn học, tác giả đã trình bày đặc trưng cơ bản của năm thể loại: kí, bi kịch, trường ca, anh hùng ca và tiểu thuyết, dựa
  • 11. vào đó, GV có thể vận dụng vào công tác giảng dạy trên bình diện phân tích, bám sát vào đặc trưng thể loại. Đến năm 2001, TS Nguyễn Viết Chữ với chuyên luận Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể đã đề ra: "Việc xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong quá trình phát triển khoa học phương pháp dạy học tác phẩm văn chương [8, tr.99]. Theo đó, tác giả cũng đã đề xuất các phương pháp lớn trong dạy học văn; các con đường phân tích tác phẩm văn học; lí thuyết tổ chức dạy học; phương thức để dạy học các thể loại tác phẩm tự sự, trữ tình và văn học nước ngoài. Có thể coi đây là một trong những công trình hữu ích, thiết thực, cung cấp cơ sở lí luận cũng như phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục . Năm 2009, TS Nguyễn Ái Học trong cuốn Phương pháp tư duy hệ thống trong dạy học văn, bên cạnh cung cấp lí thuyết về phương pháp tư duy; hướng dẫn thực hành phân tích, bình luận một số tác phẩm thuộc chương trình phổ thông mới nhất... đã đề cập đến vấn đề vận dụng đặc trưng thể loại vào phân tích tác phẩm khi đề xuất phương pháp xây dựng hệ thống tác phẩm. Ở đây tác giả đã đi vào phân tích tác phẩm Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch) theo hướng khai thác đặc trưng loại thể: "Ở bài thơ này, theo chúng tôi lựa chọn cách định hướng hệ thống theo loại hình, loại thể gắn với phong cách tác giả là thích hợp nhất. Đó là việc phân tích bài thơ dựa trên một số đặc điểm nổi bật của thi pháp thơ Đường;... Chỉ có dựa trên đặc trưng thi pháp của thơ Đường cũng như đặc điểm phong cách thơ Lí Bạch, học sinh mới có thể đọc - hiểu bài thơ đúng hướng, tâm hồn học sinh mới có cơ sở thăng hoa cất cánh với vẻ đẹp độc đáo, toàn diện của thi phẩm này" [21, tr.87]. Trên đây là một số công trình tiêu biểu về đổi mới PPDH văn và dạy đọc - hiểu TPVH. Đi sâu vào vấn đề nghiên cứu giảng dạy văn học theo đặc trưng thể loại, chúng tối tiến hành khảo sát các công trình sau: Công trình sớm nhất đề cập trực tiếp đến việc dạy học TPVC theo đặc trưng thể loại là cuốn Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể (1970) do Trần Thanh Đạm (chủ biên) cùng nhóm tác giả Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai, Phạm Sĩ Tuấn và Đảm Gia Cần thực hiện. Cuốn sách bước đầu đã chỉ ra mối liên hệ mật thiết giữa thể loại và PPDH. Từ việc đi sâu vào các thể loại tự sự, trữ tình, kịch, các tác giả đã chỉ ra những đặc điểm riêng của từng thể loại đồng thời yêu cầu gắn với nó phải có một PPDH phù hợp. Công trình đã chỉ rõ:
  • 12. "Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại thể và người dạy cũng giảng dạy theo loại thể" [12, tr.30]. Đồng thời các tác giả cũng đã nêu lên vai trò của thể loại và việc vận dụng thể loại vào việc giảng dạy tác phẩm văn chương: "Loại thể văn học là một thành phần quan trọng của hình thức nghệ thuật tác phẩm. Giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể chính là một phương diện lớn của việc giảng dạy tác phẩm văn chương trong sự thống nhất giữa hình thức với nội dung, một sự giảng dạy đi đúng với quy luật và bản chất của văn học, đồng thời bảo đảm hiệu quả giáo dục cao nhất [12, tr.44]. Tài liệu đã đóng góp một phần không nhỏ để GV dựa vào đó làm nền tảng kiến thức cho quá trình học tập và giảng dạy. Kế đến, năm 2001, các tác giả Nguyễn Duy Quát và Hoàng Hữu Bội cho xuất bản cuốn Một số vấn đề dạy học văn trong nhà trường. Cuốn sách tập hợp những bài viết của nhà nghiên cứu PPDH đã được công bố trong khoảng những năm 1970 đến năm 2000. Các bài viết ở đây đã phân tích, chỉ ra vai trò của việc dạy học văn trong nhà trường, trong đó nhấn mạnh yêu cầu GV giảng dạy tác phẩm theo đặc trưng thể loại, tạo điều kiện phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh qua các hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi mở... Cuốn sách nêu nhiều ý kiến phong phú về dạy học văn, trong đó đáng chú ý là ý kiến của Văn Tâm về “Một số suy nghĩ và biện pháp phát vấn đề đảm bảo yêu cầu giảng văn theo đặc trưng thể loại văn học và phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh trong học tập". Ở đây, tác giả cũng nêu lên mối quan hệ giữa thể loại văn học và PPDH. Theo Văn Tâm, trong dạy học văn, cần căn cứ vào thể loại và các yếu tố bên ngoài văn bản để thiết kế hệ thống câu hỏi phù hợp, phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS. Trở lên là những công trình bàn về PPDH văn nói chung đã ít nhiều đề cập đến vấn đề dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại. Ngoài những công trình, tài liệu có tính lí luận về khoa học PPDH kể trên, các công trình nghiên cứu về thơ Đường cũng như phương pháp giảng dạy phần văn học này đã cung cấp cho GV và HS những kiến thức quan trọng trong quá trình dạy và học. Hiện nay có một số tài liệu khá phổ biến trong việc nghiên cứu và giảng dạy thơ Đường trong nhà trường như: Cùng với việc dịch thuật, bình chú, hàng loạt các bài viết của các tác giả Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy Thứ, Lê Đức Niệm trong Diện mạo thơ Đường đã mang đến cho độc giả Việt Nam bức tranh toàn cảnh của thơ
  • 13. Đường, giới thiệu những nét đẹp về nội dung lẫn nghệ thuật đặc sắc của các bài thơ Đường. Đến với Bình giảng thơ Đường (2003) của PGS.TS Nguyễn Thị Bích Hải, bạn đọc sẽ tìm thấy một sự định hướng về phân tích và khám phá về thơ Đường cũng như một số gợi ý trong cảm thụ, giảng dạy thể thơ này: "Vì đặc trưng của thơ Đường là tạo lập các mối quan hệ nên người đọc thơ Đường phải phát hiện các mối quan hệ ấy, mà để phát hiện phải dành nhiều thời gian liên tưởng, tưởng tượng" [15, tr.22]. Đặc biệt trong Thi pháp thơ Đường (1995), tác giả Nguyễn Thị Bích Hải không chỉ nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thi pháp của thể loại thơ Đường như: quan niệm nghệ thuật về con người; không gian, thời gian, ngôn ngữ... mà còn chỉ rõ cách "cảm", cách tiếp cận thể thơ này: " Người xưa đọc thơ không phải chỉ bằng mắt. Mắt, tai... chỉ là cửa ngõ của sự tiếp xúc đầu tiên. Còn thì phải "thẩm" thơ, tức là để người và thơ thấm vào nhau. Tác giả đã "phổ" tâm hồn mình vào thơ thì thơ, đến lượt nó, lại khêu gợi lên nơi người đọc một trạng thái tâm tình tương ứng" [14, tr.192]. Ngoài ra, nghiên cứu thơ Đường trong lịch sử phát triển của nó còn có công trình của tác giả Nguyễn Khắc Phi với Thi pháp thơ Đường xuất bản năm 1997 đã đưa ra những khái quát đặc trưng cơ bản của thơ Đường như: thời gian, không gian; vấn đề đối ngẫu trong thơ Đường luật; đề tài; bút pháp nghệ thuật... Nghiên cứu về tác giả có Lý Bạch tứ tuyệt của Phạm Hải Anh; Thơ Đỗ Phủ của Trần Xuân Đề... Nghiên cứu về thể loại có Một số đặc trưng cơ bản của thơ tứ tuyệt đời Đường của Nguyễn Sĩ Đại, Đến với Đường thi tuyệt cú của PGS.TS Hồ Sĩ Hiệp... Ứng dụng thành tựu của những công trình nghiên cứu về đặc trưng thể loại thơ Đường để chúng tôi đưa vào vận dụng trong hoạt động giảng dạy các tác phẩm thơ Đường trong trường THPT là hướng đi đúng đắn và phù hợp với chương trình đổi mới PPDH. Những bài viết mang tính chất tham khảo cho GV và HS làm tư liệu trong quá trình học thơ Đường được thể hiện trong Thơ Đường ở trường phổ thông (1995) của tác giả Hồ Sĩ Hiệp hay Phân tích bình giảng tác phẩm văn học của Nguyễn Khắc Phi đã khám phá thơ Đường với những nét khái quát ở phương diện ngôn từ, hình ảnh... Nhưng vì chỉ chú trọng vào phân tích, bình giảng những giá trị về nội dung và nghệ thuật; đặc biệt chưa hướng đến nội dung phương pháp giảng dạy ở trường phổ thông nên nó mang tính chất tài
  • 14. liệu tham khảo hơn là hướng dẫn HS và GV cách tiếp cận thể thơ "khó nuốt" này. Một số luận văn thạc sĩ ở Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh của Phan Thị Minh với đề tài Giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn văn hóa và Dạy học thơ Đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực; Chuyên luận giảng dạy thơ Đường trong trường phổ thông bằng cách tiếp cận văn hóa của Đỗ Thị Hà Giang (chuyên viên sở GD - ĐT Bắc Giang) cũng đã đề xuất những phương pháp để vận dụng vào quá trình dạy học thơ Đường nhằm khơi gợi được niềm hứng thú của cả GV và HS nhưng chỉ giới hạn ở một số định hướng và cách tiếp cận theo hướng tích cực và dưới góc nhìn văn hóa chứ chưa đề cập đến vấn đề dạy học tác phẩm theo đặc trưng loại thể. Điểm qua lịch sử nghiên cứu vấn đề như trên là chưa đầy đủ, nhất là các công trình, bài báo trên các tạp chí. Nhìn chung, có thể thấy một điều rằng, các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học văn ngày càng được khai thác, chú trọng nhưng nghiên cứu về phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại vẫn đang còn sơ lược, hạn chế. Tuy nhiên, những khía cạnh, vấn đề mà người đi trước đề cập đến sẽ là tài liệu quan trọng, gợi ý thiết thực mang tính định hướng để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống và cụ thể hơn những biện pháp, cách thức dạy học nhằm nâng cao hiệu quả dạy học thơ Đường ở trường THPT theo đặc trưng thể loại - vấn đề hầu như chưa được đề cập đến một cách cụ thể, chi tiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài ''Dạy học đọc - hiểu thơ Đƣờng theo đặc trƣng thể loại", chúng tôi đề xuất hướng tiếp cận và kiểm chứng phương pháp dạy học nhằm giải quyết một trong những vấn đề trọng tâm và phát huy năng lực sáng tạo, chủ động của người học, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học, giúp HS biết vận dụng, phân tích các bài thơ Đường nói riêng và các tác phẩm văn học trong chương trình phổ thông nói chung dựa vào đặc trưng thể loại. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi tiến hành thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
  • 15. - Về lí luận: Nghiên cứu lịch sử vấn đề và cơ sở lí luận của đề tài thông qua việc phân tích, đánh giá, trình bày các tài liệu đã thu thập. - Về thực tiễn: Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài thông qua việc điều tra, khảo sát chương trình SGK Ngữ văn và thực trạng dạy học thơ Đường ở trường THPT. Trên cơ sở đó, đề xuất các hướng tiếp cận, các biện pháp dạy học thơ Đường theo đặc trưng thể loại nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức, khả năng chủ động trong học tập của HS. + Thiết kế giáo án và thực nghiệm sư phạm theo những biện pháp đã đề xuất thông qua việc tìm hiểu, phỏng vấn GV và HS. + Kiểm tra kết quả thực nghiệm và đánh giá hiệu quả của đề tài. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là vấn đề tổ chức dạy học các bài thơ Đường ở trường THPT theo đặc trưng thể loại. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Khảo sát hoạt động giảng dạy của giáo viên, năng lực tiếp cận của HS trong các giờ dạy đọc hiểu thơ Đường ở trường THPT. Nghiên cứu thể loại những bài thơ Đường trong SGK Ngữ văn THPT và hướng vận dụng đặc trưng thể loại vào quá trình dạy học trong nhà trường phổ thông. Phân tích, đánh giá tình hình và đề xuất giải pháp phù hợp thông qua hoạt động thực nghiệm đối với HS ở các khối lớp 10 trên địa bàn thuộc huyện Lệ Thủy - Quảng Bình. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp Phương pháp này dùng để tổng hợp các tài liệu, công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Trên cơ sở đó tiến hành phân tích, xử lí và rút ra cơ sở lí luận làm tiền đề giải quyết các yêu cầu đặt ra của đề tài. 5.2. Phƣơng pháp điều tra, khảo sát
  • 16. Khảo sát thực trạng dạy học các bài thơ Đường ở trường THPT thông qua các phiếu điều tra, câu hỏi trực tiếp, phỏng vấn GV và HS để đề xuất hướng giải quyết đúng đắn, nâng cao chất lượng dạy học thơ Đường. 5.3. Phƣơng pháp thống kê Đây là phương pháp dùng để tổng hợp, xử lí số liệu điều tra, thực nghiệm, phân tích và đánh giá kết quả thực nghiệm. 5.4. Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm Sử dụng phương pháp này nhằm mục đích đánh giá, kiểm tra để xác định tính hiệu quả, tính đúng đắn của đề tài khi đưa vào quá trình dạy học các bài thơ Đường. 6. Giả thuyết khoa học Nếu vận dụng hợp lí và hiệu quả những lí thuyết về dạy học thơ Đường theo đặc trưng thể loại vào quá trình dạy học thì đề tài sẽ đóng góp một phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng dạy học thơ Đường ở trường THPT, đồng thời mở ra được một hướng tiếp cận mới trong công cuộc cải cách phương pháp dạy học - đặc biệt là vấn đề dạy học theo đặc trưng thể loại. 7. Đóng góp của luận văn * Về lí luận Luận văn góp phần luận giải cơ sở lí luận, khẳng định tính khoa học của việc dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại.Góp phần làm phong phú thêm tài liệu tham khảo trong đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là dạy học đọc hiểu theo đặc trưng thể loại. * Về thực tiễn Bước đầu giúp GV và HS ý thức hơn về vai trò của việc vận dụng đặc trưng thể loại vào dạy và học thơ Đường ở trường phổ thông. Luận văn đề xuất, định hướng, cách thức tổ chức các phương pháp giảng dạy phù hợp thông qua mô hình thiết kế giáo án dạy học các bài thơ Đường theo đặc trưng thể loại trong chương trình Ngữ văn 10 THPT. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
  • 17. Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn cuả việc dạy học đọc hiểu thơ Đường ở trường THPT theo đặc trưng thể loại Chƣơng 2: Hướng dẫn học sinh đọc hiểu theo thơ Đường theo đặc trưng thể loại Chƣơng 3: Thực nghiệm sư phạm
  • 18. NỘI DUNG CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC ĐỌC - HIỂU THƠ ĐƢỜNG Ở TRƢỜNG THPT THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1 Thể loại văn học và đặc trƣng thể loại văn học. Tác phẩm văn học ra đời là kết quả của quá trình thai nghén, “sinh nở” của nhà văn, nhà thơ, là sự thống nhất trọn vẹn của các yếu tố đề tài, tư tưởng nhân vật, kết cấu, cốt truyện, lời văn. Nhưng sự thống nhất ấy lại được thực hiện theo những quy luật nhất định, đó chính là thể loại. Đã có khá nhiều nhà lí luận đưa ra khái niệm về thể loại. Vậy định nghĩa nào là đúng nhất, phù hợp nhất để đưa vào nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm? Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên cũng đã đề cập đến thể loại: “Hình thức sáng tác nghệ thuật phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, vận dụng ngôn ngữ… văn học có nhiều thể loại: Tự sự, trữ tình, kịch” [38, tr.917]. Nguyễn Như Ý trong Đại từ điển tiếng Việt lại cho rằng: “Thể loại là hình thức sáng tác văn học nghệ thuật được đặc trưng bằng phương pháp phản ánh hiện thực, vận dụng ngôn ngữ riêng khác” [56, tr.1555]. Ở trên là cách hiểu thông thường về nghĩa từ vựng của từ thể loại. Tuy nhiên, nó sẽ là cơ sở để hiểu nghĩa thuật ngữ của khái niệm “thể loại” trong chuyên ngành lí luận văn học. Trong Lí luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên, thể loại được hiểu như sau: “Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể” [49, tr.220]. Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả do Lê Bá Hán chủ biên định nghĩa: “Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của loại hiện tượng đời sống được miêu tả và tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các loại hiện tượng đời sống ấy” [16].
  • 19. Dù có sự khác nhau trong quan niệm về thể loại nhưng chung quy lại ta thấy: Ở trong mỗi thể loại tác phẩm văn học, các loại đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình thức kết cấu, hình thức nhân vật luôn có sự thống nhất, quy định lẫn nhau. Sự thống nhất nàu có được là các phương thức chiếm lĩnh đời sống, quan điểm thẩm mĩ khác nhau của tác giả quy định nhằm tái hiện đời sống. Do vậy, mỗi thể loại lại tạo ra một kênh giao tiếp riêng với bạn đọc (giao tiếp thơ khác giao tiếp kịch, giao tiếp bằng tiểu thuyết khác với giao tiếp bằng các thể loại kí…). Thể loại tác phẩm văn học là một hiện tượng loại hình của sáng tác và giao tiếp văn học, hình thành trên cơ sở sự lặp lại có quy luật của các yếu tố tác phẩm. Thể loại tác phẩm được tác giả sử dụng khi sáng tác, hay để chuyển tải một nội dung tư tưởng nào đó đến người tiếp nhận. Bởi thế, người đọc muốn nắm bắt được tác phẩm trọn vẹn hơn, đầy đủ hơn thì không thể không quan tâm đến các khía cạnh liên quan đến thể loại. - Sự phân biệt "thể loại" và "loại thể": + Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê và nhóm tác giả coi "Loại thể như thể loại" [38, tr.570]. + Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý cũng cho là "Loại thể như thể loại" [56, tr.1030]. Như vậy, theo sự phân biệt trên thì ta khó lòng có thể phân biệt rạch ròi hai thuật ngữ “thể loại” và “loại thể”. Vì theo Lại Nguyên Ân thì tác phẩm văn học theo một số dấu hiệu nhất định sẽ có sự giống nhau từng nhóm một, trong đó nhóm lớn nhất là “loại” và mỗi loại có nhóm nhỏ hơn là “thể” (hoặc thể loại, thể tài). Và theo Trần Đình Sử thì: “Bản thân thể loại có chức năng phân loại. Khi nhà văn ghi tên thể loại khác và đánh dấu cái truyền thống mà anh ta theo” [49, tr.190]. Dựa vào các quan niệm trên ta thấy ở cấp độ phân chia “loại” thì tác phẩm văn học được chia thành ba loại lớn đó là: Trữ tình, tự sự và kịch. Trong mỗi “loại” sẽ bao hàm các “thể”, đồng nghĩa với việc tác phẩm văn học nào cũng thuộc một loại nhất định và có hình thức “thể” biểu hiện. Như vậy, nếu muốn khám phá tác phẩm, đào sâu nghiên cứu những gì tác phẩm ẩn chứa thì ta không thể nào bỏ qua khâu tìm hiểu về thể loại của tác phẩm ấy. Một mặt là do tác phẩm được nhà văn xây dựng nếu không thuộc thể loại này thì sẽ thuộc thể loại kia; mặt khác là chính đặc trưng của thể loại
  • 20. của tác phẩm ấy mang lại cho ta phương thức tìm hiểu tác phẩm một cách dễ dàng hơn. Hiểu và nắm bắt được quy luật tồn tại cũng như đặc điểm của thể loại sẽ phầm nào giúp cho bạn đọc nói chung và HS THPT nói riêng cắt nghĩa, lí giải tác phẩm hiệu quả hơn, sâu sắc hơn. Cách thức khai thác tác phẩm như thế này tạo nên sự hứng thú trong học tập, đặc biệt là đối với thể loại trữ tình như thơ Đường. 1.1.2 Thơ Đƣờng và những dấu hiệu đặc trƣng về thể loại 1.1.2.1 Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong thơ Đƣờng Con người là trung tâm của văn học, là đối tượng chủ yếu mà các nhà văn, nhà thơ khao khát hướng đến, nói như M.Gorki "Văn học là nhân học". Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả của người nghệ sĩ nói riêng và của thời đại văn học nói chung. Giáo sư Trần Đình Sử đã khẳng định: "Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình" [46, tr.15]. Thơ Đường xây dựng nên hai hình tượng con người: Con người vũ trụ và Con người xã hội. Quan niệm về con người vũ trụ là quan niệm cho rằng : Con người liên quan mật thiết với trời đất, vũ trụ. Con người là một "tiểu vũ trụ" trong lòng "đại vũ trụ". Đó cũng là quan niệm nghệ thuật trong thơ cổ và tồn tại mãi suốt thời phong kiến thậm chí đến cả thời hiện đại. Con người đó xuất hiện trong tư thế vũ trụ, đứng giữa trời đất, nối trời với đất, điểm nhìn nghệ thuật đứng giữa trung tâm vũ trụ: Trung tâm không gian thiên - địa (vũ) Trung tâm thời gian tiền - hậu (trụ) Con người đứng giữa giao điểm của không gian, thời gian mà lên tiếng. Đó lá tiếng nói của một "tiểu vũ trụ" trong lòng thiên địa mênh mông giữa dòng thời gian tiền hậu,vô thủy, vô chung. Con người bị giới hạn bởi không gian hữu hạn vì thế con người trong chữ Hán khao khát tìm kiếm hôm qua và vươn tới ngày mai. Thơ Đường xây dựng con người theo mô hình ''pháp - thiên - địa''. Chính vì vậy con người luôn có khát vọng hòa nhập với thiên nhiên, ở giữa trời đất,
  • 21. cảm hứng với trời đất, tiếng nói hòa âm cùng vũ trụ. Con người hữu tâm, con người tri âm là những hình tượng con người thường xuất hiện trong thơ Đường. Những con người siêu cá thể giữa lòng thiên địa, càn khôn trong sự hô ứng, tương giao hòa hợp với thiên nhiên, vũ trụ khiến cho khi bước vào thế giới thơ Đường ta bước vào ''Thế giới của hòa điệu'' [14, tr.26]. Trong thơ Đường có xuất hiện con người cá nhân nhưng chưa phổ biến. Con người cá nhân ấy chủ yếu xuất hiện trong mối quan hệ một với tất cả. “Thế giới hòa điệu” chỉ tồn tại trong mảng thơ sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn còn theo khuynh hướng hiện thực thì đó là con người xã hội, tức là con người được nhìn nhận và đánh giá trong các mối quan hệ xã hội. Nếu như con người vũ trụ được thể hiện trong quan hệ thống nhất, tương giao, hòa âm thì con người xã hội chủ yếu là sự phản ánh trong quan hệ tương phản, đối lập. Chính cách phản ánh này đã khiến cho thế giới nghệ thuật trong thơ sáng tác theo khuynh hướng hiện thực là thế giới của sự bất bình. Tuy có hai kiểu con người như vậy, nhưng do sự chi phối của mỹ học truyền thống nên con người vũ trụ vẫn chiếm ưu thế và có vị trí quyết định trong thi pháp thơ chữ Hán, làm cho thế giới nghệ thuật thơ Đường là thế giới của sự hòa điệu. 1.1.2.2. Kết cấu và niêm luật Thơ Đường tồn tại ở hai thể chính là Cổ thể và Cận thể (gồm luật thi và tuyệt cú). Tương ứng với mỗi loại có những đặc trưng riêng về thi pháp. a) Thơ cổ thể Thơ Cổ thể gồm có hai dạng là Cổ phong và Nhạc phủ. Nhạc phủ là tên gọi chung của nhiều loại khác nhau có nguồn gốc từ thơ nhạc phủ. Cổ phong là thơ của thi nhân trước đời Đường thường là thơ 5 chữ hoặc 7 chữ. Thơ Cổ thể, cả Cổ phong lẫn Nhạc phủ đều không có niêm luật nhất định, không hạn định số câu trong bài và số chữ trong câu tương đối tự do, thường là 5 chữ, 7 chữ nhưng cũng có khi câu dài câu ngắn không đều. Thể này không quy định niêm luật và cũng không yêu cầu đối ngẫu. Nhìn chung thể này dung lượng lớn hơn thơ cách luật. Thể cách không nghiêm ngặt nên phù hợp phản ánh hiện thực cuộc sống và bộc lộ quan niệm về con người sinh hoạt. b) Thơ Cận thể
  • 22. Thơ Cận thể có hai dạng thức chính : Luật thi và Tuyệt cú. Luật thi gồm thất ngôn bát cú luật thi (gọi tắt là thất luật) và ngũ ngôn bát cú luật thi (gọi tắt là ngũ luật). Tuyệt cú hay còn gọi là tứ tuyệt là thơ chỉ có 4 câu gồm Thất ngôn tuyệt cú và Ngũ ngôn tuyệt cú. Niêm luật của Tuyệt cú tương ứng với luật với luật thi nên ở đây xét chung là niêm luật của luật thi. Luật thi buộc phải theo cấu trúc nhất định của thanh âm cũng như bố cục tình ý: sự quy định này rất chặt chẽ. Một bài thơ phải đảm bảo các yêu cầu về niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục. Cụ thể như sau: + Niêm: là nguyên tắc phối thanh theo chiều dọc làm các liên thơ với nhau. Trong một bài có 4 liên, các liên thơ đi với nhau từng đôi một. Hệ thống niêm căn cứ từ chữ thứ nhì của mỗi câu, bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Nó yêu cầu câu 3 niêm câu 2, câu 5 niêm câu 4, câu 7 niêm câu 6, câu 8 niêm câu 1 tạo thành vòng tròn khép kín và cấu trúc nội tại bền chặt. + Luật: Là sự điều tiết âm thanh theo chiều ngang sao cho bằng trắc phù hợp. Hệ thống này tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu từ này là bằng thì gọi là ''Bằng khởi cách'', nếu từ này là trắc gọi là ''Trắc khởi cách''. Trong câu các thanh bằng và trắc phải hòa hiệp cân xứng, luân phiên xen kẽ sao cho ''Đòn cân thanh điệu'' được cân bằng. Phải đảm bảo nguyên tắc ''Nhị, tứ, lục phân minh'', chữ thứ tư làm tâm đối xứng của câu thơ, nếu thay đổi thì đòn cân thanh điệu bị nghiêng lệch, phá vỡ sự hài hòa, cân bằng của thơ, ''Nhất, tam, ngũ, luật bất luận'' để một khoảng tương đối thoải mái cho người làm thơ. Riêng chữ thứ 7 đương nhiên phải đảm bảo thanh bằng nếu là chữ gieo vần, còn không gieo vần thì phải là thanh trắc. Luật phối thanh đảm bảo bằng trắc cân xứng, tức cân bằng âm dương, làm cho bài thơ có âm điệu hài hòa. + Vận: là một bài bát cú có năm vần (tuyệt cú có 2 hoặc 3 vần). Trong một bài thơ có thể "trốn vần'' nhưng chỉ được phép trốn một lần ở câu đầu. Đã trốn vần thì phải gieo theo nguyên tắc: Hai câu đầu phải đối nhau. + Đối: Đối cũng là một nguyên tắc bắt buộc của luật thi, nguyên tắc này yêu cầu liên hai (câu 3 và 4) và liên 3 (câu 5 và 6) phải là hai ''đối liên'' - tức là câu 4 đối câu 3 và câu 6 đối câu 5. Đối phải đảm bảo đối về cả thanh (bằng đối với bằng, trắc đối với trắc), về từ loại (từ loại nào đối với từ loại ấy) và cả về ý.
  • 23. Trong một bài Luật thi cả 4 yêu cầu này phải đảm một cách nghiêm ngặt. Tiết tấu (ngắt nhịp): Nhìn chung cách ngắt nhịp ở câu 7 chữ và 5 chữ đều chẵn trước, lẻ sau (4/3 hoặc 2/2/3 nếu 7 chữ và 2/3 nếu 5 chữ). Cách ngắt nhịp chẵn lẻ này cố định hầu như không có ngoại lệ khiến chẵn lẽ đan xen, âm dương luân chuyển nhịp nhàng, hài hòa. Đó cũng là sự hô ứng tự nhiên với nhịp điệu vũ trụ. + Bố cục: Về bố cục một bài luật thi trước nay có 2 quan niệm chính: Chia làm 4 phần: Đề - thực - luận - kết. Câu thứ hai ''thừa đề'' thừa tiếp ý mở đề chuyển vào thân bài. Thực: (câu 3 và 4) có nhiệm vụ giải thích rõ ý của đầu bài. Luận: (câu 5 và 6) phát triển rộng ý của đầu bài. Kết: (hai câu cuối) kết thúc toàn bài. Chia làm hai phần: tiền giải và hậu giải (đây là cách chia của Kim Thánh Thán): Tiền giải: 4 câu đầu Hậu giải: 4 câu sau Thực ra đây là cách chia của người đời sau, thi nhân không mấy quan tâm đến việc chia tách bài thơ thành từng phần như vậy mà họ coi trọng cái ''nhất khí'' sao cho bài thơ đảm bảo tình toàn vẹn chủ yếu theo sự vận hành đi từ ngoại cảnh đến nội tâm nên một khi cảnh phát được tâm tình bài thơ kết thúc. 1.1.2.3. Ngôn ngữ và tứ thơ a) Ngôn ngữ thơ Đường Văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Mỗi thể loại có một đặc điểm riêng về mặt ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ ca nói chung là mang tính hình tượng, gợi cảm và hàm súc cao. Trong đó thơ Đường được coi là một trong những đỉnh cao của ngôn ngữ thơ ca nhân loại. Ngôn ngữ thơ Đường thường đơn giản nhưng rất tinh luyện, có khả năng diễn đạt vô cùng tinh tế và phong phú. Đó là ngôn ngữ hàm súc, đa nghĩa, ngôn ngữ đậm chất nhạc, chất họa. Tính hàm súc, đa nghĩa trong thơ Đường trước hết là nhờ công phu tinh luyện của các nhà thơ làm sao với một mã tối
  • 24. thiểu có thể đưa lại một lượng thông tin tối đa. Con chữ tinh luyện cao độ có khả năng bao quát và chứa đựng nhiều ẩn ý, khơi gợi trường liên tưởng mạnh mẽ. Các nhà thơ Đường chủ trương không nói hết ý mà ''ý tại ngôn ngoại'', ý ngoài lời, ''Ngôn tận nhi, ý bất tận'' lời hết mà ý chưa hết, không trực tiếp nói lên ý mình. Đó chính là cái diệu trong ngôn ngữ thơ Đường. b) Tứ thơ Thơ Đường xây dựng tứ thơ độc đáo, mới lạ. Người xưa có câu ''Học thơ cổ là học tinh thần sáng tạo của các nhà thơ''. Đó chính là tinh thần sáng tạo tứ thơ, hình ảnh thơ độc đáo, mới lạ. Dựa trên tư duy quan hệ, tứ thơ trong thơ Đường tập trung làm nổi bật các mối quan hệ từ đó bật nổi những tư tưởng độc đáo. Các nhà thơ chú tâm khai thác các mối quan hệ tương đồng và đối lập giữa các sự vật, các trạng thái tình cảm, khai thác các mối quan hệ xưa và nay, mộng và thực, tiên và tục, vô cùng và hữu hạn, không gian và thời gian... Từ tứ thơ độc đáo đó gửi gắm những nổi niềm, tâm sự của thi nhân. 1.1.2.4. Không - thời gian nghệ thuật trong thơ Đƣờng ''Không gian và thời gian nghệ thuật là hình tượng không gian và thời gian được sáng tạo trong tác phẩm, là môi trường tồn tại của hình tượng con người'' [14, tr.35]. Không gian và thời gian nghệ thuật cũng là yếu tố hữu cơ của hệ thống thể loại. Không gian và thời gian trong tác phẩm có mối quan hệ biện chứng với nhau không thể chia tách. Ở mỗi loại tác phẩm có một kiểu không - thời gian xác định. a) Không gian nghệ thuật trong thơ Đường Thơ Đường tập trung thể hiện hai loại không gian chính: Không gian vũ trụ - môi trường tồn tại của con người vũ trụ và không gian sinh hoạt - môi trường tồn tại của con người sinh hoạt. Tuy nhiên thơ Đường chủ yếu xây dựng trên tư duy quan hệ, khai thác mối quan hệ hài hòa của con người với thiên nhiên do vậy không gian vũ trụ là không gian chiếm ưu thế và có ý nghĩa thi pháp trong thơ Đường. Không gian trong thơ Đường chủ yếu không gian cao rộng, khoáng đạt, bộc lộ tư tưởng ''đăng cao'' của con người vũ trụ với khát vọng chiếm lĩnh bề cao
  • 25. của không gian và "viễn du'' để chiếm lĩnh bề rộng của không gian. Để diễn tả cái cao rộng, khoáng đạt và tính giãn nở trong không gian thời Đường thường thấy xuất hiện không gian: con đường, dòng sông, lầu cao, núi cao, sông dài, trời rộng... Không gian thơ Đường là không gian mang tính đối xứng với con người ở vị trí trung tâm, khiến con người cảm thấy bé nhỏ, cô độc giữa vũ trụ vô hạn, vô cùng. Vì cảm giác bé nhỏ, cô độc ấy con người dấy lên khát vọng hòa nhập vào vũ trụ, khát vọng chiếm lĩnh không gian. Do đó nên không gian luôn mang tính mở, có xu hướng giản nở để đưa tâm hồn con người vượt không gian, có mặt trong ''thiên địa chi du du''. Ngoài tính chất cao rộng, khoáng đạt trong không gian, thơ Đường, đặc biệt là thơ cách luật, chú tâm xây dựng khai thác sự tương đồng, đối lập trong không gian: Quá khứ và hiện tại, ngày xưa và ngày nay, hiện tại và tương lai... nhằm thể hiện sự biến thiên dâu bể, hoài vọng về thời gian và bộc lộ nỗi niềm của thi nhân . Thời gian sinh hoạt chủ yếu xuất hiện trong thơ cổ thể. Đó là thời gian hiện tại của cuộc sống đời thường có thể cảm nhận một cách cụ thể trực cảm. Tuy có tồn tại nhưng thời gian sinh hoạt không mang tính tiêu biểu cho thi pháp thơ chữ Hán. Như vậy, cũng giống không gian, thời gian vũ trụ có ý nghĩa thi pháp đối với thơ Đường nhằm thể hiện quan niệm về con người vũ trụ. 1.1.3. Vấn đề dạy học đọc - hiểu trong quá trình dạy học văn GS.TS Nguyễn Thanh Hùng trong Kĩ năng đọc hiểu văn đã nhận định rằng: “Muốn nâng cao trình độ văn hóa giáo dục cho thế hệ trẻ Việt Nam trong nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế để họ phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của đất nước trước ngưỡng cửa hiện đại hóa không có gì tốt hơn là phải giáo dục họ biết tự học, học mọi lúc, mọi nơi….. Tự đọc sách là một cách thức phổ biến của tự học để phát huy năng lực trí tuệ và lao động tinh thần… Đọc văn góp phần giáo dục con người có văn hóa. Văn hóa đọc, đó là đọc những tác phẩm hay và biết đọc theo những quy luật nội tại của nó” [26, tr.7]. Thật vậy, để HS “phát huy hết năng lực trí tuệ và lao động tinh thần” thì không thể nào tiếp tục con đường dạy học theo lối truyền thống với cơ chế một chiều: Thầy đọc - Trò chép. Yêu cầu đặt ra ở đây là: hơn bao giờ hết cần
  • 26. có sự thay đổi, điều chỉnh cách thức dạy học sao cho hợp lí, cần phải xác định được thực chất của dạy văn là dạy cho HS phương pháp đọc hiểu (trong đó HS đóng vai trò trung tâm của quá trình dạy học, GV là người dẫn dắt, gợi mở, kích thích sự tò mò, sáng tạo của HS). Chương trình giáo dục và SGK mới với cơ chế dạy học mới đang có sự chuyển dịch nhằm đáp ứng những yêu cầu trên. Đọc - hiểu là hoạt động đầu tiên và hữu hiệu nhất để HS tiếp xúc với tác phẩm văn học cũng như các giá trị vốn có của nó một cách trực tiếp nhất mà không phải thông qua bất kì một giai đoạn gián tiếp nào. HS bằng các thao tác, biện pháp để có được sự hoạt động của trí tuệ, bắt đầu bằng sự tri giác ngôn ngữ, hình tượng, thông qua tưởng tượng, liên tưởng để cảm nhận tác phẩm. Vậy, vì sao nói “Đọc hiểu văn bản như là một khâu đột phá trong việc đổi mới dạy học Ngữ văn và thi môn văn là yêu cầu bức thiết đối với việc đào tạo nguồn nhân lực mới cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến” [46, tr.18]. Để làm rõ điều này, ta cần xem xét lại sự chuyển dịch trong quan niệm về đọc - hiểu. Về khái niệm “đọc - hiểu”, đã có khá nhiều tranh luận trong các hội nghị thay SGK mới. Theo GS.TS Nguyễn Thanh Hùng: “Đọc hiểu là phạm trù khoa học trong nghiên cứu và giảng dạy văn học. Bản thân nó là khái niệm có quan hệ với năng lực đọc, hành động đọc, kĩ năng đọc để nắm vững ý nghĩa của văn bản nghê thuật ngôn từ. Đọc chính xác thì hiểu đúng. Đọc kĩ, đọc phân tích thì hiểu sâu. Đọc trải nghiệm thẩm mĩ thì hiểu được vẻ đẹp nhân tình. Đọc sâu, đọc sáng tạo thì hiểu được cái mới” [26, tr.26]. Còn GS Phan Trọng Luận cho rằng: “Phương thức đọc văn nhằm mục đích hiểu biết chính xác và cặn kẽ tác phẩm văn chương, khám phá ở đó những giá trị văn chương mới mẻ, lớn lao và hữu ích được gọi là đọc hiểu” [31]… Dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau nhưng bản chất, mục đích của đọc hiểu chính là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa của văn bản thông qua sự tiếp nhận, lí giải của bạn đọc - học sinh. Mặt khác, tác phẩm văn chương là sản phẩm của văn hóa tinh thần, muốn khám phá ý nghĩa của nó thì không thể không vận dụng các loại tri thức. Quá trình đọc hiểu tác phẩm văn chương của HS THPT được xác định bởi ba yếu tố tác động qua lại với nhau: đầu tiên là bạn đọc HS với ngôn ngữ, năng lực trí tuệ, kĩ năng đọc, học vấn đã được tích lũy, động cơ và hứng thú học tập; tiếp đến là sự hình thành và sáng tạo tác phẩm của nhà văn; cuối cùng là nội dung cuộc sống và chất liệu để viết tác phẩm. Dưới sự hướng dẫn
  • 27. của GV, HS tự chiếm lĩnh tác phẩm thông qua hoạt động đọc hiểu. Trên tinh thần biên soạn nội dung và giảng dạy theo hướng tích hợp giữa ba phân môn Đọc văn, Tiếng việt và Làm văn thì Đọc văn góp phần thuận lợi nhất cho việc dạy HS cách Làm văn và học Tiếng việt, thiết lập một hệ thống khoa học về văn học sử, tri thức ngôn ngữ, văn hóa… trong một giờ học văn. Vì vậy, thiết kế một giờ dạy học, GV cần vận dụng tối đa, linh hoạt các phương pháp dạy học, không nên quá khuôn khổ, cứng nhắc làm hạn chế sự tìm tòi, tưởng tượng của HS. Bởi theo TS Trần Hữu Phong thì cần “thiết kế theo tính chất “mở”, dự kiến rất nhiều “khoảng trống” cho sự đối thoại, trao nhận và sẻ chia giữa thầy giáo và học sinh” [42, tr.6]. 1.1.4. Vấn đề dạy học đọc - hiểu văn bản văn học theo đặc trƣng thể loại Tác phẩm văn học là một thế giới nghệ thuật được khái quát hóa và cụ thể hóa sinh động cuộc sống con người, xã hội, thời đại bởi cá tính sáng tạo và phá cách nghệ thuật riêng của tác giả thông qua hình tượng. Mỗi nhà văn, nhà thơ khi bắt tay vào “xây dựng” tác phẩm đều lựa chọn cho mình một phương thức thể hiện phù hợp với nội dung, tư tưởng sáng tác. Thể loại chính là phương thức ấy - phương thức tồn tại của tác phẩm. Do đó, GV khi hướng dẫn HS đọc hiểu tác phẩm thì cũng phải nắm vững kiến thức về thể loại và bám sát vào đặc trưng của thể loại ấy để các em chiếm lĩnh tốt mọi khía cạnh của tác phẩm. Bởi “Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người giảng dạy cũng phải giảng dạy theo thể loại. Phương thức cấu tạo hình tượng mà tác giả đã sử dụng khi sáng tác quy định phương thức cảm thụ hình tượng đó của người đọc và từ đó cũng quy định phương thức giảng dạy của chúng ta” [12, tr.26]. Để hướng dẫn HS đọc hiểu tác phẩm văn chương theo loại thể ở trường THPT, GV cần định hướng cho HS nhận thức được tác phẩm văn chương là một thế giới hiện thực “ảo” được cảm nhận và diễn tả thông qua nhận thức, đánh giá và sự đồng cảm thẩm mĩ của nhà văn. Và đặc biệt là trước khi hướng dẫn HS đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại thì GV cần trang bị cho các em bốn kĩ năng đọc hiểu cơ bản: kĩ năng đọc chính xác, kĩ năng đọc phân tích, kĩ năng đọc sáng tạo, kĩ năng đọc tích lũy. Nếu trong quá trình học văn, dưới sự định hướng của GV, ngoài việc tự phát hiện, tự phân tích, các em còn tự rút ra những nhận xét, có sự so sánh, đối chiếu giữa tác phẩm này với tác phẩm khác, thể loại này với thể loại khác thì đó coi như là một sự thành công của một giờ đọc hiểu. Việc hướng dẫn HS đọc hiểu tác phẩm dựa vào đặc trưng thể loại là một hướng đi đúng đắn. Nó không chỉ giúp các em nắm chắc, hiểu sâu về tác phẩm đang được học mà còn tạo được một tâm lí thoải mái khi
  • 28. tiếp nhận tác phẩm chứ không hề bỡ ngỡ, lúng túng như trước kia nữa. Đứng trước một tác phẩm văn học bất kì, điều đầu tiên mà HS làm được ngay đó là xác định: tác phẩm thuộc thể loại nào? Thể loại ấy có những đặc điểm nổi bật gì? Nội dung của tác phẩm được thể hiện qua các phương tiện nghệ thuật đặc trưng ra sao?... Trả lời được những câu hỏi ấy, tức là HS đã hiểu được cái đích mà tác giả hướng đến trong quá trình sáng tác. Theo GS. Nguyễn Thanh Hùng thì đọc hiểu tác phẩm văn chương theo đặc trưng loại thể được trình bày theo chất liệu ngôn ngữ nghệ thuật tương ứng với đọc hiểu từng cấu trúc ngôn từ. Ông cũng đã đưa ra các mô hình đọc hiểu, trong đó, thể loại thơ trữ tình có mô hình như sau: - Hướng dẫn HS nắm vững chất liệu ngôn ngữ nghệ thuật và ý nghĩa tầng cấu trúc ngôn từ. Ngôn ngữ độc thoại về một trạng thái cảm xúc, tâm tình. Sự kết hợp giữa nhịp điệu thơ và nhịp điệu tâm hồn. - Hướng dẫn HS nắm vững sản phẩm nghệ thuật và ý nghĩa tầng cấu trúc hình tượng nghệ thuật. Hình tượng cái tôi trữ tình biến hóa (nhập vai, cái tôi hư cấu, phân vai, cái tôi phân đôi) trong dòng mạch cảm xúc. Hình tượng nghệ thuật thống nhất với cái tôi trữ tình vầ phát triển trong không gian trải nghiệm của cái tôi trữ tình. Phương thức trình bày nghệ thuật thường hướng vào nội cảm, kí ức, lấy bản thân làm đối tượng phản ánh đời sống. Ngoài ra cần lưu ý thêm độ nén ủ tâm tình, phát huy tận độ quyền lực của tình cảm, tìm sự hòa điệu với người khác và con người khác của nhà thơ. - Hướng dẫn HS nắm vững giá trị tư tưởng tác phẩm trong tầng cấu trúc tư tưởng thẩm mĩ và ý vị nhân sinh. Nội dung của giá trị sản phẩm chính là chủ đề tư tưởng và ý nghĩa nhận thức, đánh giá và thưởng thức tác phẩm gần gũi giữa người đọc và nhà văn qua tác phẩm. Nắm được đặc trưng cũng như vai trò, ý nghĩa của thể loại trong quá trình dạy học là một yêu cầu thiết thực mà GV cần đáp ứng đầy đủ và kịp thời, đồng thời phải có sự đầu tư mọi mặt từ nội dung đến phương thức giảng dạy để đạt hiệu quả cao nhất. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Khảo sát việc phân bố chƣơng trình - sách giáo khoa Ngữ Văn ở trƣờng THPT và vị trí của các bài thơ Đƣờng. - Mục đích khảo sát:
  • 29. Đánh giá chương trình thơ Đường ở nhà trường THPT trên ba bình diện: Số lượng, chất lượng và hình thức để thấy được sự đổi mới trong chương trình SGK hiện nay làm định hướng cho đổi mới dạy học. Hệ thống hóa chương trình dạy học đọc - hiểu thơ Đường, đặt trong mối quan hệ với chương trình Ngữ văn nhằm đánh giá đúng vị trí thơ Đường trong chương trình. - Chương trình Ngữ văn THPT đã giới thiệu cho học sinh các thể loại văn học mang đặc trưng của từng thời kì văn học, phù hợp với mục tiêu dạy học theo nguyên tắc tích hợp, tạo thuận lợi cho quá trình dạy học. - Tiềm năng tri thức về thể loại: Học sinh THPT đã được học một số tác phẩm thơ Đường ở trường THCS, tập trung ở chương trình sách giáo khoa lớp 7 như: Vọng Lư sơn bộc bố và Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch ; Mao ốc vị thu phong sở phá ca của Đỗ Phủ; Hồi hương ngẫu hứng của Hạ Tri Chương; Phong kiều dạ bạc của Trương Kế. - Số lượng các tác phẩm văn học nước ngoài ở THPT được phân bố hợp lí theo hướng kế thừa và phát triển chương trình văn học nước ngoài từ THCS. Bảng 1.1. Nội dung, thời lƣợng Văn học Nƣớc ngoài ở lớp 10 (Theo SGK cải cách áp dụng từ năm 2006 - 2007) TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia Số tiết 1 Uy - lit - xơ trở về Sử thi - Hy Lạp 2 2 Ra ma buộc tội Sử thi - Ấn độ 2 3 Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Lí Bạch Trung Quốc 1 4 Thu hứng Đỗ Phủ Trung Quốc 1 5 Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu Trung Quốc 1 6 Khuê oán Vương Xương Trung 1
  • 30. Linh Quốc 7 Điều minh giản Vương Duy Trung Quốc 1 8 Thơ Hai cư Ba shô Nhật Bản 1 9 Hồi trống cố thành La Quán Trung Trung Quốc 2 10 Tào tháo uống rượu luận anh hùng La Quán Trung Trung Quốc 1 - Nhận xét về sự phân bố các tác phẩm thơ Đường trong chương trình sách giáo khoa THPT: Qua bảng số liệu trên ta thấy, trong chương trình Ngữ văn THPT, về nội dung số văn bản mới được đưa vào chương trình khá nhiều, đặc biệt là những văn bản nhật dụng. Nhìn chung, thơ Đường chiếm một số lượng lớn cả về dung lượng lẫn số lượng văn bản. Trong chương trình Ngữ văn THPT, thơ Đường được sắp xếp vào chương trình phổ thông lớp 10, học kỳ I. Hai bài thơ được đưa vào dạy chính trong chương trình đó là: Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lí Bạch (tiết 46) và Thu hứng của Đỗ Phủ (tiết 47); ngoài ra còn có 3 bài đọc thêm: Hoàng Hạc Lâu (Thôi Hiệu), Khuê oán (Vương Xương Linh), Điều minh giản (Vương Duy). 1.2.2. Thực trạng dạy học đọc - hiểu thơ Đƣờng ở trƣờng THPT hiện nay 1.2.2.1. Mục đích khảo sát Trong điều kiện nghiên cứu cho phép, chúng tôi tiến hành khảo sát tình hình dạy và học thơ Đường ở trường THPT để nắm bắt thực trạng giảng dạy của GV cũng như sự hứng thú, năng lực tiếp thu của HS đối với mảng thơ Đường. Rút ra những điểm thuận lợi, khó khắn trong quá trình dạy và học thơ Đường, từ đó lí giải nguyên nhân, tìm ra hướng khắc phục – đây có thể coi là bước đầu để đi vào giải quyết vấn đề trọng tâm của đề tài.
  • 31. 1.2.2.2. Đối tƣợng và địa bàn khảo sát Để nắm bắt được thực trạng dạy học thơ Đường ở trường THPT theo đặc trưng thể loại, chúng tôi tiến hành khảo sát 30 giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại các trường THPT trên địa bàn huyện Lệ Thủy – tỉnh Quảng Bình. Để nắm bắt được tình hình học tập, khả năng tiếp nhận thơ Đường của HS THPT, chúng tôi tiến hành khảo sát 320 học sinh (thuộc 8 lớp) của trường THPT Lệ Thủy thuộc huyện Lệ Thủy,tỉnh Quảng Bình. 1.2.2.3. Cách thức và nội dung khảo sát Chúng tôi nêu ra thực trạng dạy thông qua việc khảo sát việc tổ chức dạy học của giáo viên và năng lực tiếp thu của học sinh lớp 10 thuộc trường THPT ở huyện Lệ Thủy - Quảng Bình. * Cách thức khảo sát: - Khảo sát thông qua phiếu điều tra lấy ý kiến của giáo viên và học sinh. - Khảo sát thông qua việc trực tiếp dự giờ. - Khảo sát thông qua kiểm tra, đánh giá học sinh. * Nội dung khảo sát: a, Phiếu điều tra - Thực trạng dạy thơ Đƣờng của GV ở trƣờng THPT + Nội dung khảo sát (Phiếu điều tra - mục 2 phần mục lục). Bảng 1.2. Thống kê thực trạng và mức độ vận dụng tri thức về thể loại vào dạy học thơ Đƣờng của giáo viên Câu Các phƣơng án kiến khác A B c d SL % SL % SL % SL % SL % 1 13 43,3 10 33,3 5 16,7 2 6,7
  • 32. 2 7 23,3 8 26,7 10 33,3 5 16.7 3 8 26,7 4 13,3 5 16,7 19 33,3 3 10 4 12 40 4 13,3 8 26,7 6 20 5 14 46,7 9 30 7 23,3 6 8 26,7 10 33,3 7 23,3 5 16,7 7 8 30 11 36,7 10 33,3 8 9 30 10 33,3 4 13,3 7 23,3 + Đánh giá, nhận xét: Những nhận định, đánh giá mà chúng tôi có thể rút ra qua bảng số liệu thống kê trên đối với GV khi được hỏi về việc vận dụng tri thức thể loại vào dạy học thơ Đường đó là: Với tỉ lệ 43,3% GV đứng lớp cho rằng thơ Đường là một thể loại rất khó dạy, đây là tỉ lệ rất lớn so với 16,7% (5 GV) cho là dễ dạy. Sự chênh lệch lớn này có thể coi là điều dễ hiểu, xuất phát từ những đặc trưng của thể loại thơ Đường như: ngôn ngữ, kết cấu, thời đại, tư tưởng thẩm mĩ. Bởi vì “khó dạy” nên sự hứng thú trong các giào dạy thơ Đường trở nên “khan hiếm” với tỉ lệ 23,3%. Phần lớn GV chỉ thực sự có hứng thú với một số bài được coi là hay, là tâm đắc nhất (33,3%). Tâm lí cảm thấy “bình thường” khi giảng dạy thơ Đường cũng chiếm tỉ lệ cao (26,7%), tức là GV lên lớp, dạy theo chương trình SGK để hoàn thành tiêt học chứ không thực sự có cảm hứng, niềm đam mê trong giảng dạy. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng của một giờ dạy thơ Đường. Căn cứ vào phiếu điều tra thì những khó khăn còn tồn tại trong quá trình dạy thơ Đường đó là vấn đề về Thi pháp thơ (ngôn ngữ, kết cấu, niêm luật) chiếm 33,3%. Đáng chú ý ở đây là không chỉ có những đặc điểm thuộc về bản thân tác phẩm gây trở ngại cho GV mà còn có các nhân tố ảnh hưởng
  • 33. khác, trong đó có sự thờ ơ, không hứng thú của HS (26,7%). Tiếp đến là những yếu tố: thời đại, tư tưởng thẩm mĩ (13,3%). Sở dĩ các điển cố, điển tích không phải là trở ngại lớn đối với GV là vì phần chú giải của SGK đã nêu ra khá rõ ràng, chi tiết. Về phương pháp đổi mới dạy học, kết quả khảo sát cho thấy: 26,7% GV trả lời đã chú trọng đến đặc trưng thể loại, thông qua đặc trưng thể loại để cắt nghĩa nội dung; 20% GV dùng phương pháp dạy học theo hướng tích hợp; 13,3% GV sử dụng phương pháp lí giải, cắt nghĩa các từ khó, điển cố, điển tích; còn lại 40% GV vẫn sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống là phân tích, bình giảng giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Nhìn chung, các phương pháp dạy học trên không phải là không hiệu quả nhưng vô hình chung sẽ khiến cho giờ học thơ Đường trở thành một giờ phân tích, bình giảng của GV và nghe - chép của HS. Khi được hỏi về mức độ quan tâm của GV đối với vấn đề định hướng HS tiếp cận tác phẩm theo đặc trưng thể loại, phần lớn GV trả lời là rất quan tâm với tỉ lệ là 46,7%, còn không quan tâm là 23,3%. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, mặc dù ý thức được vai trò quan trọng của việc vận dụng đặc trưng thể loại vào dạy học tác phẩm nhưng trong quá trình dạy học, GV chưa thể nào bao quát hết các giá trị nghệ thuật, đặc trưng thể loại để hướng dẫn HS tìm hiểu khi tỉ lệ của các yếu tố được khai thác trong tác phẩm có sự chênh lệch: 26,7 % GV khai thác yếu tố kết cấu, niêm luật của tác phẩm; 33,3% GV khai thác yếu tố hình tượng nghệ thuật và 23,3% GV chú trọng vẻ đẹp ngôn ngữ. Vẫn biết rằng một tiết học thơ Đường là 45 phút không thể nào phân tích hết các khía cạnh đặc sắc của tác phẩm nhưng GV cần trang bị cho mình các phương pháp, biện pháp hướng dẫn HS tiếp cận một cách trọn vẹn chúng kể cả thao tác hướng dẫn tìm hiểu tác phẩm ở nhà. Điều tra về cách thức tổ chức dạy học, xuất phát từ nguyên nhân do hạn chế về vốn từ tiếng Hán cho nên tỉ lệ GV không hướng dẫn HS đối chiếu các
  • 34. bản dịch thơ với nguyên tác hoặc có nhưng lại chỉ với một số bài chiếm 70% trong khi chỉ có 30% GV tiến hành một cách thường xuyên. Đây là một điều bất cập trong dạy học nhất là với thể loại thơ Đường. Với cách thức dạy học này, sẽ tạo cho HS cách tiếp nhận hời hợt, chỉ học và soạn bài ở phần dịch thơ chứ không quan tâm đến nguyên tác. Với câu hỏi “Thầy cô có thường xuyên hướng dẫn HS so sánh, đối chiếu đặc trưng thể loại của thơ Đường với các thể loại thơ khác trong chương trình không?” thì đa phần trả lời thường xuyên, cần thiết (63,3%) vì cho rằng điều này sẽ một lần nữa khắc sâu tri thức về thể loại cho HS, để các em có thể áp dụng vào phân tích, tìm hiểu các tác phẩm khác trong chương trình, song vẫn còn 36,7% ý kiến không thường xuyên, không chú trọng. - Thực trạng học thơ Đƣờng của HS ở trƣờng THPT + Nội dung khảo sát (Phiếu điều tra – mục 2 phần phụ lục). Bảng 1.3. Thống kê thực trạng học tập thơ Đƣờng của học sinh trung học phổ thông Câu Các phƣơng án kiến khác A B C d SL % SL % SL % SL % SL % 1 100 62,5 120 37,5 2 120 37,5 100 31,3 60 18,7 40 12,5 3 70 21,9 75 23,4 115 35,9 60 18,7 4 115 32,8 40 12,5 85 26,6 80 25 10 3,1 5 80 25 35 10,9 135 42,2 30 9,4 40 12,5 6 90 28,2 95 29,7 60 18,7 75 23,4 7 60 18,7 85 26,6 175 54,7
  • 35. 8 75 23,4 70 21,9 95 29,7 80 25 + Đánh giá, nhận xét: Từ số liệu ở bảng 1.3, chúng tôi thấy việc nhận thức của HS về việc học thơ Đường có nhiều điều đáng quan tâm. Với tỉ lệ 62,5% HS không cảm thấy hứng thú khi học thơ Đường , còn lại 37,5% HS hứng thú. Sở dĩ có sự chênh lệch này bởi các em chưa nắm bắt được đặc trưng của thể loại thơ Đường nên khi tiếp nhận cảm thấy “khó” tiếp thu, không hứng thú. Nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng trên là phần lớn HS chỉ thích học những thể loại thơ dễ học, dễ thuộc và gần với “thời đại” của các em khi có tới 68,8% HS thích học các bài thuộc phonh trào Thơ mới, thơ hiện đại mà thờ ơ với các bài thơ Đường, thơ chữ Hán. Nhận định này của HS là có cơ sở, phải chăng đây chính là hậu quả của tâm lí dạy và học từ xưa đến nay ở các trường phổ thông đối với thể loại thơ này. Theo ý kiến của HS thì tỉ lệ GV thường xuyên cung cấp kiến thức về thể loại cho các em là 21,9%; còn lại là 23,3% không cung cấp; 35,9% cung cấp nhưng tùy từng bài; 18,7% có cung cấp nhưng không đầy đủ trong khi đây là một việc làm rất cần thiết. Mặc dù tỉ lệ không hứng thú với thơ Đường là khá cao song khi được hỏi những yếu tố nào của tác phẩm làm em chú ý thì đa số các em đã biết được những yếu tố quan trọng góp phần làm nên giá trị của thơ Đường như: các điển cố, điển tích, bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ hàm súc, cô đọng… Đây là điều đáng mừng cho GV trong qua trình giảng dạy khi các em vẫn có sự chú ý đến những đặc trưng nổi bật về thể loại của thơ Đường. Theo kết quả thống kê thì khó khăn mà các em gặp phải khi tiếp cận thơ Đường là do: phần nguyên tác chữ Hán khó hiểu (25%); sự cách biệt về
  • 36. thời đại (9,4%) và 10% là do hiểu các điển cố, điển tích chưa được rõ. Những khó khăn trên chính là rào cản để các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp chứa đựng trong những “mĩ từ”, ẩn ý của tác giả. Đặc biệt là với 42,2% HS cho rằng, thơ Đường với hệ thống thi pháp, thể loại phong phú, đặc sắc nhưng khó tiếp cận khiến các em gặp nhiều trở ngại khi thâm nhập tác phẩm, dần dần dẫn tới tâm lí chán học, lười học và phụ thuộc vào các sách tham khảo khi soạn bài hay làm bài kiểm tra. Không chỉ GV mà ngay cả HS trong quá trình tiếp cận và học thơ Đường, vấn đề dựa trên nguyên tác và đối chiếu với nguyên tác là một hoạt động cần được sử dụng thường xuyên. Tuy nhiên vấn đề này ở đây còn nhiều bất cập khi có 23,4% HS chỉ học tác phẩm dựa vào phần dịch thơ; 18,7% HS tiến hành đối chiếu nguyên tác với bản dịch thơ ở một số bài. Điều này sẽ dẫn tới sự lệch lạc trong quá trình tiếp cận tác phẩm của HS bởi nếu không xuất phát từ nguyên tác và đối chiếu với nguyên tác, các em sẽ không thấy được cái hay của nguyên tác và những thiếu sót trong dịch thơ để rút ra sự so sánh, nhận xét của cá nhân. Bởi vì nhận thức về mức độ cần thiết bám vào đặc trưng thể loại khi học thơ Đường của HS là khá cao 45,3% cho nên khi hỏi về mục tiêu của việc học thơ Đường theo đặc trưng thể loại, hầu hết HS đều đưa ra những mục tiêu cụ thể đó là: nắm được đặc trưng thi pháp thơ Đường thông qua dùng nghệ thuật để cắt nghĩa nội dung tác phẩm; biết vận dụng vào tìm hiểu, phân tích những tác phẩm thuộc thể loại khác trong chương trình. Nhưng vẫn có một số em vẫn còn chú trọng vào phân tích nội dung, tư tưởng mà bỏ qua việc nắm được đặc trưng thể loại của nó. b, Dự giờ giáo viên Chúng tôi đã trực tiếp dự giờ dạy của một số GV để tìm hiểu thực trạng dạy học đọc hiểu thơ Đường ở một số trường THPT:
  • 37. + Số lớp: 5 lớp + Số tiết: 10 tiết + Số GV được dự: 5 GV + Bài dự: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch). Thông qua việc dự giờ đánh giá 1 số GV, chúng tôi nhận thấy: trong quá trình lên lớp dạy học các tác phẩm thơ Đường ở trường THPT, hầu hết các GV đã ý thức được hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy học, từ đó tiến hành các cách thức dạy học theo chương trình đổi mới của Bộ GD và ĐT. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực ấy vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau: Đối với thể loại thơ Đường, GV vẫn giữ nguyên cách tiếp cận, khai thác nội dung tác phẩm như các thể loại khác trong chương trình. Điều này có lẽ cũng dễ hiểu vì thời lượng của một tiết học không đủ để GV áp dụng tốt các phương pháp dạy học mới trong khi mảng thơ Đường chiếm một số lượng tương đối lớn. Và cũng bởi vì tình trạng một GV Ngữ văn phải ôm đồm cả văn học Việt Nam lẫn văn học các nước Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ; từ văn học dân gian đến thơ ca hiện đại nên hệ quả mang lại là thiếu sự chuyên môn hóa trầm trọng. Từ thực tế trên, việc GV chưa hướng dẫn HS vận dụng đặc trưng thể loại vào phân tích tác phẩm nên các em có sự hoang mang khi đứng trước một tác phẩm văn học với lí do đơn giản: không biết tác phẩm thuộc thể loại nào? Đặc trưng của thể loại ấy ra sao? Dụng ý của tác giả là gì khi sử dụng các biện pháp nghệ thuật?... Phương pháp giảng dạy truyền thống “thầy đọc - trò chép”, “thầy giảng - trò nghe” vẫn đang tồn tại phổ biến. Cứ như thế sẽ dẫn đến tình trạng thụ động của HS, HS không chịu khó suy nghĩ, động não trước những câu hỏi
  • 38. mà GV đưa ra, hoặc nếu có suy nghĩ thì chẳng qua là sự “sao chép” máy móc từ tài liệu, sách tham khảo. Hơn nữa, các câu hỏi mà GV đặt ra thường đã có đáp án trả lời sẵn trong sách tham khảo, các câu hỏi gợi mở, dẫn dắt, nêu vấn đề chưa được sử dụng nhiều, chủ yếu là sử dụng loại câu hỏi phát hiện, phân tích giản đơn. Phương pháp dạy học hiện đại thông qua việc tổ chức cho HS hoạt động nhóm đã được áp dụng nhưng chưa thực sự hiệu quả. Một số GV chưa định hình được cách thức tổ chức cho các em tham gia thảo luận, dẫn đến tình trạng một số em đứng ngoài cuộc, không đóng góp ý kiến. Bên cạnh đó, việc bố trí thời gian của một tiết học thơ Đường để HS tham gia thảo luận nhóm vẫn chưa hợp lí. Không nhất thiết là phải thảo luận tất cả các vấn đề của bài học, nếu GV biết lựa chọn những tình huống có “vấn đề” để đưa ra thảo luận thì kết quả đạt được sẽ tốt hơn. Bởi vì vẫn giữ cách dạy truyền thống là “thầy giảng - trò chép” nên việc trích giảng dựa trên bản dịch mà không có sự đối chiếu với nguyên tác của GV đã dẫn đến lí giải sai lệch một số kiến thức. Từ sai lệch nội dung đến sai lệch hình thức - nhất là với thể thơ Đường có hệ thống thi pháp khá nổi bật, đặc sắc. Bên cạnh đó, phần lớn GV chưa thực sự hiểu được vai trò của việc dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại, GV thiên về phần giảng mà bỏ qua phần định hướng HS tự tìm hiểu, tự khám phá tác phẩm, khiến cho HS hạn chế việc bộc lộ cá tính sáng tạo riêng của mình, sự “đồng sáng tạo” với tác giả, tác phẩm không được diễn ra. Mặc dù sự hứng thú của HS trong giờ học thơ Đường là có nhưng quan trọng là cái gì của bài học sẽ đọng lại trong tư duy nhận thức của các em? Do đó, để có một giờ học thực sự đạt kết quả tốt thì GV cần biết kết hợp các phương pháp giảng dạy, đặc biệt là chú trọng vận dụng tri thức
  • 39. thể loại vào phân tích tác phẩm, biết điều chỉnh chương trình và giúp các em HS trở thành chủ thể tiếp nhận trong các giờ dạy và học thơ Đường. 1.2.2.4. Nhận định và đánh giá thực trạng * Thuận lợi: Những bài thơ Đường được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn THPT là những bài thơ nổi tiếng của các thi nhân thời Đường với đặc điểm nổi bật là ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, dễ thuộc, giàu xúc cảm và dễ đi sâu vào lòng người. Nội dung của các bài thơ Đường mang đậm tính nhân văn, tình cảm chan chứa, sâu lắng đối với thiên nhiên, con người với những hình ảnh bình dị rất đỗi quen thuộc với đặc trưng văn hóa của con người Việt Nam. Chính điều này ít nhiều giúp các em HS cũng như GV cảm thấy yêu thích, hứng thú khi tiếp cận thơ Đường. Bên cạnh đó, các bài thơ Đường được giới thiệu trong SGK có đầy đủ các phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, phần phụ chú giới thiệu về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để HS và GV đọc và tham khảo trước khi lên lớp. Phần lớn GV được đào tạo chuyên môn cao, số GV trẻ mới ra trường được trang bị đầy đủ tất cả các phương pháp, kiến thức theo tinh thần đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, đặc biệt là xu hướng dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại. GV trong quá trình giảng dạy được bổ trợ một lượng kiến thức lớn thông qua hệ thống tài liệu tham khảo: sách vở, tạp chí, internet,.. thuận lợi cho GV nghiên cứu, tìm hiểu. * Khó khăn, hạn chế: Bên cạnh những mặt thuận lợi kể trên, chúng tôi nhận thấy, việc dạy và học thơ Đường ở trường THPT cũng gặp không ít khó khăn: + Về phía giáo viên:
  • 40. Dạy học thơ Đường luôn là một thử thách khó khăn đối với GV. Nhiều GV còn chưa cảm nhận được hết những giá trị độc đáo, tinh tế của thơ Đường. Điều này dẫn đến tình trạng một số bộ phận GV e dè, thậm chí là né tránh dạy các bài thơ Đường trong các giờ thao giảng, giờ dạy mẫu. Qua thực tế dự giờ các tiết dạy học thơ Đường của đồng nghiệp, chúng tôi nhận thấy cách thức giảng văn theo lối truyền thống vẫn đang được vận dụng ở những GV có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm - những người am hiểu về văn học cổ, về các điển cố, điển tích, về chữ Hán, chữ Nôm. Nhưng vô tình, cách giảng này sẽ dẫn đến hậu quả đó là không tạo ra sự hứng thú, sôi nổi trong các giờ lên lớp, tạo nên một tiết học đều đều, chậm rãi mà không có điểm nhấn để thu hút các em. Bên cạnh phương pháp giảng văn truyền thống, một số GV sử dụng hình thức cắt nghĩa nội dung và nghệ thuật của một bài thơ một cách giản đơn, thuần túy. Điều này gây nên sự nhàm chán cho HS khi những giá trị độc đáo của thơ Đường chưa được khai mở những điều tự thân nó vốn có. Dạy học thơ Đường về căn bản là dựa vào bản dịch nên ít nhiều các giá trị của nó không được thể hiện hết qua bản dịch. Các GV trẻ mặc dù có tư duy nhạy bén, năng lực cảm thụ tốt nhưng việc chiếm lĩnh nhưng giá trị độc đáo của thơ Đường còn hạn chế bởi vốn chữ Hán còn hạn hẹp. Một số GV có ý kiến về thời lượng cho một tiết học thơ Đường chỉ 45 phút là quá ít, không đủ để phân tích trọn vẹn cả nội dung lẫn hình thức, nhiều khi họ bỏ qua phần hình thức, nghệ thuật. Đối với các tác phẩm Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu), Khuê oán (Vương Xương Linh), Điều minh giản (Vương Duy) dù là các bài đọc thêm nhưng mỗi bài thơ là kết tinh trong nó những vẻ đẹp riêng, tiêu biểu cho thi pháp thơ Đường nhưng nhiều GV cho biết họ không có thì giờ dành để hướng dẫn HS tìm hiểu bởi thời gian eo hẹp
  • 41. được dành cho các bài chính khóa và bởi các bài đọc thêm không nằm trong nội dung thi cử. + Về phía học sinh: Thơ Đường với nội dung hàm súc, cô đọng, nhiều điển cố, điển tích, từ ngữ cổ, hệ thống thi pháp với niêm luật chặt chẽ, nghiêm ngặt nên khiến HS cảm thấy “khó”, trong quá trình tiếp cận. Thơ Đường được đưa vào chương trình giảng dạy với các bản phiên âm, dịch nghĩa nhiều khi chưa sát, một từ có thể có hai đến ba cách hiểu, điều này làm cho HS trong qua trình nhận thức bị “rối”, dẫn đến sự giải thích sai lệch của nhiều HS khi cùng đứng trước một vấn đề. Trong chương trình SGK không có bài khái quát về thơ Đường nên khi bắt đầu tiếp cận tác phẩm trong một thời gian tương đối ngắn sẽ làm các em bỡ ngỡ, chưa trang bị sẵn những kiến thức cần thiết để bước vào bài học. Tình trạng thờ ơ, thụ động, ít phát biểu ý kiến xây dựng bài, thậm chí có những chỗ chưa hiểu nhưng các em lại không thắc mắc, không yêu cầu GV phải giải thích nên giờ học vì thế mà trở nên đơn điệu, tẻ nhạt. Nhịp sống hiện đại với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin đã thu hút sự quan tâm của thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường, phần nào khiến các em ít hứng thú với các bài thơ cổ “khó hiểu”, cách xa thời đại mà các em sống. Đó là chưa kể đến khuynh hướng ngày càng có nhiều HS chạy theo các môn học khối tự nhiên mà coi nhẹ môn Văn cũng như các môn thuộc khối xã hội vì theo các em phần văn học nước ngoài ở lớp 10, 11 không nằm trong phần ôn tập để phục vụ việc thi cử trong các kì thi quan trọng.