SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 15
Bàn thêm về
“Nguồn gốc người Việt- người Mường”củaTạ Đức
Nhạc sĩ Dương Đình Minh Sơn
Nhà Dân tộc-Âm nhạc học
Tóm tắt
Sách Nguồn gốc người Việt-người Mường của Tạ Đức (N.x.b Trí thức-2014) cho
rằng vùng đất này có tên Giao Chỉ là đất của người Dao- Tên đất là tên
người. Còn Người Việt và người Mường xưa nay khác nhau, đều là sự tổng
hòa của các nhóm di dân từ phương Bắc: Người Mường vốn là người Mon,
Man đến trước, chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên, Người Việt vốn là
người Lava, đến sau, chủ nhân của văn hóa Đông Sơn. Đó là một nhận thức
sai trái, lỗi thời phản lại Lịch sử của dân tộc. Bài viết này Tác giả phản bác
lại luận điểm sai trái của Tạ Đức, bằng việc dùng những di vật và hoa văn
xuất hiện từ thời đồ đá cũ do Tổ Tiên chúng ta sáng tạo để lại trong lòng đất,
do giới khảo cổ của ta khai quật trong các di chỉ ở lưu vực sông Hồng đem
lại là cùng dòng tư tưởng với phong tục tập quán của xã hội người Kinh
đương đại. Di vật và hoa văn là lời nói trung thực, khách quan nhất không
thể chối cãi được.
Tạ Đức, nhà Dân tộc học nghiên cứu độc lập, năm 1999 đã có sách “Nguồn gốc
và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn” trên 400 trang khổ lớn
(Hội Dân Tộc học Việt Nam); sách giải mã những hiện vật văn hóa biểu tượng: Đông-
Tây, kim - cổ do vài nhà nghiên cứu trong nước, còn lại là các nhà nghiên cứu của thế
gới thực hiện. Những giải mã ấy đúng sai không ai biết, vì không quan hệ gì đến Việt
Nam. Theo mạch nguồn ấy, nay cũng từ những cứ liệu thông tin của một số tác giả khảo
cổ học phương Tây trong việc kết luận sai trái, thiếu trách nhiệm về Chủ nhân của nền
văn hóa Đông Sơn là không phải dân tộc Kinh của chúng ta. Tư tưởng ấy hòa nhập tư
tưởng Đồng hóa của thế lực phương Bắc được đưa lên Intnet, Tạ Đức truy cập xào xáo
lại (Nếu không xào xáo như thế thì Tạ Đức không có cuốn sách nào cả!), tạo nên
“Nguồn gốc người Việt- người Mường” 800 trang (N.x.b Trí thức 2014), sách vừa công
bố lập tức bị nhiều lời phản ứng gay gắt của giới học giả, trong đó có giới Dân tộc học.
Những luận điểm sai trái ấy trước đây cũng đã bị các học giả cự phách của nước ta kịch
liệt phê phán như G.S.Viện sĩ Phạm Huy Thông và G.S Hà Văn Tấn.
1
Bởi đây là vấn đề hệ trọng, không chỉ thuộc phạm trù nghiên cứu khoa học lịch
sử mà đụng chạm đến những vấn đề vô cùng thiêng liêng thuộc về vận mệnh lịch sử
nguồn gốc dân tộc và giống nòi của Tổ quốc, đất nước, lòng tự tôn về Tổ Tiên giống nòi
là Rồng- Tiên, đã được bao thế hệ hun đúc tạo nên bề dày Lịch sử; Không chỉ bằng lời
văn trong sử sách mà cả bằng cứ liệu khảo cổ do Tổ Tiên của chúng ta sáng tạo để lại
trong lòng đất với lời Di huấn “Ăn quả phải nhớ người trồng cây”, hoặc “Ăn cây nào
phải rào cây ấy” mà nhận thức đầy đủ về Lịch sử cội nguồn của dân tộc: qua hành văn
trong sử sách và di vật khảo cổ, nâng lên thành giá trị tổng hợp mới, khẳng định nguồn
cội của dân tộc Kinh chúng ta từ khởi thủy cho đến dương đại là một dòng trực hệ. Đó
mới là trách nhiệm của cháu con hiếu để với Tổ Tiên, ông bà giống nòi.
Từ thập kỉ 60 của thế kỉ XX trở đi, giới khảo cổ học của ta đã khai quật đưa lên
mặt bàn nền văn hóa sông Hồng, chỉ nói riêng vật hèm trống đồng đã làm cho một số
nhà khoa học uyên thâm, chân chính của thế giới phải thay đổi nhận thức. Nhà bác học
Pháp L.Bezacier có những hiểu biết sâu rộng về lịch sử văn minh Việt Nam, cuối đời,
năm 1972 khi hệ thống lại các công trình của mình, trong đó có bộ sách Giáo khoa về
khảo cổ học ở Viễn Đông, nhan đề: Việt Nam - Từ tiền sử đến cuối thời Trung Hoa chiếm
đóng cũng đã phải thốt lên lời chua chát rằng: Phương Tây sau gần một thế kỷ (giữa thế
kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX) nghiên cứu, hoàn toàn không hiểu, không biết gì chắc chắn
cả về nguồn gốc của trống đồng, cũng như về công dụng và ý nghĩa của nó (1)
. Đến Giáo
sư H. H.E.Loofs-Wwiosowa người Australia, gốc Đức từng ở trong đội quân viễn chinh
Pháp có nhiều hiểu biết về văn hoá Việt Nam (1983), với thuyết Biểu chương vương
quyền (regalia) coi trống đồng là vật tượng trưng cho quyền lực hợp pháp. Ông cho rằng
có một quyền uy tôn giáo tồn tại ở bắc Việt Nam trong thời cổ, tương tự với quyền uy của
giáo hoàng phương Tây. Theo ông các Tù trưởng bộ lạc ở nhiều vùng Đông Nam Á đã cử
sứ bộ đến bắc Việt Nam để xin ban các trống đồng mà với chúng, họ có thể làm vua hợp
pháp (2)
. Còn trước đó, là Fr. Heger, học giả Đức gốc Áo, cố vấn của trường Viễn đông
Bác Cổ (EEEO), và Hội nghị nghiên cứu về Viễn Đông lần thứ nhất năm 1932 ở Hà Nội
(ảnh 1a). Trong công trình Những trống kim khí ở Đông Nam Á (1902): khi đó, với 165
chiếc trống đồng ở các bảo Tàng của châu Á, châu Âu và ở các sưu tập của tư gia, Heger
khảo tả chi tiết về các yếu tố kết cấu, hình dáng (cao, to, thắt eo) và vẽ lại hoa văn của
từng chiếc.Trên cơ sở đó, ông phân trống đồng làm bốn loại, ký hiệu I, II, III, IV và coi
trống đồng loại I ra đời đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam (3)
.
Bởi lẽ, vật hèm trống đồng là đỉnh điểm của nền văn hóa Văn Lang, trong đó khởi
nguyên là vật hèm Ngọc Lũ: hoa văn tinh xảo kì bí, giàu sang quyền quý, kiệt tác có một
không hai của nhân loại, cho nên khi nói vật hèm (trống đồng) là nói về dân tộc Kinh Việt
Nam. Cho nên, các nhà khoa học tài năng, chân chính, đạt tầm kiến thức của các nước
mới phát biểu như thế; vì rằng hoa văn khởi thủy (ảnh 2a 2b ) và liên tục đến (ảnh 3a,
3b), hoặc di vật biểu tượng sinh thực khí – Nõ nường (ảnh 4 a 4b) Truyền nối đến thời
đương đại là cái cuốc chim và lưỡi cày bướm (ảnh 5a 5b) là một dòng tư tưởng.
Vậy một câu hỏi đặt ra. Tại sao Tạ Đức chấp nhận nền văn hóa sông Hồng là của
dân tộc Mã Lai và của người Thái rồi biến thái thành người Mường là là Mon, Man và
2
người Kinh là Lava còn vùng đất này là của người Dao? Đó là do tính dân tộc non kém,
thiếu vững vàng về tri thức, khi bị sa vào một phương pháp luận sai lầm của những nhà
nghiên cứu phương Tây thì Tạ Đức trượt dốc lao theo. Vì thế, để làm sáng rõ vấn đề này,
theo ý chúng tôi, ta cần tìm hiểu các công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam của một
số nhà khảo cổ học phương Tây.
1. Những nhận định sai về nền văn hóa sông Hồng
Ngay từ khi những ý kiến sai trái của một số nhà khảo cổ học phương Tây đưa ra,
Viện sĩ Phạm Huy Thông đã từng kịch liệt phê phán trong nhiều tư liệu và ở đây rằng:
“Người phương Tây trong khi tiến hành công viêc khảo cổ ở Việt Nam, nhưng không hiểu
gì về thực địa của vùng ấy; lại càng không biết gì chắc chắn cả về lịch sử xã hội và nguồn
gốc của cư dân ở đó, cho nên những giả thuyết của họ đưa ra thường có vẻ có lý, nhưng
cũng đều chỉ có cơ sở chủ quan mong manh như thế cả(4)
.
Tiêu biểu cho tính “chủ quan mong manh” này là nhà khảo cổ học người Thụy
Điền OIov Janse trong cuốn “Việt Nam carrefour des peuples et de civilisations” é,
d.
France đã kết luận : “Về Việt Nam thì nền văn minh Đông Sơn hình như phần lớn của dân
nguyên thủy Mã Lai, và tầng văn minh về sau là của chủng tộc phần lớn nguồn gốcThái”.
Trong một số giai đoạn lịch sử người Đông Sơn có quan hệ gắn bó với các nước ở Viễn
Đông và các nước có nền văn hóa chính thống như Trung Quốc (Classic) (5)
.Lời nhận định
sai lầm của OIov Janse là nằm trong một số nhận định sai lầm khác của các nhà khảo cổ
của phương Tây nói về hoa văn vật hèm Thần Đồng (trống đồng) Đông Sơn, như Hainơ
Ghendéc thì khẳng định rằng đó là họa tiết phổ biến của đồ đồng châu Âu như văn hoá
Hanxtát ở bắc Âu và phong cách Hy Lạp "(6)
, còn Cacsgren thì cho từ nghệ thuật sông
Hoài của Trung Quốc đưa sang(7)
!
Sở dĩ có những sai lầm như thế là do, họ nghiên cứu văn hoá Đông Sơn mà theo
phương pháp đồng đạị, bỏ qua lịch đại của nền văn hoá ấy, lại mang nặng tư tưởng xem
thường cư dân thuộc địa, nên không thấy những di vật do Chủ nhân là Tổ Tiên chúng ta
sáng tạo mà cho từ văn hoá Hanxtát ở bắc Âu và phong cách Hy Lạp, hoặc từ nghệ thuật
sông Hoài của Trung Quốc đưa sang,
và dân tộc nguyên thủy Mã Lai v.v.
Nhưng căn cứ vào các di vật do ngành khảo cổ của ta đã khai quật được ở nhiều di
chỉ ở lưu vực sông Hồng được đánh giá có niên đạị rất sớm thì rõ ràng Tổ Tiên ta người
Kinh - Mường đã hình thành từ thời sơ khai là rất lâu dài.Tuy nhiên, do những điều kiện
đặc thù về lịch sử của nước ta - với những biến động quá lớn trong quá trình hình thành và
phát triển kinh tế xã hội, lại bị phương Bắc nô dịch hàng ngàn năm, mọi cứ liệu thư tịch,
hiện vật đều bị tàn phá, đập nát và xuyên tạc. Phải đến khi dân tộc ta giành lại được quyền
tự chủ, những bậc Tiên triết của chúng ta nhặt nhạnh từng mảnh vụn chắp nối lại thành
Nguồn gốc dân tộc của chúng ta từ Họ Hồng Bàng, sau đó dần dà chắp nối thêm. Cho
nên, ngày nay để tìm hiểu đánh giá nguồn gốc hình thành dân tộc, ngoài các tài liệu của
các bậc tiền bối sử gia để lại thì còn có yếu tố vô cùng quan trọng, đó là giải mã những
hiện vật của các thời kì lịch sử đã khai quật được mà tư tưởng của nó là cùng nguồn với
các tập quán, thói quen đã hình thành của các thế hệ người Kinh bằng zen di truyền tồn tại
3
đến ngày nay. Đó chính là nguồn Lịch sử chính xác nhất: di vật, hoa văn và tập quán là lời
nói trung thực, khách quan không thể chối cãi được.
Cũng phải thừa nhận rằng, có một số nhà khảo cổ học của phương Tây chân chính
đã để lại những dấu ấn đáng kính nể về khảo cổ học ở Việt Nam. Đến năm 1932, Trường
Viễn Đông Bác Cổ, trong đó có học giả Victor Goloubew và nữ học giả Madeleine
Colani, đã phát hiện di vật của thời đại đồ đá cũ(8)
, ở núi Bắc Sơn Thái Nguyên xuất hiện
5 đến 4 vạn năm (9)
và bà Madeleine Colani cho khai quật di chỉ Xóm Trại, Lạc Thủy,
Hòa Bính, nền nông nghiệp ra đời 10.0000 năm Tr. C.N, cách nền nông nghiệp Lưỡng
Hà khoảng 3.000 năm. Hội nghị quốc tế về Tiền sử Viễn Đông lần thứ I tại Hà Nội
(1932) công nhận (cứ liệu do Viện Bảo tàng Quốc gia Hà Nội cung cấp, kèm - ảnh 1a).
Nhưng OIov Janse không kết hợp, mà lấy hiện vật khảo cổ nằm trong ba, bốn thế kỉ
trước và sau C.N - với hiện vật chủ yểu của thời đại đồ đồng, đồ sắt, để khẳng định Chủ
nhân của nền văn minh Đông Sơn là dân tộc nguyên thủy Mã Lai và nền văn hóa tiếp theo
là của người Thái. Lời nhận định sai của OIov Janse, nhưng lại có sức nặng bởi sự “bảo
lãnh” của Viện Bảo tàng Quốc gia Pháp và Viện Bảo tàng Quốc gia Mỹ. Hai Viện Bảo
tàng ấy đã ủy thác cho ông nhiệm vụ khảo cổ ở Đông Dương và Đông Nam Á, tiến hành
từ tháng 10 năm 1934 – đến tháng 8 năm 1940. Sau đó OIov Janse sống ở Mỹ với tư cách
là Giáo sư danh dự, cán bộ Bảo tàng và hợp tác với UNESCO (10)
.
Trước đó, những năm cuối thập kỉ 40 của thế kỉ 20, OIov Janse từng thuyết giảng
truyền bá những nhận định ấy cho các Trường Đại học ở Sài Gòn, cho nên sách Lịch sử
tư tưởng Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (Sài Gòn 1963) dẫn lại nguyên xi ý kiến ấy.
Đến khi sang Mỹ, OIov Janse giảng ở các Trường Đại học của Mỹ, của Pháp. Mặc dù ý
kiến ấy sai, nhưng có sự “bảo lãnh” thì tất cả các nhà khoa học của châu Âu đều nghe và
dẫn lại, rồi xào xáo, gia cố và cụ thể hóa các chi tiết bằng việc thay đổi tên dân tộc Mã
Lai, chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn, thành dân tộc Mon, Man, Lava rồi Hồ Động
Đình nước Xích Qủy, Xuy Vưu, vua Kinh Dương Vương v.v, và đúc chiếc trống đồng
hai mặt như trống da (ảnh 1b), là do sau khi Mã Viện gọi loại vật hèm ấy của dân tộc
Kinh là trống đồng (đồng cổ) được ghi trong sách Hậu Hán thư. Đó là một từ mới. Cho
nên đến nay các từ điển Trung Quốc cổ điển giải thích từ điều “Đồng Cổ” như Từ
Nguyên đều dẫn đoạn văn Truyện Mã Viện (11)
. Vì thế, nó không thể có hàng mấy ngàn
năm trước Công Nguyên được như Tạ Đức nói, hoặc con cóc, thế giới gọi là con ếch.
Không xào xáo như thế thì họ không có sách. Đến nay phương tiện Internet trợ giúp thì
những xào xáo dựa theo nhận xét của OIov Janse nó như vật phẩm phong phú đặc sắc
trong “siêu thị” về văn hóa học, khảo cổ học, dân tộc học.Tạ Đức nhặt về “xào xáo”
thành món hàng hiếm quý Nguồn gốc người Việt- người Mường, “món hàng” mà hiện
nay mọi người ở nước ta đang háo hức muốn biết về Tổ Tiên của mình. Nhưng không
may cho độc giả là Tạ Đức nhặt phải “hàng rởm”, như chính tác giả tự công nhận, là
50% nguồn tư liệu tham khảo, lại khai thác từ internet (trang 15) - không nhặt thế thì
không có đầu sách này.
4
Ảnh 1a. Hội nghi Viễn Đông. Ảnh 1b. Trống đồng Xuy Vưu.
Về vật hèm (trống đồng) thì mỗi dân tộc trong thời tiền sử thường có một vật linh
biểu tượng quyền uy của vị đứng đầu một tôn giáo hoặc tù trưởng: Có tộc, vật linh là
chiếc gậy, có tộc, vật linh là chiếc mũ. Vật linh ấy nếu kèm theo một câu Thần chú thì tạo
nên sự linh nghiệm vô song như chiếc gậy, cái nón của Chử Đồng Tử–Tiên Dung (Việt
Nam). Về sau chiếc gậy, cái mũ ấy là cây Vương trượng và chiếc mũ Miện: Khi bị lột mũ
Miện, cất cây Vương trượng thì người đó không còn uy quyền gì nữa. Đó là giá trị của vật
linh biểu trưng Vương quyền. Đến thời cổ đại, khi có tổ chức Nhà nước, thì xuất hiện loại
vật linh Ấn tín của nhà vua, như Đỉnh đồng thời nhà Thương Trung Quốc và Thần Đồng-
Ngọc Lũ của vua Hùng Văn Lang. Đặc biệt hoa văn Thần Đồng-Ngọc Lũ từ thời chưa có
chữ viết, bằng những kí hiệu “mật mã” tạo nên hàm nghĩa bản Sử thi của dân tộc Kinh-
Văn Lang biểu đạt về khởi nguyên và tiến trình vòng đời của con người; Đồng thời qua
đó, mà hình dung về lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc từ khởi thủy cho đến
ngày vua Hùng Tuyên bố thành lập nước Văn Lang- Tức là bản Tuyên ngôn trong ngày
thành lập nước (xem chú thích 21).
2. Bốn điểm sai của Tạ Đức
Những sai trái trong sách của Tạ Đức Trần Trọng Dương có bài viết trích dẫn
từng mục (Trang điện tử Văn hóa Nghệ An), bài viết này chúng tôi chỉ nêu khái quát
bốn điểm sai trái của Tạ Đức, rồi dẫn chứng bốn điểm về di vật và hoa văn khảo cổ của
địa vực sồng Hồng để chứng minh luận điểm sai của Tạ Đức như sau:
Điểm thứ nhất. Tạ Đức cho rằng : Người Việt và người Mường từ xưa đến nay
luôn là hai tộc người khác nhau và đều là sự tổng hòa các nhóm di dân từ phương Bắc.
Người Mường vốn là người Mon, Man hay Mân Việt, là di dân đường biển, đến trước,
chủ nhân của các văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun. Người Việt vốn là
người Lava hay Lạc Việt, đến sau, là chủ nhân chính của văn hóa Đông Sơn (Tạ Đức,
Book Hun ter).
Nguyên điểm này Tạ Đức gần như đã phủ định những tài liệu Lịch sử của dân
tộc đã được hệ thống lại trong bốn tập sách Hùng Vương Dựng Nước- lại được chứng
minh bằng hệ thống Di vật khảo cổ do Tổ Tiên chúng ta dân tộc Kinh sáng tạo: Di vật
và hoa văn là “bộ sử” tuyệt đối chính xác; dấu ấn về bản sắc, tư tưởng và hành xử trong
phong tục tập quán của một dân tộc được xác lập ngay từ khởi thủy, thể hiện trong từng
di vật văn hóa hằng số chẵn (đôi và Tứ) hướng đầu sang bên phải. Đó là những “viên
gạch” đặt nền móng cho tầng văn minh đồ đồng Đông Sơn. Thế mà Tạ Đức cho “người
5
Lava hay Lạc Việt đến sau tạo ra, nền văn hóa Đông Sơn. Vậy họ là vị “thần Đèn”
chăng, chẳng cần thời gian chuẩn bị !
Điểm thứ hai. Tạ Đức cho Thánh Gióng chính là vị thần Trống Đồng-Thần
Chiến tranh-Thần Bảo hộ, một biểu tượng của Xuy Vưu-Xích Quỉ-Viêm Đế, Ông Tổ
huyền thoại của người Bách Việt; dẫn chứng một chiếc trống đồng đúc theo kiểu trống
da (ảnh 1b), lối đúc này chỉ được ra đời sau khi Mã Viện gọi vật hèm Ấn tín và báu vật
truyền ngôi của thời đại Hùng Vương là đồng cổ (trống đồng trong lần y đưa quân sang
Giao Chỉ đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43 C.N).
Dân tộc ta chưa bao giờ coi Thánh Gióng là Thần trống đồng cả mà tôn vinh
trống đồng là vị Thần Đồng, từ thời Văn Lang, vua Hùng đã cho lập đền thờ Ngài trên
núi Khả Lao, huyện Yên Định -Thanh Hóa, đến nhà Lý có đền thờ vọng Ngài ở sau
chùa Thánh Thọ, nay là 353 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội, vua Lý Thái
Tông (1028-1054) phong cho Ngài là Minh chủ Linh ứng Chiêu cảm Đại Vượng, cho
nên chỉ nước ta mới có đền thờ Ngài, còn bên Xuy Vưu, Xích Quỷ Viêm Đế làm gì có
đền thờ Ngài. Về đề tài này, trước đây Tạ Đức có bài Trống đồng một nhạc khí bằng
chứng rõ ràng. Sau khi dẫn cứ liệu đánh trống đồng của vùng Lưỡng Quãng (viết trống
đồng Việt Nam mà lấy tư liệu bên xứ Quảng), sau lại dẫn tiếp ở sách Đại Nam nhất
thống chí-mục Thanh hóa chí rằng: Ngày xưa vua Hùng đi đánh Chiêm Thành ban đêm
đóng quân ở núi Khả Lao nằm mộng thấy một vị Thần xin đánh trống đồng giúp vương
đánh thắng…(12)
Điểm sai ở đoạn trích dẫn này là Hùng Vương đi đánh Chiêm Thành,
nhưng nước Chiêm Thành mới có ở thế kỉ thứ VI. C.N(13)
. Chúng tôi phê phán điểm sai
ấy, nên N.x.b Thuận Hóa 2006 in Đại Nam nhất thống chí đã bỏ đoạn đó. Dẫn lại điểm
này để thấy Tạ Đức hễ thấy cứ liệu là dẫn lấy được, không cần biết đúng sai. Bản tính ấy
của Tạ Đức vẫn thể hiện trong “Nguồn gốc người Việt- người Mường”.
Điểm thứ ba. Tạ Đức cho thuật ngữ Giao Chỉ là đất của người Dao-tên đất là tên
người. Nghĩa Là vùng đất hiện nay chúng ta dang sinh sống theo Tạ Đức là đất của
người Dao (facebook Tạ Đức).
Thuật ngữ Giao Chỉ do người Trung Quốc đặt ra để gọi người Lạc Việt. Chữ
Giao (交) nghĩa là giao nhau, qua lại, kết hợp với nhau (lãnh địa gần kề với Trung
Quốc). Ý kiến quan trọng khác, chữ Giao trong Giao chỉ liên quan đến Giao Long là
một linh vật của vùng này mà sau này phổ biến rộng rãi hơn trong vùng được biết như là
con Rồng. Riêng chữ Chỉ không được giải nghĩa từ đầu (nghĩa của từ Chỉ sau tự suy
đoán rồi thống nhất.)
Vậy ở đây, phải chăng để hiểu thuật ngữ Giao Chỉ cần tìm về tư duy của người
Kinh là đôi, thể hiện trong các đôi biểu tượng văn hóa và đôi trong ngôn ngữ là từ “láy”.
Như: đi đứng, cây cối thì từ “đứng” và từ “cối” là không có nghĩa. Cho nên, khi người
Trung Quốc gọi lãnh thổ của dân tộc ta là “Giao” thì họ giải thích từ Giao còn “chỉ” là
từ láy thêm vào sau, hoặc sự kiện nhà Tây Hán (năm 110 Tr.C.N) đưa quân vượt núi
Ngũ Lĩnh chiếm vùng Lĩnh Nam, cả vùng đất rộng lớn này trong đó có đất Giao Chỉ (14)
nhà Hán thiết lập thành một Châu, trụ sở của Châu đặt ở Luy Lâu (Dâu) đất của Giao
Chỉ nên gọi là Giao Châu. Ở đây từ Giao là đủ nghĩa, không cần Giao Chỉ Châu.
6
Vậy Giao Chỉ thì Giao là “gi” nghĩa là gần kề, giao nhau, còn người Dao thì
Dao là (d trên) là như ca dao, vài câu thơ - nó không có nghĩa rộng, sâu sắc như Giao (g
dưới) là giao thoa, giao nhau, giao hữu v.v.
Điểm thứ tư. Những hiện vật và hoa vănTạ Đức dẫn trong “Nguồn gốc người
Việt- người Mường” là của các vùng người Việt hiện nay nằm ở phía Nam Trung Quốc:
Di vật mặt người (ảnh 2 a) và đồ ngọc Chiết Giang (ảnh 2b), thần thái của nó khác hẳn
hoàn toàn thần thái di vật và hoa văn ở vùng châu thổ sông Hồng, ngay chiếc rìu xéo
của vùng sông Hồng (ảnh 2c). Chiếc rìu xéo (ảnh 2c) Tạ Đức cho là của người Việt
vùng Chiết Giang, nhưng thần thái của nó khác xa hình mặt người (ảnh 2a) và đồ ngọc
(ảnh 2b) thì nó là cùng dòng với (ảnh 2e) của vùng châu thổ sông Hồng và hướng sang
bên phải. Loại rìu xéo ấy hiện tại cư dân ở vùng châu thổ sông Hông vẫn đang sử dụng
với các tên gọi như: mai, mống, vòi (15)
.
Ảnh 2a. Mặt người. Ảnh 2b. Đồ ngọc Chiết Giang . Ảnh 2c và 2e. Rìu sông Hồng
Thế mà Tạ Đức biện luận rằng: Con cháu của người Việt Hà Mẫu Độ là người
Việt Lương Chử, chủ nhân của văn hóa Lương Chử (3400-2250 TCN) ở Giang Tô
-Thượng Hải- Chiết Giang. Ba đồ ngọc tiêu biểu của văn hóa Lương Chử là rìu Việt,
ống Tông và đĩa Bích. Ống Tông và đĩa Bích chính là nguyên mẫu của Bánh Chưng-
Bánh Dày. Từ chỉ ống Tông và đĩa Bích trong tiếng Hoa có gốc từ hai từ chỉ Vuông-Dẹt
trong tiếng Việt Nam. Người Lương Chử đã có tục thờ Rồng-Chim, cội nguồn của hai
biểu tượng Lạc Long-Âu Cơ, của các khái niệm Con Lạc-cháu Hồng, con Rồng-cháu
Tiên ẩn chứa niềm tự hào sâu sa của người Việt (Book Hunter Club). Sai trái qúa đỗi,
khi Tạ Đức cho ống Tông đĩa Bích là nguyên mẫu của Bánh Chưng-Bánh Dày. Với lý
luận kiểu ấy thì chuyện Tấm Cám Tạ Đức sẽ cho chúng ta lấy của thế giới.
3. Nguồn gốc của các loại rìu
Chiếc rìu xéo là của người Kinh, nhưng trong thời kì người Hán đang hình thành
chữ viết, họ thấy chiếc rìu xéo (ảnh 3 a) mà tạo ra chữ việt (ảnh 3 b) rồi gọi tất cả các dân
tộc ở phia Nam sông Dương Tử là người Việt –Bách Việt. Vậy tên Việt ấy không dính líu
gì đến dân tộc Kinh chúng ta. Nhưng một số người phương Tây sau này nghiên cứu về
văn hóa vùng Nam sông Dương Tử lại cho chiếc rìu xéo ấy là của người Việt ở vùng ấy,
ngay các tác giả của ta cũng hùa theo dẫn lại nhận xét ấy, như Trần Quang Trân trong
sách Nghiên cứu Việt Nam thời tiền sử , dẫn tư liệu củaTrần Ngọc Thêm (16)
thì Tạ Đức
7
cũng theo đó mà lấy văn hóa của dân tộc Kinh chúng ta trao cho các dân tộc Việt ở vùng
Chiết Giang
Ảnh 3 a. . Ảnh 3b. .. Ảnh 3c
Sự ra đời chiếc rìu xéo là Tổ tiên ta còn cho biết nguồn gốc của nó. Đó là khi lội
xuống bùn đặc, nhắc chân lên thấy dấu chân trong ấy, cho nên người xưa đã tạo ra chiếc rìu như
dấu chân có hoa văn (ảnh 3 c) để làm kỉ niệm. Loại rìu xéo có hoa văn là không chặt bổ được vì
có 25% nguyên liệu chì –chì mềm điền đầy hoa văn. Còn loại rìu xéo để chặt bổ là có 20 % kim
loại thiếc - thiếc cứng và không có kim loại chì (xem chú 20).
Vậy, để đánh giá nguồn cứ liệu với những hiện vật biểu tượng mà Tạ Đức đã dẫn
là sai, là áp đặt cho nền văn hóa của dân tộc Kinh của chúng ta thì phải có một nguồn cứ
liệu đích thực, chắc chắn do Chủ nhân là Tổ Tiên của chúng ta - dân tộc Kinh (Việt) -
sáng tạo từ cuối thời đồ đá cũ sang đồ đá mới, đến đồ đồng và truyền nối đến thời đương
đại cả về hình dáng và tư tưởng của biểu tượng là một dòng. Đó mới là “Nguồn gốc của
người Việt-người Mường”. Hiện vật và hoa văn là lời nói khách quan trung thực nhất, chí
ít cũng từ cuối thời đại đồ đá cũ sang thời đại đồ đá mới, nhằm chứng minh cho sự sai trái
của Tạ Đức để độc giả lớp trẻ cảnh tỉnh về những nguồn thông tin “rởm” trong Nguồn
gốc người Việt-người Mường.
4. Vật biểu tượng khởi thủy và đương đại ở châu thổ sông Hồng là một dòng tư
tưởng
Cũng cần nói thêm về việc tôn vinh nơi SINH RA con người là của cả nhân loại,
nhưng riêng người phương Đông còn lấy đó làm bùa chú trừ đuổi tà ma, triệt tiêu hiểm
họa cho cộng đồng: Ấn Độ gọi là Linga Yony (17)
hóa thân thành thần Siva, vị thần đánh
đông, dẹp bắc diệt trừ cái ác, bảo vệ điều thiện cho con người (ảnh 4).
Ở Trung Quốc gọi là Sinh thực khí, trong Hán tự biểu tượng bằng chữ “tổ” ( )
trong chữ “tổ” có bộ thả ( ) nguyên ý là chỉ bộ phận sinh thực của nam giới (tượng
hình) (18)
. Song ở các nước đó chỉ thờ cúng hiện vật nơi sinh ra con người thôi, còn dân tộc
ta người Kinh gọi là Nõ nường, lấy đó làm cơ sở xây dưng nền tảng văn hóa tư tưởng của
dân tộc và xuất hiện rất sớm.: Ảnh dưới đây là chỗ sinh đẻ của người mẹ, gọi là hình “Oa”
(ảnh 5).
8
Ảnh 4. Thần Siva. Ảnh 5 : Hoa văn hình “Nường” (Oa) Phùng Nguyên và hình hài
nhi.
Hình “Oa” được biểu tượng thành giếng “Oa” làm vật linh thờ cúng, đặt dưới
gầm bàn thờ trong hậu cung của các ngôi đền – đình: ở Hà Nội là đền Cây Si, chùa Xã
Đàn (Đống Đa), đình Phú Gia (Từ Liêm), đình Tây Đằng (Ba Vì), đình Hồng Lô (Phú
Thọ) (19)
vv.. Giếng “Oa” là cơ sở tạo nên vật hèm Thần Đồng Ngọc Lũ hình người mẹ
thắt dáy lưng ong(20)
.
Việc ra đời vật hèm Thần Đồng- Ngọc Lũ là một hiện tượng "đột biến" của nền
văn hoá Sông Hồng đến giai đoạn văn minh Đông Sơn- Sự đột biến, nhưng là kết quả của
cả quá trình hình thành và phát triển nền văn hoá tư tưởng của dân tộc Kinh-Văn Lang cư
ngụ ở châu thổ sông Hồng. Vậy để có vật hèm Ngọc Lũ, Tổ Tiên chúng ta - dân tộc Kinh
- phải trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài, từ khởi thủy là hoa văn Núi Đọ Thanh Hóa
(ảnh 6 )- ở ảnh 6 này số lượng (cánh sao) chưa rõ.
Ảnh 6: nguồn Hoàng Xuân Chinh
Tiếp theo là hoa văn của Thanh Hóa giai đoạn cao hơn cùng với hoa văn ở Phùng
Nguyên Phú Thọ (ảnh 7 a, b, c ) hình a tìm thấy ở khu mộ Đông Sơn, các cánh chưa rõ,
nhưng đến hoa văn Phùng Nguyên hình b gần rõ 12 cánh và hình c là 14 cánh. Hình 14
cánh văn hoá Phùng Nguyên nó là cơ sở của hình 14 cánh trên hoa văn Thần Đồng Ngọc
Lũ (Hà Văn Tấn).
Ảnh 7 a,b,c.
Ảnh 7 a Nguồn của V.Gôlubép (V.Goloubew chân dung ở trang sau), ảnh 7 b và 7 c
Nguồn của Hà Văn Tấn, sách “Theo dấu các văn hoá cổ”, Nxb Khoa học xã hội, 1998-
hình 3 a trang 602, hình 3b trang 612 và hình c hình 34 trang 659.
9
Tiếp sau là các vùng văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun mà đỉnh cao là nền văn hóa
Đông Sơn thì mạch nguồn Đông Sơn sẽ tỏa sáng cho nền văn hóa tiếp theo (xem chú 21).
5.Thời điểm xuất hiện văn hoá biểu tượng Nõ nường
5.1. Chứng tích
Chứng tích là đôi thỏi đá hóa thạch phom hình người (ảnh 8,a ) do Trường Viễn
Đông Bác Cổ phát hiện, trong đó có người Pháp gốc Nga Victor Goloubew (chân dung
a) và đôi bàn nghiền bằng đá ở các hang động Hòa Bình (ảnh 8,b) do Bà Madeleine
Colani ( chân dung b) và giới Khảo cổ Việt Nam phát hiện.
Victor Goloubew (internet) Madeleine Colani (internet)
Ảnh 8a . Đôi thỏi đá: Ảnh 8b . Đôi bàn nghiền bằng đá Bảo tàng.
Nguồn Trần Tiêu- Đăng Kỉnh. Ảnh của tác giả.
Tư tưởng văn hóa Nõ nường xuất hiện từ thời khởi thủy, truyền nối đến thờ
đương đại là cái cuốc chim (ảnh 9 a) và lưỡi cày bướm (ảnh 9b)..
10
Ảnh 9a. Cái cuốc chim: Ảnh 9 b: Lưỡi cày bướm:
Ảnh của tác giả Nguồn của Hà Văn Tấn
5.2. Ngôn ngữ
Đại từ nhân xưng thân tộc cũng gọi theo tên Nõ nường. Đứa bé sanh ra đặt tên:
Cò- Hĩm. Cha mẹ của đứa bé cũng gọi theo tên con là anh chị Cò, anh chi Hĩm, cụ già 80
tuổi có đứa cháu trai thì gọi là Cụ Chắt Cò. Thậm chí đến nơi cư trú, ngôi nhà cũng gọi là
ở “hẽm” nọ “hẽm” kia ; “hẽm” chuyển thành “hèm” trong tục hèm của lễ hội; “hèm” là
vật linh, bùa chú; hèm là từ khóa: kiêng dè, cấm kị húy. Cũng từ đó mà Hồ Xuân Hương
chuyển thành, Hẽm trống, Khe trạo, lạch đào nguyên.
5. 3. Biểu tượng văn hóa thuộc hằng số chẵn: 2, 4. 8.
Dân tộc ta quan niệm hằng số lẻ là số chết, nhất là số 3. Thể hiện ở câu ca: Chớ
đi ngày 7 chớ về ngày 3/ Đi chơi cũng lỗ huống là đi buôn. Cho nên lập mâm ngũ quả
và thắp hương 1 cây 3 cây là dùng cho người chết - Tổ tiên.
Còn lại mọi biểu tựng đều là 2, 4, 8 (đôi, tứ, tám): Đôi thỏi đá phom hình người
(ảnh 8a), đôi bàn nghiền bằng đá hình ba góc (ảnh 8b), truyền nối đến đương đại là cái
cuốc chim (ảnh 9a) lưỡi cày bướm (ảnh 9b), đôi chữ “S” (ảnh 10a) đôi rồng trên tang
Thần Đồng Ngọc Lũ (ảnh 10b); Hằng số 4. bốn người trên hoa văn Thần Đồng Ngọc Lũ
(ảnh 10c); Tứ linh, Tứ bình, Tứ quý, Tứ bất tử v.v. Hằng số 8, là 8 binh khí thờ ở đền
quan Võ (ảnh 10e).
Ảnh 10 a. đôi chữ S. Ảnh 10b đôi rồng. Ảnh 10c. 4 người 4 vật. Ảnh 10e . 8 binh
khí
11
Cỗ bàn trong đãi khách cũng tiến hành theo 2 món và 4 món. Sách Việt Nam
phong tục của Phan Kế Bính ghi: Cỗ mặn 2 món thit lợn và thịt bò. Cổ chay 4 món: Đĩa
mứt, đĩa mía, đĩa lạc luộc, đĩa trám (xem chú 20).
5. 4. Hướng vận hành vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ
Người châu Âu và người phương Bắc đều vận hành vòng tròn theo chiều xuôi
kim đồng hồ và khi gọt vỏ trái cây họ đặt lưỡi dao quay vào. Còn người phương Nam
trung tâm là người Kinh vận hành vòng tròn theo chiều ngược kim đồng hồ, nên gọt vỏ
trái cây đặt lưỡi dao quay ra. Tinh thần đó của người Kinh xuất hiện từ khởi thủy, như
đôi thỏi đá hướng sang bên phải (ảnh 3) và đôi chữ “S” cũng thế. Đến thời đồ đồng
được ghi lại trên hoa văn Thần Đồng tiêu biểu là Thần Đồng (trống đồng) Ngọc Lũ rồi
truyền nối đến thời đương đại. Đó là vận hành trong lễ hội, hoặc xay lúa, dần sàng gạo,
xoay bàn làm đồ gốm, đi thể dục quanh bờ hồ. v.v. Tâm thức vận hành vòng tròn ngược
chiều kim đồng hồ đã thấm vào máu thành zen di truyền. Khi đứng dậy đi, là chân phải
bước trước. Điều ấy bắt đầu từ thuở bé mới tập đi, không ai dạy. Qua hiện tượng ấy, để
thấy zen di truyền là đặc điểm về bản sắc của một dân tộc.
Một chuyện vui các cụ kể lại. Thời Pháp, lính Khố đỏ tập đi đều. Người Pháp
bước chân trái trước, nhưng lính người Kinh nghe hô đi đều bước, thì đưa chân phải
trước. Người Pháp phải cho buộc cái lá chuối bên chân trái. Hô đi đều –lá chuối, mãi
mới tập được –bước chân trái trước. Nhưng con của người lính ấy mẹ nó sinh ra nó vẫn
theo máu di truyền của dân tộc bước chân phải trước. Kể dài dòng để nói người Kinh từ
khởi thủy đến đương đại là một dòng.
Biểu tượng Hình mặt người (ảnh 2a) và Đồ ngọc (ảnh 2b ) của người Ngô Việt
vùng Lương Chử Chiết Giang thì thần thái và hoa văn không giống thần thái hoa văn đôi
chim trên nóc nhà sàn châu thổ sông Hồng (ảnh 11a) và Đồ ngọc (ảnh 11b) Đồ gốm
(ảnh 11c), Đôi rắn quấn nhau nuốt voi (ảnh 11 e) .
Ảnh 11a. Đôi chim. Đồ ngọc.Ảnh 11 b. Ảnh 11c. Đồ gốm. Ảnh 11e. Đôi rắn quấn nhau.
Những hiện vật biểu tượng của nền văn hóa sông Hồng chúng tôi trích dẫn ở bài
viết này thì thần thái của những biểu tượng ấy khác hoàn toàn thần thái trong biểu tượng
12
của Tạ Đức dẫn ở Nguồn gốc người Việt- người Mường.
6. Nhận xét các biểu tượng đã dẫn
Ý thức, tình cảm chỉ đạo hành vi. Đó là người Kinh lấy hiện vật nơi SINH RA
con người đặt làm nền tảng cho việc xây dựng nền văn hóa tư tưởng của dân tộc (không
có dân tộc nào làm như thế), cho nên hiện vật biểu tượng ở địa vực sông Hồng xuất hiện
từ 5 đến 4 vạn năm đều biểu tượng Nõ nường: đôi thỏi đá phom hình người- đôi bàn
nghiền bằng đá hình ba góc vẫn truyền nối đến thời đương đại ở trong đời sống của
người Việt (Kinh) là cái cuốc chim và lưỡi cày bướm. Về hính dáng và thần thái của
biểu tượng nó hoàn toàn khác hiện vật biểu tượng văn hóa của cư dân người Bách Việt ở
phia Tây Nam của Trung Quốc.
Về nguồn Zen di truyền là tư tưởng vận hành vòng tròn ngược chiều kim đồng
hồ khi dừng lại là hướng sang bên phải có từ đôi thỏi đá hóa thạch phom hình người
(ảnh 8 a) và đôi chữ “S” (ảnh 10 a) Truyền nối trong đời sống: xay lúa, dần sàng gạo,
bàn nghiền làm đồ gốm cổ và đi tập thể dục trên bờ hồ đều theo chiều ngược kim đồng
hồ, điều đặc biệt là đứa trẻ mới tập đi thì chân phải bước trước- nguồn Zen di truyền thật
là điều huyền bí.. Đã tạo bản sắc của dân tộc Kinh ở Việt Nam. Phong tục, tập quán diễn
ra hàng ngày quá đơn giản, nhỏ nhặt nhưng khi tập hợp lại nâng lên thành giá trị tổng
hợp mới. Đó là ý thức, tình cảm tạo nên hành vi.
Chúng ta, hậu duệ của dân tộc Kinh, phải bảo vệ Tổ Tiên nòi giống của mình.
Không nên nghe số người nói sai để có sách, nếu họ không nói sai bằng việc xào xáo cái
sai ban đầu của OIov Janse thì họ không có cuốn sách nào cả. Hai cuốn sách lớn của Tạ
Đức chỉ có công tập hợp tư liệu của các tác giả nước ngoài qua Intnet: sách trước là giải
mã hầu hết các biểu tượng của các nước, cho nên sai đúng mình không biết, nhưng sách
sau là nguồn tư liệu sai khi nói về Nguồn gốc người Việt-người Mường.
Bởi lẽ ý nghĩa của các công cụ, đồ vật và hiện vật biểu tượng văn hóa ở địa vực
sông Hồng do Tổ Tiên của chúng ta sáng tạo thì ý niệm được truyền nối trong tiềm thức,
ăn sâu vào cõi vô thức của từng thế hệ. Như biểu tượng “Đôi rắn quấn nhau nuốt voi”
(ảnh 11e) thì chúng ta mới hiểu ý nghĩa còn người ngoài làm sao giải mã được. Đôi rắn
cuốn nhau là biểu tượng dây Tơ hồng- dây Tơ hồng là hình ảnh của đôi vợ Chồng:
Thuận vợ thuận chồng tát bề đông cũng cạn, hồ nuốt con voi thì thấm vào đâu. Biểu
tượng ra đời nhằm trấn an, ở thời Tổ Tiên chúng ta kiếm sống trong rừng, phải có tính
cộng đồng thì sẽ giết được loài ác thú hại người.
Như vậy, việc nhận thức về nguồn gốc người Việt người Mường là cả một hệ
thống cấu trúc gồm bốn yếu tố: Một là sử sách; Hai là ngôn ngữ; Ba là tập tục; Bốn là di
vật. Trong đó di vật xuất hiện từ thời đồ đá cũ truyền nối đến đương đại là là một dòng
tư tưởng- Tức là hiện vật Nõ nường và cái cuốc chim –lưỡi cày bướm (ảnh 8 a,b).
Kết luận: Văn hóa Ấn Độ là kiến trúc đền đài điện ngọc cao sang, văn hóa
Trung Hoa là chữ nghĩa giả sử - sử sách tàng thư, văn hóa Việt Nam là biểu tượng sâu
xa thâm thúy minh triết.
13
Bài viết này đáng lẽ phải có từ năm 2014, nhưng chúng tôi bận hoàn thành sách
Giải mã biểu tượng văn hóa Nỏ Nường nên nay mới có.
Tư liêu tham khảo và trích dẫn
1. Dẫn theo Phạm Huy Thông Lời giới thiệu sách Dong Son Drums in Việt Nam, Viện
khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội 1998, tr274.
2. H.H.E Looc—Wiosowa. The distribủrion of Dong Son drums :somes thoughts in
Peter Snoy (cd) Ethnologie und Geshiete (Sự phân bố của trống Đông Sơn : vài suy
nghĩ) Trong Perter ( chủ biên) “ Dân tộc học và lịch sử ” Wicsbaden 1983 tr 410-417.
Dẫn theo Lịch sử tư tưởng Việt Nam .
.
3. P.Heger, Những trống kim khí ở Đông Nam Á (chữ Đức) Laixich, 1902, bản sao lưu tại
Viện bảo Tàng lịch sử Việt Nam, Tiến sĩ Ngô Thế Phong cung cấp.
4. Phạm Huy Thông, Lời giới thiệu sách Dong Son Drums in Việt Nam,N.x.b Khoa học xã
hội Hà Nội 1998 tr 274.
5. R.Hainơ Ghenđéc (R Hecine Geldern): Vấn đề người Tokhara và cuộc thiên di từ biển
Đen (chữ Dức)- .Thế kỷ, 1951, tập 2 tr 233- 244, dẫn theo Hà Văn Tấn Theo dấu các văn
hoá cổ s.đ.d. tr 566..
6. B. Cácgren ( B. Kagren ) Niên đại của văn hoá Đông Sơn sớm (chữ Anh )-Tạp chí Bảo tàng
cổ vật Viễn Đông , số 14 Xốckhôn. 1942 tr 8, dẫn theo Hà Văn Tấn Theo dấu các văn hoá cổ
s.đ.d.tr 641...
7..Lịch sử tư tưởng Việt Nam Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam Viện Triết học,
N.x.b.K.H.X.H Hà Nội 1993 tr 38-40.
8.
Bảo tàng lịch sử Quốc gia Hà Nội ghi tại nơi trưng bày hiện vật văn hóa thời đồ đá cũ
Di chỉ núi Bắc Sơn Thái Nguyên.
9.OIov Janse, Bí mật của cây đèn hình người, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 200tr 2.
10. Phạm Việp, Hậu Hán thư, bản chữ Hán (ký hiệu H.T.V-51) mục truyện Mã Viện 8 (10)
Thư viện Viện Sử học Việt Nam 38 Hàng Chuối Hà Nội.
11.Nguyễn Duy Hinh, Trống đồng quốc bảo Việt Nam N.x.b Khoa học xã hội 2001tr 18.
12 . Kỉ yếu Hội thảo khoa học Trống đồng với văn hóa Việt Nam Trung tâm Văn hóa
người Cao tuổi Việt Nam Hà Nội tháng 12/ 2008, tr 72.
13. Văn hóa Chăm,N.x.b Khoa học xã hội T.P.H.C.M. 1992, tr 14.
14. Đại Việt sử kí toàn thư N.x.b. Văn hóa T.T. 2003 Tập 1 tr 210.
15. Diệp Đình Hoa, Người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, N,x.b Khoa học xã hội Hà Nội
2000, tr 38
16. Trần Quang Trân , Nghiên cứu về Việt Nam trước Công Nguyên N.xb Thanh niên
2001, tr 25-30
17.Kiều Ngọc dịch, Tập tục dâ gian và ý nghĩa tượng trưng của hoa sen,Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật số 1 /1994, tr 24-27.
14
18.Trần Chí Lương (Trung Quốc), Đối thoại với Tiên triết về văn hoá phương Đông thế
kỉ XXI, N.x.b Đại học quốc gia Hà Nội 1999 tr 49.
19. Nguyễn Ngọc Chương, Trầu cau Việt điện thư, N.x.b T.P.H.C.M 1997, tr 170.
20. Dương Đình Minh Sơn Văn hóa Nõ Nường N.x.b. Kkoa học xã hội 2008.
15

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

TÂM LÝ HỌC BỆNH LÝ
TÂM LÝ HỌC BỆNH LÝTÂM LÝ HỌC BỆNH LÝ
TÂM LÝ HỌC BỆNH LÝ
Ngoc Quang
 
Các quá trình và thiết bị truyền nhiệt luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp
Các quá trình và thiết bị truyền nhiệt   luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệpCác quá trình và thiết bị truyền nhiệt   luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp
Các quá trình và thiết bị truyền nhiệt luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp
viet_aids
 

Mais procurados (20)

Đề tài: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam và phát triển du lịch, HAY
Đề tài: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam và phát triển du lịch, HAYĐề tài: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam và phát triển du lịch, HAY
Đề tài: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam và phát triển du lịch, HAY
 
TÂM LÝ HỌC BỆNH LÝ
TÂM LÝ HỌC BỆNH LÝTÂM LÝ HỌC BỆNH LÝ
TÂM LÝ HỌC BỆNH LÝ
 
triết lý âm dương trong đời sống người Việt
triết lý âm dương trong đời sống người Việttriết lý âm dương trong đời sống người Việt
triết lý âm dương trong đời sống người Việt
 
Khảo sát hàm lượng NH4+, NO2-, PO43-trong nước sông Đa Độ
Khảo sát hàm lượng NH4+, NO2-, PO43-trong nước sông Đa ĐộKhảo sát hàm lượng NH4+, NO2-, PO43-trong nước sông Đa Độ
Khảo sát hàm lượng NH4+, NO2-, PO43-trong nước sông Đa Độ
 
Giáo trình hóa lý tập 1 nguyễn đình huề-100205
Giáo trình hóa lý  tập 1   nguyễn đình huề-100205Giáo trình hóa lý  tập 1   nguyễn đình huề-100205
Giáo trình hóa lý tập 1 nguyễn đình huề-100205
 
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồngTrò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
 
Luận văn Thạc sĩ Tìm hiểu tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền Đồng Bằng - Thái Bình
Luận văn Thạc sĩ Tìm hiểu tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền Đồng Bằng - Thái BìnhLuận văn Thạc sĩ Tìm hiểu tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền Đồng Bằng - Thái Bình
Luận văn Thạc sĩ Tìm hiểu tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền Đồng Bằng - Thái Bình
 
Nghiên cứu xác định hợp chất phenol từ nhựa và vỏ quả Mù u để ứng dụng trong ...
Nghiên cứu xác định hợp chất phenol từ nhựa và vỏ quả Mù u để ứng dụng trong ...Nghiên cứu xác định hợp chất phenol từ nhựa và vỏ quả Mù u để ứng dụng trong ...
Nghiên cứu xác định hợp chất phenol từ nhựa và vỏ quả Mù u để ứng dụng trong ...
 
Thiết kế tháp chưng luyện liên tục loại tháp đĩa chóp để phân tách hỗn hợp ax...
Thiết kế tháp chưng luyện liên tục loại tháp đĩa chóp để phân tách hỗn hợp ax...Thiết kế tháp chưng luyện liên tục loại tháp đĩa chóp để phân tách hỗn hợp ax...
Thiết kế tháp chưng luyện liên tục loại tháp đĩa chóp để phân tách hỗn hợp ax...
 
Các quá trình và thiết bị truyền nhiệt luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp
Các quá trình và thiết bị truyền nhiệt   luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệpCác quá trình và thiết bị truyền nhiệt   luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp
Các quá trình và thiết bị truyền nhiệt luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp
 
Đề tài: Chế tạo thử nghiệm bộ phân tích nhanh Florua trong nước
Đề tài: Chế tạo thử nghiệm bộ phân tích nhanh Florua trong nướcĐề tài: Chế tạo thử nghiệm bộ phân tích nhanh Florua trong nước
Đề tài: Chế tạo thử nghiệm bộ phân tích nhanh Florua trong nước
 
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
 
Bao cao duoc lieu 2 cay coca erythroxylum coca lam lop dai hoc duoc
Bao cao duoc lieu 2 cay coca erythroxylum coca lam lop dai hoc duocBao cao duoc lieu 2 cay coca erythroxylum coca lam lop dai hoc duoc
Bao cao duoc lieu 2 cay coca erythroxylum coca lam lop dai hoc duoc
 
đề Cương lịch sử văn minh thế giới
đề Cương lịch sử văn minh thế giớiđề Cương lịch sử văn minh thế giới
đề Cương lịch sử văn minh thế giới
 
Luận Văn Phát Triển Du Lịch Của Huyện A Lưới, Tỉnh Thừa Thiên Huế
Luận Văn Phát Triển Du Lịch Của Huyện A Lưới, Tỉnh Thừa Thiên HuếLuận Văn Phát Triển Du Lịch Của Huyện A Lưới, Tỉnh Thừa Thiên Huế
Luận Văn Phát Triển Du Lịch Của Huyện A Lưới, Tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộcPhát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
 
BÀI GIẢNG LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI.pdf
BÀI GIẢNG LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI.pdfBÀI GIẢNG LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI.pdf
BÀI GIẢNG LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI.pdf
 
Khóa luận du lịch về Nghiên cứu khai thác lễ hội đền Trần Hưng Hà Thái bình p...
Khóa luận du lịch về Nghiên cứu khai thác lễ hội đền Trần Hưng Hà Thái bình p...Khóa luận du lịch về Nghiên cứu khai thác lễ hội đền Trần Hưng Hà Thái bình p...
Khóa luận du lịch về Nghiên cứu khai thác lễ hội đền Trần Hưng Hà Thái bình p...
 
Get ready for ielts reading pre intermediate a2+ answer
Get ready for ielts reading pre intermediate a2+ answerGet ready for ielts reading pre intermediate a2+ answer
Get ready for ielts reading pre intermediate a2+ answer
 
Đề tài Nghiên cứu, phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tràng An-Ninh...
Đề tài Nghiên cứu, phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tràng An-Ninh...Đề tài Nghiên cứu, phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tràng An-Ninh...
Đề tài Nghiên cứu, phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tràng An-Ninh...
 

Destaque

Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ânTh s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Bao cao tong ket 5 nam Trung tam Hoc lieu - Dai hoc Thai Nguyen
Bao cao tong ket 5 nam Trung tam Hoc lieu - Dai hoc Thai NguyenBao cao tong ket 5 nam Trung tam Hoc lieu - Dai hoc Thai Nguyen
Bao cao tong ket 5 nam Trung tam Hoc lieu - Dai hoc Thai Nguyen
Hieu Thieu
 
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
Huynh Loc
 

Destaque (15)

Thegioiphang
ThegioiphangThegioiphang
Thegioiphang
 
2015 nhtw -câu hỏi phân tích
2015 nhtw -câu hỏi phân tích2015 nhtw -câu hỏi phân tích
2015 nhtw -câu hỏi phân tích
 
Tư tưởng
Tư tưởngTư tưởng
Tư tưởng
 
Viet Nam Investor's Day - PHÁP LUẬT CHUNG VỀ KINH DOANH VÀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO...
Viet Nam Investor's Day - PHÁP LUẬT CHUNG VỀ KINH DOANH VÀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO...Viet Nam Investor's Day - PHÁP LUẬT CHUNG VỀ KINH DOANH VÀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO...
Viet Nam Investor's Day - PHÁP LUẬT CHUNG VỀ KINH DOANH VÀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO...
 
KHOA KINH TẾ HVCT
KHOA KINH TẾ HVCTKHOA KINH TẾ HVCT
KHOA KINH TẾ HVCT
 
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ânTh s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
 
Bao cao tong ket 5 nam Trung tam Hoc lieu - Dai hoc Thai Nguyen
Bao cao tong ket 5 nam Trung tam Hoc lieu - Dai hoc Thai NguyenBao cao tong ket 5 nam Trung tam Hoc lieu - Dai hoc Thai Nguyen
Bao cao tong ket 5 nam Trung tam Hoc lieu - Dai hoc Thai Nguyen
 
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
 
Tai
TaiTai
Tai
 
Vanluong blogspot com_shophoatuoi_9065
Vanluong blogspot com_shophoatuoi_9065Vanluong blogspot com_shophoatuoi_9065
Vanluong blogspot com_shophoatuoi_9065
 
Kinh tế học
Kinh tế họcKinh tế học
Kinh tế học
 
Kiểm tra hải quan về hồ sơ - giá thuế - hàng hoá
Kiểm tra hải quan về hồ sơ - giá thuế - hàng hoáKiểm tra hải quan về hồ sơ - giá thuế - hàng hoá
Kiểm tra hải quan về hồ sơ - giá thuế - hàng hoá
 
Tu tuong hcm
Tu tuong hcmTu tuong hcm
Tu tuong hcm
 
The gioi phang
The gioi phangThe gioi phang
The gioi phang
 
Nguyên lý kế toán
Nguyên lý kế toánNguyên lý kế toán
Nguyên lý kế toán
 

Semelhante a Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức

đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương t.n.them
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương   t.n.themđốI thoại cùng bạn đọc về âm dương   t.n.them
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương t.n.them
Phan Huyền
 
Sư tâm Địa danh học của nước Việt Nam.pdf
Sư tâm Địa danh học của nước Việt Nam.pdfSư tâm Địa danh học của nước Việt Nam.pdf
Sư tâm Địa danh học của nước Việt Nam.pdf
style tshirt
 
Thành tựa văn minh A-rập
Thành tựa văn minh A-rậpThành tựa văn minh A-rập
Thành tựa văn minh A-rập
thaodang312
 

Semelhante a Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức (20)

Thư ngỏ gửi tác giả Tạ Đức
Thư ngỏ gửi tác giả Tạ ĐứcThư ngỏ gửi tác giả Tạ Đức
Thư ngỏ gửi tác giả Tạ Đức
 
Bàn về 12 luận điểm trống đồng
Bàn về 12 luận điểm trống đồngBàn về 12 luận điểm trống đồng
Bàn về 12 luận điểm trống đồng
 
Bài-thu-hoạch-CNXHKH.docx
Bài-thu-hoạch-CNXHKH.docxBài-thu-hoạch-CNXHKH.docx
Bài-thu-hoạch-CNXHKH.docx
 
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương t.n.them
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương   t.n.themđốI thoại cùng bạn đọc về âm dương   t.n.them
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương t.n.them
 
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngVăn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
 
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
 
Cơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt.doc
Cơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt.docCơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt.doc
Cơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt.doc
 
Luận văn: Đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX
Luận văn: Đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XXLuận văn: Đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX
Luận văn: Đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX
 
Luận văn: Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ, HAY
Luận văn: Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ, HAYLuận văn: Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ, HAY
Luận văn: Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ, HAY
 
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt NamLuận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...
 
Luận văn: Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Văn Học Dân Gian Bến Tre, 9 ĐIỂM
Luận văn: Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Văn Học Dân Gian Bến Tre, 9 ĐIỂMLuận văn: Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Văn Học Dân Gian Bến Tre, 9 ĐIỂM
Luận văn: Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Văn Học Dân Gian Bến Tre, 9 ĐIỂM
 
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoiluan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
 
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
 
Sư tâm Địa danh học của nước Việt Nam.pdf
Sư tâm Địa danh học của nước Việt Nam.pdfSư tâm Địa danh học của nước Việt Nam.pdf
Sư tâm Địa danh học của nước Việt Nam.pdf
 
Khao co kinh thanh 1
Khao co kinh thanh 1Khao co kinh thanh 1
Khao co kinh thanh 1
 
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
 
Thành tựa văn minh A-rập
Thành tựa văn minh A-rậpThành tựa văn minh A-rập
Thành tựa văn minh A-rập
 
Luận văn: Đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian Bến Tre, HOT
Luận văn: Đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian Bến Tre, HOTLuận văn: Đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian Bến Tre, HOT
Luận văn: Đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian Bến Tre, HOT
 
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn LaLuận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
 

Mais de Pham Long

Mais de Pham Long (20)

Lễ hội Trò nhại Nõ Nường (Trò Trám)
Lễ hội Trò nhại Nõ Nường   (Trò Trám)Lễ hội Trò nhại Nõ Nường   (Trò Trám)
Lễ hội Trò nhại Nõ Nường (Trò Trám)
 
Giám đốc của chúng tôi
Giám đốc của chúng tôiGiám đốc của chúng tôi
Giám đốc của chúng tôi
 
Giáo sư Hoàng Chương
Giáo sư Hoàng ChươngGiáo sư Hoàng Chương
Giáo sư Hoàng Chương
 
Nghị định số 109/2017/NĐ-CP
 Nghị định số 109/2017/NĐ-CP  Nghị định số 109/2017/NĐ-CP
Nghị định số 109/2017/NĐ-CP
 
Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9
Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9
Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9
 
Thanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịch
Thanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịchThanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịch
Thanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịch
 
GIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONG
GIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONGGIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONG
GIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONG
 
BÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt Long
BÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt LongBÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt Long
BÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt Long
 
BÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONG
BÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONGBÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONG
BÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONG
 
BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1
BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1
BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1
 
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ Hùng
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ HùngHƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ Hùng
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ Hùng
 
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNGTHÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG
 
Vì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập cao
Vì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập caoVì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập cao
Vì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập cao
 
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giải
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giảiTranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giải
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giải
 
Chiều Thơ đoàn huy cảnh
Chiều   Thơ đoàn huy cảnhChiều   Thơ đoàn huy cảnh
Chiều Thơ đoàn huy cảnh
 
Lễ hội Bát Hải Long vương
Lễ hội Bát Hải Long vươngLễ hội Bát Hải Long vương
Lễ hội Bát Hải Long vương
 
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt NamKỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
 
Thơ Đường đất Việt
Thơ Đường đất ViệtThơ Đường đất Việt
Thơ Đường đất Việt
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
 
Người thầy đầu tiên
Người thầy đầu tiênNgười thầy đầu tiên
Người thầy đầu tiên
 

Último

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 

Último (20)

bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 

Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức

  • 1. Bàn thêm về “Nguồn gốc người Việt- người Mường”củaTạ Đức Nhạc sĩ Dương Đình Minh Sơn Nhà Dân tộc-Âm nhạc học Tóm tắt Sách Nguồn gốc người Việt-người Mường của Tạ Đức (N.x.b Trí thức-2014) cho rằng vùng đất này có tên Giao Chỉ là đất của người Dao- Tên đất là tên người. Còn Người Việt và người Mường xưa nay khác nhau, đều là sự tổng hòa của các nhóm di dân từ phương Bắc: Người Mường vốn là người Mon, Man đến trước, chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên, Người Việt vốn là người Lava, đến sau, chủ nhân của văn hóa Đông Sơn. Đó là một nhận thức sai trái, lỗi thời phản lại Lịch sử của dân tộc. Bài viết này Tác giả phản bác lại luận điểm sai trái của Tạ Đức, bằng việc dùng những di vật và hoa văn xuất hiện từ thời đồ đá cũ do Tổ Tiên chúng ta sáng tạo để lại trong lòng đất, do giới khảo cổ của ta khai quật trong các di chỉ ở lưu vực sông Hồng đem lại là cùng dòng tư tưởng với phong tục tập quán của xã hội người Kinh đương đại. Di vật và hoa văn là lời nói trung thực, khách quan nhất không thể chối cãi được. Tạ Đức, nhà Dân tộc học nghiên cứu độc lập, năm 1999 đã có sách “Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn” trên 400 trang khổ lớn (Hội Dân Tộc học Việt Nam); sách giải mã những hiện vật văn hóa biểu tượng: Đông- Tây, kim - cổ do vài nhà nghiên cứu trong nước, còn lại là các nhà nghiên cứu của thế gới thực hiện. Những giải mã ấy đúng sai không ai biết, vì không quan hệ gì đến Việt Nam. Theo mạch nguồn ấy, nay cũng từ những cứ liệu thông tin của một số tác giả khảo cổ học phương Tây trong việc kết luận sai trái, thiếu trách nhiệm về Chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn là không phải dân tộc Kinh của chúng ta. Tư tưởng ấy hòa nhập tư tưởng Đồng hóa của thế lực phương Bắc được đưa lên Intnet, Tạ Đức truy cập xào xáo lại (Nếu không xào xáo như thế thì Tạ Đức không có cuốn sách nào cả!), tạo nên “Nguồn gốc người Việt- người Mường” 800 trang (N.x.b Trí thức 2014), sách vừa công bố lập tức bị nhiều lời phản ứng gay gắt của giới học giả, trong đó có giới Dân tộc học. Những luận điểm sai trái ấy trước đây cũng đã bị các học giả cự phách của nước ta kịch liệt phê phán như G.S.Viện sĩ Phạm Huy Thông và G.S Hà Văn Tấn. 1
  • 2. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, không chỉ thuộc phạm trù nghiên cứu khoa học lịch sử mà đụng chạm đến những vấn đề vô cùng thiêng liêng thuộc về vận mệnh lịch sử nguồn gốc dân tộc và giống nòi của Tổ quốc, đất nước, lòng tự tôn về Tổ Tiên giống nòi là Rồng- Tiên, đã được bao thế hệ hun đúc tạo nên bề dày Lịch sử; Không chỉ bằng lời văn trong sử sách mà cả bằng cứ liệu khảo cổ do Tổ Tiên của chúng ta sáng tạo để lại trong lòng đất với lời Di huấn “Ăn quả phải nhớ người trồng cây”, hoặc “Ăn cây nào phải rào cây ấy” mà nhận thức đầy đủ về Lịch sử cội nguồn của dân tộc: qua hành văn trong sử sách và di vật khảo cổ, nâng lên thành giá trị tổng hợp mới, khẳng định nguồn cội của dân tộc Kinh chúng ta từ khởi thủy cho đến dương đại là một dòng trực hệ. Đó mới là trách nhiệm của cháu con hiếu để với Tổ Tiên, ông bà giống nòi. Từ thập kỉ 60 của thế kỉ XX trở đi, giới khảo cổ học của ta đã khai quật đưa lên mặt bàn nền văn hóa sông Hồng, chỉ nói riêng vật hèm trống đồng đã làm cho một số nhà khoa học uyên thâm, chân chính của thế giới phải thay đổi nhận thức. Nhà bác học Pháp L.Bezacier có những hiểu biết sâu rộng về lịch sử văn minh Việt Nam, cuối đời, năm 1972 khi hệ thống lại các công trình của mình, trong đó có bộ sách Giáo khoa về khảo cổ học ở Viễn Đông, nhan đề: Việt Nam - Từ tiền sử đến cuối thời Trung Hoa chiếm đóng cũng đã phải thốt lên lời chua chát rằng: Phương Tây sau gần một thế kỷ (giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX) nghiên cứu, hoàn toàn không hiểu, không biết gì chắc chắn cả về nguồn gốc của trống đồng, cũng như về công dụng và ý nghĩa của nó (1) . Đến Giáo sư H. H.E.Loofs-Wwiosowa người Australia, gốc Đức từng ở trong đội quân viễn chinh Pháp có nhiều hiểu biết về văn hoá Việt Nam (1983), với thuyết Biểu chương vương quyền (regalia) coi trống đồng là vật tượng trưng cho quyền lực hợp pháp. Ông cho rằng có một quyền uy tôn giáo tồn tại ở bắc Việt Nam trong thời cổ, tương tự với quyền uy của giáo hoàng phương Tây. Theo ông các Tù trưởng bộ lạc ở nhiều vùng Đông Nam Á đã cử sứ bộ đến bắc Việt Nam để xin ban các trống đồng mà với chúng, họ có thể làm vua hợp pháp (2) . Còn trước đó, là Fr. Heger, học giả Đức gốc Áo, cố vấn của trường Viễn đông Bác Cổ (EEEO), và Hội nghị nghiên cứu về Viễn Đông lần thứ nhất năm 1932 ở Hà Nội (ảnh 1a). Trong công trình Những trống kim khí ở Đông Nam Á (1902): khi đó, với 165 chiếc trống đồng ở các bảo Tàng của châu Á, châu Âu và ở các sưu tập của tư gia, Heger khảo tả chi tiết về các yếu tố kết cấu, hình dáng (cao, to, thắt eo) và vẽ lại hoa văn của từng chiếc.Trên cơ sở đó, ông phân trống đồng làm bốn loại, ký hiệu I, II, III, IV và coi trống đồng loại I ra đời đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam (3) . Bởi lẽ, vật hèm trống đồng là đỉnh điểm của nền văn hóa Văn Lang, trong đó khởi nguyên là vật hèm Ngọc Lũ: hoa văn tinh xảo kì bí, giàu sang quyền quý, kiệt tác có một không hai của nhân loại, cho nên khi nói vật hèm (trống đồng) là nói về dân tộc Kinh Việt Nam. Cho nên, các nhà khoa học tài năng, chân chính, đạt tầm kiến thức của các nước mới phát biểu như thế; vì rằng hoa văn khởi thủy (ảnh 2a 2b ) và liên tục đến (ảnh 3a, 3b), hoặc di vật biểu tượng sinh thực khí – Nõ nường (ảnh 4 a 4b) Truyền nối đến thời đương đại là cái cuốc chim và lưỡi cày bướm (ảnh 5a 5b) là một dòng tư tưởng. Vậy một câu hỏi đặt ra. Tại sao Tạ Đức chấp nhận nền văn hóa sông Hồng là của dân tộc Mã Lai và của người Thái rồi biến thái thành người Mường là là Mon, Man và 2
  • 3. người Kinh là Lava còn vùng đất này là của người Dao? Đó là do tính dân tộc non kém, thiếu vững vàng về tri thức, khi bị sa vào một phương pháp luận sai lầm của những nhà nghiên cứu phương Tây thì Tạ Đức trượt dốc lao theo. Vì thế, để làm sáng rõ vấn đề này, theo ý chúng tôi, ta cần tìm hiểu các công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam của một số nhà khảo cổ học phương Tây. 1. Những nhận định sai về nền văn hóa sông Hồng Ngay từ khi những ý kiến sai trái của một số nhà khảo cổ học phương Tây đưa ra, Viện sĩ Phạm Huy Thông đã từng kịch liệt phê phán trong nhiều tư liệu và ở đây rằng: “Người phương Tây trong khi tiến hành công viêc khảo cổ ở Việt Nam, nhưng không hiểu gì về thực địa của vùng ấy; lại càng không biết gì chắc chắn cả về lịch sử xã hội và nguồn gốc của cư dân ở đó, cho nên những giả thuyết của họ đưa ra thường có vẻ có lý, nhưng cũng đều chỉ có cơ sở chủ quan mong manh như thế cả(4) . Tiêu biểu cho tính “chủ quan mong manh” này là nhà khảo cổ học người Thụy Điền OIov Janse trong cuốn “Việt Nam carrefour des peuples et de civilisations” é, d. France đã kết luận : “Về Việt Nam thì nền văn minh Đông Sơn hình như phần lớn của dân nguyên thủy Mã Lai, và tầng văn minh về sau là của chủng tộc phần lớn nguồn gốcThái”. Trong một số giai đoạn lịch sử người Đông Sơn có quan hệ gắn bó với các nước ở Viễn Đông và các nước có nền văn hóa chính thống như Trung Quốc (Classic) (5) .Lời nhận định sai lầm của OIov Janse là nằm trong một số nhận định sai lầm khác của các nhà khảo cổ của phương Tây nói về hoa văn vật hèm Thần Đồng (trống đồng) Đông Sơn, như Hainơ Ghendéc thì khẳng định rằng đó là họa tiết phổ biến của đồ đồng châu Âu như văn hoá Hanxtát ở bắc Âu và phong cách Hy Lạp "(6) , còn Cacsgren thì cho từ nghệ thuật sông Hoài của Trung Quốc đưa sang(7) ! Sở dĩ có những sai lầm như thế là do, họ nghiên cứu văn hoá Đông Sơn mà theo phương pháp đồng đạị, bỏ qua lịch đại của nền văn hoá ấy, lại mang nặng tư tưởng xem thường cư dân thuộc địa, nên không thấy những di vật do Chủ nhân là Tổ Tiên chúng ta sáng tạo mà cho từ văn hoá Hanxtát ở bắc Âu và phong cách Hy Lạp, hoặc từ nghệ thuật sông Hoài của Trung Quốc đưa sang, và dân tộc nguyên thủy Mã Lai v.v. Nhưng căn cứ vào các di vật do ngành khảo cổ của ta đã khai quật được ở nhiều di chỉ ở lưu vực sông Hồng được đánh giá có niên đạị rất sớm thì rõ ràng Tổ Tiên ta người Kinh - Mường đã hình thành từ thời sơ khai là rất lâu dài.Tuy nhiên, do những điều kiện đặc thù về lịch sử của nước ta - với những biến động quá lớn trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế xã hội, lại bị phương Bắc nô dịch hàng ngàn năm, mọi cứ liệu thư tịch, hiện vật đều bị tàn phá, đập nát và xuyên tạc. Phải đến khi dân tộc ta giành lại được quyền tự chủ, những bậc Tiên triết của chúng ta nhặt nhạnh từng mảnh vụn chắp nối lại thành Nguồn gốc dân tộc của chúng ta từ Họ Hồng Bàng, sau đó dần dà chắp nối thêm. Cho nên, ngày nay để tìm hiểu đánh giá nguồn gốc hình thành dân tộc, ngoài các tài liệu của các bậc tiền bối sử gia để lại thì còn có yếu tố vô cùng quan trọng, đó là giải mã những hiện vật của các thời kì lịch sử đã khai quật được mà tư tưởng của nó là cùng nguồn với các tập quán, thói quen đã hình thành của các thế hệ người Kinh bằng zen di truyền tồn tại 3
  • 4. đến ngày nay. Đó chính là nguồn Lịch sử chính xác nhất: di vật, hoa văn và tập quán là lời nói trung thực, khách quan không thể chối cãi được. Cũng phải thừa nhận rằng, có một số nhà khảo cổ học của phương Tây chân chính đã để lại những dấu ấn đáng kính nể về khảo cổ học ở Việt Nam. Đến năm 1932, Trường Viễn Đông Bác Cổ, trong đó có học giả Victor Goloubew và nữ học giả Madeleine Colani, đã phát hiện di vật của thời đại đồ đá cũ(8) , ở núi Bắc Sơn Thái Nguyên xuất hiện 5 đến 4 vạn năm (9) và bà Madeleine Colani cho khai quật di chỉ Xóm Trại, Lạc Thủy, Hòa Bính, nền nông nghiệp ra đời 10.0000 năm Tr. C.N, cách nền nông nghiệp Lưỡng Hà khoảng 3.000 năm. Hội nghị quốc tế về Tiền sử Viễn Đông lần thứ I tại Hà Nội (1932) công nhận (cứ liệu do Viện Bảo tàng Quốc gia Hà Nội cung cấp, kèm - ảnh 1a). Nhưng OIov Janse không kết hợp, mà lấy hiện vật khảo cổ nằm trong ba, bốn thế kỉ trước và sau C.N - với hiện vật chủ yểu của thời đại đồ đồng, đồ sắt, để khẳng định Chủ nhân của nền văn minh Đông Sơn là dân tộc nguyên thủy Mã Lai và nền văn hóa tiếp theo là của người Thái. Lời nhận định sai của OIov Janse, nhưng lại có sức nặng bởi sự “bảo lãnh” của Viện Bảo tàng Quốc gia Pháp và Viện Bảo tàng Quốc gia Mỹ. Hai Viện Bảo tàng ấy đã ủy thác cho ông nhiệm vụ khảo cổ ở Đông Dương và Đông Nam Á, tiến hành từ tháng 10 năm 1934 – đến tháng 8 năm 1940. Sau đó OIov Janse sống ở Mỹ với tư cách là Giáo sư danh dự, cán bộ Bảo tàng và hợp tác với UNESCO (10) . Trước đó, những năm cuối thập kỉ 40 của thế kỉ 20, OIov Janse từng thuyết giảng truyền bá những nhận định ấy cho các Trường Đại học ở Sài Gòn, cho nên sách Lịch sử tư tưởng Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (Sài Gòn 1963) dẫn lại nguyên xi ý kiến ấy. Đến khi sang Mỹ, OIov Janse giảng ở các Trường Đại học của Mỹ, của Pháp. Mặc dù ý kiến ấy sai, nhưng có sự “bảo lãnh” thì tất cả các nhà khoa học của châu Âu đều nghe và dẫn lại, rồi xào xáo, gia cố và cụ thể hóa các chi tiết bằng việc thay đổi tên dân tộc Mã Lai, chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn, thành dân tộc Mon, Man, Lava rồi Hồ Động Đình nước Xích Qủy, Xuy Vưu, vua Kinh Dương Vương v.v, và đúc chiếc trống đồng hai mặt như trống da (ảnh 1b), là do sau khi Mã Viện gọi loại vật hèm ấy của dân tộc Kinh là trống đồng (đồng cổ) được ghi trong sách Hậu Hán thư. Đó là một từ mới. Cho nên đến nay các từ điển Trung Quốc cổ điển giải thích từ điều “Đồng Cổ” như Từ Nguyên đều dẫn đoạn văn Truyện Mã Viện (11) . Vì thế, nó không thể có hàng mấy ngàn năm trước Công Nguyên được như Tạ Đức nói, hoặc con cóc, thế giới gọi là con ếch. Không xào xáo như thế thì họ không có sách. Đến nay phương tiện Internet trợ giúp thì những xào xáo dựa theo nhận xét của OIov Janse nó như vật phẩm phong phú đặc sắc trong “siêu thị” về văn hóa học, khảo cổ học, dân tộc học.Tạ Đức nhặt về “xào xáo” thành món hàng hiếm quý Nguồn gốc người Việt- người Mường, “món hàng” mà hiện nay mọi người ở nước ta đang háo hức muốn biết về Tổ Tiên của mình. Nhưng không may cho độc giả là Tạ Đức nhặt phải “hàng rởm”, như chính tác giả tự công nhận, là 50% nguồn tư liệu tham khảo, lại khai thác từ internet (trang 15) - không nhặt thế thì không có đầu sách này. 4
  • 5. Ảnh 1a. Hội nghi Viễn Đông. Ảnh 1b. Trống đồng Xuy Vưu. Về vật hèm (trống đồng) thì mỗi dân tộc trong thời tiền sử thường có một vật linh biểu tượng quyền uy của vị đứng đầu một tôn giáo hoặc tù trưởng: Có tộc, vật linh là chiếc gậy, có tộc, vật linh là chiếc mũ. Vật linh ấy nếu kèm theo một câu Thần chú thì tạo nên sự linh nghiệm vô song như chiếc gậy, cái nón của Chử Đồng Tử–Tiên Dung (Việt Nam). Về sau chiếc gậy, cái mũ ấy là cây Vương trượng và chiếc mũ Miện: Khi bị lột mũ Miện, cất cây Vương trượng thì người đó không còn uy quyền gì nữa. Đó là giá trị của vật linh biểu trưng Vương quyền. Đến thời cổ đại, khi có tổ chức Nhà nước, thì xuất hiện loại vật linh Ấn tín của nhà vua, như Đỉnh đồng thời nhà Thương Trung Quốc và Thần Đồng- Ngọc Lũ của vua Hùng Văn Lang. Đặc biệt hoa văn Thần Đồng-Ngọc Lũ từ thời chưa có chữ viết, bằng những kí hiệu “mật mã” tạo nên hàm nghĩa bản Sử thi của dân tộc Kinh- Văn Lang biểu đạt về khởi nguyên và tiến trình vòng đời của con người; Đồng thời qua đó, mà hình dung về lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc từ khởi thủy cho đến ngày vua Hùng Tuyên bố thành lập nước Văn Lang- Tức là bản Tuyên ngôn trong ngày thành lập nước (xem chú thích 21). 2. Bốn điểm sai của Tạ Đức Những sai trái trong sách của Tạ Đức Trần Trọng Dương có bài viết trích dẫn từng mục (Trang điện tử Văn hóa Nghệ An), bài viết này chúng tôi chỉ nêu khái quát bốn điểm sai trái của Tạ Đức, rồi dẫn chứng bốn điểm về di vật và hoa văn khảo cổ của địa vực sồng Hồng để chứng minh luận điểm sai của Tạ Đức như sau: Điểm thứ nhất. Tạ Đức cho rằng : Người Việt và người Mường từ xưa đến nay luôn là hai tộc người khác nhau và đều là sự tổng hòa các nhóm di dân từ phương Bắc. Người Mường vốn là người Mon, Man hay Mân Việt, là di dân đường biển, đến trước, chủ nhân của các văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun. Người Việt vốn là người Lava hay Lạc Việt, đến sau, là chủ nhân chính của văn hóa Đông Sơn (Tạ Đức, Book Hun ter). Nguyên điểm này Tạ Đức gần như đã phủ định những tài liệu Lịch sử của dân tộc đã được hệ thống lại trong bốn tập sách Hùng Vương Dựng Nước- lại được chứng minh bằng hệ thống Di vật khảo cổ do Tổ Tiên chúng ta dân tộc Kinh sáng tạo: Di vật và hoa văn là “bộ sử” tuyệt đối chính xác; dấu ấn về bản sắc, tư tưởng và hành xử trong phong tục tập quán của một dân tộc được xác lập ngay từ khởi thủy, thể hiện trong từng di vật văn hóa hằng số chẵn (đôi và Tứ) hướng đầu sang bên phải. Đó là những “viên gạch” đặt nền móng cho tầng văn minh đồ đồng Đông Sơn. Thế mà Tạ Đức cho “người 5
  • 6. Lava hay Lạc Việt đến sau tạo ra, nền văn hóa Đông Sơn. Vậy họ là vị “thần Đèn” chăng, chẳng cần thời gian chuẩn bị ! Điểm thứ hai. Tạ Đức cho Thánh Gióng chính là vị thần Trống Đồng-Thần Chiến tranh-Thần Bảo hộ, một biểu tượng của Xuy Vưu-Xích Quỉ-Viêm Đế, Ông Tổ huyền thoại của người Bách Việt; dẫn chứng một chiếc trống đồng đúc theo kiểu trống da (ảnh 1b), lối đúc này chỉ được ra đời sau khi Mã Viện gọi vật hèm Ấn tín và báu vật truyền ngôi của thời đại Hùng Vương là đồng cổ (trống đồng trong lần y đưa quân sang Giao Chỉ đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43 C.N). Dân tộc ta chưa bao giờ coi Thánh Gióng là Thần trống đồng cả mà tôn vinh trống đồng là vị Thần Đồng, từ thời Văn Lang, vua Hùng đã cho lập đền thờ Ngài trên núi Khả Lao, huyện Yên Định -Thanh Hóa, đến nhà Lý có đền thờ vọng Ngài ở sau chùa Thánh Thọ, nay là 353 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội, vua Lý Thái Tông (1028-1054) phong cho Ngài là Minh chủ Linh ứng Chiêu cảm Đại Vượng, cho nên chỉ nước ta mới có đền thờ Ngài, còn bên Xuy Vưu, Xích Quỷ Viêm Đế làm gì có đền thờ Ngài. Về đề tài này, trước đây Tạ Đức có bài Trống đồng một nhạc khí bằng chứng rõ ràng. Sau khi dẫn cứ liệu đánh trống đồng của vùng Lưỡng Quãng (viết trống đồng Việt Nam mà lấy tư liệu bên xứ Quảng), sau lại dẫn tiếp ở sách Đại Nam nhất thống chí-mục Thanh hóa chí rằng: Ngày xưa vua Hùng đi đánh Chiêm Thành ban đêm đóng quân ở núi Khả Lao nằm mộng thấy một vị Thần xin đánh trống đồng giúp vương đánh thắng…(12) Điểm sai ở đoạn trích dẫn này là Hùng Vương đi đánh Chiêm Thành, nhưng nước Chiêm Thành mới có ở thế kỉ thứ VI. C.N(13) . Chúng tôi phê phán điểm sai ấy, nên N.x.b Thuận Hóa 2006 in Đại Nam nhất thống chí đã bỏ đoạn đó. Dẫn lại điểm này để thấy Tạ Đức hễ thấy cứ liệu là dẫn lấy được, không cần biết đúng sai. Bản tính ấy của Tạ Đức vẫn thể hiện trong “Nguồn gốc người Việt- người Mường”. Điểm thứ ba. Tạ Đức cho thuật ngữ Giao Chỉ là đất của người Dao-tên đất là tên người. Nghĩa Là vùng đất hiện nay chúng ta dang sinh sống theo Tạ Đức là đất của người Dao (facebook Tạ Đức). Thuật ngữ Giao Chỉ do người Trung Quốc đặt ra để gọi người Lạc Việt. Chữ Giao (交) nghĩa là giao nhau, qua lại, kết hợp với nhau (lãnh địa gần kề với Trung Quốc). Ý kiến quan trọng khác, chữ Giao trong Giao chỉ liên quan đến Giao Long là một linh vật của vùng này mà sau này phổ biến rộng rãi hơn trong vùng được biết như là con Rồng. Riêng chữ Chỉ không được giải nghĩa từ đầu (nghĩa của từ Chỉ sau tự suy đoán rồi thống nhất.) Vậy ở đây, phải chăng để hiểu thuật ngữ Giao Chỉ cần tìm về tư duy của người Kinh là đôi, thể hiện trong các đôi biểu tượng văn hóa và đôi trong ngôn ngữ là từ “láy”. Như: đi đứng, cây cối thì từ “đứng” và từ “cối” là không có nghĩa. Cho nên, khi người Trung Quốc gọi lãnh thổ của dân tộc ta là “Giao” thì họ giải thích từ Giao còn “chỉ” là từ láy thêm vào sau, hoặc sự kiện nhà Tây Hán (năm 110 Tr.C.N) đưa quân vượt núi Ngũ Lĩnh chiếm vùng Lĩnh Nam, cả vùng đất rộng lớn này trong đó có đất Giao Chỉ (14) nhà Hán thiết lập thành một Châu, trụ sở của Châu đặt ở Luy Lâu (Dâu) đất của Giao Chỉ nên gọi là Giao Châu. Ở đây từ Giao là đủ nghĩa, không cần Giao Chỉ Châu. 6
  • 7. Vậy Giao Chỉ thì Giao là “gi” nghĩa là gần kề, giao nhau, còn người Dao thì Dao là (d trên) là như ca dao, vài câu thơ - nó không có nghĩa rộng, sâu sắc như Giao (g dưới) là giao thoa, giao nhau, giao hữu v.v. Điểm thứ tư. Những hiện vật và hoa vănTạ Đức dẫn trong “Nguồn gốc người Việt- người Mường” là của các vùng người Việt hiện nay nằm ở phía Nam Trung Quốc: Di vật mặt người (ảnh 2 a) và đồ ngọc Chiết Giang (ảnh 2b), thần thái của nó khác hẳn hoàn toàn thần thái di vật và hoa văn ở vùng châu thổ sông Hồng, ngay chiếc rìu xéo của vùng sông Hồng (ảnh 2c). Chiếc rìu xéo (ảnh 2c) Tạ Đức cho là của người Việt vùng Chiết Giang, nhưng thần thái của nó khác xa hình mặt người (ảnh 2a) và đồ ngọc (ảnh 2b) thì nó là cùng dòng với (ảnh 2e) của vùng châu thổ sông Hồng và hướng sang bên phải. Loại rìu xéo ấy hiện tại cư dân ở vùng châu thổ sông Hông vẫn đang sử dụng với các tên gọi như: mai, mống, vòi (15) . Ảnh 2a. Mặt người. Ảnh 2b. Đồ ngọc Chiết Giang . Ảnh 2c và 2e. Rìu sông Hồng Thế mà Tạ Đức biện luận rằng: Con cháu của người Việt Hà Mẫu Độ là người Việt Lương Chử, chủ nhân của văn hóa Lương Chử (3400-2250 TCN) ở Giang Tô -Thượng Hải- Chiết Giang. Ba đồ ngọc tiêu biểu của văn hóa Lương Chử là rìu Việt, ống Tông và đĩa Bích. Ống Tông và đĩa Bích chính là nguyên mẫu của Bánh Chưng- Bánh Dày. Từ chỉ ống Tông và đĩa Bích trong tiếng Hoa có gốc từ hai từ chỉ Vuông-Dẹt trong tiếng Việt Nam. Người Lương Chử đã có tục thờ Rồng-Chim, cội nguồn của hai biểu tượng Lạc Long-Âu Cơ, của các khái niệm Con Lạc-cháu Hồng, con Rồng-cháu Tiên ẩn chứa niềm tự hào sâu sa của người Việt (Book Hunter Club). Sai trái qúa đỗi, khi Tạ Đức cho ống Tông đĩa Bích là nguyên mẫu của Bánh Chưng-Bánh Dày. Với lý luận kiểu ấy thì chuyện Tấm Cám Tạ Đức sẽ cho chúng ta lấy của thế giới. 3. Nguồn gốc của các loại rìu Chiếc rìu xéo là của người Kinh, nhưng trong thời kì người Hán đang hình thành chữ viết, họ thấy chiếc rìu xéo (ảnh 3 a) mà tạo ra chữ việt (ảnh 3 b) rồi gọi tất cả các dân tộc ở phia Nam sông Dương Tử là người Việt –Bách Việt. Vậy tên Việt ấy không dính líu gì đến dân tộc Kinh chúng ta. Nhưng một số người phương Tây sau này nghiên cứu về văn hóa vùng Nam sông Dương Tử lại cho chiếc rìu xéo ấy là của người Việt ở vùng ấy, ngay các tác giả của ta cũng hùa theo dẫn lại nhận xét ấy, như Trần Quang Trân trong sách Nghiên cứu Việt Nam thời tiền sử , dẫn tư liệu củaTrần Ngọc Thêm (16) thì Tạ Đức 7
  • 8. cũng theo đó mà lấy văn hóa của dân tộc Kinh chúng ta trao cho các dân tộc Việt ở vùng Chiết Giang Ảnh 3 a. . Ảnh 3b. .. Ảnh 3c Sự ra đời chiếc rìu xéo là Tổ tiên ta còn cho biết nguồn gốc của nó. Đó là khi lội xuống bùn đặc, nhắc chân lên thấy dấu chân trong ấy, cho nên người xưa đã tạo ra chiếc rìu như dấu chân có hoa văn (ảnh 3 c) để làm kỉ niệm. Loại rìu xéo có hoa văn là không chặt bổ được vì có 25% nguyên liệu chì –chì mềm điền đầy hoa văn. Còn loại rìu xéo để chặt bổ là có 20 % kim loại thiếc - thiếc cứng và không có kim loại chì (xem chú 20). Vậy, để đánh giá nguồn cứ liệu với những hiện vật biểu tượng mà Tạ Đức đã dẫn là sai, là áp đặt cho nền văn hóa của dân tộc Kinh của chúng ta thì phải có một nguồn cứ liệu đích thực, chắc chắn do Chủ nhân là Tổ Tiên của chúng ta - dân tộc Kinh (Việt) - sáng tạo từ cuối thời đồ đá cũ sang đồ đá mới, đến đồ đồng và truyền nối đến thời đương đại cả về hình dáng và tư tưởng của biểu tượng là một dòng. Đó mới là “Nguồn gốc của người Việt-người Mường”. Hiện vật và hoa văn là lời nói khách quan trung thực nhất, chí ít cũng từ cuối thời đại đồ đá cũ sang thời đại đồ đá mới, nhằm chứng minh cho sự sai trái của Tạ Đức để độc giả lớp trẻ cảnh tỉnh về những nguồn thông tin “rởm” trong Nguồn gốc người Việt-người Mường. 4. Vật biểu tượng khởi thủy và đương đại ở châu thổ sông Hồng là một dòng tư tưởng Cũng cần nói thêm về việc tôn vinh nơi SINH RA con người là của cả nhân loại, nhưng riêng người phương Đông còn lấy đó làm bùa chú trừ đuổi tà ma, triệt tiêu hiểm họa cho cộng đồng: Ấn Độ gọi là Linga Yony (17) hóa thân thành thần Siva, vị thần đánh đông, dẹp bắc diệt trừ cái ác, bảo vệ điều thiện cho con người (ảnh 4). Ở Trung Quốc gọi là Sinh thực khí, trong Hán tự biểu tượng bằng chữ “tổ” ( ) trong chữ “tổ” có bộ thả ( ) nguyên ý là chỉ bộ phận sinh thực của nam giới (tượng hình) (18) . Song ở các nước đó chỉ thờ cúng hiện vật nơi sinh ra con người thôi, còn dân tộc ta người Kinh gọi là Nõ nường, lấy đó làm cơ sở xây dưng nền tảng văn hóa tư tưởng của dân tộc và xuất hiện rất sớm.: Ảnh dưới đây là chỗ sinh đẻ của người mẹ, gọi là hình “Oa” (ảnh 5). 8
  • 9. Ảnh 4. Thần Siva. Ảnh 5 : Hoa văn hình “Nường” (Oa) Phùng Nguyên và hình hài nhi. Hình “Oa” được biểu tượng thành giếng “Oa” làm vật linh thờ cúng, đặt dưới gầm bàn thờ trong hậu cung của các ngôi đền – đình: ở Hà Nội là đền Cây Si, chùa Xã Đàn (Đống Đa), đình Phú Gia (Từ Liêm), đình Tây Đằng (Ba Vì), đình Hồng Lô (Phú Thọ) (19) vv.. Giếng “Oa” là cơ sở tạo nên vật hèm Thần Đồng Ngọc Lũ hình người mẹ thắt dáy lưng ong(20) . Việc ra đời vật hèm Thần Đồng- Ngọc Lũ là một hiện tượng "đột biến" của nền văn hoá Sông Hồng đến giai đoạn văn minh Đông Sơn- Sự đột biến, nhưng là kết quả của cả quá trình hình thành và phát triển nền văn hoá tư tưởng của dân tộc Kinh-Văn Lang cư ngụ ở châu thổ sông Hồng. Vậy để có vật hèm Ngọc Lũ, Tổ Tiên chúng ta - dân tộc Kinh - phải trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài, từ khởi thủy là hoa văn Núi Đọ Thanh Hóa (ảnh 6 )- ở ảnh 6 này số lượng (cánh sao) chưa rõ. Ảnh 6: nguồn Hoàng Xuân Chinh Tiếp theo là hoa văn của Thanh Hóa giai đoạn cao hơn cùng với hoa văn ở Phùng Nguyên Phú Thọ (ảnh 7 a, b, c ) hình a tìm thấy ở khu mộ Đông Sơn, các cánh chưa rõ, nhưng đến hoa văn Phùng Nguyên hình b gần rõ 12 cánh và hình c là 14 cánh. Hình 14 cánh văn hoá Phùng Nguyên nó là cơ sở của hình 14 cánh trên hoa văn Thần Đồng Ngọc Lũ (Hà Văn Tấn). Ảnh 7 a,b,c. Ảnh 7 a Nguồn của V.Gôlubép (V.Goloubew chân dung ở trang sau), ảnh 7 b và 7 c Nguồn của Hà Văn Tấn, sách “Theo dấu các văn hoá cổ”, Nxb Khoa học xã hội, 1998- hình 3 a trang 602, hình 3b trang 612 và hình c hình 34 trang 659. 9
  • 10. Tiếp sau là các vùng văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun mà đỉnh cao là nền văn hóa Đông Sơn thì mạch nguồn Đông Sơn sẽ tỏa sáng cho nền văn hóa tiếp theo (xem chú 21). 5.Thời điểm xuất hiện văn hoá biểu tượng Nõ nường 5.1. Chứng tích Chứng tích là đôi thỏi đá hóa thạch phom hình người (ảnh 8,a ) do Trường Viễn Đông Bác Cổ phát hiện, trong đó có người Pháp gốc Nga Victor Goloubew (chân dung a) và đôi bàn nghiền bằng đá ở các hang động Hòa Bình (ảnh 8,b) do Bà Madeleine Colani ( chân dung b) và giới Khảo cổ Việt Nam phát hiện. Victor Goloubew (internet) Madeleine Colani (internet) Ảnh 8a . Đôi thỏi đá: Ảnh 8b . Đôi bàn nghiền bằng đá Bảo tàng. Nguồn Trần Tiêu- Đăng Kỉnh. Ảnh của tác giả. Tư tưởng văn hóa Nõ nường xuất hiện từ thời khởi thủy, truyền nối đến thờ đương đại là cái cuốc chim (ảnh 9 a) và lưỡi cày bướm (ảnh 9b).. 10
  • 11. Ảnh 9a. Cái cuốc chim: Ảnh 9 b: Lưỡi cày bướm: Ảnh của tác giả Nguồn của Hà Văn Tấn 5.2. Ngôn ngữ Đại từ nhân xưng thân tộc cũng gọi theo tên Nõ nường. Đứa bé sanh ra đặt tên: Cò- Hĩm. Cha mẹ của đứa bé cũng gọi theo tên con là anh chị Cò, anh chi Hĩm, cụ già 80 tuổi có đứa cháu trai thì gọi là Cụ Chắt Cò. Thậm chí đến nơi cư trú, ngôi nhà cũng gọi là ở “hẽm” nọ “hẽm” kia ; “hẽm” chuyển thành “hèm” trong tục hèm của lễ hội; “hèm” là vật linh, bùa chú; hèm là từ khóa: kiêng dè, cấm kị húy. Cũng từ đó mà Hồ Xuân Hương chuyển thành, Hẽm trống, Khe trạo, lạch đào nguyên. 5. 3. Biểu tượng văn hóa thuộc hằng số chẵn: 2, 4. 8. Dân tộc ta quan niệm hằng số lẻ là số chết, nhất là số 3. Thể hiện ở câu ca: Chớ đi ngày 7 chớ về ngày 3/ Đi chơi cũng lỗ huống là đi buôn. Cho nên lập mâm ngũ quả và thắp hương 1 cây 3 cây là dùng cho người chết - Tổ tiên. Còn lại mọi biểu tựng đều là 2, 4, 8 (đôi, tứ, tám): Đôi thỏi đá phom hình người (ảnh 8a), đôi bàn nghiền bằng đá hình ba góc (ảnh 8b), truyền nối đến đương đại là cái cuốc chim (ảnh 9a) lưỡi cày bướm (ảnh 9b), đôi chữ “S” (ảnh 10a) đôi rồng trên tang Thần Đồng Ngọc Lũ (ảnh 10b); Hằng số 4. bốn người trên hoa văn Thần Đồng Ngọc Lũ (ảnh 10c); Tứ linh, Tứ bình, Tứ quý, Tứ bất tử v.v. Hằng số 8, là 8 binh khí thờ ở đền quan Võ (ảnh 10e). Ảnh 10 a. đôi chữ S. Ảnh 10b đôi rồng. Ảnh 10c. 4 người 4 vật. Ảnh 10e . 8 binh khí 11
  • 12. Cỗ bàn trong đãi khách cũng tiến hành theo 2 món và 4 món. Sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính ghi: Cỗ mặn 2 món thit lợn và thịt bò. Cổ chay 4 món: Đĩa mứt, đĩa mía, đĩa lạc luộc, đĩa trám (xem chú 20). 5. 4. Hướng vận hành vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ Người châu Âu và người phương Bắc đều vận hành vòng tròn theo chiều xuôi kim đồng hồ và khi gọt vỏ trái cây họ đặt lưỡi dao quay vào. Còn người phương Nam trung tâm là người Kinh vận hành vòng tròn theo chiều ngược kim đồng hồ, nên gọt vỏ trái cây đặt lưỡi dao quay ra. Tinh thần đó của người Kinh xuất hiện từ khởi thủy, như đôi thỏi đá hướng sang bên phải (ảnh 3) và đôi chữ “S” cũng thế. Đến thời đồ đồng được ghi lại trên hoa văn Thần Đồng tiêu biểu là Thần Đồng (trống đồng) Ngọc Lũ rồi truyền nối đến thời đương đại. Đó là vận hành trong lễ hội, hoặc xay lúa, dần sàng gạo, xoay bàn làm đồ gốm, đi thể dục quanh bờ hồ. v.v. Tâm thức vận hành vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ đã thấm vào máu thành zen di truyền. Khi đứng dậy đi, là chân phải bước trước. Điều ấy bắt đầu từ thuở bé mới tập đi, không ai dạy. Qua hiện tượng ấy, để thấy zen di truyền là đặc điểm về bản sắc của một dân tộc. Một chuyện vui các cụ kể lại. Thời Pháp, lính Khố đỏ tập đi đều. Người Pháp bước chân trái trước, nhưng lính người Kinh nghe hô đi đều bước, thì đưa chân phải trước. Người Pháp phải cho buộc cái lá chuối bên chân trái. Hô đi đều –lá chuối, mãi mới tập được –bước chân trái trước. Nhưng con của người lính ấy mẹ nó sinh ra nó vẫn theo máu di truyền của dân tộc bước chân phải trước. Kể dài dòng để nói người Kinh từ khởi thủy đến đương đại là một dòng. Biểu tượng Hình mặt người (ảnh 2a) và Đồ ngọc (ảnh 2b ) của người Ngô Việt vùng Lương Chử Chiết Giang thì thần thái và hoa văn không giống thần thái hoa văn đôi chim trên nóc nhà sàn châu thổ sông Hồng (ảnh 11a) và Đồ ngọc (ảnh 11b) Đồ gốm (ảnh 11c), Đôi rắn quấn nhau nuốt voi (ảnh 11 e) . Ảnh 11a. Đôi chim. Đồ ngọc.Ảnh 11 b. Ảnh 11c. Đồ gốm. Ảnh 11e. Đôi rắn quấn nhau. Những hiện vật biểu tượng của nền văn hóa sông Hồng chúng tôi trích dẫn ở bài viết này thì thần thái của những biểu tượng ấy khác hoàn toàn thần thái trong biểu tượng 12
  • 13. của Tạ Đức dẫn ở Nguồn gốc người Việt- người Mường. 6. Nhận xét các biểu tượng đã dẫn Ý thức, tình cảm chỉ đạo hành vi. Đó là người Kinh lấy hiện vật nơi SINH RA con người đặt làm nền tảng cho việc xây dựng nền văn hóa tư tưởng của dân tộc (không có dân tộc nào làm như thế), cho nên hiện vật biểu tượng ở địa vực sông Hồng xuất hiện từ 5 đến 4 vạn năm đều biểu tượng Nõ nường: đôi thỏi đá phom hình người- đôi bàn nghiền bằng đá hình ba góc vẫn truyền nối đến thời đương đại ở trong đời sống của người Việt (Kinh) là cái cuốc chim và lưỡi cày bướm. Về hính dáng và thần thái của biểu tượng nó hoàn toàn khác hiện vật biểu tượng văn hóa của cư dân người Bách Việt ở phia Tây Nam của Trung Quốc. Về nguồn Zen di truyền là tư tưởng vận hành vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ khi dừng lại là hướng sang bên phải có từ đôi thỏi đá hóa thạch phom hình người (ảnh 8 a) và đôi chữ “S” (ảnh 10 a) Truyền nối trong đời sống: xay lúa, dần sàng gạo, bàn nghiền làm đồ gốm cổ và đi tập thể dục trên bờ hồ đều theo chiều ngược kim đồng hồ, điều đặc biệt là đứa trẻ mới tập đi thì chân phải bước trước- nguồn Zen di truyền thật là điều huyền bí.. Đã tạo bản sắc của dân tộc Kinh ở Việt Nam. Phong tục, tập quán diễn ra hàng ngày quá đơn giản, nhỏ nhặt nhưng khi tập hợp lại nâng lên thành giá trị tổng hợp mới. Đó là ý thức, tình cảm tạo nên hành vi. Chúng ta, hậu duệ của dân tộc Kinh, phải bảo vệ Tổ Tiên nòi giống của mình. Không nên nghe số người nói sai để có sách, nếu họ không nói sai bằng việc xào xáo cái sai ban đầu của OIov Janse thì họ không có cuốn sách nào cả. Hai cuốn sách lớn của Tạ Đức chỉ có công tập hợp tư liệu của các tác giả nước ngoài qua Intnet: sách trước là giải mã hầu hết các biểu tượng của các nước, cho nên sai đúng mình không biết, nhưng sách sau là nguồn tư liệu sai khi nói về Nguồn gốc người Việt-người Mường. Bởi lẽ ý nghĩa của các công cụ, đồ vật và hiện vật biểu tượng văn hóa ở địa vực sông Hồng do Tổ Tiên của chúng ta sáng tạo thì ý niệm được truyền nối trong tiềm thức, ăn sâu vào cõi vô thức của từng thế hệ. Như biểu tượng “Đôi rắn quấn nhau nuốt voi” (ảnh 11e) thì chúng ta mới hiểu ý nghĩa còn người ngoài làm sao giải mã được. Đôi rắn cuốn nhau là biểu tượng dây Tơ hồng- dây Tơ hồng là hình ảnh của đôi vợ Chồng: Thuận vợ thuận chồng tát bề đông cũng cạn, hồ nuốt con voi thì thấm vào đâu. Biểu tượng ra đời nhằm trấn an, ở thời Tổ Tiên chúng ta kiếm sống trong rừng, phải có tính cộng đồng thì sẽ giết được loài ác thú hại người. Như vậy, việc nhận thức về nguồn gốc người Việt người Mường là cả một hệ thống cấu trúc gồm bốn yếu tố: Một là sử sách; Hai là ngôn ngữ; Ba là tập tục; Bốn là di vật. Trong đó di vật xuất hiện từ thời đồ đá cũ truyền nối đến đương đại là là một dòng tư tưởng- Tức là hiện vật Nõ nường và cái cuốc chim –lưỡi cày bướm (ảnh 8 a,b). Kết luận: Văn hóa Ấn Độ là kiến trúc đền đài điện ngọc cao sang, văn hóa Trung Hoa là chữ nghĩa giả sử - sử sách tàng thư, văn hóa Việt Nam là biểu tượng sâu xa thâm thúy minh triết. 13
  • 14. Bài viết này đáng lẽ phải có từ năm 2014, nhưng chúng tôi bận hoàn thành sách Giải mã biểu tượng văn hóa Nỏ Nường nên nay mới có. Tư liêu tham khảo và trích dẫn 1. Dẫn theo Phạm Huy Thông Lời giới thiệu sách Dong Son Drums in Việt Nam, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội 1998, tr274. 2. H.H.E Looc—Wiosowa. The distribủrion of Dong Son drums :somes thoughts in Peter Snoy (cd) Ethnologie und Geshiete (Sự phân bố của trống Đông Sơn : vài suy nghĩ) Trong Perter ( chủ biên) “ Dân tộc học và lịch sử ” Wicsbaden 1983 tr 410-417. Dẫn theo Lịch sử tư tưởng Việt Nam . . 3. P.Heger, Những trống kim khí ở Đông Nam Á (chữ Đức) Laixich, 1902, bản sao lưu tại Viện bảo Tàng lịch sử Việt Nam, Tiến sĩ Ngô Thế Phong cung cấp. 4. Phạm Huy Thông, Lời giới thiệu sách Dong Son Drums in Việt Nam,N.x.b Khoa học xã hội Hà Nội 1998 tr 274. 5. R.Hainơ Ghenđéc (R Hecine Geldern): Vấn đề người Tokhara và cuộc thiên di từ biển Đen (chữ Dức)- .Thế kỷ, 1951, tập 2 tr 233- 244, dẫn theo Hà Văn Tấn Theo dấu các văn hoá cổ s.đ.d. tr 566.. 6. B. Cácgren ( B. Kagren ) Niên đại của văn hoá Đông Sơn sớm (chữ Anh )-Tạp chí Bảo tàng cổ vật Viễn Đông , số 14 Xốckhôn. 1942 tr 8, dẫn theo Hà Văn Tấn Theo dấu các văn hoá cổ s.đ.d.tr 641... 7..Lịch sử tư tưởng Việt Nam Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam Viện Triết học, N.x.b.K.H.X.H Hà Nội 1993 tr 38-40. 8. Bảo tàng lịch sử Quốc gia Hà Nội ghi tại nơi trưng bày hiện vật văn hóa thời đồ đá cũ Di chỉ núi Bắc Sơn Thái Nguyên. 9.OIov Janse, Bí mật của cây đèn hình người, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 200tr 2. 10. Phạm Việp, Hậu Hán thư, bản chữ Hán (ký hiệu H.T.V-51) mục truyện Mã Viện 8 (10) Thư viện Viện Sử học Việt Nam 38 Hàng Chuối Hà Nội. 11.Nguyễn Duy Hinh, Trống đồng quốc bảo Việt Nam N.x.b Khoa học xã hội 2001tr 18. 12 . Kỉ yếu Hội thảo khoa học Trống đồng với văn hóa Việt Nam Trung tâm Văn hóa người Cao tuổi Việt Nam Hà Nội tháng 12/ 2008, tr 72. 13. Văn hóa Chăm,N.x.b Khoa học xã hội T.P.H.C.M. 1992, tr 14. 14. Đại Việt sử kí toàn thư N.x.b. Văn hóa T.T. 2003 Tập 1 tr 210. 15. Diệp Đình Hoa, Người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, N,x.b Khoa học xã hội Hà Nội 2000, tr 38 16. Trần Quang Trân , Nghiên cứu về Việt Nam trước Công Nguyên N.xb Thanh niên 2001, tr 25-30 17.Kiều Ngọc dịch, Tập tục dâ gian và ý nghĩa tượng trưng của hoa sen,Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 1 /1994, tr 24-27. 14
  • 15. 18.Trần Chí Lương (Trung Quốc), Đối thoại với Tiên triết về văn hoá phương Đông thế kỉ XXI, N.x.b Đại học quốc gia Hà Nội 1999 tr 49. 19. Nguyễn Ngọc Chương, Trầu cau Việt điện thư, N.x.b T.P.H.C.M 1997, tr 170. 20. Dương Đình Minh Sơn Văn hóa Nõ Nường N.x.b. Kkoa học xã hội 2008. 15