GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
PHẬT NÓI VỀ NGŨ GIỚI
1. Kinh Tăng Nhất A-Hàm
14. Phẩm Ngũ giới
Thích Đức Thắng
Nguồn: Việt dịch: Thích Đức Thắng, Hiệu đính & Chú thích:
Tuệ Sỹ
KINH SỐ 1
[576a14] Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,
nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu, tu
nhiều, mà thành hạnh địa ngục, thành hạnh súc sanh, thành
hạnh ngạ quỷ, nếu sinh vào cõi người mà thọ mạng ngắn
ngủi: đó là sát sinh.
“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nào có ý thích sát sinh, liền
bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; nếu sinh vào cõi
người thì thọ mạng ngắn ngủi. Vì sao vậy? Vì họ đã dứt sinh
mạng kẻ khác. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy học chớ sát
sinh.
2. “Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng
hành.
KINH SỐ 2
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,
nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu
hành, tu hành nhiều, mà hưởng phước cõi người, hưởng
phước cõi trời, chứng đắc Niết-bàn: đó là không sát sinh.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có người nào không hành sát sinh, cũng không nghĩ
đến sát sanh, thọ mạng sẽ dài lâu. Vì sao vậy? Vì không bức
hại. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy học chớ sát sinh.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
[576b01] Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy,
hoan hỷ phụng hành.
3. KINH SỐ 3
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,
nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu, tu
nhiều, mà thành hạnh địa ngục, thành hạnh súc sanh, thành
hạnh ngạ quỷ; nếu sinh vào cõi người rất là nghèo túng, áo
không đủ che thân, ăn không đầy miệng: đó là trộm cướp.
“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nào có ý thích trộm cướp,
lấy tài vật của người khác, liền bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sinh; nếu sinh vào cõi người rất là nghèo túng. Vì sao vậy?
Vì đã dứt sinh nghiệp người khác. Cho nên, này các Tỳ-kheo,
hãy học xa lìa lấy của không được cho.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ
phụng hành.
4. KINH SỐ 4
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,
nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu
hành, tu hành nhiều, mà hưởng phước cõi người, hưởng
phước cõi trời, chứng đắc Niết-bàn: đó là bố thí rộng rãi.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có người nào hành bố thí rộng rãi, trong đời hiện tại
được sắc đẹp, được sức khỏe, được đầy đủ tất cả; cõi trời, cõi
người, hưởng phước vô lượng.
“Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy hành bố thí, chớ có lòng
keo lẫn.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ
phụng hành.
5. KINH SỐ 5
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,
nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu, tu
nhiều, mà thành hạnh địa ngục, thành hạnh súc sanh, thành
hạnh ngạ quỷ; nếu sinh vào cõi người, sống tại gia gian dâm
không có tịnh hạnh, bị người chê bai, và thường bị phỉ báng.
Một pháp gì? Đó là tà dâm.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có người nào dâm dật vô độ, thích xâm phạm vợ
người, liền bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; nếu sinh
vào cõi người thì khuê môn dâm loạn.
“Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy thường chánh ý, chớ khởi ý
tưởng dâm. Cẩn thận chớ xâm phạm vợ người.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
6. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ
phụng hành.
KINH SỐ 6
[576c01]Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,
nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu
hành, tu hành nhiều, mà hưởng phước cõi người, hưởng
phước cõi trời, chứng đắc Niết-bàn: đó là không tà dâm vợ
người.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có người nào trinh khiết, không tà dâm, thân thể
hương khiết, cũng không có tưởng tà vạy, sẽ hưởng được
phước cõi người, cõi trời.
“Cho nên, này các Tỳ-kheo, chớ hành tà dâm, khởi ý dâm
loạn.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
7. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ
phụng hành.
KINH SỐ 7
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,
nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu, tu
nhiều, mà thành hạnh địa ngục, thành hạnh súc sanh, thành
hạnh ngạ quỷ; nếu sinh vào cõi người, thì hơi miệng hôi hám,
làm người chán ghét: đó là nói dối vậy.
“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nào nói dối, nói thêu dệt,
gây tranh cãi phải quấy, thì liền bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sinh. Vì sao vậy? Vì sự nói dối ấy.
“Cho nên, này các Tỳ-kheo, phải chí thành không được nói
dối.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ
phụng hành.
8. KINH SỐ 8
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,
nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu
hành, tu hành nhiều , mà hưởng phước cõi người, hưởng
phước cõi trời, chứng đắc Niết-bàn. Một pháp gì? Đó là
không nói dối.
“Này các Tỳ-kheo, người nào không nói dối, thì hơi miệng
thơm tho, tiếng tốt đồn xa.
“Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy thực hành không nói dối.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ
phụng hành.
KINH SỐ 9
Tôi nghe như vầy:
9. Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,
nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào đã tu, tu
nhiều, mà chịu tội địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ; nếu sinh vào
cõi người thì cuồng si, ngu muội, không biết chân ngụy: đó là
uống rượu.
“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nào tâm ham uống rượu,
thì sẽ sinh vào nơi [577a01] không có trí tuệ, thường chịu
ngu si.
“Cho nên, này các Tỳ-kheo, cẩn thận chớ uống rượu.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ
phụng hành.
KINH SỐ 10
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,
nước Xá-vệ.
10. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở trong chúng này Ta không thấy một pháp nào hơn pháp
này, nếu đã tu hành, tu hành nhiều, mà hưởng phước cõi
người, hưởng phước cõi trời, chứng đắc Niết-bàn. Một pháp
gì? Đó là không uống rượu.
“Này các Tỳ-kheo, nếu có người nào không uống rượu, sinh
ra liền thông minh, không có ngu muội, biết rộng kinh sách,
ý không lầm lẫn.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ
phụng hành.
Kệ tóm tắt:
Thứ năm, kinh địa ngục,
Đây gọi hành bất thiện;
Năm là trời cùng người,
Hãy biết theo thứ tự.
[1] Pāli tương đương, A. 1.16 Ekadhamma. Cf. Quang tán
Bát-nhã 7, T8n222, tr.195a12
11. [2] Pāli: buddhānussati.
[3] Pāli: dhammānussati.
[4] Pāli: Saṅghānussati.
[5] Pāli: sīlānussati.
[6] Pāli: cāgānussati.
[7] Pāli: devānussati.
[8] Pāli: upasamānussati, niệm tịch tĩnh (của Niết-bàn).
[9] Pāli: anāpānasati, niệm hơi thở ra vào.
[10] Pāli: kāyagatāsati, niệm thân hành.
[11] Pāli: maraṇassati.
[12] Bản Hán, hết quyển 1.
[13] Nguyên Hán: 諸法之本。如來所說. Cùng ý nguĩa, nhưntg
các đoan sau, Hán dịch khác: 世尊是諸法之本。如來所陳。承受.
Xem Phẩm 9, kinh 1.
12. [14] Để bản: đãm phạ 憺怕. Nên đọc là đạm bạc 憺怕.
[15] Để bản: võng kết 網結. TNM: mạn kết. Pāli:
māna-saññojana.
[16] Nguyên Hán: chư thú dĩ tận 諸趣已盡, chỉ các cõi thọ
sinh, tức tái sinh. Pāli: gati. Nhưng định ngữ thường gặp:
khīṇạjāti, sanh dĩ tận, sự tái sinh đã dứt hết. Có lẽ bản hán đjc
là khīṇa-gati.
[17] Pháp pháp thành tựu 法法成就, nên hiểu là pháp tùy
pháp hành (Pāli: dhammānudhamma-paṭipanna), thực hành
theo thuận thứ của pháp.
[18] Cát tường bình 吉祥瓶, tức đức bình 德瓶; Đại trí độ 13
(154a07): “Trời có mọt cái binh gọi là đức bình, từ trong đó
sản xuất những vật cần yếu. Ai có bình này, muốn gì đều
được.” Skt. maṇgalapātra/ maṅgalapūrṇa-kumbha. Không
tìm thấy Pāli tương đương.
[19] Nguyên Hán: hưu tức 休息. Pāli: upasamānussati.
[20] An-ban niệm 安般, niệm hơi thỏ ra vào.
[21] Dụng tâm trì thân 用心持身; chính xác nên hiểu: cảm
giác toàn thần khi thở vô… khi thở ra. Pāli:
sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati.
13. [22] Bạch chức 白膱 (?) Khang hy: “Thịt khô (脯 phủ) dài 1
thước 2 tấc gọi là chức.” Có lẽ đây nên đọc là bạch mô 白膜.
Nhưng cũng không biết chỉ thứ gì.
[23] Hán: bách diệp 百葉, nguyên chỉ dạ dày của bò dê.
[24] Thương đãng 滄蕩 (?)
[25] Nguyến: tì bào 脾泡, bong bóng hay bọt nơi lá lách (?).
[26] Đại thể, gồm 36 vật trong thân, cf. Tạp 43, T2n99, tr.
311a28; Đại Bát-nhã 53, T5n220, tr. 298b26. Cf. Pāli, M.iii. 90.
[27] Bản Hán, hết quyển 2.
[28] Tham chiếu Pāli, A. 1. 14. Etadaggavaggo.
[29] A-nhã Câu-lân 阿若拘鄰. Pāli: Aññākoṇḍañña (A-nhã
Kiều-trần-như),
[30] Ưu-đà-di 優陀夷. Pāli: Udāyī.
[31] Ma-ha-nam 摩訶男. Pāli: Mahānāma.
[32] Thiện Trửu (Chẩu) 善肘. Pāli: Subāhu.
15. [45] Ly-viết 離曰. Pāli: Revata.
[46] So sánh Pāli: senāsanapaññapakānaṃ, người phân phối
chỗ nằm cho Tăng. Xem Tứ phần 1 (T22n1428, tr. 587a25tt).
[47] Đà-la-bà-ma-la 陀羅婆摩羅. Pāli: Dabba-Mallaputta.
[48] Tiểu Đà-la-bà-ma-la 小陀羅婆摩羅. Xem cht. 20 trên.
[49] La-tra-bà-la 羅吒婆羅. Pāli: Raṭṭhapāla. Nhưng A.1. 24 nói,
quý tộc xuất gia (uccākulikānaṃ) là Bhaddhiya
Kāligodhāyaputta. Còn Raṭṭhapāla là đệ nhất trong những
Tỳ-kheo xuất gia bởi tín tâm kiên định (saddhāpabbajitānaṃ
yadidam raṭṭhapālo).
[50] Đại Ca-chiên-diên 大迦旃延. Pāli: Mahā-Kaccāna.
[51] Câu-luật, hiệu của Đại Mục-kiền-liên, gopị theo sinh
quán; Pāli: Kolitagāma.
[52] Hán: thọ trù 受籌 (Pāli: salāka), đây chỉ thẻ chia phần ăn
cho các tỳ-kheo.
[53] Quân-đầu-bà-mạc 軍頭婆漠. Pāli: Kuṇḍdhāhana. AA. i.
146 giải thích: Kuṇḍadhāna là người nhận thẻ số 1 trong buổi
cúng dường của Mahā-Subhaddā, con gái trưởng của Ông
Cấp Cô Độc, trong ngày cưới chồng. Xem Phẩm 30, kinh số 3.
16. [54] Tân-đầu-lô 賓頭盧. Pāli: Piṇḍola-Bhāradvāja. A.i. 24: đệ
nhất sư tử hống (sīhanādiknaṃ).
[55] Sấm 讖; để bản: Thức 識. Có lẽ Pāli: Khema, được nói đến
trong S.iii. 126.
[56] Bằng-kỳ-xá 鵬耆舍. Pāli: Vaṅgīsa.
[57] Ma-ha Câu-hy-la 摩訶拘絺羅. Mahā-Koṭṭhika.
[58] Kiên Lao 堅牢.
[59] Nan-đề 難提. Pāli: Nandiya.
[60] Kim-tỳ-la 今毘羅. Pāli: Kimbila.
[61] Chỉ hành đầu đà nhất tọa thực. Pāli: ekāsanika.
[62] Thi-la 施羅.
[63] Phù-di 浮彌.
[64] Hồ nghi Ly-viết 狐疑離. Pāli: Kaṅkhā-Revata.
[65] Bà-ta 婆嗟.
17. [66] Đà-tố 陀素.
[67] Ngũ nạp y 五納衣: y năm mảnh; cơ bản chỉ y năm điều,
tức năm mảnh ghép lại; nhưng cũng chỉ chung tất cả loại y
cắt rọc; hoặc gọi tắt là nạp y.
[68] Ni-bà 尼婆.
[69] Ưu-đa-la 優多羅. Pāli: Uttara?
[70] Lô-hê-ninh 盧醯甯.
[71] Ưu-kiềm-ma-ni-giang 優鉗摩尼江.
[72] San-đề 刪提; bản Tống: Na-đề 那提. Trong kệ tóm tắt, gọi
là Tức 息, cho thấy Pāli: Sānti. Nhưng chưa tìm thấy đâu trong
tư liệu nào Pāli.
[73] Bà-câu-la 婆拘羅. Pāli: Bakkula.
[74] Mãn Nguyện Tử 滿願子. Pāli: Puṇṇa Mantāniputta.
[75] Ưu-ba-ly 優波離. Pāli: Upāli.
[76] Bà-ca-lợi 婆迦利. Pāli: Vakkalī.
[77] Nan-đà 難陀. Pāli: Nanda.
18. [78] Bà-đà 婆陀.
[79] Tư-ni 斯尼.
[80] Thiên Tu-bồ-đề 天須菩提.
[81] Nan-đà-ca 難陀迦. Pāli: Nandaka. A.i. 25: Đệ nhất giáo
thọ Tỳ-kheo-ni (bhikkunovādakānaṃ) là Nandaka.
[82] Tu-ma-na 須摩那.
[83] Thi-bà-la 尸婆羅. Pāli, A.1. 24: Sīvala, lợi dưỡng đệ nhất
(lābhīnaṃ).
[84] Ưu-ba-tiên Ca-lan-đà Tử 優波先迦蘭陀子. Có lẽ Pāli,
Upasena Vaṅgantaputta, em trai ngài Xá-lợi-phất, hành giả
đầu-đà. A.i. 24 nói, Upasena này là đệ nhất trong các Tỳ-kheo
oai nghiêm (samantapāsādikānaṃ).
[85] Bà-đà-tiên 婆陀先.
[86] Ma-ha Ca-diên-na 摩訶迦延那.
[87] Ưu-đầu-bàn 優頭槃.
[88] Câu-ma-la Ca-diếp 拘摩羅迦葉. A.i. 24: Đệ nhất có lời nói
19. làm đẹp lòng người (cittakathikānaṃ) là Kumārakassapa.
[89] Diện Vương 面王. Tham chiếu, A.i.25: Thọ trì y phục thô
xấu (lūkhacīvaradhārānaṃ) la Mogharājāti.
[90] A.i. 24: Rāhula, đệ nhất siêng học (sikkhākāmānaṃ).
[91] Để bản: Ban-thố 般兔. TNM: Bàn-đặc 槃特. Tham chiếu,
A.i. 24: Mahā-Panthaka, thiện xảo hồi chuyển các tưởng
(saññāvivaṭṭakusalānaṃ).
[92] Châu-lợi Bàn-thố (đặc) 周利般兔 . Pāli: Cūḷa-Panthaka,
A.i.24: đệ nhất biến hóa ý thành thân (manomayaṃ kāyaṃ
abhinimmiantānaṃ).
[93] Thích Vương 釋王. Có lẽ chỉ Pāli Bhaddhiya
Kāligodhāputta, nguyên là ông hoàng họ Thích.
[94] Bà-đề-bà-la 婆提婆羅.
[95] La-bà-na-bà-đề 羅婆那婆提. Tham chiếu, A.i.23: đệ nhất
có âm thanh dịu dàng (mañjussarāṃ) là Lakuṇḍka Bhaddiya.
[96] Ương-ca-xà 鴦迦闍.
[97] A-nan 阿難.
20. [98] Ca-trì-lợi 迦持利.
[99] Nguyệt Quang 月光. Pāli: Jotika (Jotiya).
[100] Thâu-đề 輸提.
[101] Thiên 天.
[102] Quả Y 果衣. Có lẽ Pāli: Bāhiya-Dārucīriya, người lấy vỏ
cây làm áo. Nhưng, A.i. 24 nói ngài là đệ nhất thần thông
nhanh chóng. (khippābhiññānaṃ), trong khi đó, đệ nhất nhớ
nhiều đời trước (pubbenivāsaṃ anussarantānaṃ) là Sobhita.
[103] Bà-hê, phiên âm Bāhiya 婆醯, tức Quả Y ở trên.
[104] Ương-quật-ma 鴦掘魔. Pāli: Aṅgulimāla.
[105] Tăng-ca-ma 僧迦摩. Pāli: Saṅgāmaji.
[106] Chất-đa Xá-lợi-phất 質多舍利弗. Caitta
(Hatthirohaputta = Hatthisāriputta).
[107] Thiện Lai 善來. Pāli, A.i. 25: đệ nhất thiện xảo với hỏa giới
tam-muội là Sāgata (tejodhātukusalānaṃ yadidaṃ sāgato).
Bản Hán đọc là Sugāta. Tỳ-kheo này hàng phục được con độc
long bằng hỏa quang tam muội. Xem Tứ phần, tr. 671c. Vin.
iv. 108.
21. [108] Có thể đồng nhất với Trưởng lão Nārada của Pāli, được
kể trong các sớ giải của Petavatthu (Ngạ quỷ sự) và
Vimāvatthu (Thiên cung sự).
[109] Có thể đồng nhất vơi Trưởng lão Bhūta của Pāli, người
mà tất cả các anh chị đều bị một con quỷ dạ-xoa ăn thịt.
[110] Tỳ-lô-giá 毘盧遮.
[111] Tu-bồ-đề 須菩提. Pāli: Subhūti.
[112] A.i. 24: đệ nhất lâm trụ (a-lan-nhã hạnh hay vô tránh
hạnh), và đệ nhất ứng cúng, là Tu-bồ-đề (araṅavihārinām,
dakkhiṇeyyaṃ, Subhūti).
[113] Kỳ-lợi-ma-nan 耆利摩難. Đồng nhất với Girimānanda
của Pāli.
[114] Diệm Thạnh 焰盛.
[115] Để bản: bà 婆. TNM: thiện 善 (lai), tức Thiện Lai nói trên.
[116] Âm khác của dạ-xoa (Pāli: Yakkha, Skt. Yakṣa), liên hệ
đến Quỷ-đà, xem cht. 82 trên.
[117] Phù-lô-giá 浮盧遮, tức Tỳ-lô-giá nói trên.
22. [118] Thiện Nghiệp 善業, tức Tu-bồ-đề nói trên.
[119] Để bản: cập Ma-nan 及摩難, thiếu Diệm Thạnh.
[120] Có thể đồng nhất với Trưởng lão Brahmadatta của Pāli.
[121] Pāli. Susīma, nguyên là xuất gia ngoại đạo, được đề cập
nhiều chỗ trong Tương ưng bộ. Xem Tạp, các kinh 346, 373,
1220.
[122] Để bản: hỷ hành 喜行. TNM: thiện hành 善行.
[123] Sa-di-đà 娑彌陀.
[124] Dược-ba-ca 躍波迦.
[125] Đàm-di 曇彌.
[126] Tỉ-lợi-đà-bà-giá 比利陀婆遮.
[127] Vô Uý 無畏.
[128] Tu-nê-đa 須泥多.
[129] Đà-ma 陀摩.
23. [130] Tu-la-đà 須羅陀.
[131] Tỳ 毘, trên kia chép là tỷ 比.
[132] Na-già-ba-la 那伽波羅. Có thể đồng nhất Na-già-ba-la
trong Tạp, kinh 1232, một thời làm thị giả Phậtban đêm giả
làm quỷ Ma-cưu-la để nhát Phật.
[133] Bà-tư-tra 婆私吒. Có thể đ ồng nhất với Bà-tất-tra 婆悉
吒, Trường kinh 5, Trung kinh 154; Pā li: Vā seṭṭha, D. 27.
Aggañña.
[134] Tu-dạ-xa 須夜奢.
[135] Mãn Nguyện Thạnh Minh 滿願盛明.
[136] Di-hề 彌奚.
[137] Ni-câu-lưu 尼拘留.
[138] Lộc-đ ầu 鹿頭.
[139] Đ ịa 地.
[140] Đ ầu-na 頭那. Pā li: Doṇa?
[141] Pā li: Subhadda, đ ược hóa đ ộ cuối cùng trước khi
24. Phật nhập niết-bàn.
[142] Na-ca 那迦, tức Na-già-ba-la.
[143] Xá na舍那, trong này có thể gồm hai tên, nhưng không
thấy liện hệ tên đ ã nêu trên.
[144] Cf. A. 1. 14. 5.
[145] Đ ại Ái Đ ạo Kiều-đ àm-di 大愛道瞿曇彌. Pā li: Mahā
pajā patī Gotamī .
[146] Đ ể bản: Thức-ma 識摩. TNM: Sấm-ma. Pā li: Khemā
讖摩.
[147] Ưu-bát Hoa Sắc 優缽華色. Pā li: Uppalavaṇṇā (Liên
Hoa Sắc).
[148] Cơ-lê-xá Cù-đ àm-di 機梨舍瞿曇彌. Pā li: Kisā -Gotam
ī , đ ệ nhất thọ trì y thô xấu (lū khacī varadharā aṇaṃ).
[149] Xa-câu-lê 奢拘梨. Pā li: Sakulā .
[150] Xa-ma 奢摩. A.i.25: đ ệ nhất tọa thiền là Nandā .
[151] Ba-đ ầu-lan-xà-na 波頭蘭那.
25. [152] Ba-la-giá-na 波羅遮那. Ba-la-giá-na Pā li: đ ệ nhất trì
luật, Paṭā cā ra.
[153] Ca-chiên-diên 迦旃延. Xem Phẩm 23 kinh 1. A.i. 25: đ ệ
nhất tín giải thoát (saddhā dhi-muttā naṃ) là Siṅgā lakam
ā tā .
[154] Tối Thắng 最勝. Pā li: Uttarā ?
[155] Đ ể bản chép là ba-la.
[156] Bạt-đ à Ca-tỳ -ly 扙陀迦毘離.Pā li: Bhaddā Kā pilā n
ī .
[157] Hê-ma-xà 醯摩闍.
[158] Thâu-na 輸那. Pā li: Soṇā , đ ệ nhất tinh cần.
[159] Đ àm-ma-đ ề-na 曇摩提那. Pā li: Dhammadinnā
(Pháp Dữ).
[160] Ưu-đ a-la 優多羅. Pā li: Uttarā . Xem cht. 10 trên.
[161] Quang Minh 光明.
[162] Thiền Đ ầu 禪頭.
26. [163] Đ àn-đ a 檀多.
[164] Thiên Dữ 天與.
[165] Cù-ty 瞿卑.
[166] Vô Úy 無畏.
[167] Tỳ -xá-khư 毘舍佉. Pā li: Visakhā .
[168] Bạt-đ à-bà-la 拔陀婆羅.
[169] Ma-nộ-ha-lợi 摩怒呵利.
[170] Đ à-ma 陀摩.
[171] Tu-đ à-ma 須陀摩.
[172] Lệ-tu-na [王*劦]須那. TNM: Lệ-na [王*劦]那. Từ đ iển
không thấy từ này, 王*劦, không rõ đ ọc hiếp hay lệ.
[173] Xà-đ à 奢陀.
[174] Ưu-ca-la 優迦羅.
[175] Ly-na 離那.
27. [176] Đ ể bản: phân-việt 分越, TNM: phân-vệ, Pā li: piṇdapā
ta, hành khất thực.
[177] A-nô-ba-ma 阿奴波摩.
[178] Đ ể bản: đ a 多, chữ cập 及 chép nhầm.
[179] Bà-đ à: tức Bạt-đ à-bà-la nêu trên.
[180] Đ ể bản chép nhầm là A-nô-ba. TNM: Ma-nộ-kha.
[181] Lệ-na tức Lệ-tu-na ở trên. Đ ể bản chép nhầm là Xa-đ
a 奢多. TNM: lệ-xa [王*劦]奢.
[182] Ưu-ca-ma 優迦摩.
[183] Thanh Minh 清明.
[184] Tố-ma 素摩. Pā li: Somā Therī . Nhưng Pā li không đ
ề cập sự kiện này.
[185] Ma-đ à-lợi 摩陀利.
[186] Ca-la-già 迦羅伽.
[187] Đ ây chỉ Không giải thoát (Pā li: suñña-vimokkha).
29. [201] Giá-ba-la 遮波羅.
[202] Thủ-ca 守迦.
[203] Bạt-đ à Quân-đ à-la 拔陀軍陀羅. Pā li (A.i. 25): Bhadd
ā Kuṇḍalakesā (người Rā jagaha), đ ệ nhất thần thông
nhanh nhẹn (khippā bhiññā naṃ).
[204] Về các ưu-bà-tắc đ ệ nhất. Tham chiếu Pā li A.1. 14.
6 (R. i. 26).
[205] Tam Quả三果.Pā li, hai thương khách Tapussa-Bhallika,
hình như bản Hán đ ọc là Ta(ya?)pussa-Phalika.
[206] Chất-đ a 質多. Pā li: Citta-gahapati. Nhưng A.i. 26 nói
là đ ệ nhất thuyết pháp. (dhammakathikā naṃ).
[207] Kiền-đ ề A-lam 犍提阿藍.
[208] Quật-đ a 掘多.
[209] Ưu-ba-quật 優波掘.
[210] Ha-Xỉ A-la-bà 呵侈阿羅婆. Pā li: Haṭṭhaka (Haṭṭhi theo
bản Han) Ā ḷavaka; A.i. 26: đ ệ nhất hành bốn nhiếp sự đ ể
đ oàn kết đ ại chúng.
30. [211] Đ ể bản: ma cung 魔宮. TNM: ma hoạn .
[212] Dũ ng Kiện 勇健.
[213] Xà-lợi 闍利.
[214] Tu-đ ạt 須達. Pā li: Sudatta, tên thật của Cấp Cô Đ ộc.
[215] Đ ể bản: mẫn- thố 泯兔. TNM: mẫn dật.
[216] Sanh Lậu 生漏. Sanh Lậu 生漏, bản Minh chép là Sanh
Mãn. Có lẽ là Bà-la-môn Sanh Vă n đ ược thấy trong Tạp,
kinh 737, 739, 757. Pā li: Jā ṇussoṇi. Bản Hán đ ọc là Jā nā
sava.
[217] Phạm-ma-du 梵摩俞. Pā li: Brahmā yu, cf. M.iii.133.
[218] Ngự Mã Ma-nạp 御馬摩納.
[219] Hỷ Vă n Cầm 喜聞笒.
[220] Tỳ -cừu 毘裘.
[221] Ưu-bà-ly 優婆離. Pā li: Upā li-gahapati.Cf. M.i. 371.
[222] Thù-đ ề 殊提.
31. [223] Ưu-ca Tỳ -xá-ly 優迦毘舍離. Pā li: Ugga-Vesā lika, đ ệ
nhất bố thí vật thích ý (mā napadā yakā naṃ).
[224] Vô Úy 無畏.
[225] Đ ầu-ma 頭摩.
[226] Tỳ -sa vương 毘沙王. Pā li: Bimbisā ra.
[227] Quang Minh 光明.
[228] Ba-tư-nặc 波斯匿. Pā li: Pasenadī .
[229] A-xà-thế 阿闍世. Do giết cha, đ ã đ oạn thiện că n,
nhưng về sau tin Phật nên nói là thiện vô că n. Xem,
Trương A-hàm 17, T1n1, tr. 109b26. Cf. Pā li, D.i. 49.
[230] Pā li: Ajā tasatta.
[231] Ưu-đ iền 優填. Pā li: Udena.
[232] Nguyệt Quang 月光.
[233] Tạo Kỳ -hoàn Vương tử 造祇洹. Pā li: Jeta.
[234] Sư Tử 師子.
32. [235] Vô Úy 無畏. Pā li: Abhaya-kumā ra.
[236] Kê-đ ầu 雞頭.
[237] Bất-ni 不尼
[238] Ma-ha-nạp (Ma-ha-nam) Thích chủng 摩訶納釋種. Pā
li: Mahā nā ma-Sakka,
[239] Bạt-đ à 拔陀.
[240] Tỳ -xà-tiên 毘闍先.
[241] Sư Tử Đ ại tướng 師子大將. Pā li: Sī ha-senapati.
[242] Tỳ -xá-ngự 毘舍御. Pā li: Visā kha, cf. M.i.299.
[243] Thiên-ma 天摩.
[244] Câu-di-na Ma-la 拘夷那摩羅, có lẽ chỉ một người
Mạt-la ở Cau-thi-na. Pā li: Kusinā gara-Malla.
[245] Về các Ưu-bà-di đ ệ nhất. A. 1. 14. 7.
[246] Nguyên trong bản: Ưu-bà-tư 優婆斯.
33. [247] Nan-đ à Nan-đ à-bà-la 難陀難陀婆羅. Không rõ tiểu sử.
Pā li, A.i. 25: Nữ quy y đ ầu tiên là Sujā tā Seniyadhī ta.
[248] Cửu-thọ-đ a-la 久壽多羅. Pā li: Khujjuttarrā , đ a vă n
đ ệ nhất (bahussutā naṃ).
[249] Tu-tỳ -da-nữ 須毘耶. A.i.26: đ ệ nhất tọa thiền, Uttar
ā Nandamā tā . Hán có thể đ ồng nhất với Suppiyā của P
ā li, cf. Vin. 1. 216, Xem Tứ phần 42, T22n1428, tr. 868c7.
[250] Tỳ -phù 毘浮.
[251] Ương-kiệt-xà 鴦竭闍.
[252] Bạt-đ à-sa-la Tu-diệm-ma 跋陀娑羅須焰摩.
[253] Bà-tu-đ à 婆修陀.
[254] Vô Ưu 無優.
[255] Bà-la-đ à 婆羅陀.
[256] Tu-đ ầu 須頭.
[257] Ma-lợi 摩利. Pā li: Mallikā .
[258] Tu-lại-bà 須賴婆.
34. [259] Xả-di 捨彌.
[260] Nguyệt Quang 月光.
[261] Lôi Đ iện 雷電. A.i. 26: đ ệ nhất bố thí, Visā khā .
[262] Đ ể bản: Ma-ha Quang 摩訶光. TNM: Ma ha tiên. Pā li,
A.i. 26: đ ệ nhất hành từ vô lượng, Sā mā vatī . (mettā vih
ā rinaṃ).
[263] Tỳ -đ ề 毘提.
[264] Bạt-đ ề 拔提.
[265] Nan-đ à Mẫu 難陀母. Pā li: (Uttarā ) Nandmā tā .
[266] Chiếu Diệu 照曜.
[267] Vô Ưu 無優.
[268] Tỳ -thù-tiên 毘讎先.
[269] Ưu-na-đ à 那陀.
[270] Vô Cấu 無垢.
35. [271] Thi-lợi 尸利.
[272] Ương-kiệt-ma 鴦竭摩.
[273] Lôi Diệm 雷焰.
[274] Tối Thắng 最勝.
[275] Nê-la 泥羅.
[276] Tu-ma-ca-đ ề Tu-đ ạt Nữ 脩摩迦提須達女.
[277] Tu-đ ạt Nữ 須達女.
[278] Lam 藍.
[279] Trong nguyên bản: đ a-tát-a-kiệt a-la-ha 多薩阿竭 阿
羅呵.
[280] Tham chiếu Pā li, A.1. 13.1 (Ekapuggalavaggo, R.i. 22).
[281] Pā li: ekapuggalo.
[282] Trong nguyên bản: đ a-tát-a-kiệt a-la-ha
tam-da-tam-phật 多薩阿竭.阿羅呵.三耶三佛。.
[283] Tham chiếu Pā li, A. 1. 13. 6. (R.i. 22).
36. [284] Pā li: xuất hiện sáu vô thượng (channaṃ anuttariyā
naṃ pā tubhā vo hoti).
[285] Tham chiếu Pā li, như trên.
[286] Nguyên Hán: bốn ý chỉ 四意止.
[287] Nguyên Hán: bốn ý đ oạn 四意斷, tức bốn chánh cần.
[288] Nguyên Hán: bát chơn hành 八真行.
[289] A. 1. 13. 4.
[290] Pā li, A.1. 16. 5.
[291] Bản Hán, hết quyển 3.
[292] Xem Phẩm 3, kinh 1, cht. 1.
[293] Chất-đ a trưởng giả 質多長. Pā li: Citta-gahapati; tham
chiếu A. II. 12. 3.
[294] Tham chiếu, A. ii. 12. 3 (R i. 89): Hatthaka người Ā ḷav
ī (Thủ trưởng giả, bản Hán đ ọc là Hatthika): Đ ệ nhất trong
những vị hành bốn nhiếp sự.
37. [295] Tham chiếu Pā li, A. II. 12.1 (R i. 88)
[296] Hán: thử thị kỳ hạn, thử thị kỳ lượng 此是其限。此是其
量. Pā li. ibid., esā tulā etaṃ pamā ṇaṃ.
[297] A. I. 13. 1.
[298] Tham chiếu Pā li, ibid.: Ưu-bà-di Khujjuttarā , và
Nandā mā tā người Veḷukanṭa.
[299] Nguyên Hán: tu phát 鬚髮!
[300] Pā li, ibid.: Kkhemā và Uppalavaṇṇā
[301] Cf. A. I. 1. 1 (R. i. 2): nā haṃ ekarū paṃ samanupassā
mi yaṃ evaṃ purisassa cittaṃ pariyā dā ya tiṭṭhati
yathayidaṃ itthirū paṃ, Ta không thấy có một loại sắc nào
nắm giữ chặt tâm người nam như là sắc của người nữ.
[302] Nguyên Hán: đ iệu hý 調戲.
[303] Bản Hán thiếu câu này, cần thêm vào cho đ ủ ý, theo
vă n mạch. Cf. A. I. 2. 1 (R. i. tr. 3): nā haṃ aññaṃ
ekadhammampi samanupassā mi yena anuppanno vā kā
macchando uppajjati… yathayidaṃ subhanimittaṃ, Ta
không thấy co một pháp nào mà tham dục (triền cái) chưa
sinh liền khiến snh … đ ó là tịnh tướng.
38. [304] Hán: ác lộ bất tịnh. Pā li: asubhanimittaṃ.
[305] Bản Hán thiếu câu này, cần thêm vào cho đ ủ ý, theo
vă n mạch.
[306] Cf. Pā li, A. I.ibid.: quán bất ịnh (asubhanimittaṃ) đ ể
trừ dục tham (triền cái); tu từ tâm giải thoát (mettā
cetovimutti) đ ể trừ sân; tu tinh cần giới (ā rambhadhā tu)
đ ể trừ hôn trầm thụy miên; tu tâm tịch tĩ nh (cetaso vū
pasamo) đ ể trừ trạo cử; tu như lý tác ý (yonisomanasikā ro)
đ ể trừ nghi.
[307] Đ ể bản: kiêu 憍. TNM: mạn.
[308] Tham chiếu, Dhp. 21: Appamā do amatapadaṃ pam
ā do maccuno padaṃ, appamattā na mī yanti, ye pamatt
ā yathā matā , “Không phóng dật, con đ ường dẫn đ ến
bất tử. Phóng dật, con đ ường dẫn đ ến cõi chết. Những
ai không phóng dật thì không chết. Những ai phóng dật,
chúng như đ ã chết.”
[309] Đ ẳng kiến 等見; phổ thông nói là chánh kiến. Xem đ
oan sau, Kinh 1 phẩm 12.
[310] Đ ẳng phương tiện 等方便. Phổ thông: chánh tinh tấn.
Thứ tự có đ ảo lộn.
39. [311] Đ ẳng hành 等行. Phổ thông: chánh nghiệp. .
[312] Đ ẳng trị 等治. Phổ thông: chánh tư duy. Thứ tự có đ
ảo lộn
[313] Đ ể bản: vương 王. TNM: chủ 主.
[314] Xem Phẩm 3, kinh 1, cht. 1.
[315] Dịch sát. Ý nghĩ a: đ ạt đ ược các mục đ ích trong cõi
Diêm-phù.
[316] Nguyên Hán: nă ng thành nhân 能成人, vă n cú đ ảo
trang, cần đ ảo ngượic chủ từ lại.
[317] Nguyên Hán: ngũ thạnh ấm 五盛陰.
[318] Hán phiên âm: A-na-bân-trì 阿那邠持 (Pā li: Anā
thapiṃḍika): phiên âm của Cấp Cô Đ ộc.
[319] Xem Phẩm 3, kinh 5, cht. 6.
[320] Đ ể bản: y đ ái 衣帶. TNM: y thường, áo xiêm, chỉ nội y.
[321] Pháp táo quán 法澡罐.
40. [322] Không Phạm thiên xứ 空梵天處, hay Không Phạm thiên
cung, thiên cung trống không của Phạm thiên. Xem, Trường
14, T1n1, tr. 90b10. Cf. Brahmajā lasutta, D.i. 16: suññaṃ
brahmavimā naṃ.
[323] Đ ể bản: kiên 堅. TNM: khan 慳.
[324] Bản Hán, hết quyển 4.
[325] Đ ề-bà-đ ạt-đ âu 提婆達兜, thường biết là Đ ề-bà-
đ ạt-đ a. Pā li: Devadatta.
[326] Đ ể bản nhảy chữ thiện có trong TNM.
[327] Đ iều-đ ạt 調達, trên kia nói là Đ ề-bà-đ ạt-đ âu.
Xem cht. 1 trên.
[328] Đ ề-bà-đ ạt-đ a đ ắc tứ thiền và có thần thông,
thuộc loại thế tục.
[329] Đ ể bản chép dư chữ tứ 四.
[330] Tham chiếu, Pā li, M. 10 Mahā satipaṭṭhā na (R i. 55 ff)
[331] Pā li: Phật trú tại thôn Kammā sadhamma, xứ Kuru.
[332] Hán: nhất nhập đ ạo. Pā li: ekā yano maggo, con đ
41. ường có một lối đ i duy nhất.
[333] Tứ ý chỉ: bốn chỗ y chỉ của ý. Thường nói là bốn niệm
xứ, hay bốn niệm trụ. Pā li: cattā ro satipaṭṭhā nā .
[334] Xem kinh 3, phẩm 10.
[335] Thứ tự có đ ảo lộn.
[336] Đ iệu hý, thường nói là trạo cử: cử đ ộng bồn chồn,
bức rức không yên.
[337] Hán: nội tự quán thân 內自觀身. Pā li: bhikkhu kā ye ā
yā nupassī vaharti, Tỳ -kheo an trú (sống) với sự quán
thân trên (trong, nơi) thân.
[338] Hán: ngoại tự quán thân 外自觀身.
[339] Hán: nội ngoại quán thân 內外觀身.
[340] Nguyên Hán: quán thống thống . Pā li: vedanā su
vedanā nupassī , quán thọ trên (nơi) các thọ.
[341] Hán: tự ngu lạc 自娛樂. Pā li: viharati, (vị ấy) an trú.
[342] Hán: chi cao 脂膏, phân biệt với phương 肪, cũ ng là
mỡ, kể sau.
42. [343] Hán: phương 肪, phân biệt với chi cao 脂膏 kể trên; đ
ều chỉ mỡ.
[344] Nói về quán thân nơi ngọai thân.
[345] Quán nội ngoại thân.
[346] Hán: bạch kha 白珂, trắng như mã não.
[347] Hán: thực lạc thống 食樂痛, cảm thọ lạc thuộc vật chất,
nhục thể. Pā li: sā misaṃ vā sukhaṃ vedanaṃ.
[348] Hán: bất thực lạc thống 不食樂痛. cảm thọ lạc không
thuộc vật chất, phi nhục thể. Pā li: nirā misaṃ vedanaṃ.
[349] Đ ể bản: tập (tu tập) pháp 習法; không có chữ quán 觀.
Theo vă n mạch dưới, nên hiểu là quán pháp tập khởi nơi cá
c thọ, tức quán tập khởi hay nguyên nhân sinh khởi của các
thọ. Pā li: samudaya-dhammā nupassī vā vedanā su vi
harati, (Tỳ -kheo ấy) an trú (sống), quán sát pháp tập khởi
nơi các thọ.
[350] Hán: quán tận pháp 觀盡法. Pā li: vayadhammā
nupassī vā vedanā su viharati, vị ấy an trú, quán sát pháp
bại hoại nơi các thọ.
43. [351] Hán: quán tập tận chi pháp 觀習盡之法. Pā li:
samudayavaya-dhammā nupassī vā vedanā su viharati, vị
ấy an trú, quán sát pháp khởi diệt nơi các thọ.
[352] Pā li: yā vadeva ñā ṇamattā ya paṭissatimattā ya
anissito ca viharati na ca kiñci loke upā dayati, cho đ ến
như vậy, vị ấy an trú (sống) không nương tựa cái gì, không
chấp thủ bất cứ cái gì trên đ ời, chỉ hướng đ ến huệ, chỉ
hướng đ ến niệm.
[353] Đ ể bản: sinh tử 生死; có thể chép dư chữ tử 生.
[354] Ý nghĩ a: quán thọ nơi người khác.
[355] Hán: quán tâm tâm pháp. Pā li: citte cittā nupassī ,
quán tâm nơi tâm.
[356] Hán: thọ nhập tâm 受入心, chỉ tâm đ ược thâu rút lại (P
ā li: saṃkhittaṃ vā cittaṃ); đ ối lại với tâm loạn và tâm tán
lạc kể sau (Pā li: vikhittaṃ vā cittaṃ).
[357] Đ ể bản: loạn niệm tâm 亂念心; tiếp theo dưới: loạn
tâm 亂心. TNM: loạn tâm 亂心.
[358] Hán: tán lạc tâm 散落心, “tâm rơi vãi,” đ ồng nghĩ a
với tâm loạn kể trên. Pā li: (vikkhittaṃ cittaṃ).
44. [359] Hán: tam-muội tâm 三昧心. Pā li: samā hitaṃ cittaṃ,
tâm đ ịnh, tập trung.
[360] Đ ể bản: tâm tướng quán ý chỉ 心相觀意止. Y theo đ
oạn dưới thêm một chữ tâm: tâm tâm tương quán ý chỉ 心心
相觀意止.
[361] Theo ngữ cảnh, ở đ ây hình như thiếu một đ oạn nói
trong quán về các thọ ở trên, và quán pháp ở sau: “(những
cái đ ó, các thọ hay các trạng thái của tâm) mà đ ang hiện
tại trước mắt, có thể biết… ”
[362] Vă n mạch, như đ oạn trên về quán thọ. Vă n dịch ở
đ ây có chỗ thêm bớt. Xem cht. 23 trên.
[363] Niệm giác ý 念覺意, hay niệm giác chi (Pā li:
satisambojjhaṅga). Tham chiếu Pā li: puna caparaṃ,
bhikkhave, bhikkhu dhammesu dhammā nupassī viharati
sattasu bojjhaṇgesu, “Lại nữa, Tỳ -kheo sống quán pháp
trong các pháp trong bảy giác chi.”
[364] Xem Trung, kinh 10: Lậu tận: y ly, y vô dục, y ư diệt tận,
thú chí xuất yếu 依離依無欲依於滅盡趣至出要. Pl. thành cú:
vivekanissitaṃ virā ganissitaṃ nirodhanissitaṃ
vossaggapariṇā miṃ, y viễn ly, y ly dục, y diệt tận, hướng đ
ến xả ly
45. [365] Pháp giác ý 法覺意, hay trạch pháp giác chi. Pā li:
dhammavicayasambojjhaṅga.
[366] Nguyên trong bản: niệm giác ý 念覺意; đ ây phải kể là
hỷ giác chi, không đ ồng nhất với niệm đ ã kể trên. Pā li: pī
tisambojjhaṅga.
[367] Ỷ giác ý 猗覺意, hay khinh an giác chi. Pā li:
passaddhisambojjhaṇga.
[368] Tam-muội giác ý 三昧覺意.
[369] Hộ giác ý 護覺意, tức xả giác chi. Pā li: upekkhā
sambojjhaṅga.
[370] Hán: ư ái dục giải thoát 於愛欲解脫, chỉ trạng thái ly
dục, không còn ham muốn nơi ngũ dục, của người nhập sơ
thiền.
[371] Hữu giác hữu quán 有覺有觀, tức có tâm, có tứ. Pā li:
savitakkaṃ savicā raṃ.
[372] Hữu ỷ niệm lạc 有猗念樂, tức có hỷ và lạc phát sinh do
sự viễn ly (Pā li: vivekajaṃ pī ttisukhaṃ).
[373] Xem Huyền Trang, Pháp uẩn 5 (tr. 482b3, 484a18): nội
đ ẳng tịnh 內等淨 trạng thái trừng tịnh và quân bình nội tâm.
46. (Pā li: ajjhattaṃ sampasā danaṃ).
[374] Huyền Trang, ibid. (tr. 482b03, 484a20): tâm nhất thú
tính 心一趣性, tâm tập trung trên một đ iểm. (Pā li: cetaso
ekodibhā vaṃ).
[375] Hán: niệm ỷ hỷ an 念猗喜安. Cf. Huyền Trang, ibid. (tr.
482b03): đ ịnh sinh hỷ lạc 定生喜樂, có hỷ lạc phát sinh do đ
ịnh. Pā li: samā dhijaṃ pī tisukhaṃ.
[376] Hán: xả ư niệm, tu ư hộ 捨於念。修於護. Cf. Huyền
Trang, ibid. (tr. 482b04): ly hỷ, trụ xả 離喜住捨. Pā li: pī tiyā
ca vỉā gā upekkako ca viharati.
[377] Cf. Huyền Trang, ibid. (tr. 482b05): chánh niệm chánh
tri 正念正知. Pā li: upekkhako satimā sukhavihā rī , (vị ấy)
an trụ lạc với chánh niệm và xả.
[378] Hán: hộ niệm thanh tinh 護念清淨, hai chữ thanh tịnh
清淨, nghi dư. Vì nó chỉ trạng thái thiền thứ tư, đ ược nói
sau đ ó.Cf. Pā li: yaṃ taṃ ariyā ā cikkhanti upekkhako
satimā sukhavihā rī , đ iều mà các Thánh nói là vị ấy an
trú lạc cùng với xả, niệm.
[379] Hán: hộ niệm thanh tịnh 護念清淨. Pā li: upekkhā sati
parisuddhaṃ catutthajjhā naṃ, thiền thứ tư thanh tịnh với
xả và niệm.
47. [380] Xem cht. 32 trên.
[381] Đ ể bản: phục hỷ 復喜. TNM: ưu hỷ 憂喜.
[382] Hán: Niết-bàn chứng. Pā li: nibbā nassa sacchikiriyā .
[383] A-luyện-nhã 阿練若; Pā li: arañña, núi rừng nhàn tĩ nh.
Đ ay chỉ Tỳ kheo a-lan-nhã (Pā li: ā raññaka: lâm trụ giả),
một trong 12 hạnh đ ầu-đ à (Pā li: 13), suốt đ ời chỉ sống
trong rừng.
[384] Khất thực 乞食, đ ây chỉ tỳ kheo đ àu-đ à, sốt đ ời chỉ
khất thực, không ă n tại nhà tín thí mời. Pā li: piṇḍapā tika.
[385] Đ ộc tọa 獨坐. Chưa rõ hành thế nào. Có lẽ Pā li: ekā
sanika: nhất tọa, một lần ngồi, nghĩ a là chỉ ă n trong một
lần ngồi (Visuddhimagga: ekā sane bhojanaṃ ekā snaṃ).
[386] Nhất tọa nhất thực 一坐一食. Có thể Hán nhầm lẫn. Đ
ây chỉ tỳ kheo khất thực theo thứ tự từng nhà, nghĩ a là chỉ
nhận thức ă n khất thực từ một nhà duy nhất cho một ngày.
Pā li: sapadā nacā rika.
[387] Tọa thọ hạ 坐樹下, suốt đ ời sống dưới gốc cây. . Pā li:
rukkhamū lika
48. [388] Lộ tọa 露坐, suốt đ ời sồng giữ trời trống. Pā li: abbhok
ā sika.
[389] Không nhàn xứ 空閑處, từ Hán thường dùng dịch từ
a-lan-nhã (Pā li: ā raññaka), đ ã nói trên kia.
[390] Ngũ nạp y 五納衣, đ ây chỉ tỳ kheo trì y phấn tảo,
suốt đ ời chỉ lượm vải từ đ ống rác làm y. Pā li: paṃsukū lika.
[391] Trì tam ý 持三衣. Pā li: tecī varika.
[392] Trũ ng gian tọa. tỳ kheo suốt đ ời chỉ sộng tại các bãi
tha ma. Pā li: sosā nika.
[393] Nhất thực 一食, trùng với nhất tọa nhất thực nói trên.
Có sự nhầm lẫn trong bản Hán. Có lẽ tương đ ương Pā li:
(eka)pattapiṇḍika, ă n chỉ lượng một bát, tức tiết chế sự ă
n (tiết lượng thực). Bản Hán dọc là ekabhatta (nhất thực)
thay vì ekapatta (nhất bát).
[394] Chánh trung thực; đ iều này có thể trùng với ă n ngà
y một bữa duy nhất. Có lẽ Pā li: khalupacchā bhattika,
không ă n thêm cái gì sau khi ă n xong. Đ ược hiểu là tỳ
kheo khi có dấu hiệu ă n xong, dù chưa no, vẫn không ă n
thêm nếu ai mang thêm đ ồ ă n. Tỳ kheo nào cần ă n thê
m, phải làm páp dư thựchay tàn thực; Tứ phần, ba-dật-đ ề
33; Ngũ phần, 35; Tă ng-kỳ , 33; Thập tụng, 34; Pā li, pā
49. cittityā 35.
[395] Đ àu-đ à hành 頭陀行. Pā li: dhutaṅga.
[396] Đ oạn trên, 12 đ ầu-đ à hành, theo các kinh luận Đ ại
thừa. Hữu bộ tỳ -nại-da, Giải thoát đ ạo luận, và Luật tạng P
ā li, liệt kê 13 hành. Liệt kê theo Pā li, Vin. v. 131, 193: 1. ā
raññika, lâm trụ, chỉ sống trong rừng. 2. piṇḍapā tika,
thường hành khất thực. 3. paṃsukū lika, phấn tảo y. 4.
rukkhamū lika, chỉ ngồi dưới gốc cây. 5. sosā nika, chỉ nghỉ
tại các bài tha ma. 6. abbhokā sika, chỉ ngồi giữa trời trống.
7. tecī varika, chỉ thọ trì ba y. 8. sapadā nacā rika, khất thực
tuần tự. 9. nesajjika, thường ngồi không nằm. 10. yathā
santhatika, tùy ngọa cụ, không chọn lựa. 11. ekā sanika,
nhất tọa thực, ă n một bữa, nếu đ ứng dây, không ngồi ă n
trở lại. 12. khalupacchā bhattika, sau khi đ ã ă n, không ă n
thêm (dù chưa quá trưa). 13. pattapiṇḍika, nhất bát thực.
[397] Xem Tạp (Việt), 41. Tương ưng Đ ại Ca-diếp.
[398] Nhất xứ nhất tọa 一處一坐… , có lẽ nhất tọa (thực),
nhưng Hán dịch diễn giải thêm dễ lạc mất nghĩ a chính.
Xem kinh số 5 trên.
[399] Bà-la-lưu-chi 婆羅留支, Skt. Vā raluci (?), Hán dịch: Chi
ết Chỉ 折指, Vô Chỉ 無指; tên hiệu của A-xà-thế (Pā li: Ajā
tasattu), theo truyền thuyết phương Bắc. Xem Pháp hoa V
50. ă n cú 4 (T34n1718, tr. 25c21). Pā li không thấy nói đ ến
tên hiệu này. Xem Tạp (Việt), kinh 968: A-xà-thế con bà Tì-
đ ề-hi, vua nước Ma-kiệt-đ à. hằng ngày cùng đ oàn thị
tùng với nă m tră m cổ xe đ ến chỗ Đ ề-bà-đ ạt-đ a; hằng
ngày đ em nă m tră m chõ đ ồ ă n cúng dường Đ ề-bà-đ
ạt-đ a.
[400] Đ ể bản: Sư-lợi-la 師利羅. NTM: Lợi-sư-la. Không biết
đ ọc thế nào là đ úng.
[401] Bản Hán, hết quyển 5.
[402] Tu-la-đ à 修羅陀. Pā li: Surā dha (?); nhưng chắc
khong phải Trưởng lão A-la-hán Surā dha đ ược nói trong
S. iii. 80.
[403] Đ áo thời khất thực, chỉ thường hành khất thực. Pā li:
piṇḍapā tika. kinh 5 phẩm 12.
[404] Hán: Nhất xứ nhất tọa 一處一坐, tức nhất tọa thực,
ngày chỉ ă n một lần ngồi; một trong các hạnh đ ầu đ à. Pā
li: ekā sanika. Xem kinh 5 phẩm 12.
[405] Bồ-hô 蒲呼.
[406] Nội dung liên hệ, xem Trung kinh 216: Ái sinh. Cf. M. ii.
106.
51. [407] Cf. Trung kinh 216: Khi ái sanh thì cũ ng phát sanh
những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não. M 87
(R. ii. 106): piyajā tikā sokaparidevadukkhadomanassupā y
ā sā , sầu bi khổ ưu não phát sanh từ luyến ái.
[408] Nguyên Hán: ân ái phân biệt tiện thị khoái lạc 恩愛分
別。便有快樂, có thể có sự nhầm lẫn trong bản dịch Hán, khi
ến lời Phật thành ngây ngô, nếu không phải do thuật lại
bởi một người mất trí. Đ ây dựa theo bản Pā li thêm vào cho
rõ nghĩ a. Xem cht. 6 trên.
[409] Xem Trung kinh 216: : Phật nói ái sinh là khổ. Những
con bạc này nói: ái sinh thì sung sướng. Pā li: piyajā tikā hi
ā nandasomanassā : ân ái sinh thì có hỷ lạc (M.ii. 107).
[410] Cả Trung và Pā li đ ều không có chi tiết xua đ uổi
này. Có thể bản Hán này diễn dịch thêm tình tiết.
[411] Trúc Bác 竹膊; T26: Na-lợi-ương-già 那利鴦伽; Pā li: N
ā ḷijaṅgha.
[412] Nguyên trong bản: phạm chí 梵志. Thông thường, từ
bà-la-môn, phiên âm từ brahmā ṇa, chỉ giai cấp; từ phạm
chí, phiên âm từ paribbajika, chỉ ngoại đ ạo xuất gia. Bản
Hán này không phân biệt hai từ khác nhau, mà dùng lẫn nộn.
52. [413] Lưu-ly Vương tử 琉璃王子. T26: Tỳ -lưu-la Đ ại tướng
鞞留羅羅大將. Pā li: Viḍū ḍabha-senapati.
[414] Theo sử liệu Pā li, Pasenadi có hai con trai, một là Viḍ
ū ḍabha sau này cướp ngôi, và một nữa là Brahmadatta,
xuất gia, thành A-la-hán. Hình như còn một người nữa là
vương tử Kỳ -đ à (Jetakumā ra), chủ của khu vườn Kỳ
-hoàn, sau bị Viḍū dabha giết. Không rõ Y-la 伊羅 đ ồng
nhất với ai. Hoặc giả đ ây là con gái vua, tên là Vajirā , tức
vương nữ mà bản Hán đ ọc thành vương tử?
[415] Tát-la-đ à sát-lợi chủng 薩羅陀剎利種. T26: Vũ Nhật
Cái 雨日蓋. Pā li: Vā sabhā -khattiā , một phu nhân khác của
Panesadi, gốc họ Thích.
[416] Tham chiếu, Pā li, S. 22. 1. Nakula (R iii. 1); Hán, Tạp 5
T99 (107, tr. 33a6).
[417] Quỷ lâm Lộc viên 鬼林鹿園. T99: Lộc dã thâm lâm 鹿野
深林. Pā li: Bhesakaḷā vane migadā ya.
[418] Thi-mục-ma-la 尸牧摩羅. T99: Thiết-thủ-bà-la 設首婆
羅. Pā li: Susumā ragira
[419] Bạt-kỳ 拔祇; T99: Bà-kỳ 婆祇. Pā li: Bhagga.
[420] Na-ưu-la Công 那憂羅公. T99: Na-câu-la 那拘羅. Pā li:
53. Nakulapitā .
[421] Đ ể bản: tâm 心. Nên sửa lại là thân.
[422] Thâm chiếu, Pā li: M. 7 Vatthū pama (R. i. 36); Hán:
Trung kinh 93; T99(1185), T100(99).
[423] Giang Trắc 江側. Có lẽ từ mô tả chứ không phải tên
riêng. Cuối kinh, tên ông đ ược gọi là Tôn-đ à-la-đ ế-lợi.
T26: Thủy Tịnh 水淨.
[424] Đ iệu hý.
[425] Trung kinh 93: 21 tâm uế. So sanh Pā li, M. 7:
abhijjhavisamalobho (tham lam và bất chánh tham), vyā pā
do (sân), kodho (phẫn nộ), upanā ho (oán hận), makkho
(phú tàng hay ngụy thiện), palā so (não hay ác ý, ác cảm), iss
ā (tật đ ố), macchariyam (xan hay bỏn sẻn), mā yā (cuống
hay huyễn hoặc), sā ṭheyyam (siểm hay gian trá), thambho
(ngoan cố hay ngạo mạn), sā rambho (cấp tháo hay dễ kích
đ ộng), mā no (mạn), atimā no (quá mạn), mado (kiêu hay
say sưa), pamā do (phóng túng hay buông lung). Bản danh
sách đ ầy đ ủ và giải thích chi tiết, xem Pháp uẩn 9 (tr.494c).
[426] Đ ây nói về Phật bất hoại tịnh, tức tín tâm bất đ ộng
đ ối với Phật (Pā li: buddhe aveccappasā dena samannā
gato).
54. [427] Thành tựu pháp bất hoại tịnh, tín tâm bất đ ộng đ ối
với Pháp của Phật. (Pā li: dhamme aveccappasā dena
samannā gato).
[428] Pháp pháp thành tựu 法法成就; tức pháp tùy pháp
hành, hành pháp theo thuận tự của pháp. Pā li: dhammā
nudhammapaṭipanna.
[429] Với tâm đ ịnh tĩ nh.
[430] Tôn-đ à-la giang 孫陀羅江. Trung kinh 93: sông Đ a
thủy 多水河. Pā li: bā hukā nadī , có lẽ từ chung, chỉ nhiều
sông chứ khong phải một sông.
[431] Tôn-đ à-la-đ ế-lợi 孫陀羅諦利. Pā li: Sundarikabhā
radvā ja.
[432] Pā li, S.11.2.6 Yajamā na (R i.233).
[433] Hán: phước hựu nghiệp. Cf. Pā li: yajamā nā naṃ
manussā naṃ, puññapekkhā na pā ṇinaṃ, loài người ưa tế
đ àn, chúng sinh mong phước đ ức.
[434] Bốn đ ường: đ ịa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và a-tu-la.
Nhưng S. 11. 2. 6: cattā ro ca paṭipannā , cattā ro ca phale
ṭhitā , những vị đ ang hướng bốn đ ạo, và những vị an trú
55. trong bốn quả.
[435] Nhập 入, hay xứ. Pā li: ā yatana.
[436] Ba-giá-tuần 波遮旬; Pā li: Pañcasikha, Ngũ Kế
Càn-thát-bà, vị thần âm nhạc của Thiên đ ế Thích.
[437] Thiện Nghiệp 善業, chỉ ngài Tu-bồ-đ ề.
[438] Tứ lưu, chỉ bốn bộc lưu: dục, hữu, kiến và vô minh. Pā
li, cattā ro oghā : kā mogho, bhavogho, diṭṭhogho,
avijjogho.
[439] Bản Hán, hết quyển 6.
Lịch Sử Phật Giáo
Phật học phổ thông - Khóa I
Bài Thứ 5: Ngũ Giới
Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Nguồn: Hòa thượng Thích Thiện Hoa
A.-Mở Ðề
Sau khi quy y Tam bảo phải sống đ úng theo quy luật mà
Ðức Phật đ ã chế ra, đ ể tiến bước trên đ ường Ðạo. Quy
56. luật ấy là Ngũ Giới. Người theo đ ạo Nho phải sống đ úng
theo Tam cương, Ngũ thường, thì người theo Ðạo Phật cũ
ng không thể chỉ thọ Tam Quy mà không trì Ngũ Giới.
Người đ ã phát tâm quy y Tam Bảo là đ ã bước chân lên nấc
thang giải thoát, nhưng nếu không giữ nă m giới là chỉ mới
bước một nấc đ ầu rồi dừng lại, không thể tiến đ ến giải
thoát thật sự đ ược. Nam Giới này không những đ ưa người
mạnh tiến trên
đ ường giài thoát, mà còn đ em lại trật tự, an vui, hòa bình
cho gia đ ình, Quốc gia, xã hội nữa. Ngũ giới chính là giề
ng mối chắc thật tạo hạnh phúc cho cá nhân và đ oàn thể,
chính la ông thầy ngă n ngừa chúng ta làm đ iều xằng bậy
trong thời mạc pháp. Vì thế, Ðức Phật Thích Ca đ ã có lời di
chúc khẩn thiết sau đ ây trước khi Ngài nhập Niết bàn:
- "Sau khi ta diệt đ ộ, các người tu hành phải tôn kính giới
luật làm thầy; dầu cho ta còn tại thế đ ể dạy dỗ cho các
người mấy ngàn đ ời đ i nữa, ta cũ ng thêm đ iều nào
ngoài giới luật." giới luật Phật chế ra rất nhiều, vì cần phải
áp dụng cho nhiều hạng người tu hành: - Tỳ kheo,- Tỳ
kheo ni,- Sa di, -Sa di ni. Riêng đ ối với hàng Phật tử tại gia,
thì chỉ có 5 giới mà thôi. Nhưng nếu giữ đ ược 5 giới ấy thì
lợi ích cho mình, cho người không xiết kể.
B.- Chánh Ðề:
I.- Ðịnh Nghĩ a : Ngũ giới là nă m đ iều ngă n cấm mà
Phật đ ã chế ra, đ ể ngă n những tưởng niệm ác, nói nă ng
chẳng lành, hành đ ộng bất chính. Nă m đ iều ră n ấy là: -
57. Không đ ược giết hại, - Không đ ược trộm cướp, - Không
đ ược tà dâm, - Không đ ược nói dối, - Không đ ược uống
ruợu. Nă m đ iều này y cứ trên tâm từ bi, bình đ ẳng trên
phương diện dứt trừ tội lỗi cá nhân và đ em lại trật tự, an vui
cho xã hội mà thành lập. Ðức Phật không bắt buộc chúng ta
phải triệt đ ể tuân theo và cũ ng không hă m dọa nếu
chúng ta không tuân theo thì phải bị Ngài trừng phạt. Sự
giữ hay không giữ giới là do chúng ta hoàn toàn tự liệu lấy.
Ðạo Phật khác với các Tôn giáo khác chính là ở đ iểm Ðức
Phật không phải là một quan tòa tối cao giữ quyền thưởng
phạt. Một ý nghĩ , một lời nói, một hành đ ộng tốt hay xấu
chính đ ã mang theo nó một mầm thưởng phạt rồi. Ðức
Phật chỉ là một vị dẫn đ ường rất từ bi, và rất sáng suốt. Ngài
chỉ cho chúng ta con đ ường nào là con đ ường sáng và con
đ ường nào là con đ ường nguy hiểm không nên đ i.
Nhưng nếu chúng ta không theo con đ ường sáng mà lại
muốn đ i vào con đ ường nguy hiểm, thì tất nhiên chúng ta
sẽ gặp tai họa tự nhiên, chứ Phật không tạo ra tai họa đ ể
trừng phạt chúng ta. Tòa án chính là luật nhân quả. Ta làm
ác thì ta chịu quả xấu; ta làm thiện thì ta đ ược qủa tốt. Nă
m giới chính là nă m thành trì ngă n chận cho ta đ ừng di
lạc vào đ ường ác, là nă m hàng rào ngă n chận cho ta khỏi
rơi xuống vực sâu, trong khi ta đ i trên con đ ường giải
thoát.
II.- Nă m Giới
1.- Không đ ược giết hại. Ðiều ngă n cấm thứ nhứt mà
Phật khuyên chúng ta, là không đ ược giết sanh mạng, từ
58. loài người cho đ ến loài vật. Sanh mạng là một gía trị qúy
báu, nhất là sanh mạng người; giết hại sanh mạng kia đ ể
tô bồi cho sanh mạng này là một đ iều ác, không hợp lý đ
ạo.
Phật giáo cấm sát sanh bỡi nhiều lý do:
a) Tôn trọng sự công bằng. - Chúng ta coi sanh mạng mình
là quý, là một của báu tuyệt đ ối. Nếu ai mưu hại, là mình
chống trả triệt đ ể bảo vệ sanh mạng. Mình đ ã biết quý
trong thân mạng mình, tại sao lại muốn chà đ ạp sanh mạng
người? Suy rộng ra,
các loài vật cũ ng biết quý trọng mạng chúng. Như một
con bò hay một con heo sắp bị đ ập đ ầu, thọc huyết, ta
thấy sự phản kháng mãnh liệt, sự đ au thương cùng cực của
chúng, bằng những tiếng kêu gào, những cái dãy dụa
thoát chết! Theo lẽ công bình, đ ìều ta không muốn ai làm
cho ta, thì ta cũ ng đ ừng làm cho người khác, hay loài khác.
Phật dạy: "Ai ai cũ ng sợ gươm dao, ai ai cũ ng sợ sự chết.
Vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết! Chớ bảo gi
ết!".
b) Tôn trọng Phật tánh bình đ ẳng. - Chúng ta mỗi loài tuy
thân hình khác nhau, mà vẫn đ ồng một Phật tánh. Phật
tánh đ ã bình đ ẳng thì không thể viện lý do gì đ ể nói rằng
Phật tánh ở người giá trị hơn ở vật, ở giai cấp này màu da
này gía trị hơn giai cấp kia màu da kia. Sát hại một sanh vật
là sát hại Phật tánh.
c) Nuôi dưỡng lòng từ bi. - Lòng từ bi của Ðức Phật xem mọi
loài như con, nên Ngài không đ ồng ý cho đ ệ tử Ngài sát
59. hại sanh vật, bất cứ trong trường hợp nào. Bỡi vì đ êm tâm
giết hại sanh mạng là lòng đ ộc ác đ ã cực thịnh, tâm từ bi
bị bóp chết. Nhẫn
tâm vô cớ giết một con vật, tính bạo ác không kém giết
một con người. Nhẫn tâm làm cho kẻ khác hay vật khác phải
dãy dụa, rên siết, quằng quại trong máu đ ào, trong lệ
nóng trước khi trút hơi thở cuối cùng, là tự giết lòng từ bi
của mình, là bóp chết cái mầm thương yêu rất quýbáu
trong tâm hồn chúng ta. Như thế, khó mà tu hành đ ể
thành chánh quả đ ược. Ðức Khổng Tử có dạy: "Vă n kỳ
thanh bất nhẫn kiến kỳ thực, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến
kỳ tử". (Nghe tiếng kêu la của con vật, không nỡ ă n thĩ t
nó; thấy nó sống không đ ành thấy nó chết). Như vậy
người có tâm từ bi hay lòng nhân đ ều không nỡ giết hại
người hay loài vật.
d) Tránh nhân qủa báo ứng oán thù. - Khi ta giết một người
hay một con vật thì sự oán hận của họ tràn trề khó dập tắt
đ ược. Họ vì cô thế, vì yếu sức nên bị ta giết hại. Trong khi
ấy, họ ôm lòng că m hận, chờ gặp dịp báo thù, hay con cái
thân nhân họ
sẽ báo thù lại. Cứ thế mỗi ngày ta đ ều gieo că m hờn cho
người và vật, tích lũ y lâu ngày, khối oan gia ấy to hơn sức ta,
chừng ấy ta bị nó sát hại lại. Càng tạo nghiệp sát, càng lao
mình vào đ au khổ. Phật dạy: "Người thường sanh tâm sát
hại, càng tă ng trưởng nghiệp khổ,, mãi xoay vần trong
sanh tử, không có ngày ra khỏi" (Kinh Lă ng Già).
Lợi ích của sự không sát hại. - Vì những lý do trên, Ðức Phật
60. cấm Phật tử không giết haị. Không giết hại, sẽ có những
đ iểm lợi sau đ ây:
a) Về phương diện cá nhân. - Một người không tàn nhẫn
sát nhân, hại vật, không đ ộc ác làm đ ổ máu, không lóc da,
xẻ thịt, chặt đ ầu, thắt cổ, thì trong lòng không bức rứt, hối
hận, thân tâm đ ược nhẹ nhàng, thơ thới, giấc ngủ đ ược an
lành, nét mặt đ ược hiền hòa, trong sáng.
b) Về phương diện xã hội. - Nếu tất cả nhân loại trên thế
giới này đ ều giữ đ úng giới thứ nhật của Phật dạy đ ây, thì
chiến tranh sẽ không có, mà các nghiệp sanh tử luân hồi c
ũ ng đ ươc giải thoát. Cho nên Tổ xưa có dạy:
''Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết,
Mười phương nào có nổi đ ao binh.
Mỗi nhà, mỗi chốn đ ều tu Thiện.
Lo gì thiên hạ chẳng thái bình. ''
Hạn chế: Vẫn biết giết hại là tạo nhân khổ, nhưng người
tại gia còn ă n mặn, còn làm công việc kia nọ, thì khó tránh
khỏi phạm giới sát. Ở đ ây không bắt buộc chúng ta phải
giữ triệt đ ể như thế, chỉ cần giữ phần quan trọng là không
giết người, và những con vật lớn như: Trâu, bò, ngựa, chó,
heo, gà v.v... Còn những con nhỏ nếu tránh đ ược bao
nhiêu quý bấy nhiêu. chúng ta nên đ i từ từ thì chắc ă n hơn.
Nhất là không nên giết hại sinh vật một cách vô lý, giết đ ể
thỏa lòng thích giết. Trong khi giữ giới sát, ta nên đ ề
phòng hai đ ều sau đ ây:
a) Không nên đ ể cho ác ý sanh khởi. Giết một con vật lớn
mà vì vô ý hay tự vệ, thì cái qủa của nó còn nhẹ hơn là giết
61. một con chuồn chuồn với cái ác ý muốn giết cho vui tay.
b) Nên tránh sự huân tập trong hoàn cảnh giết hại: Những
đ ứa bé lên 3, lên 5 ra sân gặp chuồn chuồn, bươm bướm
chụp bắt rồi ngắt cánh, rứt đ ầu nếu cha mẹ thấy mà không
rầy la; đ ến 12,13 tuởi, chúng sắm ná, giàng thun bắn chim,
đ ến 20,25 tuởi, chúng đ âm họng heo, giết chó, vẫn
không bị ngă n cấm thì sau này, quen với tánh hung bạo,
trong cơn giận dữ, chúng có thể giết người không gớm tay.
Vậy chúng ta không nên đ ể tự do cho con cái quen cái sự
giết hại sinh vật, mà cũ ng không cho chúng mục kích
những cảnh chém giết ở các rạp chiếu bóng hay ở giữa đ
ời.
2. - Không đ ược trộn cướp. Ai cũ ng biết trộn cướp là lấy
những tài vật thuộc quyền sở hữu của người, mà không có
sự ưng thuận , hay cưỡng ép người ta ưng thuận bằng võ
lực hay quyền hành. Những vật quý giá như nhà cửa, ruộng
vườn, tiền bạc, ngọc ngà... cho đ ến vật hèn mọn như lá
trầu, trái ớt... người ta không cho mà mình tự lấy đ ều là
trộm cướp. Trộm cướp có nhiều hình thức: Ỷ mạnh bè đ
ảng giựt ngang của người là ă n cướp,; cậy thế ỷ quyền
làm tiền kẻ yếu là ă n cướp; bắt chẹt người ta trong lúc
túng thiếu đ ể cho vay nặng lời, cầm bán gía rẻ mạt là ă n
cướp; tích trử đ ầu cơ đ ể bán giá chợ đ en là ă n cướp.
Dùng mưu mẹo rình rập, lén lút lấy của người là ă n trộm;
cân non, đ ong thiếu, trốn xâu, lậu thuế, đ ược của người
ta mà không tìm cách trả lại là ă n trộm. Có thể nói tóm một
câu là; Bất cứ hình thức nào, do lòng tham lam lấy của
62. ngườibất chính đ ều là trộm cướp cả. Nếu vì nghèo nàn
thiếu thốn, vợ ốm con đ au, thiếu gạo thiếu thuốc, nên
phải buộc lòng gian xảo, thì tội còn đ ược châm chế; chứ đ
ã giàu có, ă n sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa mà còn
lường gạt người lấy của, cướp công, đ ể sống một cách
vương gỉa trên mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo đ ói, thì tội ác
thật nặng nề!
Vì lý do gì Phật cấm trộm cướp? Phật cấm trộm cướp vì
những lý do sau đ ây:
a) Tôn trọng sự công bằng: Chúng ta không muốn ai lấy của
mình, tại sao mình lại chă m chă m muốn đ oạt của người?
Quyền sở hữu cá nhạn của ta, ta biết t6o trọng, thì tại sao
ta lại chà đ ạp lên quyền sở hữu của người? Làm nhu thế
là trái lẽ công
bằng. Một xã hội mà thiếu công bằng thì không thể tồn tại
lâu dài đ ược.
b) Tôn trọng sự bình đ ẳng. - Mỗi người đ ều có Phật tánh
như nhau, tại sao ta lại muốn làm khổ người khác đ ể ta đ
ược sung sướng? Tại sao ta lại muốn hưởng nhữnh đ ặc ă n
bất chính trong khi ta cũ ng chỉ là một con người như bao
nhiêu con người
khác?
c) Nuôi dưỡng lòng từ bi. - Một khi vô ý đ ánh mất một vật
gì hay một số tiền, ta dàu dàu buồn khổ, ă n không ngon,
ngủ không yên, tại sao ta lại nỡ tâm lấy của người đ ể cho
người phải khóc than, đ au khổ vì ta? Người ta thường nói:
"Tiền tài là huyết
63. mạch". Như vậy, kẻ cướp đ oạt của người tức là cướp đ oạt
xương máu người, sát hại sinh mạng người vậy. Chỉ những
người không có lòng thương người, tán tận lương tâm mới
làm những việc đ en tối như vậy. Còn ta, đ ã là Phật tử, đ
ang cố gắng nuôi
dưỡng lòng từ bi, ta không thể trộm cướp của ai đ ược.
d) Tránh nghiệp báo oán thù. - Trong xã hội có tổ chức, tôn
trọng lẽ công bằng, thì tội trộm cướp bao giờ cũ ng bị trừng
trị. Ă n trộm là bị đ ưa ra tòa án tiểu hình, ă n cướp thì ra tòa
án đ ại hình. Khi chưa bị bắt, kẻ trộm cướp phải tìm tră m
phương ngàn kế
đ ể trốn tránh. sống chui rúc trong bóng tối. Khi bị bắt,
người trộm cướp phải bi trói buộc, tra khảo, ngồi tù, nhốt
khám. Phận mình đ ã đ ành cực thân khổ trí, lại làm cho gia
đ ình mình, cha mẹ, vợ con cũ ng buồn rầu xấu hổ, và mất h
ết cả hy vọng ở tương lai.
Nhưng nếu luật pháp thế gian không trừng trị, thì người
trộm cướp cũ ng không thoát khỏi luật nhân quả nghiệp
báo. Trộm cướp của người thì sẽ bị người trộm cướp lại, gây
bao thù oán khổ đ au. Phật dạy: "Người tham luyến sắc tài
không chịu rời bỏ, cũ ng như đ ứa bé luyến tiếc một chút
mật trên lưỡi dao, thè lưỡi liếm, phải bị cái họa đ ứt lưỡi"
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Chính thế, vì tham tiền của,
lắm người đ ã tự gieo mình vào khám đ ường, vào đ ịa
ngục. Chúng ta hãy lắng nghe bài kệ cảnh tỉnh của vua Trần
Thái Tông:
Khoét vách xoi tường chí những đ âu,
64. Ngàn mưu tră m kế luống tham cầu;
Của người dầu có đ ời nay đ ược,
Ðời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu.
Vì những lý do trên nên Ðức Phật cấm các đ ể tử trộm cướp.
Lợi ích của sự không trộm cướp.
a) Về phương diện cá nhân. - Người không gian tham thì
đ ời sống hiện tại đ ược an ổn, không bị đ òi hỏi, giam cầm,
tù tội, đ i đ âu cũ ng đ ược người khác tin cậy, giao phó cho
mình những đ ịa vị quan trọng. Người không gian tham thì
đ ời sau đ ược hưởng
phước báu giàu sang, an vui, và con cháu nhiều đ ời cũ ng
nhờ thừa hưởng âm chất của ông bà, cha mẹ đ ể lại mà đ
ược vinh hiển.
b) Về phương diện đ oàn thể. - Nếu một ngày nào trong
xã hội không ai có tâm gian tham, trộm cướp thì nhà không
cần đ óng cửa, của khỏi lo gìn giữ, vật đ ánh rơi không mất,
thật không còn gì sung sường hơn! Người ta khổ bỡi không
có của, nhưng kẻ
có của nhiều cũ ng vẫn khổ, vì phải lo gìn giữ. Người không
trộm cướp tức là đ ã âm thầm ban cho người khác sự an ổn
rồi. Nhà Nho có câu: "Nhơn phi nghĩ a bất giao, vật phi ngh
ĩ a bất thủ", Huống chúng ta là Phật tử lại đ i trộm cướp hay
sao?
3. - Không đ ược tà dâm. Tà dâm tức là muốn nói về sự
dâm dục phi lễ, phi pháp. Luật dạy người xuất gia ly tục phải
dứt hẳn dâm dục, còn người tại gia thì không đ ược tà dục.
Khi vợ chồng có cưới hỏi đ ủ lễ gọi là chánh; ngoài ra, lén lút
65. lang chạ
làm việc phi pháp với người khác phái gọi là tà. Nhưng nếu
vợ chồng chính thức đ i nữa, mà nằm không phải chỗ, gần
giũ nhau không chừng mực thì cũ ng thuộc về tà dâm cả.
Ðó là nói về mặt thô thiển. Nói một cách vi tế hơn, thì phà
m những sự phóng
tâm đ ắm sắc, nghĩ ngợi bất chánh, chơi bời lả lơi, cũ ng
đ ều thuộc về loại tà dâm cả.
Phật cấm tà dâm vì những lý do sau đ ây:
a) Tôn trọng sự công bình. - Mỗi người ai cũ ng muốn gia đ
ình mình êm ấm, yên vui, vợ con mình đ oan chánh, thì sao
lại đ i phá hại gia cang, làm nhục nhã tông môn người, đ ưa
vợ con người vào con đ ường dâm loạn.
b) Bảo vệ hạnh phúc gia đ ình. - không gì đ au khổ, đ en tối
hơn, khi một gia đ ình mà chồng hoặc vợ có dạ riêng tư, tà
vạy. Hạnh phúc đ âu còn, khi chồng vợ không tin nhau! Một
khi gia đ ình lâm vào cảnh ấy, thì con cái sẽ xấu hổ, bê tha,
côi cút, bà
con không đ oái hoài đ ến, sự nghiệp tan tành, làng xóm
chê bai, danh giá hoen ố. Ðiều kiện thiết yếu đ ể giũ gìn
hạnh phúc gia đ ình chính là lòng chung thuỷ của hai vợ
chồng. Người ta bảo: "Thuận vợ thuận chồng, tác bể Ðông c
ũ ng cạn". Vì sự tà dâm
của một trong hai người bạn đ ường mà trong gia đ ình
thường xảy ra những vụ ghen tương, cãi vã, đ ánh đ ập có
khi đ ến gây án mạng. Có khi, đ ể trả thù, người ta thường
thấy xảy ra cái cảnh "Ông ă n chả, bà ă n nem". Một người
66. chồng đ ể tâm dòm ngó vợ
người, thì chính vợ con họ cũ ng lă m le vạch rào sang nhà
kẻ khác rồi. Họ phá hạnh phúc gia đ ình ngưởi, thì chính
hạnh phúc gia đ ình họ cũ ng đ ã tan rã trước.
Cho nên cấm tà dâm là một đ iều kiện cần thiết đ ể xây
dựng hạnh phúc cho gia đ ình mình và gia đ ình người.
c) Tránh oán thù và quả báo xấu xa. - Phật dạy: "Người ôm
lòng ái dục cũ ng như kẻ cầm đ uốt đ i ngược gió, quyết bị
nạn cháy tay" (Kinh Tứ Thập Nhị chương). Thật vậy, người ta
có tâm xấu xa đ ắm mê sắc dục, không sớm thì chầy quyết
bị hại: nếu
không tan nhà mất nước, thì cũ ng gãy chân mất mạng bỡi
mũ i súng, ngọn gươm. Xưa nay những kết qủa thảm khốc
đ en tối do sự đ ắm mê sắc dục gây ra không thiếu gì;
chúng ta chỉ cần dở những chồng sách lịch sử hay chồng
bao hằng ngày, sẽ thấy
nhan nhản trong mỗi trang, mỗi đ oạn. Trong các sự oán thù,
không có sự oán thù nào mãnh liệt bằng sự oán thù do sự
lừa dối phụ rẫy về tình ái gây ra. các cuộc án mạng xảy ra
hằng ngày, phần lớn là kết qủa của tà dâm.
Lợi ích của sự không tà dâm.Vì thế nên sự giữ giới cấm tà
dâm sẽ có những lợi ích sau đ ây:
a) Về phương diện cá nhân.
- Kinh ThậpThiện nói:"Người thế gian không tà hạnh thì đ
ược hưởng bốn đ iều lợi sau:
- Sáu că n (tai, mắt, mũ i, lưỡi, thân, ý) đ ều đ ược vẹn toàn.
- Trọn đ ời đ ược người kính trọng.
67. - Ðoạn trừ đ ược hết cả phiền luĩ khuấy nhiễu.
- Cuộc tình duyên trọn đ ời không ai dám xâm phạm."
b) Về phương diện đ oàn thể.
- Trong một xã hội mà ai cũ ng không tà hạnh, thì gia đ ình
đ ược yên vui hạnh phúc, những sự thương lus6n bại lý sẽ
tiêu tan, những cảnh thù hiềm, ché giết sẽ không xảy ra
nữa; con cái đ ược mạnh khẻo, nâng niu, xã hội
sẽ cường thịnh. Nói tóm lại, cõi Ta bà ô trọc, đ au khổ này sẽ
biến thành thế giới thanh tịnh, an vui.
4. - Không đ ược nói sai sự thật. Nói sai sự thật có bốn cách:
Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.
a) Nói dối hay nói láo, là không nói thật, chuyện có nói
không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói
phải; đ iều nghe nói không nghe, đ iều không nghe nói
nghe; hoặc gỉa trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạc; hay là
khi ưa thì nói dịu ngọt
thơm tho, khi ghét lại đ ắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩ
lời nói việc làm trước sau mâu thuẫn, trên dưới khác nhau,
trong ngoài bất nhứt, đ ều thuộc về nói dối cả.
b) Nói thêu dệt, là việc ít xít cho nhiều, làm cho người nghe
nổi sân hận; là trau tria lời nói, chuốt ngót giọng hay, lên hơi
xuống giọng cho êm tai mát dạ đ ể cám dỗ người nghe, làm
cho người say mê đ ắm nhiễm; cũ ng có khi là nói biếm,
nói bâm, nói châm, nói chích làm cho người nghe phải khổ
sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đ úng nghĩ a chân thật,
thêm bớt cho đ ến vă n chương phù phiếm, bóng bẩy làm
cho kẻ nghe phải loạn tâm, sanh phiền não, đ ều gọi là nói
68. thêu dệt cả.
c) nói lưỡi hai chiều, hay nôm na hơn, là nói "đ òn xóc nhọn
hai đ ầu", nghĩ a là đ ến chỗ này thì nói hùa với bên này đ
ể nói xấu bên kia, đ ến bên kia thì nói hùa bên ấy đ ể nói
xấu bên này, làm cho bạn bè đ ang thân nhau trở lại chống
nhau, kẻ ân, người nghĩ a chống đ ối, oán thù nhau.
d) nói lời hung ác, là nói những tiếng thô tục cộc cằn chửi
rủa, làm cho người nghe phải đ au khổ, buồn rầu, sợ hãi.
Vì sao Phật cấm nói sai sự thật? Phật cấm nói sai sự thật vì
những lý do sau đ ây:
a) Tôn trọng sự thật. - Ðạo Phật là Ðạo như thật; người tu
theo Ðạo Phật phải tôn trọng sự thật. Người quen với dối
trá, không thiết tìm sự thật thì khó có thể chứng qủa đ ược.
Chúng ta đ ang sống trong vọng tưởng, công việc chính của
người tu hành là cố gắng phá tan vọng tưởng ấy đ ể thấy đ
ược bản nguyện; nếu không làm đ ược như thế mà trái lại
còn chồng chất thêm cái vọng tưởng ấy với những sự dối trá
lừa phỉnh nữa, thì thật là trái đ ạo.
b) Nuôi dưỡng lòng từ bi. - Cái đ ộng lực chính của sự dối
trá là lòng ích kỷ, ác đ ộc, muốn hại người đ ể thỏa lòng dục
vọng đ en tối của mình. Người bị lừa dối, phỉnh gạc phải đ
au khổ vì mình, có khi phải mắt thù vươn oán, có khi phải
tan gia bại sản.
Người tu hành mà làm như thế là đ ã tán tận lương tâm, đ
ã bóp chết tình thương trong lòng họ rồi. Một khi lòng từ bi
không có nữa, nghĩ a là cái đ ộng lực chính đ ã mất, thì sự
tu hành chỉ còn là giả dối, lừa bịp người, và tất nhiên không
69. bao giờ có kết qủa
tốt.
c) Bảo tồn sự trung tín trong xã hội. - Trong một gia đ ình,
một đ oàn thể, một xã hội mà không ai tin ai, thì mọi công
cuộc từ nhỏ đ ến lớn đ ều thất bại. Trong đ ạo Nho, một
trong 5 đ ức tính că n bản là lòng tin. "Nhơn vô tín bất lập",
đ ó là lời dạy của
Khổng Tử, Hạnh phúc gia đ ình và xã hội không thể có đ
ược trong sự dối trá. nghi ngờ, đ ố kĩ .
d) Tránh nghiệp báo khổ đ au. - lời nói tuy không phải là
lưỡi kiếm, nhưng nó nguy hiểm hơn lưỡi kiếm, vì nó có hai
mũ i ngọn, một mũ i đ âm vào người khác, một mũ i đ âm v
ào chính người xử dụng nó. Ai ai cũ ng chắc chưa quên câu
chuyện thằng bé
chă n cừu muốn đ ánh lừa hàng xóm, bằng cách la "Lửa!
Lửa!", nhưng nó chỉ phỉnh người đ ược một lần, lần sau nhà
nó cháy thật, mặc dù nó kêu la thảm thiết cũ ng không ai
thèm đ ến chữa nữa. Ðấy, người dối trá chỉ gây họa cho
mình. Do đ ó, Phật
dạy: "Phàm kẻ ở đ ời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở
dĩ chém mình là do lời nói ác". Ðã đ ành nói ly gián, nói
xuyên tạc là đ ể hại người, nhưng khi đ ã làm hại người thì
thế nào người cũ ng hại lại mình. "Ác lai ác báo" là thế. Ðể
tránh sự thù hằn, tránh nghiệp dữ, chúng ta không nên dối
trá, đ iêu ngoa.
Lợi ích của sự không dối trá:
a) Về phương diện cá nhân. - Ðược người trọng nể, tin cậy,
70. không ai oán hận thù hiềm; đ i đ âu cũ ng đ ược người
chung quanh dành cho một đ ịa vị thân tín, niềm nỡ tiếp
đ ón> Trong nghề nghiệp làm ă n, người chân thật đ ược
nhiều thân chủ, và đ ược giao phó cho nhiều trọng trách
quý báu.
b) Về phương diện đ oàn thể. - Gia đ ình và xã hội đ ược đ
oàn kết trong sự tin cậy. Mọi công cuộc chung, đ ược xúc ti
ến có kết qủa tốt.Ðồng bào thương yêu, thông cảm nhau
hơn.
Hạn chế: Nói dối là một tai họa lớn lao, cho mình và xã hội.
Tuy nhiên, cũ ng có vài trường hợp nên nói dối. Ðó là khi
nào vì lòng từ bi mà phải nói dối đ ể cứu người hay vật. Nói
dối phạm tội là trong trường hợp do lòng tham, sân làm đ
ộng cơ thúc đ ẩy .
Ngược lại, nếu do lòng từ bi thúc đ ẩy mà phải nói dối, thì
không phạm tội.
5. - Không đ ược uống rượu. Tất cả những thứ có chất men
làm say người, hay chấc đ ộc hại người đ ều không đ ược
uống. Chính mình không uống đ ã đ ành, mà cũ ng không
đ ược ép nài người khác uống. Ép nài, khuyến khích người
khác uống, tội lại
nặng hơn cả chính mình uống nữa. Lúc lâm bịnh nặng, uống
các thứ thuốc không lành, lương y bảo phải dùng rượu hòa
vào thuốc, thì tạm đ ược dùng. Nhưng trước khi dùng phải
bạch cho chúng Tă ng biết. Khi hết bịnh, không đ ược tiế
p tục uống thuốc
có hòa rượu ấy nữa.
71. Vì những lý do gì Phật cấm uống rượu? - Phật cấm uống
rượu vì những lý do sau đ ây:
a) Bảo toàn hạt giống trí tuệ. - Rượu còn nguy hiểm hơn
thuốc đ ộc. Một ché thuốc đ ộc ta uống vào chết ngay,
nhưng chỉ chết một thân hiện tại, chứ rượu uống vào, làm
mất giống trí tuệ, phải chết đ i sống lại vô số kiếp. Vì thế
đ ể bảo toàn hạt giống trí tuệ quý báu, Phật cấm uống rượu.
b) Ngă n ngừa những nguyên nhân sanh ra tội lỗi. - Rượu
chính nó không phải là một tội lỗi như sát sanh, trộm cướp,
tà dâm, nhưng nó có thể làm nhân cho những tội lỗi kia
sanh ra. Khi đ ã uống rượu vào say sưa, thì tội nào cũ ng có
thể phạm đ ược. Dưới đ ây là một câu chuyện đ ể chứng
minh đ ìều đ ó: - Một anh nông phu kia đ ang cày ruộng
giữa đ ồng, bỗng thấy hiện ra sừng sững trước mặt mình
một hung thần to lớn, kỳ dị, hă m giết anh. Anh kinh sợ,
khóc lóc xin tha mạng. Vị hung thần bảo:
- Nếu ngươi làm một trong ba việc này thì ta tha chết cho:
hoặc là giết cha ngươi, hoặc là đ ánh mẹ ngươi hay uống h
ết lít rượu đ ể trên bàn nhà ngươi.
Anh nông dân suy nghĩ mộ hồi rồi trả lời:
- Xin Ngài cho con đ ược uống lít rượu.
Hung thần nghe xong có vẻ hài lòng rồi biến mất. Trưa
hôm ấy, anh nông dân về nhà, thấy lít rượu mà ông thân
mua đ ể đ ãi khách, vì nhà sắp có giỗ, anh ta vội vàng chụp
lấy, nốc cạn một hơi. Cha anh thấy đ ứa con hỗn láo, nắm
gậy xông lại đ ánh mắng con. Ma men đ ã thấm, anh ta
không còn biết phải trái, giựt gậy của cha, đ ánh ông một
72. cây chêùt tốt! Bà mẹ chạy đ ến ôm con la làng. Anh ta chưa
hả giận, đ ánh mẹ túi bụi. Xóm làng chạy lại bắt anh dẫn lên
quan vì tội giết cha đ ánh mẹ. Tỉnh lại anh mới biết uống
rượu là tội nặng nhứt trong ba diều mà hung thần bắt anh
làm.
Tóm lại rượu gây ra nhiều tội lỗi. Sau đ ây là 10 tai hại của
rượu mà trong Kinh đ ã nói đ ến: 1 - Của cải rơi mất; 2 - Tă
ng trưởng lòng giết hại; 3 - Trí tuệ kém dần; 4 - Sự nghiệp
chẳng thành; 5 - Thân tâm nhiều khổ; 6 - Thân hay tật bịnh;
7 - Tâm sân hận
bồng bột, ưa cãi lẫy; 8 - Phước đ ức tiêu mòn; 9 - Tuổi thọ
giảm bớt; 10 - Mạng chung đ ọa vào đ ịa ngục.
Lợi Ích Của Sự Cấm Uống rượu
a) Về phương diện cá nhân. - Người không uống rượu thì
tránh đ ược 10 đ iều hại vừa kể trên.
b) Về phương diện đ oàn thể. - Gia đ ình đ ược yên vui,
con cái ít tật bịnh, xã hội đ ược hòa mục, nòi giống đ ược
hùng cường.
C. - Kết Luận
1. - Phật tử không giữ giới không phải là Phật tử. - Chúng ta
đ ã thấy công dụng thiết thực và lợi ích của 5 giới về
phương diện cá nhân và đ oàn thể. Nếu Tam Quy là nền
tảng, thì ngũ giới là 5 nấc thang của người Phật tử tại gia đ
ể bước dần lên Thánh qủa. Trong bước đ ầu, người Phật tử
nếu có thể phát nguyện giữ cả nă m giới thì càng tốt; nếu
vì nhiều sự ràng buộc chưa thể giữ đ ược cả nă m giới thì
73. có giữ vài giới mà mình thấy có thể thực hành đ ược, như:
Không uống rượu, không nói dối. Rồi với sự tinh tấn và Bồ đ
ề tâm dũ ng mãnh , ta tiếp tục phát nguyện giữ thêm
những giới khác như không trộm cắp, không tà dâm...
Nhưng đ ã phát nguyện giữ giới nào thì giữ cho trung kiên,
đ ừng có một bước tiến tới, hai bước thoái lui, dùng dằng
như thế mãi thì không bao giờ đ i đ ến đ âu cả. Nếu
người Phật tử mà không giữ giới nào thì sao gọi là Phật tử?
Người thường, không theo Phật mà còn giữ đ úng tư cách
như không uống rượu, không nói dối, không trộm cắp thay,
huống hồ là Phật tử? Ta đ ến với Ðạo Phật là muốn vượt
lên trên đ ời tầm thường của thế nhân. Nếu chúng ta vào
Ðạo rồi mà vẫn tiếp tục cuộc đ ời trôi nổi cũ , hay còn tệ
hơn cuộc đ ời thường của thếnhân, thì đ ó là chúng ta
muốn làm hoen ố Ðạo,
Cho nên người Phật tử phải cố gắng giữ giới đ ể cho xứng
đ áng với danh nghĩ a của mình, đ ể đ em hạnh phúc đ ến
cho mình và chúng sanh.
2 Người không theo Ðạo Phật cũ ng nên giữ giới. - Nă m
giới nói trên không có gì là cao siêu, huyền bí. Ðó là một
bài học công dân thông thường mà bất cứ một xã hội nào,
một quốc gia nào muốn phồn thịnh, hùng cường cũ ng
không thể bỏ sót đ ược. Cho nên nă m đ iều luật ấy không
phải chỉ đ ể áp dụng riêng cho giới Phật tử, mà còn chung
cho tất cả những ai muốn sống một cuộc sống lành mạnh,
an vui, có lễ nghĩ a và tiến bộ.
Một xã hội mà mọi phần tử đ ều thực hiện đ ược nă m giới
74. cấm ấy, thì đ ó là một xã hội gương mẫu, vă n minh nhứt th
ế giới.
Giới Học
Thích Chơn Thiện
--- o0o ---
Giới học là một trong ba học: Giới, Đ ịnh, Tuệ. Ba học còn
đ ược gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này
đ ưa đ ến đ oạn trừ các lậu hoặc, đ ưa đ ến giải thoát mà
không phải đ ưa đ ến các phước báo sanh thiên.
Ý Nghĩ a của Giới
Thông thường Giới đ ược hiểu là ngă n ngừa đ iều quấy,
dứt dừng đ iều ác ("phòng phi chỉ ác"), hoặc ngưng đ iều
ác và làm đ iều thiện ("chỉ ác, tác thiện").
Trong Bát Chánh đ ạo, Giới là giới uẩn gồm có chánh ngữ,
chánh nghiệp và chánh mạng. Ở đ ây chỉ sự ngă n ngừa các
hành đ ộng lỗi lầm của thân và khẩu. Khi các hành đ ộng lỗi
lầm không đ ược làm thì tránh đ ược nhiều sự tổn hại cho
những người khác. Đ ây đ ã nói lên ý nghĩ a "tác thiện" của
giới.
Chữ Giới trong Giới bổn Ba-la-đ ề-mộc-xoa (Sk:
Pràtimoksa, Pàli: Patimokkha) có nghĩ a là Biệt giải thoát
hay Xứ xứ giải thoát, Tùy thân giải thoát. Biệt giải thoát là
giải thoát từng phần: giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều,
75. giữ giới ít thì giải thoát ít. Tùy thuận giải thoát là giải thoát
tùy thuộc vào quả hữu vi hay vô vi của người hành.
Từ đ iển của Rhys Davids cắt nghĩ a Giới (Silà) có gốc từ
ngữ că n Sìl. Ngữ că n Sìl có hai nghĩ a: Upadhàranà (luân
lý, đ ạo đ ức của Phật giáo, cách cư xử, tư cách đ ạo đ ức)
và Samàdhi (Đ ịnh, Thiền).
Từ Patimokkha thì có nghĩ a là, theo cách phân tích từ
ngữ, trói buộc các hành đ ộng, giữ gìn, thúc liễm các hành
đ ộng của thân và khẩu không đ ể cho rơi vào đ ường ác,
sai lầm, tổn hại mình và người. Ví như buộc mồm trâu đ ể ng
ă n nó ă n lúa mạ.
Giới trong nghĩ a của ngày trai giới (Pàli: Uposatha, Sk:
Upavasatha), Hán dịch là Bố-sa-tha, có nghĩ a là tịnh trú,
trưởng dưỡng, trưởng tịnh và thiện túc.
Tă ng Chi (III-A) đ ịnh nghĩ a ngày trai giới là ngày thực
hành hạnh sống của vị A-la-hán (chỉ giữ tám giới).
Trong ba mươi bảy phẩm trợ đ ạo, Thế Tôn dạy: "Giới là
nền tảng của bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc,
nă m Cần, nă m Lực, bảy Bồ-đ ề phần và tám Thánh đ ạo
phần. Ví như là đ ất là nền tảng, không có nó thì các loại đ
ộng vật không thể di chuyển, cũ ng thế, không có Giới thì
ba mươi bảy phẩm trợ đ ạo không thể đ ược tu tập viên
mãn."
76. Qua các đ ịnh nghĩ a trên, Giới giúp cho hành giả đ ạt đ
ược hai mục tiêu: không làm các đ iều ác (chư ác mạc tác),
làm các việc lành (chúng thiện phụng hành). Mục tiêu thứ ba
của Phật giáo là giữ tâm ý thanh tịnh, loại bỏ hết các lậu
hoặc (tự tịnh kỳ ý) và cũ ng là mục tiêu cứu cánh, cần phải
nhờ đ ến đ ịnh uẩn và tuệ uẩn.
Thời Gian Và Lý Do Thiết Lập Giới
Theo tài liệu sử của Edward J. Thomas trong cuốn "Đ ời
sống của đ ức Phật" (The Life of Buddha), Giáo hội Ni đ ược
thành lập từ nă m thứ nă m sau ngày Thế Tôn thành Đ ạo.
Do đ ó, qua nă m thứ sáu một số giới luật đ ã bắt đ ầu hình
thành, và hình thành tương đ ối rõ là vào nă m thứ mười
sau ngày Thành Đ ạo. Luật tạng thì ghi mãi đ ến nă m thứ
mười ba sau ngày Thành Đ ạo, giới luật mới hẵn nhiên đ
ược hình thành, do Tôn giả Ưu-ba-ly (Upàli) đ ặc trách. Bấy
giờ Giới bổn Ba-la-đ ề-mộc-xoa (Patimokkha) ra đ ời.
Vì sao Giới bổn không đ ược thiết lập ngay từ nă m đ ầu
của Giáo hội? Theo truyền thống, chư Thế Tôn chỉ thiết
lập các giới đ iều, khi nào thấy cần thiết, khi nào đ ầy đ ủ
nhân duyên. Khi có một hiện tượng vi phạm gây nên một
ảnh hưởng không tốt cho sinh hoạt của Tă ng chúng thì Th
ế Tôn mới kiết giới, thành lập thêm một giới đ iều đ ể ng
ă n ngừa hiện tượng xấu ấy xảy ra về sau. Giới bổn cũ ng
thế, trong những nă m đ ầu, chư Tỷ-kheo sinh hoạt thanh
tịnh trong khuôn khổ của Chánh pháp nên Thế Tôn không
đ ề cập đ ến Giới bổn, mà chỉ trình bày Giới dưới những
77. hình thức đ ơn giản, và tổng quát nhất là hình thức hộ trì
các că n, hoặc dưới hình thức chánh ngữ, chánh nghiệp và
chánh mạng của Bát Chánh đ ạo. Mãi đ ến nă m thứ mười
ba sau ngày thành Đ ạo, bấy giờ có nhiều hiện tượng sinh
hoạt đ i ra ngoài đ ời sống phạm hạnh, Thế Tôn mới thành
lập giới bổn Ba-la-đ ề-mộc-xoa.
Một hôm, Tôn giả Upàli bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn,
do những mục đ ích nào các học pháp đ ược thiết lập cho
các đ ệ tử của Như Lai và Giới bổn Patimokkha đ ược tuyên
đ ọc?"
Thế Tôn dạy, do mười mục đ ích mà các học pháp đ ược
thiết lập và Giới bổn Pàtimokkha đ ược tuyên đ ọc:
- Đ ể Tă ng chúng đ ược cực thịnh,
- Đ ể Tă ng chúng đ ược an ổn,
- Đ ể chặn đ ứng các người cứng đ ầu,
- Đ ể các thiện Tỷ-kheo đ ược sống an ổn,
- Đ ể chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại,
- Đ ể chặn đ ứng các lậu hoặc trong tương lai,
- Đ ể đ em lại tịnh tín cho những người không tin,
- Đ ể làm tịnh tín tă ng trưởng cho những người có lòng tin,
- Đ ể diệu pháp đ ược tồn tại,
- Đ ể luật đ ược chấp nhận. (Tă ng Chi Bộ Kinh 3B, tr. 73)
Qua mười mục đ ích trên, Giới bổn chỉ giới hạn ở hai phần
"chỉ ác" và "tác thiện" trong ba phần (chỉ ác, tác thiện và tự
tịnh kỳ ý) mà Phật giáo nhắm đ ến.
78. Như thế, Giới qua Nikàya, chỉ gồm vào các giới của tại
gia và xuất gia. Đ ây là nội dung của Nhiếp luật nghi giới
hay gọi là Biệt giải thoát giới.
Nội Dung Các Loại Giới
Có nhiều hình thức phân loại giới. Cách phân loại thứ
nhất, giới mang ý nghĩ a rộng rãi của "Đ ại-thừa". Ở đ ây có
ba loại:
- Loại một gọi là Nhiếp luật nghi giới, gồm có các giới của
tại gia và xuất gia: ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện
giới và cụ túc giới.
- Loại hai gọi là Nhiếp thiện pháp giới, lấy việc thực hành
tất cả việc thiện làm giới.
- Loại ba gọi là Nhiêu ích hữu tình giới, lấy việc làm lợi ích
cho tất cả chúng sanh làm giới.
Cách phân loại thứ hai cũ ng mang ý nghĩ a rất rộng rãi
của Đ ại thừa, gồm có:
- Biệt giải thoát giới, đ ấy là nội dung của Nhiếp luật nghi
giới.
- Đ ịnh cộng giới, là giải thoát do đ ịnh sinh, lấy đ ịnh làm
giới. Do tu Thiền đ ịnh mà thân tâm thanh tịnh, giới thể đ
ược cụ túc.
- Đ ạo cộng giới, là giải thoát do tuệ sinh, lấy tuệ làm giới.
Do tu vô lậu nghiệp mà đ ược trí vô lậu, giới thể đ ược viên
mãn.
79. Qua sự phân loại giới trên, nhiếp thiện pháp giới và
nhiêu ích hữu tình giới là thuộc Đ ại thừa giới; biệt giải thoát
giới và đ ịnh cộng giới thì đ ược gọi là hữu lậu giới; đ ạo
cộng giới đ ược gọi là vô lậu giới.
Luận Câu Xá thì gọi biệt giải thoát luật nghi (hay biệt giải
thoát giới) là Dục giới triền giới; gọi đ ịnh sanh luật nghi
(hay đ ịnh cộng giới) là Sắc giới triền giới; và gọi đ ạo sanh
luật nghi (hay đ ạo cộng giới) là vô lậu giới.
Trong giới hạn của phần giới đ ược trình bày ở đ ây, chú
ng ta không đ i vào các chi tiết của giới, cũ ng không đ i và
o các giới luật xuất gia, mà chỉ trình bày những nét cơ bản
của Giới học.
Tính Chất Và Nền Tảng Của Giới
Cứ theo từng giới cấm một, cũ ng như toàn thể Giới bổn,
đ ặc biệt là mười giới că n bản chung cho cả tại gia và xuất
gia liên hệ đ ến thân, khẩu và ý, chúng ta có thể tìm ra tính
chất của giới và nền tảng trên đ ó Giới đ ược thiết lập.
Ở đ ây, đ ơn cử giới "bất sát" (không đ ược sát sanh). Că
n bản của giới này là không giết người, thứ đ ến là không
giết hại các loài chúng sinh khác. Về phần người giữ giới,
khi giữ giới này thì ngă n trừ đ ược sân tâm, nuôi dưỡng đ
ược từ tâm, khiến cho tâm đ ược an tịnh, an lạc ngay trong
hiện tại, từ đ ây, người giữ giới không tạo các nghiệp ác đ ể
phải chịu thọ quả khổ đ au trong tương lai. Về phần các
người khác và các chúng sanh khác, khi giới bất sát đ ược
80. giữ gìn thì đ ời sống của họ đ ược thêm phần bảo đ ảm an
toàn, an ổn, khỏi phải gánh chịu các hậu quả do lòng sân
hận, ác hại của người khác gây ra trong hiện tại.
Đ ối với giới "bất dâm", "bất đ ạo", người giữ giới ngă n
đ ược lòng tham và không tạo thêm ác nghiệp gây ra khổ đ
au trong hiện tại và tương lai, tha nhân và các loài chúng
sanh khác thì tránh đ ược các tổn hại và sống an ổn.
Kết quả việc giữ giới như thế tựu trung tính chất của nó
là đ em lại an vui cho mình và cho người, đ iều hòa đ ược
sinh hoạt của tập thể, tạo nên lòng tin cho kẻ khác. Đ em lại
lợi ích an lạc và giải thoát cho tự thân người giữ giới, đ ấy là
trí tuệ; đ em lại lợi ích an lạc cho tha nhân và các loài khác,
đ ấy là từ bi. Trí tuệ và từ bi là nền tảng trên đ ó Giới đ ược
thiết lập.
Hướng đ i của giới là đ em lại lợi ích, an lạc cho mình và
người, nên giới giúp đ ỡ người tu tập thấy nhẹ nhàng thân
và tâm, an lạc trong từng bước đ i. Giới đ úng nghĩ a của
nó, không có ý nghĩ a nào trói buộc hay tù túng cả. Ngoài
một số hành đ ộng, nếu làm, hẳn nhiên phá đ ổ hạnh thanh
tịnh nên tuyệt đ ối bị cấm chỉ, các sinh hoạt còn lại của
người tu tập giải thoát đ ều đ ược tùy duyên mà châm
chước, khai mở. Ngay cả trong các trường hợp bị cấm chỉ, n
ếu vì "nghịch duyên" mà bị rơi vào (như là "các tai nạn" liên
hệ giới xảy đ ến), ngoài sự tác ý của hành giả, thì sẽ không
phạm, nếu người bị nạn không khởi lên tham tâm hay sân
81. tâm tùy thuận theo sự kiện đ ang xảy ra (ví dụ bị cưỡng hiế
p, nếu không khởi lên lạc tâm thì không phạm).
Về các giới trọng thì tính chất khai mở của chúng còn có
phần hạn chế, nhưng với các giới nhẹ thì tánh chất của
chúng rất là cởi mở, linh đ ộng, phóng khoáng.
Luật tạng ghi rằng một lần các Phật tử và ngoại đ ạo chê
trách các vị Tỳ -kheo đ ứng mà tiểu tiện, cho rằng cung
cách đ ó là thô tháo, thiếu lịch nhã. Khi sự việc này đ ược
trình lên Thế Tôn, Thế Tôn bèn dạy: "Vậy thì từ nay các
Tỷ-kheo, ngồi mà tiểu tiện". Nhưng ở một quốc đ ộ khác, khi
chư Tỷ-kheo ngồi tiểu tiện thì lại bị chê rằng các đ ệ tử của
Thế Tôn toàn là nữ giới. Khi sự việc này trình lên Thế Tôn,
Thế Tôn lại dạy: "Nếu vậy, thì đ ứng mà tiểu vậy." Thế có
nghĩ a là tùy theo quốc đ ộ, tùy theo vă n hóa mà thích
ứng. Đ ấy là một trường hợp đ iển hình nói lên tính chất linh
đ ộng và cởi mở của Giới.
Như vậy giới trong giáo lý Phật giáo, không mang tính cố
chấp, cứng nhắc như là giới đ iều (dogma) của các Tôn
giáo khác, mà mang nghĩ a tự nguyện, thiết thực đ em lại
lợi ích cho mình và người, nhằm nuôi dưỡng và phát triển
tín tâm của mình và người.
Vị Trí Của Giới Trong Hệ Thống Giáo Lý Phật Giáo
Trường Bộ Kinh và Trường A-hàm đ ề cập đ ến Giới nhi
ều hơn là các bộ Kinh còn lại. Đ iển hình là Kinh Phạm Võng
(của Nikàya) và Kinh Phạm Đ ộng (của Trường A-hàm) xác đ
82. ịnh rõ vị trí của Giới trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Trong
hai kinh này, Thế Tôn xác nhận chỉ có các kẻ phàm phu mới
ca ngợi, tán thán Như Lai về Giới đ ức. Lời ca ngợi, tán thán
Như Lai như thật chân chánh là ca ngợi, tán thán về Tuệ đ
ức: -- "Như Lai đ ã chứng tri, giác ngộ và tuyên thuyết các
pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt
khỏi tầm luận lý suông, rất tế nhị, chỉ có các bậc trí tuệ mới
nhận hiểu."
Qua lời xác nhận ấy của Thế Tôn, ta thấy Giới chỉ mới là
bước đ i că n bản (Giới, Đ ịnh, Tuệ) của Phật giáo. Thực sự
nói rõ hơn, Giới chỉ là bước đ ầu của nă m bước đ i: Giới, Đ
ịnh, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến (tri kiến biết rằng
đ ã giải thoát).
Giới là bước đ i đ ầu, nhưng là bước đ i nền tảng. Nếu
hành giả rơi vào giới cấm thủ (giữ giới sai lạc của ngoại đ
ạo), hỏng từ bước đ i đ ầu này, thì không thể nào thực hiện
đ ược bốn bước đ i kế tiếp.
Đ ấy là ý nghĩ a của từ ngữ Giới trong Nikàya và A-hàm.
Qua đ ến Bắc tạng (Đ ại thừa) thì từ Giới mang ý nghĩ a
rộng rãi bao la hơn: Giới bao gồm cả Đ ịnh và Tuệ. Biệt giải
thoát giới (hay Nhiếp luật nghi giới) và Đ ịnh cộng giới là
thuộc hữu lậu giới, Đ ạo cộng giới thuộc về Tuệ giải thoát
hay vô lậu giới.
Đ ại Tạng Bát-nhã thì xếp Giới vào một trong sáu chi
phần tu tập của Bồ-tát gọi là "Lục Ba-la-mật". Giới Ba-la-mật