SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 19
Baixar para ler offline
ĐẤT NƯỚC
~ NGUYỄN KHOA ĐIỀM ~
1. Cảm nhận chung về Đất Nước
a. Đất Nước có từ bao giờ
- Đi từ một thi đề quen thuộc của thơ ca nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một sắc diện mới cho đề tài
Đất Nước. Trong cội nguồn của Đất Nước thấp thoáng bóng hình của bà, của mẹ, của cha, của không gian
làng xã, gia đình với những hình ảnh thân quen bình dị. Thế nên, Đất Nước đã hình thành cùng với sự sinh
tồn của con người trong dòng thời gian vô thủy vô chung. Những câu thơ mở đầu mang đến cho ta niềm tự
hào về lịch sử lâu đời của đất nước đồng thời nó cũng mang đến cảm giác thật ấm áp khi thức ngộ trong ta
một điều: tất cả chúng ta đều được sinh thành trong một cái nôi chung, đó là là cộng đồng Đất Nước.
- Tùy theo từng thời kì lịch sử, Đất Nước được định nghĩa theo những cách quan niệm khác nhau, đất nước
có thể thiêng liêng khi đó là nơi Nam đế cư, đất nước có thể hiện ra trong những khái niệm trừu tượng như
trong đoạn đầu của Bình Ngô đại cáo thế kỉ XV với nền văn hiến đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia, phong tục
Bắc Nam cũng khác.... Văn học hiện đại cũng thường tạo ra một khoảng cách sử thi thiêng liêng, tôn kính
để chiêm ngưỡng Đất Nước thông qua những hình ảnh kì vĩ, tráng lệ, mang đậm tính biểu tượng, Đất Nước
có thể huy hoàng khi Rũ bùn đứng dậy sáng lòa, Đất Nước cũng có thể đẹp lung linh, kì ảo, xa vời trong so
sánh: Đất nước như vì sao - Cử đi lên phía trước (Thanh Hải)...
- Trong đoạn đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến một cách cảm nhận vừa mới mẻ, vừa thấm thía xúc động
về Đất Nước trong mối quan hệ với cuộc sống Nhân Dân, trong đó, những khái niệm trừu tượng, những tiêu
chí thiêng liêng định hình nên Đất Nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể và bình dị,
quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân.
- Câu thơ mở đầu đưa đến một cảm nhận ấm áp về sự hiện hữu của Đất Nước đối với mỗi con người:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
+ Ta là một khái niệm mơ hồ, không xác định, đó có thể là bất cứ người Việt Nam nào, trong bất cứ thời kỳ
nào, là chúng ta hôm nay, là con cháu sau này, là cha ông hàng ngàn năm trước..., cứ mỗi người Việt Nam
sinh ra là ngay lập tức được bao bọc và nâng niu, được nuôi dưỡng và che chở trong chiếc nôi lớn lao, ấm áp,
thân yêu, đó là Đất Nước, Đất Nước luôn có từ trước đó, như từ thuở khai thiên lập địa, đón đợi những con
dân Việt.
- Sau lời khẳng định tự hào và ấm áp Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi, cảm giác về lịch sử lâu đời của Đất
Nước được tô đậm hơn trong sự khám phá:
“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”
+ Ngày xửa ngày xưa là câu mở đầu quen thuộc trong truyện cổ tích – thế giới cổ tích là thế giới xa xăm
vô cùng trong tâm thức con người, vậy mà trong thế giới ấy, Đất Nước của chúng ta đã hiện hữu, tưởng như
Từ có vũ trụ - Đã có giang san (Trương Hán Siêu).
+ Đất Nước như đã có từ thuở hồng hoang trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa của mẹ từ sử thi Đẻ
đất đẻ nước, từ Sự tích trăm trứng, truyền thuyết về An dương vương hay Sơn tinh Thuỷ tinh … Mỗi câu
chuyện là hình hài dân tộc, là lời dạy bảo, khuyên răn để qua những cái “ngày xửa ngày xưa” con cháu mai
sau nhớ về cội nguồn.
“Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình” (Truyện cổ nước mình – Lâm Thị Mỹ Dạ)
- Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi đời của Đất Nước, thế nên Đất Nước gắn liền với các cụm từ “có
rồi, bắt đầu, lớn lên, có từ ngày đó, …”. Nhà thơ còn nỗ lực hình dung về sự hình thành cũng như quá trình
vận động và phát triển của đất nước trong dòng chảy thời gian niên viễn. Nguyễn Khoa Điềm nhận ra ở đó
có cả một không gian văn hóa dân gian được ẩn tàng. Thế nên, bắt đầu từ đây mỗi nỗ lực hình dung về Đất
Nước đều chứa đựng một vẻ đẹp văn hóa dân gian.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”.
+ Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi cho người đọc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hình ảnh “miếng
trầu” gắn liền với nét đẹp của những người phụ nữ Việt xưa. Từ nét đẹp đó, Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải
về sự “bắt đầu” của Đất nước. Trong cúng lễ, “miếng trầu quả cau” biểu tượng cho tấm lòng thành của con
cháu gửi đến những bậc cha ông. “Miếng trầu” còn là biểu tượng của phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách
con người Việt Nam xưa và nay. Bên cạnh đó, hình ảnh “miếng trầu”còn gợi lên một huyền sử tình
yêu”miếng trầu nên dâu nhà người”.
"Miếng trầu có bốn chữ tòng
Xin chàng cầm lấy vào trong thăm nhà
Nào là chào mẹ chào cha
Cậu cô chú bác... mời ra xơi trầu"
+ Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành của đất nước qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kì nhà thơ nào, đất nước không hề vô tri vô giác mà đất nước có
dáng, có hồn, đẹp ngất ngây trong con mắt nghệ thuật.
- Đất Nước được sinh ra và nuôi dưỡng trong truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc đó là lối sống nghĩa
tình. Đất Nước được hình thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh và trưởng thành nhờ những cuộc đấu
tranh bảo vệ dân tộc.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
+ Không cần mượn những câu chuyện xa xôi, không cần tìm những hình ảnh lớn lao, tầm vóc như thơ xưa,
Nguyễn Khoa Điềm dùng chất liệu dung dị của đời sống nhưng cũng đậm đà chất suy tưởng. Tre bao đời
nay gắn với đời sống nông dân Việt Nam. “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”
(Thép Mới). Tre lao động, tre anh hùng, tre của những ký ức tuổi thơ không gì thay thế. Và tre xuất hiện
trong huyền thoại Tứ bất tử về người anh hùng Thánh Gióng đánh giặc Ân, trở thành bài ca giữ nước hào
hùng của nhân dân đã trở thành lịch sử đất nước:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc n
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi” (Tố Hữu)
- Nguyễn Khoa Điềm đã đem hình tượng cây tre và Thánh Gióng song hành với nhau. Đó là sự đồng hiện
trong cốt cách, phẩm chất của con người Việt Nam như thật thà, chất phát, đôn hậu thuỷ chung, yêu hoà
bình nhưng lại vô cùng kiên cường trong chiến đấu.
- Đất nước mình đã lớn lên như thế đó, cũng như một sinh thể sống thực sự, trải qua bao biến cố thăng
trầm, bao phen nguy nan, “biết bao đời đã chịu nhiều thương đau” thế nhưng cho đến cuối cùng, đất nước
mình vẫn vượt qua tất cả, vẫn sừng sững và tồn tại hiên ngang.
- Câu chuyện về Đất Nước đâu chỉ dừng lại ở văn hoá dân gian, ở truyền thống yêu nước chống giặc ngoại
xâm, Đất Nước mình còn được viết bằng đời sống sinh hoạt thường ngày, bằng những thói quen hình thành
từ lao động.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ Một lần nữa, hình ảnh mẹ lại hiện lên, gợi lên cảm giác thật ấm áp và yêu thương biết mấy, bởi mẹ chính
là hiện thân của hơi ấm và tình thương dạt dào, bao la. Câu thơ cất lên như vẽ ra trước mắt người đọc đoạn
phim trắng đen ngắn ngủi bên hiên nhà - nơi có mẹ đang ngồi, búi tóc gọn gàng, chỉn chu. Mái tóc mẹ đen
huyền, óng ả một màu,mượt mà như dòng suối, từng vòng một được cuộn cẩn thận, búi lên đầu thành mái
tóc của người mẹ Việt Nam. Những búi tóc ấy có thể không có trâm cài đính ngọc lấp lánh, nhưng có nhiều
hơn thế - có tình yêu, có sự tảo tần, hiền dịu mà mẹ dành cho con.
- Cùng với cha, mẹ tạo nên tổ ấm thân thương gọi là nhà, là gia đình, là chốn về mỗi khi bước chân đã mỏi.
Cha mẹ thương và sống với nhau không chỉ bằng tình yêu mà còn vì ân nghĩa sâu nặng, gắn kết bền chặt
với thời gian. Cũng như gừng bao năm gừng vẫn nguyên vẹn vị cay, thậm chí càng già càng cay, càng đậm
mùi vị đặc trưng không đổi; hay như vị muối mặn càng không suy suyển, bao năm vẫn mặn mà như xưa. Nó
gợi lên ân tình thuỷ chung giữa người với người:“Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn.” con
người ở với nhau càng lâu thì tình cảm càng đong đầy. Ân tình thắm thiết ấy đã đi sâu vào ca dao, như một
lời răn dạy về đạo vợ chồng trăm năm như gừng, như muối, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, dẫu hết
tình thì vẫn còn chữ “nghĩa” một đời không đổi cũng chẳng thay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu có xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
- Vẫn với lời thơ thủ thỉ, tâm tình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi lên một truyền thống khi đặt tên
cho con của dân tộc ta:
“ Cái kèo cái cột thành tên”
+ Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra đời bằng những
“kèo” và những “cột”. Tên dẫu thật lạ nhưng mang đầy ý nghĩa và tình yêu khi ẩn sâu bên trong cái tên
mộc mạc ấy chính là truyền thống về đặt tên cho con không đẹp - để bảo vệ con, mong cho con một đời bình
an, hạnh phúc - từ lâu đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu giữ trọn vẹn lời dạy cổ
xưa.
+ Không những vậy, “cái kèo cái cột” còn là những từ chứng kiến sự phát triển giàu mạnh thêm của ngôn
ngữ nước mình - tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong sáng và giàu đẹp, tiếng nói mà toàn thể dân
tộc Việt Nam ta đã “quyết đem hết tinh thần và lực lượng, của cải và tính mạng” ra để bảo vệ và gìn giữ,
phát triển cho đến ngày hôm nay. Cùng với đó, hình ảnh cái kèo, cái cột còn gợi lên cảm giác thật gần gũi
và thân thuộc, dường như trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ nhưng lại rất đầm ấm, tuy
giản dị nhưng lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian…
- Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ đã khéo lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý nghĩa của dân tộc.
Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện, mỗi tập tục lại mang đến một cảm xúc riêng. Nguyễn Khoa
Điềm đã đi từ những tiếng “ngày xửa ngày xưa”, đến miếng trầu têm thật khéo thật thơm, vòng qua lũy tre
làng xanh rì rào để về đến nhà nhìn thấy bóng dáng và mái tóc mẹ, lắng tai nghe những cái tên trìu mến,
yêu thương và còn ý nhị nhắc về nghĩa tình sâu nặng tựa như gừng và muối của cha và mẹ… Thế nên
không có lí do gì mà nhà thơ lại “bỏ quên” mất một truyền thống đã đi cùng cha ông ta từ những ngày đầu
dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp nên lớp nền vững chãi cho ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phấp phới tung
bay:
“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần lao, chịu khó, vốn
“một nắng hai sương” biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân tộc. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến
hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò thẳng cánh bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn.
Nhắc đến bông lúa trổ đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những giọt mồ hôi mặn
đã rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời. Những hạt ngọc trời ấy đã được làm ra từ đôi tay chai sạn vì
nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà. Từ lúc cấy
mạ đến ngày trổ bông, lúa gặt về còn phải “xay, giã, giần, sàng”, công phu lắm mới làm nên được một bát
cơm thơm dẻo. Chính vì vậy, lúa gạo vốn quý lại càng quý hơn và ta càng thêm thương những người nông
dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không những cho ta bữa ăn ngọt lành, học còn tiếp nối ngọn lửa
truyền thống của ông cha để lại. Câu thơ gợi nhắc đến ca dao:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cà
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"
- Cuối cùng để khẳng định sự ra đời của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng mốc thời gian vô hình để
nói cái hữu hình có trong mỗi con người chúng ta.
“Đất Nước có từ ngày đó”.
+ “Ngày đó” là phép thế cho các mốc thời gian đã nói đến phần trước. Ngày mà bắt đầu từ câu chuyện cổ,
hiện hữu trong miếng trầu cau, ngày mà mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau quả ngọt bùi, cay đắng,
cũng là ngày con cháu ra đời bằng cái tên dân dã để tiếp bước ông cha nâng niu hạt lúa vàng. “Ngày đó” dù
không xác định rõ mốc thời gian nhưng trong tâm thức con người Việt ai cũng rõ đó là ngày chúng ta biết
thương nhau, biết trân trọng cuộc sống và biết vì nhau mà sống.
- Đặt trong một sự so sánh, các nhà thơ cùng thời nhìn cội ngườn của Đất Nước cùng với những triều đại,
anh hùng, chiến công. Trong bài thơ “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng”, Chế Lan Viên từng viết
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...”
“Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi !
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca." (Ta đi tới – Tố Hữu)
+ Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một cái nhìn khác biệt, cội nguồn Đất Nước là Nhân Dân, những con người
bình dị. Để khắc sâu về một hình tượng Đất Nước gần gũi mà vẫn thiêng liêng, bình dị mà vẫn sâu xa bền
vững thì tác giả đã sử dụng sáng tạo rất nhiều những chất liệu của văn hóa dân gian: tục ăn trầu, búi tóc,
kho tàng cổ tích, những câu ca dao chung thủy nghĩa tình.
+ Tác giả chỉ dẫn ra qua một vài hình ảnh nhưng đã làm sống dậy trong tâm thức người đọc một Đất Nước
đời thường gần gũi cũng là Đất Nước của nghìn năm văn hiến, của truyền thống vẻ vang rất đỗi tự hào.
Đoạn thơ ngắn nhưng trường liên tưởng lại rất rộng, dồn nén trong đó là trí tuệ, tình cảm, vốn sống phong
phú về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.
+ Với ông Đất Nước không được sinh thành từ những chiến công, không có ánh hào quang của từng triều
đại mà hiện lên trong muôn mặt đời thường, trong mối quan hệ gần gũi, ruột rà, thân thuộc.
b. Đất Nước là gì?
- Tiếp tục mạch trữ tình chính luận, Nguyễn Khoa Điềm đi vào cắt nghĩa để tìm ra câu hỏi “Thế nào là Đất
Nước”. Nguyễn Khoa Điềm đã dùng kiểu câu định nghĩa theo lối chiết tự để giải thích. Khi tách riêng thành
các thành tố độc lập Đất – Nước; khi lại hợp thành một danh từ “Đất Nước” toàn vẹn, thiêng liêng, to lớn.
Nhờ vào đó mà tác giả đã có những định nghĩa đa dạng, phong phú về Đất Nước. Nó được nhìn trong chiều
dài của lịch sử, chiều rộng của không gian địa lí, chiều sâu của đời sống văn hóa phong tục từ cha ông.
* Phương diện địa lí
- Đất Nước không phải là cái gì cao siêu, xa vời mà nó chỉ đơn giản là không gian sinh hoạt gần gũi, quen
thuộc với mỗi người, đó là nơi anh đến trường – nơi gi dần những kỉ niệm đầu đời, khi lần đầu tiên bước
chân đi học.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
- Xưa kia, viết về Đất Nước các nhà thơ thường gọi nó, họa nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, nay
Nguyễn Khoa Điềm gợi về đất nước còn là không gian tình tự, nơi gắn kết tình cảm, nơi khơi nguồn và là
điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm của người con gái, vậy nên vừa lớn lao mà
cũng là mảnh kí ức gợi nhớ gợi thương cho tâm hồn bất cứ ai.
+ Tách thành tố ĐẤT – để chỉ con đường hằng ngày anh tới trường, là ngôi trường cung cấp hành trang
tri thức cho mỗi chúng ta tự tin để làm chủ cuộc sống. Tách thành tố NƯỚC – Là dòng sông nơi em tắm
mát, dòng sông chở nặng phù sa làm tốt xanh những cánh đồng, bãi mía, nương dâu. Cách diễn giải ấy
giúp ta hình dung cụ thể: Đất Nước là nơi ta lớn lên, học tập và sinh hoạt.
+ Khi tách ra thì Đất Nước gắn với kỷ niệm riêng tư của mỗi người còn khi gộp lại Đất Nước lại sống trong
cái ta chung. “Khi ta hò hẹn”, Đất Nước hòa nhập vào một, trở thành không gian hẹn hò, nâng bước và
minh chứng cho tình yêu của hai đứa. Nơi trai gái hẹn hò gợi nên những không gian làng quê thanh bình
yên ả: mái đình, hàng cau, lũy tre làng, chiếc cầu tre nho nhỏ… tất cả đều đẹp đều hài hòa và nồng đượm
làm sao.
+ Và khi hai đứa yêu nhau thì Đất Nước như cũng sống trong nỗi nhớ thầm của hai đứa “Đất Nước là nơi
em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” . Câu thơ đậm đà chất dân ca ca dao, đặc trưng của văn hóa
Việt xưa xa, gợi nhắc cho ta bài ca dao nổi tiếng:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt”.
+ Chiếc khăn bé nhỏ, giản dị cũng thật đáng yêu và dễ thương làm sao, nó cũng là vật chứng cho tình yêu
đôi lứa “Gói một chùm hoa/ Trong chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng/ Sang nhà hàng xóm” (Phan Thị
Thanh Nhàn). Nó còn là sự hóa thân cho của người con gái trong tình yêu lứa đôi thật đẹp, thật nồng thắm,
da diết.
- Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương.
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở”
+ Câu thơ được lấy ý từ câu hò của người Bình Trị Thiên
“Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi Bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi
Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời
Kẻo mai kia con cá về sông vịnh
Con chim nọ đổi dời về non xanh”
+ Đất Nước chính là không gian dài rộng của biển bạc rừng vàng mà ẩn chứa trong đó là những câu
chuyện ân tình ân nghĩa. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ
vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa
lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.
* Phương diện lịch sử
- Tác giả cảm nhận Đất Nước không chỉ gắn liền với biên cương, lãnh thổ, địa lý mà Đất Nước còn gắn với
lịch sử: đất nước được cảm nhận bằng chiều sâu “thời gian đằng đẵng”. Nguyễn Khoa Điềm với một tình
cảm tự hào, ông gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt. Đó là truyền
thuyết:
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
+ Câu truyện cổ “Sự tích trăm trứng” đã ra đời từ lâu đời nhằm lý giải nguồn gốc của người Việt. Từ câu
truyện ấy dân ta muôn đời ta tự hào mình là con rồng cháu tiên, con cháu Vua Hùng. Cho nên đất nước
luôn tiềm tàng mối quan hệ giữa các thế hệ quá khứ, hiện tại và tương lai: “Những ai đã khuất / Những ai
bây giờ”.
+ Những ai đã khuất là những người trong quá khứ - những con người sống giản dị chết bình tâm, những
con người đã có công dựng nước và phát triển đất nước. Những ai bây giờ là những người trong hiện tại,
đang sống và chiến đấu. Tất cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh “Yêu nhau và sinh con đẻ cái” bảo tồn nòi
giống con dân Việt để góp vào một nhiệm vụ to lớn và thiêng liêng “Gánh vác phần người đi trước để lại” .
+ Tất cả đều ý thức về tổ tiên và nguồn gốc tổ tiên, không bao giờ được quên cội nguồn dân tộc “Hằng
năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. 4000 năm lịch sử đã trở thành thiêng liêng với
những trang sử chói lọi của cha ông “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.” (Bình Ngô đại
cáo-Nguyễn Trãi) và đến nay là “Đất nước bốn nghìn năm/ Vất vả và gian lao/ Đất nước như vì sao/ Cứ đi
lên phía trước” (Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải).
+ Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc cha ông. Cúi
đầu để hướng về lịch sử về những Tổ Hùng Vương đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước
Việt Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu. Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh
của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó chính là Quê cha đất Tổ Vua Hùng.
- Không chỉ tiếp cận hình tượng trong huyền sử, trong hiện thực đời sống, trong mối quan hệ cá nhân –
cộng đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chống Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận
thức và tình cảm :
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
+ Chỉ "một phần" nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm
"mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của đất nước" được diễn đạt một cách "miền hóa" qua tiếng nói
tâm tình của lứa đôi, của "anh và em".
- Quan hệ giữa Đất Nước với mỗi cá nhân, sự hiện hữu những giá trị vĩnh hằng của Đất Nước trong cuộc
sống hàng ngày của mỗi cá nhân, trong cách Sống cách nghĩ, cách ứng xử của con người với con người...
còn được biểu hiện qua hai hình ảnh thật sâu sắc:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
+ Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước “hài hòa nồng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì “vẹn tròn, to lớn”.
Đất nước mang tình yêu lứa đôi, tình đồng đội quê hương và còn là “cốt nhục tình thâm”, Đất Nước là “máu
xương” của ta. Đất nước được nhìn từ cái chung đến cái riêng, cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề
rộng về bề sâu, từ cái hữu hình đến cái vô hình. Một cách sắp xếp tự nhiên, chặt chẽ và đượm lí, đượm tình.
Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình
nghĩa sâu nặng "Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm", mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong
niềm vui và nỗi đau của anh, của em của bao lứa đôi khác.
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nấm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.” (Giang Nam)
- Tiếp nhận những giá trị bền vững, thiêng liêng trong đời sống tinh thần, tình cảm mấy nghìn năm của Đất
Nước, tình yêu lứa đội của anh và em luôn hài hòa, nồng thắm với những thuỷ chung son sắt: Mình về có
nhớ ta chăng - Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời, những nghĩa tình sâu nặng: Em ơi chua ngọt đã từng -
Non xanh nước bạc xin đừng quên nhau, những đằm thắm nồng nàn: Tình anh như nước dâng cao -Tình em
như dải lụa đào tẩm hương...
- Trong quan hệ của cá nhân với cộng đồng, sự vẹn tròn, to lớn của Đất Nước được hiện ra qua những nền
tảng đạo lí khi người dân Việt luôn nhắc nhau về tình thương yêu, đùm bọc: Nhiễu điều phủ lấy giá gương -
Người trong một nước phải thương nhau cùng, luôn dặn nhau Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây...; Đất Nước luôn lớn lao, thiêng liêng trong những lời dạy thiết tha mà nghiêm khắc về mối quan hệ
giữa tình yêu cá nhân với số phận cộng đồng qua truyền thuyết Mị Châu Trọng Thuỷ... Chỉ khi nào "Ba cây
chụm lại nên hòn núi cao", và chỉ khi nào "lá lành đùm lá rách", "Người trong một nước phải thương nhau
cùng" thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liẻng "Đất Nước vẹn tròn, to lớn".
=> Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: "Khi hai đứa cầm tay"... "Khi chúng ta
cầm tay mọi người", "Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm"... "Đất Nước vẹn tròn, to lởn". Cách
diễn đạt uyển chuyển , sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội
dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch hài hòa, gắn bó, thể hiện
rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc gia đình tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết
dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thông "yêu nước, yêu nhà, yêu người" và đó là sức mạnh
Việt Nam.
- Đất Nước "nguồn thiêng ông cha", Đất Nước "Trong anh và em hôm nay". Đất Nước trong mai sau. Như
một nhắn nhủ, như một kì vọng sáng ngời niềm tin:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
+ Những Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam... đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong
thơ ca và truyện của mình. Ngay Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải cũng có một giọng điệu "rất
Huế", dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng "mai này" là cách nói của bà con xứ Huế.
+ Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước ông cha "Gánh vác phần người đi trước để lại" xây dựng đất nước
ta "Vạn cổ thử giang sơn" (Trần Quang Khải), "To đẹp hơn, đàng hoàng hơn" (Hồ Chí Minh). Hai chữ "lớn
lên" biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng.
"Mơ mộng" nghĩa là rất đẹp ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh.
Điều mà "anh và em", mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực "mai này" gần.
- Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà
thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”
+ "Em ơi em" - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng
khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: "Đất Nước là máu xương của mình".
+ Đất Nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, là mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha,
là của dân tộc ngàn đời. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi nó có ý nghĩa biểu
trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự
sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Vì thế nên Trần Vàng Sao đã viết:
“Nuôi lớn người tù ngày mở đất,
Bốn ngàn năm năm gai nếm mật
Một tấc lòng củng đẩy hồn Thánh Gióng.” (Bài thơ của một người yêu nước mình 19/12/1967)
+ Với Nguyễn Khoa Điềm thì "gắn bó", "san sẻ", "hóa thân" là những biêu hiện của tình yêu nước, là ý
thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. "Phải biết gắn bó và san sẻ... Phải biết hóa thân..." thì mới có thể
"Làm nên Đất Nước muôn dời".
+ Điệp ngữ "phải biết" như một mệnh lệnh phát ra từ con tim làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có
biết trường ca Mặt dường khát vọng ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mĩ
thì mới cảm nhận được các từ ngữ: "gắn bó", "san sẻ", "hóa thân" là tiếng nói tâm huyết "mang sức manh ý
chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ" như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.
+ Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ sự gắn bó ấy mới có thể san sẻ. San sẻ trách
nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống.
Thực thể ấy không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hoá thân cũng có
nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổquốc. Thời chiến, người ta dâng
hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc hoá thân. Bóng dáng mỗi
người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hoá thân kia làm sao đất nước trường
tồn, làm sao có được đất nước muôn đời.
2. Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân
a. Ai làm nên Đất Nước
- Nổi bật là tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân và Nhân Dân đã làm nên Đất Nước. Để đi đến tư tưởng đó,
tác giả lại một lần nữa soi ngắm thật kĩ thật sâu vào các tầng lớp địa lí, lịch sử và văn hóa của Đất Nước.
- Khi nói về chiều rộng của không gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên trên
một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của mảnh đất hình chữ S, ông
hiểu từng đại danh và vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất NướcNhững núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích như “núi vọng phu”, hay “hòn Trống Mái”.
+ Một lần nữa tác giả như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích
thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó là truyền thống yêu nước của nhân dân ta.
+ Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ đều chia ra
hai phần và liên kết với nhau bằng điệp từ “góp”.
+ Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo tương quan đối lập. Nửa trước nói
về nhân dân, lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng, xót thương. Trái lại, nửa sau từ
“góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy những sắc màu muôn hình vạn trạng.
+ Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân dân để tạo nên đất nước huy
hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi, đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền
thoại là cuộc đời của những con người.
+ Nhân Dân làm nên đất nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, là những anh hùng, những người
lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút, là ông Đốc, ông Trang, bà
Đen, bà Điểm...
+ Hơn thế nữa, Nhân Dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc,
con gà.. Trong nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng
mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” phúc
quanh núi Hy Cương hay “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”.
+ Nhân Dân ta đa dạng là thế, đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung
lòng để xây dựng nên đất nước Việt Nam ta.
+ Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm
người chung một việc: góp phần kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức,
góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta
mới có được một đất nước hữu hình – đất nước của những anh hùng.
+ Nguyễn Khoa Điềm có nhắc đến những địa danh không tên. Có người đã từng nói “đất hoang là đất
không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh là vô cùng quan trọng, không thể làm tùy tiện. Có không ít
những địa danh đã soi bóng trong thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi núi sông hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.
+ Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đi theo hướng đó, ông lại diễn tả sự sinh sôi của các địa danh đó vì ở
đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, có linh hồn của nhân dân. Đây là
kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của Nhân Dân.
- Từ những phát hiện rất mới mẻ và độc đáo này, tác giả đã đi đến một khái quát sâu sắc và xúc động:
“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
+ Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn nghìn lớp cha ông
đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập
dân tộc. Kết thúc đọan thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...” bởi có
sự chuyển đổi.
+ Những câu thơ trước đó mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ
vỏn vẹn trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh
đó, nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào âm hưởng. Dấu ba
chấm kết thúc đoạn thơ như một phút lặng của long người trước những xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn
tượng nhất là câu thơ thật hàm súc.
+ Cuộc đời của những con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, gởi những
cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi phi thường khẳng định nhân ta thật kỳ
diệu! Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên linh hồn Đất Nước.
- Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử. Như chúng
ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới triều Lê, ông là một nhà
chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của các triều đại, của
các đời vua:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
- Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính thống.
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
- Nếu như Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn
Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn
năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra
trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức
của người dân Việt Nam.
“ Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi”
+ Sự lặp lại bộn bề của ngôn từ với người người lớp lớp...con gái con trai... có biết bao người... bốn nghìn
lớp người... đã đem đến ấn tượng về sự đông đảo vô cùng của Nhân Dân. Mỗi lớp người là một thế hệ có biết
bao người con gái con trai, bốn nghìn lớp người cũng là bốn nghìn thế hệ với vô vàn những người con gái
con trai, tất cả đều đã từng bằng tuổi chúng ta, đều đẹp đẽ và trẻ trung, đều cần cù và dũng cảm, nối tiếp
nhau hết thời này đến thời khắc cần cù làm lụng trong thời bình để dựng xây Đất Nước, ra trận và trở
thành anh hùng khi Đất Nước có ngoại xâm để bảo vệ Đất Nước.
- Cả đoạn thơ không hề có một tên riêng, chỉ có con trai, con gái, họ, không có tên một triều đại dù là hoàng
kim, cũng không nhắc đến những anh hùng dù là cả anh và em đều nhớ... Phải chăng vì các triều đại oanh
liệt, các anh hùng lẫy lừng tên tuổi đã được Tổ quốc lưu danh trong sử sách, được lòng dân muôn đời nhớ
ơn, thờ phụng, và dù sao, con số các triều đại, các anh hùng cũng là hữu hạn; còn sự đóng góp của Nhân
Dân, của biết bao người con gái con trai trong suốt bốn nghìn năm Đất Nước, những con người đã cần cù
làm lụng dụng xây Đất Nước hoặc ra trận đánh giặc chiến đấu bảo vệ Đất Nước thì vô danh và vô hạn,
thầm lặng và lớn lao, họ đã lặng lẽ hiến dâng từ mồ hôi, xương máu, từ tâm hồn, trí tuệ cho đến cả tuổi
xuân và hạnh phúc lứa đôi để làm nên Đất Nước.
- Nốt nhấn của khúc ca ca ngợi nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
+ Họ là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều, không mang tính chất xác định, và trong đoạn thơ này,
theo cách nhìn nhận của Nguyễn Khoa Điềm, đó là biết bao người con gái con trai – Trong bốn nghìn lớp
người giống ta lửa tuổi, đó là Nhân Dân, những lớp người thầm lặng, vô danh, lớn lao, đông đảo.
+ Câu thơ đặt họ trước hai bình diện của sống và chết, nhưng điều kì lạ là hai thái cực này lại không tạo ra
cảm giác đối lập, cũng không đưa đến cảm giác ảm đạm về cái chết – nó chỉ gợi những dạng thái của tồn tại
và tiếp nối, gợi sự trôi chảy miên viễn của thời gian khi những thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau sinh ra
và lớn lên, yêu nhau và sinh con đẻ cái, tạo ra dòng chảy vĩnh cửu của sự sống.
+ Đem đến cảm giác này trước hết do sự nhịp nhàng, yên ả và bình lặng khi các nhịp thơ 3/2 - 23 nối tiếp
luân chuyển trong hai câu đầu; sau đó là do tính chất phiếm chỉ của đại từ họ, đó không phải là một người,
một thế hệ, đó là Nhân Dân, là quá khứ, hiện tại và tương lai của cha ông xưa, của chúng ta hôm nay, của
con cháu muôn đời sau...
+ Câu thơ tiếp theo xác định hai đặc điểm của Nhân Dân trong cách sống giản dị, trong cách nghĩ bình
tâm. Họ cứ thuần phác đơn sơ, cần cù làm lụng sau những luỹ tre làng, gắn bó thân yêu với ruộng đồng gò
bãi, từ đời này sang đời khác cui cút làm ăn toan lo nghèo khổ (Nguyễn Đình Chiểu), khi đất nước có giặc,
họ là những người đầu tiên ra trận, chiến đấu bảo vệ Đất Nước, khi hết giặc, súng gươm vứt bỏ lại hiền như
xưa, họ trở về với cuộc sống đời thường, bình tâm, thanh thản, không đòi hỏi, không yêu cầu, yêu sách, cứ
lặng lẽ gánh vác phần người đi trước để lại – dặn dò con cháu chuyện mai sau khiến cho sự sống và cái chết
của họ bình thản nối tiếp trong dòng chảy vĩnh hằng của thời gian.
+ Lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước được viết bằng mồ hôi, nước mắt, máu xương của những con người ấy,
nhưng lịch sử không biết họ là ai, cũng vì họ quá đông đảo và luôn luôn thầm lặng. Họ có thể là những nông
dân tần tảo lam lũ với hạt gạo một nắng hai sương xay giã giần sàng, là những người phụ nữ kiên cường
gánh trên vai bao cuộc chiến tranh,... khi tiến người con trai ra trận, họ trở về nuôi cái cùng con, vò võ cô
đơn suốt tuổi thanh xuân, để sống núi “Không hóa thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ” (Chế Lan Viên).
Họ có thể là những người nông dân nghĩa sĩ: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ
bình…” (Nguyễn Đình Chiểu), là những người con trai đã dặn lòng bỏ lại sau lưng gia đình, quê hương và
những người thân yêu để gian nhà không mặc kệ gió lung lay, để giếng nước gốc đa nhớ nhung xao
xuyến...; là những người đã nhất quyết ra đi đầu không ngoảnh lại, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; để rồi
biết bao Người lính, mùa thu ấy, ra đi từ đó không về, và họ cũng có thể là người lính trên đường hành quân
qua miền Tây năm ấy:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời. “
+ Tất cả họ đều vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên ...” nhưng họ đã làm ra Đất Nước. Không một dòng địa
chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con người ấy vẫn nguyện ra đi để bảo vệ
đất đai xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
- Đặt trong một sự so sánh, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một sự khác biệt đối với những nhà thơ cùng thời
khi viết về Đất Nước. Đối với ông, chủ nhân của Đất Nước là những người dân nhỏ bé, bình thường, giản dị,
vô danh.
b. Công lao của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước
- Sự anh dũng của ông cha ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm đã khiến họ trở thành những người anh
hùng lưu danh sử sách, thế nhưng bên cạnh những con người hữu danh thì người ta thấy nhiều hơn là những
con người vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên”. Dù không ai nhớ mặt đặt tên, thế nhưng những thế hệ sau
vẫn luôn trân trọng, yêu quý bởi họ chính là người làm ra Đất Nước.
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”
- Chủ ngữ của các câu thơ là đại từ họ, nếu phép điệp đem đến cảm giác về sự đông đảo, tính chất không
xác định gợi sự vô danh thì vai trò chủ ngữ, chủ thể của những hành động đã khẳng định công lao to lớn
của Nhân Dân với Đất Nước. Cặp động từ giữ... truyền hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ đã khẳng định sứ
mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước, đó là gánh vác việc
thế hệ đi trước giao phó, giữ gìn, duy trì phát triển để rồi dặn dò, uỷ thác, truyền lại cho những thế hệ con
cháu tiếp nối.
- Sau những động từ giữ... truyền ... gánh ... đắp ... be ... là những hình ảnh hoặc hữu hình như: hạt lúa ...
lửa ... hòn than ... hoặc vô hình như giọng điệu, tiếng nói, tên xã, tên làng, tất cả đều là những giá trị tinh
thần hoặc vật chất để làm nên Đất Nước và đều gắn bó thân thiết với cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân,
- Tấm lòng của Nhân Dân, công lao khó nhọc của Nhân Dân được khẳng định trong câu thơ đầy xúc động:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Đất Nước Việt Nam nằm trong cái nôi của nền văn minh sông
Hồng, nơi Nhân Dân bao đời nay sống bằng cây lúa nước.
+ Tự thuở đầu lập nước, những người con của Mẹ Âu Cơ đã tìm ra cây lúa, đã một nắng hai sương chăm
chút, nâng nâu, để rồi giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Hạt lúa những hạt ngọc ngà chắt chiu tinh hoa
của trời đất, kết quả của mồ hôi, công sức con người vì thế đã trở thành biểu tượng văn hoá đầy tự hào, trở
thành biểu tượng cho truyền thống lao động cần cù của những người nông dân ngày đến vất vả bản mặt cho
đất, bán lưng cho trời; Hạt lúa cũng là hình ảnh của niềm vui, của cuộc sống ấm no khi “Mồ hôi mà đổ
xuống đồng - Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi Hương.”
+ Lời dặn của cha ông xưa về việc đừng đổ thóc giống ra ăn cho thấy sự thiêng liêng, quan trọng trong
việc giữ gìn và truyền lại hạt lúa cho mùa sau, đời sau, đó là truyền lại sự sinh tồn và phát triển đối với một
dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời, đó cũng là việc truyền lại tình yêu và niềm hi vọng về sự sống.
- Nhân Dân còn chuyền lửa qua nỗi nhà, từ hòn than qua con cái. Lửa là hình ảnh của một quá khứ xa xăm
khi có người bắt đầu tìm đến ánh sáng văn minh, khi với việc tìm ra lửa, loài người thực sự tách ra khỏi thế
giới nguyên thuỷ tăm tối, dã man. Chính ngọn lửa đã duy trì sự sống, sự tồn tại cho nhân loại.
+ Nhắc tới lửa là nhắc tới cuộc sống thịnh vượng, sum vầy và cảm giác ấm áp, chở che, Bên những những
bếp lửa ấp iu nồng đượm (Bằng Việt), gia đình, cộng đồng quây quần đầm ấm, gắn bó, yêu thương. Từ ngàn
xưa, qua những viên than ấp ủ, những con cái bện bằng rơm, người Việt đã truyền lửa cho nhau trong
những không gian thẩm đượm tình làng nghĩa xóm, trong những khi tối lửa tắt đèn...
+ Lửa cũng đồng thời gợi đến những cuộc chiến tranh màu lửa để từ đó Đất Nước rũ bùn đứng dậy sáng
lòa (Nguyễn Đình Thi); ý thơ cùng gợi liên tưởng đến những người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa
với hoả mai đánh bằng rơm con cúi..., trong sự liên tưởng ấy, ngọn lửa chính là biểu tượng của lòng yêu
nước, căm thù giặc và ý chí bất khuất kiên cường đánh giặc ngoại xâm.
+ Trong sự gắn bó với cuộc sống sinh hoạt, lao động và chiến đấu của Nhân Dân, hình ảnh ngọn lửa khi
bình dị, thân yêu, nồng ấm, khi rực rỡ, kì vĩ, lớn lao. Từ đó có thể thấy, chuyền lửa qua mỗi nhà vừa là hình
ảnh cụ thể của tình làng nghĩa xóm khi tắt lửa tối đèn, là trao gửi sự sống ấm áp trong những không gian
làng xã Việt bằng hòn than qua con củi như thuở xa xưa, là truyền lại sự sống trường tồn cho bốn nghìn
năm Đất Nước mà cũng là truyền lại những tình cảm, những phẩm chất đẹp đẽ, lớn lao, truyền lại bầu nhiệt
huyết để Nhân Dân nối tiếp nhau dựng nước và giữ nước.
- Hai câu thơ tiếp theo lại nói về công lao của Nhân Dân trong việc tạo lập và giữ gìn truyền thống văn hoá,
tinh thần của Đất Nước. Nhân Dân đã truyền giọng điệu mình cho con tập nói.
+ Tiếng nói là của cải tinh thần vô giá, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của một cộng đồng xã hội,
là một giá trị văn hoá phi vật thể góp phần làm nên bản sắc văn hoá của một dân tộc.
+ Tiếng nói ấy trường tồn và phát triển cùng Đất Nước bất chấp hàng ngàn năm Bắc thuộc, hàng trăm
năm Pháp thuộc và bao nhiêu cuộc chiến tranh, bất chấp tất cả những âm mưu đồng hoá của mọi kẻ thù
xâm lược.
+ Đó là nhờ công sức và tấm lòng của Nhân Dân từ bao đời nay, qua những lời ru ngọt ngào của bà, của
mẹ, qua những lời ca câu ví dân gian, qua sự trong trẻo, thâm trầm của thế giới thần thoại, cổ tích..., Nhân
Dân đã truyền lại cho con cháu không chỉ những tình cảm thắm thiết ân tình, những bài học đạo lí, những
kinh nghiệm sâu sắc trí tuệ mà còn cả giọng điệu, tiếng nói, ngôn ngữ của dân tộc.
- Nhân Dân còn trân trọng giữ gìn cả những địa danh thân thuộc của từng |vùng miền quê hương đất nước:
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân.
+ Trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân, trong sự vận động và phát triển của lịch sử Đất Nước, có thể
có những sự thay đổi nơi cư trú vì chiến tranh, vì cuộc sống hoặc để hưởng ứng những chủ trương chính
sách của nhà nước đưa Nhân Dân đi khai khẩn đất hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới.
+ Hành trang người dân mang theo trong những chuyến di dân không chỉ là đồ đạc, lương thực, bên cạnh
những giá trị vật chất còn là những giá trị tinh thần thiêng liêng, quý giá. Nghệ thuật ẩn dụ trong câu thơ
qua động từ gánh đã khiến những khái niệm trừu tượng như tên xã tên làng bỗng trở nên cụ thể và trĩu
nặng.
+ Đó không đơn thuần chỉ là địa danh, tên xã tên làng là hình ảnh của những làng xã Việt, gợi đến những
phong tục tập quán, những đình chùa lễ hội, những giếng nước gốc đa thấm đẫm bao kỉ niệm yêu thương...
Những cái tên được mang theo trong mỗi chuyến di dân – vì thế mà trĩu nặng tình yêu và nỗi nhớ, nhất là
sự thiêng liêng ấm áp của nơi cắt rốn chôn rau.
+ Người dân mang theo những tên xã tên làng thân thuộc đặt cho vùng đất mới vừa để làm dịu với phần
nào nỗi nhớ quê hương của thế hệ này, vừa để khắc sâu nỗi nhớ của những thế hệ sau về cội nguồn quê cha
đất tổ, về những truyền thống văn hoá, những thuần phong mỹ tục của quê hương ban quản.
- Nhân Dân còn xây dựng những nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp:
“Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
+ Nghĩa của những cụm động từ đắp đập, be bờ gợi lên sự vun vén cho đầy đặn hơn, vững chắc hơn, đây là
hình ảnh thể hiện sự chăm chút ân cần của những người đi trước với con cháu đời sau. Nhân Dân kiên nhẫn,
bền bỉ đắp đập be bờ cho các thế hệ sau yên tâm trồng cây hái trái.
+ Sự khác nhau giữa hai cụm động từ ở đầu và cuối câu thơ về cả thời gian (đời trước - đời sau), và tính
chất công việc chuẩn bị – hưởng thụ) đã cho thấy đức hi sinh lớn lao, cao thượng của những người đi trước.
+ Họ vất vả lo lắng làm lụng nhưng có thể chẳng được hưởng thành quả lao động của mình, cây và trái hầu
như chỉ dành cho đời sau, nhưng họ vẫn bình tâm thanh thản, mãn nguyện trong niềm hy vọng con cháu
được hưởng phúc, được sung sướng, ấm no từ sự chuẩn bị chu đáo, trìu mến của mình.
- Khi Đất Nước có chiến tranh, Nhân Dân lại là những người xông pha nơi hòn tên mũi đạn, dũng cảm chiến
đấu, sân sang hi sinh để bảo vệ sự bình yên cho Đất Nước:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
+ Cấu trúc hô ứng: cỏ, thì điệp lại liên tiếp trong hai dòng thơ cùng một loạt những động từ mạnh; chồng...,
vùng lên, đánh bại... khiến giọng điệu thơ rắn rồi, đanh thép, cho thấy tinh thần tự nguyện cao độ của Nhân
Dân trong sự nghiệp giữ nước.
+ Trong những cuộc chiến tranh vệ quốc, Nhân Dân đã không hề toan tính, ngại ngần, không yêu cầu, yêu
sách, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì Đất Nước, cũng là để bảo vệ những giá trị tinh thần và vật chất quý
giá do thế hệ trước để lại, do họ vất vả gánh vác, giữ gìn, tạo dựng và truyền lại cho đời sau. Đó là những
giá trị thiêng liêng thấm đẫm mồ hôi, nước mắt, máu xương của biết bao nhiêu thế hệ mà Nhân Dân không
cho phép bất cứ kẻ thù nào xâm phạm, huỷ hoại.
- Đoạn thơ đã cho thấy công lao vĩ đại của Nhân Dân đối với Đất Nước: họ nối tiếp nhau sáng tạo, giữ gìn,
phát triển và truyền lại cho các thế hệ mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của
Đất Nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói đến tên xã tên làng, tục ngữ, ca dao. Mỗi thành quả của Đất Nước
ngày hôm nay đều là kết tinh, thừa hưởng, tiếp nối quá trình lao động sáng tạo cần cù, bền bỉ của Nhân
Dân. Bất chấp những gian khó nhọc nhắn trong lao động dựng xây, những mất mát hy sinh trong những
cuộc chiến tranh máu lửa, suốt bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, Nhân Dân đã giữ gìn hồn thiêng
sông núi, làm nên bản sắc dân tộc, đã nối tiếp nhau viết những trang sử hào hùng bằng sức mạnh của tình
yêu và ý chí bất khuất kiên cường.
- Mạch cảm xúc, suy ngẫm của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt
lõi:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại”
+ Những khái niệm đất nước, nhân dân được viết hoa trang trọng, được lặp lại nhiều lần trong hai câu thơ
đã cho thấy sự gắn bó không thể tách rời giữa Nhân Dân và Đất Nước, cũng là cách để nhà thơ tô đậm ý
nghĩa khẳng định cho tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.
+ Sau những câu thơ khẳng định công lao to lớn của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
câu thơ Để Đất Nước này là đất nước nhân dân tạo ra mối quan hệ nhân quả giữa hai đoạn thơ, nhờ đó, tác
giả đã có thể lý giải sâu sắc và thấm thía hơn tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân Dân qua cách định
danh mang đậm sắc thái sở hữu thiêng liêng: Đất Nước Nhân Dân.
+ Với cụm danh từ Đất Nước Nhân Dân, nhà thơ đã khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bằng
một nguyên nhân giản dị mà sâu sắc: Đất Nước này do Nhân Dân dựng xây và gìn giữ, kiến tạo và bảo vệ,
Đất Nước này tất yếu phải thuộc về Nhân Dân. Câu thơ sau đã lý giải rõ hơn cách định danh cho Đất Nước
ở câu trên.
+ Câu thơ tách thành hai về có tính chất đẳng lập khiến người đọc nhận ra mối quan hệ gắn kết giữa Nhân
Dân ở vế thứ nhất và ca dao thần thoại ở vế thứ hai. Ca dao thần thoại có thể coi là hình ảnh hoán dụ cho
văn hoá dân gian, mà văn hoá dân gian là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh
vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của Nhân Dân, cũng là nơi chia sẻ cảm thông cho những đau thương, bất hạnh
của Nhân Dân.
+ Văn học dân gian do Nhân Dân sáng tạo nên và phản ánh cuộc sống Nhân Dân, cho nên, đến với văn
học dân gian cũng là đến với Nhân Dân. Sự tương đồng ấy cho phép nhà thơ lí giải tư tưởng của mình một
cách thấm thía và xúc động: Đất Nước của Nhân Dân vì Đất Nước được tạo dựng, được giữ gìn, bảo vệ...
bởi tình yêu và nỗi đau của Nhân Dân, bằng nước mắt, mồ hôi, xương máu của vô vàn những con người
thầm lặng, đói nghèo nhưng nghĩa tình trung hậu, của những số phận bất hạnh khổ đau mà dũng cảm biến
cường, đó là những nội dung đã được chính Nhân Dân phản ánh một cách chân thực và cảm động trong ca
dao thần thoại, trong văn học dân gian, trong ca dao thần thoại.
- Qua ca dao thần thoại, Nhân Dân đã đem đến cho chúng ta những bài học đạo lý, dạy chúng ta biết yêu
thương, biết trân trọng công sức nghĩa tình, biết căm ghét cái xấu, cái ác, biết kiên nhẫn phục thù – biết
cách làm người:
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cảm vững những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gây
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.
Ca dao thần thoại còn ngân nga trong lời hát ca về Đất Nước
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên thành câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...”
+ Có lẽ tứ thơ xuất phát từ cảm hứng về những âm thanh ngọt ngào của những điệu hò mái nhì mới đây
trên sông Hương xứ Huế, âm thanh tha thiết của những điệu hò ví dặm sông Lam, âm thanh hào trang trẻ
trung trong những tiếng hồ của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác trên dòng sông khúc thượng
nguồn Tây Bắc... - đó là những tiếng hát được truyền từ đời này sang đời khác, thể hiện tình yêu với cuộc
sống lao động, tình yêu với quê hương Đất Nước, thể hiện tinh thần lạc quan tươi trẻ của những người lao
động - và tình yêu ấy chính là cội nguồn sâu xa nhất của mọi phẩm chất đã giúp Nhân Dân dựng nước và
giữ nước. Có một câu cá đã hình dung Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bầu... - mọi dòng sông dù có nguồn
cội từ đầu nhưng khi về Đất Nước mình thì bắt lên thành câu hát, tới với Đất Nước của những tấm lòng
nhân hậu, của những tâm hồn lãng mạn, trẻ trung thì văn xuôi cũng hoá thành thơ, lời nói đời thường cũng
ngân nga thành câu hát.
+ Tứ thơ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm giúp người đọc nhận rõ hơn tư tưởng chủ đạo của bài thơ: Đất
Nước của Nhân Dân, Nhân Dân làm nên Đất Nước - Nhân Dân không chỉ lao động dựng xây, không chỉ
chiến đấu để giữ gìn và bảo vệ Đất Nước, chính Nhân Dân với tình yêu và những khát vọng mãnh liệt, với
trái tim luôn tràn đầy sự lạc quan tươi trẻ đã đem đến vẻ đẹp lãng mạn say người cho Đất Nước trên trăm
dáng sông xuôi...

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 
Thuyết trình chí phèo
Thuyết trình chí phèoThuyết trình chí phèo
Thuyết trình chí phèoboclichXidi
 
Cai dep trong nghe thuat
Cai dep trong nghe thuatCai dep trong nghe thuat
Cai dep trong nghe thuatDoKo.VN Channel
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơlongvanhien
 
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptx
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptxAI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptx
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptxHunhNamKhnhV1
 
TÁC-GIẢ-TỐ-HỮU.pptx
TÁC-GIẢ-TỐ-HỮU.pptxTÁC-GIẢ-TỐ-HỮU.pptx
TÁC-GIẢ-TỐ-HỮU.pptxBNgcKiuL
 
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộVùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộHoàng Mai
 
Tây tiến
Tây tiếnTây tiến
Tây tiếnVan Tu
 
TS. BÙI QUANG XUÂN I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
TS. BÙI QUANG XUÂN               I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAMTS. BÙI QUANG XUÂN               I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
TS. BÙI QUANG XUÂN I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAMBùi Quang Xuân
 

Mais procurados (20)

NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
Thuyết trình chí phèo
Thuyết trình chí phèoThuyết trình chí phèo
Thuyết trình chí phèo
 
Hình tượng người phụ nữ trong tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh
Hình tượng người phụ nữ trong tranh lụa của Nguyễn Phan ChánhHình tượng người phụ nữ trong tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh
Hình tượng người phụ nữ trong tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh
 
Cai dep trong nghe thuat
Cai dep trong nghe thuatCai dep trong nghe thuat
Cai dep trong nghe thuat
 
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
 
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
 
Toi yeu em
Toi yeu emToi yeu em
Toi yeu em
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
 
MÂU PP NGUYỄN DU.pptx
MÂU PP NGUYỄN DU.pptxMÂU PP NGUYỄN DU.pptx
MÂU PP NGUYỄN DU.pptx
 
VIỆT BẮC
VIỆT BẮCVIỆT BẮC
VIỆT BẮC
 
Đề tài: Dàn dựng làn điệu hát Then dân ca Tày tại trường sư phạm
Đề tài: Dàn dựng làn điệu hát Then dân ca Tày tại trường sư phạmĐề tài: Dàn dựng làn điệu hát Then dân ca Tày tại trường sư phạm
Đề tài: Dàn dựng làn điệu hát Then dân ca Tày tại trường sư phạm
 
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptx
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptxAI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptx
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptx
 
Luận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAY
Luận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAYLuận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAY
Luận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAY
 
TÁC-GIẢ-TỐ-HỮU.pptx
TÁC-GIẢ-TỐ-HỮU.pptxTÁC-GIẢ-TỐ-HỮU.pptx
TÁC-GIẢ-TỐ-HỮU.pptx
 
Bài mẫu Luận văn thạc sĩ ngành Mỹ Thuật, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn thạc sĩ ngành Mỹ Thuật, 9 ĐIỂMBài mẫu Luận văn thạc sĩ ngành Mỹ Thuật, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn thạc sĩ ngành Mỹ Thuật, 9 ĐIỂM
 
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộVùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
 
Tây tiến
Tây tiếnTây tiến
Tây tiến
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
TS. BÙI QUANG XUÂN I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
TS. BÙI QUANG XUÂN               I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAMTS. BÙI QUANG XUÂN               I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
TS. BÙI QUANG XUÂN I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 

Semelhante a Đất Nước.pdf

Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016
Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016
Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016nataliej4
 
4. BÀI GIẢNG NÓI VỚI CON.pptx
4. BÀI GIẢNG NÓI VỚI CON.pptx4. BÀI GIẢNG NÓI VỚI CON.pptx
4. BÀI GIẢNG NÓI VỚI CON.pptxThuThyL15
 
80 de nghi luan van hoc chon loc co loi giai chi tiet
80 de nghi luan van hoc chon loc co loi giai chi tiet 80 de nghi luan van hoc chon loc co loi giai chi tiet
80 de nghi luan van hoc chon loc co loi giai chi tiet onthi360
 
Tổng hợp thư UPU Việt Nam và Quốc tế qua các năm
Tổng hợp thư UPU Việt Nam và Quốc tế qua các nămTổng hợp thư UPU Việt Nam và Quốc tế qua các năm
Tổng hợp thư UPU Việt Nam và Quốc tế qua các nămNgoc Gia Han Nguyen
 
Biểu cảm về cây tre việt nam - vanmau.net
Biểu cảm về cây tre việt nam - vanmau.netBiểu cảm về cây tre việt nam - vanmau.net
Biểu cảm về cây tre việt nam - vanmau.netThùy Linh
 
Hồ Chí Minh đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng việt nam.pdf
Hồ Chí Minh đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng việt nam.pdfHồ Chí Minh đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng việt nam.pdf
Hồ Chí Minh đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng việt nam.pdfMan_Ebook
 
Trường ca ký sự stdpk
Trường ca ký sự stdpkTrường ca ký sự stdpk
Trường ca ký sự stdpklangsontung
 
Vet cho con trai
Vet cho con traiVet cho con trai
Vet cho con traiHung Duong
 
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.comý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.OrgKỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.OrgDailyf5.com
 
[Sách] 1001 câu chuyện cảm động 3
[Sách] 1001 câu chuyện cảm động 3[Sách] 1001 câu chuyện cảm động 3
[Sách] 1001 câu chuyện cảm động 3Đặng Phương Nam
 
Noi san thang3.2016
Noi san thang3.2016    Noi san thang3.2016
Noi san thang3.2016 Banmaischool
 
Cái đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt 270786.pdf
Cái đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt 270786.pdfCái đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt 270786.pdf
Cái đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt 270786.pdfNuioKila
 
Giới thiệu chương trình Đêm trắng cầu Long Biên - Tháng 4/2014
Giới thiệu chương trình Đêm trắng cầu Long Biên - Tháng 4/2014Giới thiệu chương trình Đêm trắng cầu Long Biên - Tháng 4/2014
Giới thiệu chương trình Đêm trắng cầu Long Biên - Tháng 4/2014toixedich
 
Suoi nguon yeu thuong
Suoi nguon yeu thuongSuoi nguon yeu thuong
Suoi nguon yeu thuongHung Duong
 
Thơ nhật ký đường đời tập 2
Thơ nhật ký đường đời tập 2Thơ nhật ký đường đời tập 2
Thơ nhật ký đường đời tập 2Thi đàn Việt Nam
 

Semelhante a Đất Nước.pdf (20)

Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016
Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016
Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016
 
Ca dao dân ca
Ca dao dân caCa dao dân ca
Ca dao dân ca
 
4. BÀI GIẢNG NÓI VỚI CON.pptx
4. BÀI GIẢNG NÓI VỚI CON.pptx4. BÀI GIẢNG NÓI VỚI CON.pptx
4. BÀI GIẢNG NÓI VỚI CON.pptx
 
80 de nghi luan van hoc chon loc co loi giai chi tiet
80 de nghi luan van hoc chon loc co loi giai chi tiet 80 de nghi luan van hoc chon loc co loi giai chi tiet
80 de nghi luan van hoc chon loc co loi giai chi tiet
 
Lễ hội đền hùng trong đời sống tâm linh người việt.docx
Lễ hội đền hùng trong đời sống tâm linh người việt.docxLễ hội đền hùng trong đời sống tâm linh người việt.docx
Lễ hội đền hùng trong đời sống tâm linh người việt.docx
 
Thư gửi Mẹ
Thư gửi MẹThư gửi Mẹ
Thư gửi Mẹ
 
Tổng hợp thư UPU Việt Nam và Quốc tế qua các năm
Tổng hợp thư UPU Việt Nam và Quốc tế qua các nămTổng hợp thư UPU Việt Nam và Quốc tế qua các năm
Tổng hợp thư UPU Việt Nam và Quốc tế qua các năm
 
Biểu cảm về cây tre việt nam - vanmau.net
Biểu cảm về cây tre việt nam - vanmau.netBiểu cảm về cây tre việt nam - vanmau.net
Biểu cảm về cây tre việt nam - vanmau.net
 
Hồ Chí Minh đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng việt nam.pdf
Hồ Chí Minh đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng việt nam.pdfHồ Chí Minh đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng việt nam.pdf
Hồ Chí Minh đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng việt nam.pdf
 
Trường ca ký sự stdpk
Trường ca ký sự stdpkTrường ca ký sự stdpk
Trường ca ký sự stdpk
 
Vet cho con trai
Vet cho con traiVet cho con trai
Vet cho con trai
 
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.comý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
 
Xóm Bến
Xóm BếnXóm Bến
Xóm Bến
 
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.OrgKỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
 
[Sách] 1001 câu chuyện cảm động 3
[Sách] 1001 câu chuyện cảm động 3[Sách] 1001 câu chuyện cảm động 3
[Sách] 1001 câu chuyện cảm động 3
 
Noi san thang3.2016
Noi san thang3.2016    Noi san thang3.2016
Noi san thang3.2016
 
Cái đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt 270786.pdf
Cái đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt 270786.pdfCái đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt 270786.pdf
Cái đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt 270786.pdf
 
Giới thiệu chương trình Đêm trắng cầu Long Biên - Tháng 4/2014
Giới thiệu chương trình Đêm trắng cầu Long Biên - Tháng 4/2014Giới thiệu chương trình Đêm trắng cầu Long Biên - Tháng 4/2014
Giới thiệu chương trình Đêm trắng cầu Long Biên - Tháng 4/2014
 
Suoi nguon yeu thuong
Suoi nguon yeu thuongSuoi nguon yeu thuong
Suoi nguon yeu thuong
 
Thơ nhật ký đường đời tập 2
Thơ nhật ký đường đời tập 2Thơ nhật ký đường đời tập 2
Thơ nhật ký đường đời tập 2
 

Último

1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Último (20)

1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 

Đất Nước.pdf

  • 1. ĐẤT NƯỚC ~ NGUYỄN KHOA ĐIỀM ~ 1. Cảm nhận chung về Đất Nước a. Đất Nước có từ bao giờ - Đi từ một thi đề quen thuộc của thơ ca nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một sắc diện mới cho đề tài Đất Nước. Trong cội nguồn của Đất Nước thấp thoáng bóng hình của bà, của mẹ, của cha, của không gian làng xã, gia đình với những hình ảnh thân quen bình dị. Thế nên, Đất Nước đã hình thành cùng với sự sinh tồn của con người trong dòng thời gian vô thủy vô chung. Những câu thơ mở đầu mang đến cho ta niềm tự hào về lịch sử lâu đời của đất nước đồng thời nó cũng mang đến cảm giác thật ấm áp khi thức ngộ trong ta một điều: tất cả chúng ta đều được sinh thành trong một cái nôi chung, đó là là cộng đồng Đất Nước. - Tùy theo từng thời kì lịch sử, Đất Nước được định nghĩa theo những cách quan niệm khác nhau, đất nước có thể thiêng liêng khi đó là nơi Nam đế cư, đất nước có thể hiện ra trong những khái niệm trừu tượng như trong đoạn đầu của Bình Ngô đại cáo thế kỉ XV với nền văn hiến đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác.... Văn học hiện đại cũng thường tạo ra một khoảng cách sử thi thiêng liêng, tôn kính để chiêm ngưỡng Đất Nước thông qua những hình ảnh kì vĩ, tráng lệ, mang đậm tính biểu tượng, Đất Nước có thể huy hoàng khi Rũ bùn đứng dậy sáng lòa, Đất Nước cũng có thể đẹp lung linh, kì ảo, xa vời trong so sánh: Đất nước như vì sao - Cử đi lên phía trước (Thanh Hải)... - Trong đoạn đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến một cách cảm nhận vừa mới mẻ, vừa thấm thía xúc động về Đất Nước trong mối quan hệ với cuộc sống Nhân Dân, trong đó, những khái niệm trừu tượng, những tiêu chí thiêng liêng định hình nên Đất Nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể và bình dị, quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân. - Câu thơ mở đầu đưa đến một cảm nhận ấm áp về sự hiện hữu của Đất Nước đối với mỗi con người: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi” + Ta là một khái niệm mơ hồ, không xác định, đó có thể là bất cứ người Việt Nam nào, trong bất cứ thời kỳ nào, là chúng ta hôm nay, là con cháu sau này, là cha ông hàng ngàn năm trước..., cứ mỗi người Việt Nam sinh ra là ngay lập tức được bao bọc và nâng niu, được nuôi dưỡng và che chở trong chiếc nôi lớn lao, ấm áp, thân yêu, đó là Đất Nước, Đất Nước luôn có từ trước đó, như từ thuở khai thiên lập địa, đón đợi những con dân Việt. - Sau lời khẳng định tự hào và ấm áp Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi, cảm giác về lịch sử lâu đời của Đất Nước được tô đậm hơn trong sự khám phá: “Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” + Ngày xửa ngày xưa là câu mở đầu quen thuộc trong truyện cổ tích – thế giới cổ tích là thế giới xa xăm vô cùng trong tâm thức con người, vậy mà trong thế giới ấy, Đất Nước của chúng ta đã hiện hữu, tưởng như Từ có vũ trụ - Đã có giang san (Trương Hán Siêu). + Đất Nước như đã có từ thuở hồng hoang trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa của mẹ từ sử thi Đẻ đất đẻ nước, từ Sự tích trăm trứng, truyền thuyết về An dương vương hay Sơn tinh Thuỷ tinh … Mỗi câu
  • 2. chuyện là hình hài dân tộc, là lời dạy bảo, khuyên răn để qua những cái “ngày xửa ngày xưa” con cháu mai sau nhớ về cội nguồn. “Chỉ còn truyện cổ thiết tha Cho tôi nhận mặt ông cha của mình” (Truyện cổ nước mình – Lâm Thị Mỹ Dạ) - Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi đời của Đất Nước, thế nên Đất Nước gắn liền với các cụm từ “có rồi, bắt đầu, lớn lên, có từ ngày đó, …”. Nhà thơ còn nỗ lực hình dung về sự hình thành cũng như quá trình vận động và phát triển của đất nước trong dòng chảy thời gian niên viễn. Nguyễn Khoa Điềm nhận ra ở đó có cả một không gian văn hóa dân gian được ẩn tàng. Thế nên, bắt đầu từ đây mỗi nỗ lực hình dung về Đất Nước đều chứa đựng một vẻ đẹp văn hóa dân gian. “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. + Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi cho người đọc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hình ảnh “miếng trầu” gắn liền với nét đẹp của những người phụ nữ Việt xưa. Từ nét đẹp đó, Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải về sự “bắt đầu” của Đất nước. Trong cúng lễ, “miếng trầu quả cau” biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến những bậc cha ông. “Miếng trầu” còn là biểu tượng của phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách con người Việt Nam xưa và nay. Bên cạnh đó, hình ảnh “miếng trầu”còn gợi lên một huyền sử tình yêu”miếng trầu nên dâu nhà người”. "Miếng trầu có bốn chữ tòng Xin chàng cầm lấy vào trong thăm nhà Nào là chào mẹ chào cha Cậu cô chú bác... mời ra xơi trầu" + Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành của đất nước qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kì nhà thơ nào, đất nước không hề vô tri vô giác mà đất nước có dáng, có hồn, đẹp ngất ngây trong con mắt nghệ thuật. - Đất Nước được sinh ra và nuôi dưỡng trong truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc đó là lối sống nghĩa tình. Đất Nước được hình thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh và trưởng thành nhờ những cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc. “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” + Không cần mượn những câu chuyện xa xôi, không cần tìm những hình ảnh lớn lao, tầm vóc như thơ xưa, Nguyễn Khoa Điềm dùng chất liệu dung dị của đời sống nhưng cũng đậm đà chất suy tưởng. Tre bao đời nay gắn với đời sống nông dân Việt Nam. “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép Mới). Tre lao động, tre anh hùng, tre của những ký ức tuổi thơ không gì thay thế. Và tre xuất hiện trong huyền thoại Tứ bất tử về người anh hùng Thánh Gióng đánh giặc Ân, trở thành bài ca giữ nước hào hùng của nhân dân đã trở thành lịch sử đất nước: “Ta như thuở xưa thần Phù Đổng Vụt lớn lên đánh đuổi giặc n
  • 3. Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt Chí căm thù ta rèn thép làm roi Lửa chiến đấu ta phun vào mặt Lũ sát nhân cướp nước hại nòi” (Tố Hữu) - Nguyễn Khoa Điềm đã đem hình tượng cây tre và Thánh Gióng song hành với nhau. Đó là sự đồng hiện trong cốt cách, phẩm chất của con người Việt Nam như thật thà, chất phát, đôn hậu thuỷ chung, yêu hoà bình nhưng lại vô cùng kiên cường trong chiến đấu. - Đất nước mình đã lớn lên như thế đó, cũng như một sinh thể sống thực sự, trải qua bao biến cố thăng trầm, bao phen nguy nan, “biết bao đời đã chịu nhiều thương đau” thế nhưng cho đến cuối cùng, đất nước mình vẫn vượt qua tất cả, vẫn sừng sững và tồn tại hiên ngang. - Câu chuyện về Đất Nước đâu chỉ dừng lại ở văn hoá dân gian, ở truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, Đất Nước mình còn được viết bằng đời sống sinh hoạt thường ngày, bằng những thói quen hình thành từ lao động. “Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” + Một lần nữa, hình ảnh mẹ lại hiện lên, gợi lên cảm giác thật ấm áp và yêu thương biết mấy, bởi mẹ chính là hiện thân của hơi ấm và tình thương dạt dào, bao la. Câu thơ cất lên như vẽ ra trước mắt người đọc đoạn phim trắng đen ngắn ngủi bên hiên nhà - nơi có mẹ đang ngồi, búi tóc gọn gàng, chỉn chu. Mái tóc mẹ đen huyền, óng ả một màu,mượt mà như dòng suối, từng vòng một được cuộn cẩn thận, búi lên đầu thành mái tóc của người mẹ Việt Nam. Những búi tóc ấy có thể không có trâm cài đính ngọc lấp lánh, nhưng có nhiều hơn thế - có tình yêu, có sự tảo tần, hiền dịu mà mẹ dành cho con. - Cùng với cha, mẹ tạo nên tổ ấm thân thương gọi là nhà, là gia đình, là chốn về mỗi khi bước chân đã mỏi. Cha mẹ thương và sống với nhau không chỉ bằng tình yêu mà còn vì ân nghĩa sâu nặng, gắn kết bền chặt với thời gian. Cũng như gừng bao năm gừng vẫn nguyên vẹn vị cay, thậm chí càng già càng cay, càng đậm mùi vị đặc trưng không đổi; hay như vị muối mặn càng không suy suyển, bao năm vẫn mặn mà như xưa. Nó gợi lên ân tình thuỷ chung giữa người với người:“Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn.” con người ở với nhau càng lâu thì tình cảm càng đong đầy. Ân tình thắm thiết ấy đã đi sâu vào ca dao, như một lời răn dạy về đạo vợ chồng trăm năm như gừng, như muối, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, dẫu hết tình thì vẫn còn chữ “nghĩa” một đời không đổi cũng chẳng thay: “Muối ba năm muối đang còn mặn Gừng chín tháng gừng hãy còn cay Đôi ta nghĩa nặng tình dày Dẫu có xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
  • 4. - Vẫn với lời thơ thủ thỉ, tâm tình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi lên một truyền thống khi đặt tên cho con của dân tộc ta: “ Cái kèo cái cột thành tên” + Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra đời bằng những “kèo” và những “cột”. Tên dẫu thật lạ nhưng mang đầy ý nghĩa và tình yêu khi ẩn sâu bên trong cái tên mộc mạc ấy chính là truyền thống về đặt tên cho con không đẹp - để bảo vệ con, mong cho con một đời bình an, hạnh phúc - từ lâu đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu giữ trọn vẹn lời dạy cổ xưa. + Không những vậy, “cái kèo cái cột” còn là những từ chứng kiến sự phát triển giàu mạnh thêm của ngôn ngữ nước mình - tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong sáng và giàu đẹp, tiếng nói mà toàn thể dân tộc Việt Nam ta đã “quyết đem hết tinh thần và lực lượng, của cải và tính mạng” ra để bảo vệ và gìn giữ, phát triển cho đến ngày hôm nay. Cùng với đó, hình ảnh cái kèo, cái cột còn gợi lên cảm giác thật gần gũi và thân thuộc, dường như trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ nhưng lại rất đầm ấm, tuy giản dị nhưng lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian… - Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ đã khéo lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý nghĩa của dân tộc. Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện, mỗi tập tục lại mang đến một cảm xúc riêng. Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ những tiếng “ngày xửa ngày xưa”, đến miếng trầu têm thật khéo thật thơm, vòng qua lũy tre làng xanh rì rào để về đến nhà nhìn thấy bóng dáng và mái tóc mẹ, lắng tai nghe những cái tên trìu mến, yêu thương và còn ý nhị nhắc về nghĩa tình sâu nặng tựa như gừng và muối của cha và mẹ… Thế nên không có lí do gì mà nhà thơ lại “bỏ quên” mất một truyền thống đã đi cùng cha ông ta từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp nên lớp nền vững chãi cho ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phấp phới tung bay: “ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” + Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần lao, chịu khó, vốn “một nắng hai sương” biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân tộc. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò thẳng cánh bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn. Nhắc đến bông lúa trổ đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những giọt mồ hôi mặn đã rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời. Những hạt ngọc trời ấy đã được làm ra từ đôi tay chai sạn vì nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà. Từ lúc cấy mạ đến ngày trổ bông, lúa gặt về còn phải “xay, giã, giần, sàng”, công phu lắm mới làm nên được một bát cơm thơm dẻo. Chính vì vậy, lúa gạo vốn quý lại càng quý hơn và ta càng thêm thương những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không những cho ta bữa ăn ngọt lành, học còn tiếp nối ngọn lửa truyền thống của ông cha để lại. Câu thơ gợi nhắc đến ca dao: “Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cà Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"
  • 5. - Cuối cùng để khẳng định sự ra đời của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng mốc thời gian vô hình để nói cái hữu hình có trong mỗi con người chúng ta. “Đất Nước có từ ngày đó”. + “Ngày đó” là phép thế cho các mốc thời gian đã nói đến phần trước. Ngày mà bắt đầu từ câu chuyện cổ, hiện hữu trong miếng trầu cau, ngày mà mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau quả ngọt bùi, cay đắng, cũng là ngày con cháu ra đời bằng cái tên dân dã để tiếp bước ông cha nâng niu hạt lúa vàng. “Ngày đó” dù không xác định rõ mốc thời gian nhưng trong tâm thức con người Việt ai cũng rõ đó là ngày chúng ta biết thương nhau, biết trân trọng cuộc sống và biết vì nhau mà sống. - Đặt trong một sự so sánh, các nhà thơ cùng thời nhìn cội ngườn của Đất Nước cùng với những triều đại, anh hùng, chiến công. Trong bài thơ “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng”, Chế Lan Viên từng viết “Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc, Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn, Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc. Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...” “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi ! Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông lô hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca." (Ta đi tới – Tố Hữu) + Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một cái nhìn khác biệt, cội nguồn Đất Nước là Nhân Dân, những con người bình dị. Để khắc sâu về một hình tượng Đất Nước gần gũi mà vẫn thiêng liêng, bình dị mà vẫn sâu xa bền vững thì tác giả đã sử dụng sáng tạo rất nhiều những chất liệu của văn hóa dân gian: tục ăn trầu, búi tóc, kho tàng cổ tích, những câu ca dao chung thủy nghĩa tình. + Tác giả chỉ dẫn ra qua một vài hình ảnh nhưng đã làm sống dậy trong tâm thức người đọc một Đất Nước đời thường gần gũi cũng là Đất Nước của nghìn năm văn hiến, của truyền thống vẻ vang rất đỗi tự hào. Đoạn thơ ngắn nhưng trường liên tưởng lại rất rộng, dồn nén trong đó là trí tuệ, tình cảm, vốn sống phong phú về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. + Với ông Đất Nước không được sinh thành từ những chiến công, không có ánh hào quang của từng triều đại mà hiện lên trong muôn mặt đời thường, trong mối quan hệ gần gũi, ruột rà, thân thuộc. b. Đất Nước là gì? - Tiếp tục mạch trữ tình chính luận, Nguyễn Khoa Điềm đi vào cắt nghĩa để tìm ra câu hỏi “Thế nào là Đất Nước”. Nguyễn Khoa Điềm đã dùng kiểu câu định nghĩa theo lối chiết tự để giải thích. Khi tách riêng thành các thành tố độc lập Đất – Nước; khi lại hợp thành một danh từ “Đất Nước” toàn vẹn, thiêng liêng, to lớn. Nhờ vào đó mà tác giả đã có những định nghĩa đa dạng, phong phú về Đất Nước. Nó được nhìn trong chiều dài của lịch sử, chiều rộng của không gian địa lí, chiều sâu của đời sống văn hóa phong tục từ cha ông.
  • 6. * Phương diện địa lí - Đất Nước không phải là cái gì cao siêu, xa vời mà nó chỉ đơn giản là không gian sinh hoạt gần gũi, quen thuộc với mỗi người, đó là nơi anh đến trường – nơi gi dần những kỉ niệm đầu đời, khi lần đầu tiên bước chân đi học. “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hẹn hò Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” - Xưa kia, viết về Đất Nước các nhà thơ thường gọi nó, họa nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, nay Nguyễn Khoa Điềm gợi về đất nước còn là không gian tình tự, nơi gắn kết tình cảm, nơi khơi nguồn và là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm của người con gái, vậy nên vừa lớn lao mà cũng là mảnh kí ức gợi nhớ gợi thương cho tâm hồn bất cứ ai. + Tách thành tố ĐẤT – để chỉ con đường hằng ngày anh tới trường, là ngôi trường cung cấp hành trang tri thức cho mỗi chúng ta tự tin để làm chủ cuộc sống. Tách thành tố NƯỚC – Là dòng sông nơi em tắm mát, dòng sông chở nặng phù sa làm tốt xanh những cánh đồng, bãi mía, nương dâu. Cách diễn giải ấy giúp ta hình dung cụ thể: Đất Nước là nơi ta lớn lên, học tập và sinh hoạt. + Khi tách ra thì Đất Nước gắn với kỷ niệm riêng tư của mỗi người còn khi gộp lại Đất Nước lại sống trong cái ta chung. “Khi ta hò hẹn”, Đất Nước hòa nhập vào một, trở thành không gian hẹn hò, nâng bước và minh chứng cho tình yêu của hai đứa. Nơi trai gái hẹn hò gợi nên những không gian làng quê thanh bình yên ả: mái đình, hàng cau, lũy tre làng, chiếc cầu tre nho nhỏ… tất cả đều đẹp đều hài hòa và nồng đượm làm sao. + Và khi hai đứa yêu nhau thì Đất Nước như cũng sống trong nỗi nhớ thầm của hai đứa “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” . Câu thơ đậm đà chất dân ca ca dao, đặc trưng của văn hóa Việt xưa xa, gợi nhắc cho ta bài ca dao nổi tiếng: “Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai Khăn chùi nước mắt”. + Chiếc khăn bé nhỏ, giản dị cũng thật đáng yêu và dễ thương làm sao, nó cũng là vật chứng cho tình yêu đôi lứa “Gói một chùm hoa/ Trong chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng/ Sang nhà hàng xóm” (Phan Thị Thanh Nhàn). Nó còn là sự hóa thân cho của người con gái trong tình yêu lứa đôi thật đẹp, thật nồng thắm, da diết.
  • 7. - Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. “Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở” + Câu thơ được lấy ý từ câu hò của người Bình Trị Thiên “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi Bạc Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời Kẻo mai kia con cá về sông vịnh Con chim nọ đổi dời về non xanh” + Đất Nước chính là không gian dài rộng của biển bạc rừng vàng mà ẩn chứa trong đó là những câu chuyện ân tình ân nghĩa. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn. * Phương diện lịch sử - Tác giả cảm nhận Đất Nước không chỉ gắn liền với biên cương, lãnh thổ, địa lý mà Đất Nước còn gắn với lịch sử: đất nước được cảm nhận bằng chiều sâu “thời gian đằng đẵng”. Nguyễn Khoa Điềm với một tình cảm tự hào, ông gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt. Đó là truyền thuyết: “Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” + Câu truyện cổ “Sự tích trăm trứng” đã ra đời từ lâu đời nhằm lý giải nguồn gốc của người Việt. Từ câu truyện ấy dân ta muôn đời ta tự hào mình là con rồng cháu tiên, con cháu Vua Hùng. Cho nên đất nước luôn tiềm tàng mối quan hệ giữa các thế hệ quá khứ, hiện tại và tương lai: “Những ai đã khuất / Những ai bây giờ”.
  • 8. + Những ai đã khuất là những người trong quá khứ - những con người sống giản dị chết bình tâm, những con người đã có công dựng nước và phát triển đất nước. Những ai bây giờ là những người trong hiện tại, đang sống và chiến đấu. Tất cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh “Yêu nhau và sinh con đẻ cái” bảo tồn nòi giống con dân Việt để góp vào một nhiệm vụ to lớn và thiêng liêng “Gánh vác phần người đi trước để lại” . + Tất cả đều ý thức về tổ tiên và nguồn gốc tổ tiên, không bao giờ được quên cội nguồn dân tộc “Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. 4000 năm lịch sử đã trở thành thiêng liêng với những trang sử chói lọi của cha ông “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.” (Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi) và đến nay là “Đất nước bốn nghìn năm/ Vất vả và gian lao/ Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước” (Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải). + Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc cha ông. Cúi đầu để hướng về lịch sử về những Tổ Hùng Vương đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước Việt Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu. Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó chính là Quê cha đất Tổ Vua Hùng. - Không chỉ tiếp cận hình tượng trong huyền sử, trong hiện thực đời sống, trong mối quan hệ cá nhân – cộng đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chống Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm : “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước” + Chỉ "một phần" nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm "mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của đất nước" được diễn đạt một cách "miền hóa" qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của "anh và em". - Quan hệ giữa Đất Nước với mỗi cá nhân, sự hiện hữu những giá trị vĩnh hằng của Đất Nước trong cuộc sống hàng ngày của mỗi cá nhân, trong cách Sống cách nghĩ, cách ứng xử của con người với con người... còn được biểu hiện qua hai hình ảnh thật sâu sắc: “Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn” + Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước “hài hòa nồng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì “vẹn tròn, to lớn”. Đất nước mang tình yêu lứa đôi, tình đồng đội quê hương và còn là “cốt nhục tình thâm”, Đất Nước là “máu xương” của ta. Đất nước được nhìn từ cái chung đến cái riêng, cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề rộng về bề sâu, từ cái hữu hình đến cái vô hình. Một cách sắp xếp tự nhiên, chặt chẽ và đượm lí, đượm tình. Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng "Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm", mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em của bao lứa đôi khác. “Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
  • 9. Có những lần trốn học bị đòn roi Nay yêu quê hương vì trong từng nấm đất Có một phần xương thịt của em tôi.” (Giang Nam) - Tiếp nhận những giá trị bền vững, thiêng liêng trong đời sống tinh thần, tình cảm mấy nghìn năm của Đất Nước, tình yêu lứa đội của anh và em luôn hài hòa, nồng thắm với những thuỷ chung son sắt: Mình về có nhớ ta chăng - Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời, những nghĩa tình sâu nặng: Em ơi chua ngọt đã từng - Non xanh nước bạc xin đừng quên nhau, những đằm thắm nồng nàn: Tình anh như nước dâng cao -Tình em như dải lụa đào tẩm hương... - Trong quan hệ của cá nhân với cộng đồng, sự vẹn tròn, to lớn của Đất Nước được hiện ra qua những nền tảng đạo lí khi người dân Việt luôn nhắc nhau về tình thương yêu, đùm bọc: Nhiễu điều phủ lấy giá gương - Người trong một nước phải thương nhau cùng, luôn dặn nhau Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây...; Đất Nước luôn lớn lao, thiêng liêng trong những lời dạy thiết tha mà nghiêm khắc về mối quan hệ giữa tình yêu cá nhân với số phận cộng đồng qua truyền thuyết Mị Châu Trọng Thuỷ... Chỉ khi nào "Ba cây chụm lại nên hòn núi cao", và chỉ khi nào "lá lành đùm lá rách", "Người trong một nước phải thương nhau cùng" thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liẻng "Đất Nước vẹn tròn, to lớn". => Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: "Khi hai đứa cầm tay"... "Khi chúng ta cầm tay mọi người", "Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm"... "Đất Nước vẹn tròn, to lởn". Cách diễn đạt uyển chuyển , sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc gia đình tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thông "yêu nước, yêu nhà, yêu người" và đó là sức mạnh Việt Nam. - Đất Nước "nguồn thiêng ông cha", Đất Nước "Trong anh và em hôm nay". Đất Nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kì vọng sáng ngời niềm tin: “Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng” + Những Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam... đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Ngay Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải cũng có một giọng điệu "rất Huế", dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng "mai này" là cách nói của bà con xứ Huế. + Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước ông cha "Gánh vác phần người đi trước để lại" xây dựng đất nước ta "Vạn cổ thử giang sơn" (Trần Quang Khải), "To đẹp hơn, đàng hoàng hơn" (Hồ Chí Minh). Hai chữ "lớn lên" biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. "Mơ mộng" nghĩa là rất đẹp ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà "anh và em", mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực "mai này" gần. - Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ
  • 10. “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời...” + "Em ơi em" - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: "Đất Nước là máu xương của mình". + Đất Nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, là mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha, là của dân tộc ngàn đời. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi nó có ý nghĩa biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Vì thế nên Trần Vàng Sao đã viết: “Nuôi lớn người tù ngày mở đất, Bốn ngàn năm năm gai nếm mật Một tấc lòng củng đẩy hồn Thánh Gióng.” (Bài thơ của một người yêu nước mình 19/12/1967) + Với Nguyễn Khoa Điềm thì "gắn bó", "san sẻ", "hóa thân" là những biêu hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. "Phải biết gắn bó và san sẻ... Phải biết hóa thân..." thì mới có thể "Làm nên Đất Nước muôn dời". + Điệp ngữ "phải biết" như một mệnh lệnh phát ra từ con tim làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có biết trường ca Mặt dường khát vọng ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mĩ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: "gắn bó", "san sẻ", "hóa thân" là tiếng nói tâm huyết "mang sức manh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ" như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói. + Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ sự gắn bó ấy mới có thể san sẻ. San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hoá thân cũng có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổquốc. Thời chiến, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc hoá thân. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hoá thân kia làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời. 2. Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân a. Ai làm nên Đất Nước - Nổi bật là tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân và Nhân Dân đã làm nên Đất Nước. Để đi đến tư tưởng đó, tác giả lại một lần nữa soi ngắm thật kĩ thật sâu vào các tầng lớp địa lí, lịch sử và văn hóa của Đất Nước. - Khi nói về chiều rộng của không gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam. “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất NướcNhững núi Vọng Phu
  • 11. Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích như “núi vọng phu”, hay “hòn Trống Mái”. + Một lần nữa tác giả như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. + Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng điệp từ “góp”. + Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo tương quan đối lập. Nửa trước nói về nhân dân, lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng, xót thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy những sắc màu muôn hình vạn trạng. + Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân dân để tạo nên đất nước huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi, đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. + Nhân Dân làm nên đất nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, là những anh hùng, những người lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút, là ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm... + Hơn thế nữa, Nhân Dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, con gà.. Trong nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” phúc quanh núi Hy Cương hay “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. + Nhân Dân ta đa dạng là thế, đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng để xây dựng nên đất nước Việt Nam ta. + Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm người chung một việc: góp phần kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta mới có được một đất nước hữu hình – đất nước của những anh hùng. + Nguyễn Khoa Điềm có nhắc đến những địa danh không tên. Có người đã từng nói “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh là vô cùng quan trọng, không thể làm tùy tiện. Có không ít những địa danh đã soi bóng trong thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi núi sông hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.
  • 12. + Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đi theo hướng đó, ông lại diễn tả sự sinh sôi của các địa danh đó vì ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, có linh hồn của nhân dân. Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của Nhân Dân. - Từ những phát hiện rất mới mẻ và độc đáo này, tác giả đã đi đến một khái quát sâu sắc và xúc động: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” + Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn nghìn lớp cha ông đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập dân tộc. Kết thúc đọan thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...” bởi có sự chuyển đổi. + Những câu thơ trước đó mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ như một phút lặng của long người trước những xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật hàm súc. + Cuộc đời của những con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi phi thường khẳng định nhân ta thật kỳ diệu! Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên linh hồn Đất Nước. - Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới triều Lê, ông là một nhà chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua: “Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. - Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính thống. “Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn ngàn năm Đất Nước” Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
  • 13. - Nếu như Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam. “ Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ Những em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi” + Sự lặp lại bộn bề của ngôn từ với người người lớp lớp...con gái con trai... có biết bao người... bốn nghìn lớp người... đã đem đến ấn tượng về sự đông đảo vô cùng của Nhân Dân. Mỗi lớp người là một thế hệ có biết bao người con gái con trai, bốn nghìn lớp người cũng là bốn nghìn thế hệ với vô vàn những người con gái con trai, tất cả đều đã từng bằng tuổi chúng ta, đều đẹp đẽ và trẻ trung, đều cần cù và dũng cảm, nối tiếp nhau hết thời này đến thời khắc cần cù làm lụng trong thời bình để dựng xây Đất Nước, ra trận và trở thành anh hùng khi Đất Nước có ngoại xâm để bảo vệ Đất Nước. - Cả đoạn thơ không hề có một tên riêng, chỉ có con trai, con gái, họ, không có tên một triều đại dù là hoàng kim, cũng không nhắc đến những anh hùng dù là cả anh và em đều nhớ... Phải chăng vì các triều đại oanh liệt, các anh hùng lẫy lừng tên tuổi đã được Tổ quốc lưu danh trong sử sách, được lòng dân muôn đời nhớ ơn, thờ phụng, và dù sao, con số các triều đại, các anh hùng cũng là hữu hạn; còn sự đóng góp của Nhân Dân, của biết bao người con gái con trai trong suốt bốn nghìn năm Đất Nước, những con người đã cần cù làm lụng dụng xây Đất Nước hoặc ra trận đánh giặc chiến đấu bảo vệ Đất Nước thì vô danh và vô hạn, thầm lặng và lớn lao, họ đã lặng lẽ hiến dâng từ mồ hôi, xương máu, từ tâm hồn, trí tuệ cho đến cả tuổi xuân và hạnh phúc lứa đôi để làm nên Đất Nước. - Nốt nhấn của khúc ca ca ngợi nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân: “Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên
  • 14. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” + Họ là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều, không mang tính chất xác định, và trong đoạn thơ này, theo cách nhìn nhận của Nguyễn Khoa Điềm, đó là biết bao người con gái con trai – Trong bốn nghìn lớp người giống ta lửa tuổi, đó là Nhân Dân, những lớp người thầm lặng, vô danh, lớn lao, đông đảo. + Câu thơ đặt họ trước hai bình diện của sống và chết, nhưng điều kì lạ là hai thái cực này lại không tạo ra cảm giác đối lập, cũng không đưa đến cảm giác ảm đạm về cái chết – nó chỉ gợi những dạng thái của tồn tại và tiếp nối, gợi sự trôi chảy miên viễn của thời gian khi những thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau sinh ra và lớn lên, yêu nhau và sinh con đẻ cái, tạo ra dòng chảy vĩnh cửu của sự sống. + Đem đến cảm giác này trước hết do sự nhịp nhàng, yên ả và bình lặng khi các nhịp thơ 3/2 - 23 nối tiếp luân chuyển trong hai câu đầu; sau đó là do tính chất phiếm chỉ của đại từ họ, đó không phải là một người, một thế hệ, đó là Nhân Dân, là quá khứ, hiện tại và tương lai của cha ông xưa, của chúng ta hôm nay, của con cháu muôn đời sau... + Câu thơ tiếp theo xác định hai đặc điểm của Nhân Dân trong cách sống giản dị, trong cách nghĩ bình tâm. Họ cứ thuần phác đơn sơ, cần cù làm lụng sau những luỹ tre làng, gắn bó thân yêu với ruộng đồng gò bãi, từ đời này sang đời khác cui cút làm ăn toan lo nghèo khổ (Nguyễn Đình Chiểu), khi đất nước có giặc, họ là những người đầu tiên ra trận, chiến đấu bảo vệ Đất Nước, khi hết giặc, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa, họ trở về với cuộc sống đời thường, bình tâm, thanh thản, không đòi hỏi, không yêu cầu, yêu sách, cứ lặng lẽ gánh vác phần người đi trước để lại – dặn dò con cháu chuyện mai sau khiến cho sự sống và cái chết của họ bình thản nối tiếp trong dòng chảy vĩnh hằng của thời gian. + Lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước được viết bằng mồ hôi, nước mắt, máu xương của những con người ấy, nhưng lịch sử không biết họ là ai, cũng vì họ quá đông đảo và luôn luôn thầm lặng. Họ có thể là những nông dân tần tảo lam lũ với hạt gạo một nắng hai sương xay giã giần sàng, là những người phụ nữ kiên cường gánh trên vai bao cuộc chiến tranh,... khi tiến người con trai ra trận, họ trở về nuôi cái cùng con, vò võ cô đơn suốt tuổi thanh xuân, để sống núi “Không hóa thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ” (Chế Lan Viên). Họ có thể là những người nông dân nghĩa sĩ: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ bình…” (Nguyễn Đình Chiểu), là những người con trai đã dặn lòng bỏ lại sau lưng gia đình, quê hương và những người thân yêu để gian nhà không mặc kệ gió lung lay, để giếng nước gốc đa nhớ nhung xao xuyến...; là những người đã nhất quyết ra đi đầu không ngoảnh lại, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; để rồi biết bao Người lính, mùa thu ấy, ra đi từ đó không về, và họ cũng có thể là người lính trên đường hành quân qua miền Tây năm ấy: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục trên súng mũ bỏ quên đời. “ + Tất cả họ đều vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên ...” nhưng họ đã làm ra Đất Nước. Không một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con người ấy vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. - Đặt trong một sự so sánh, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một sự khác biệt đối với những nhà thơ cùng thời khi viết về Đất Nước. Đối với ông, chủ nhân của Đất Nước là những người dân nhỏ bé, bình thường, giản dị, vô danh.
  • 15. b. Công lao của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước - Sự anh dũng của ông cha ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm đã khiến họ trở thành những người anh hùng lưu danh sử sách, thế nhưng bên cạnh những con người hữu danh thì người ta thấy nhiều hơn là những con người vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên”. Dù không ai nhớ mặt đặt tên, thế nhưng những thế hệ sau vẫn luôn trân trọng, yêu quý bởi họ chính là người làm ra Đất Nước. “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” - Chủ ngữ của các câu thơ là đại từ họ, nếu phép điệp đem đến cảm giác về sự đông đảo, tính chất không xác định gợi sự vô danh thì vai trò chủ ngữ, chủ thể của những hành động đã khẳng định công lao to lớn của Nhân Dân với Đất Nước. Cặp động từ giữ... truyền hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ đã khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước, đó là gánh vác việc thế hệ đi trước giao phó, giữ gìn, duy trì phát triển để rồi dặn dò, uỷ thác, truyền lại cho những thế hệ con cháu tiếp nối. - Sau những động từ giữ... truyền ... gánh ... đắp ... be ... là những hình ảnh hoặc hữu hình như: hạt lúa ... lửa ... hòn than ... hoặc vô hình như giọng điệu, tiếng nói, tên xã, tên làng, tất cả đều là những giá trị tinh thần hoặc vật chất để làm nên Đất Nước và đều gắn bó thân thiết với cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân, - Tấm lòng của Nhân Dân, công lao khó nhọc của Nhân Dân được khẳng định trong câu thơ đầy xúc động: Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Đất Nước Việt Nam nằm trong cái nôi của nền văn minh sông Hồng, nơi Nhân Dân bao đời nay sống bằng cây lúa nước. + Tự thuở đầu lập nước, những người con của Mẹ Âu Cơ đã tìm ra cây lúa, đã một nắng hai sương chăm chút, nâng nâu, để rồi giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Hạt lúa những hạt ngọc ngà chắt chiu tinh hoa của trời đất, kết quả của mồ hôi, công sức con người vì thế đã trở thành biểu tượng văn hoá đầy tự hào, trở thành biểu tượng cho truyền thống lao động cần cù của những người nông dân ngày đến vất vả bản mặt cho đất, bán lưng cho trời; Hạt lúa cũng là hình ảnh của niềm vui, của cuộc sống ấm no khi “Mồ hôi mà đổ xuống đồng - Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi Hương.” + Lời dặn của cha ông xưa về việc đừng đổ thóc giống ra ăn cho thấy sự thiêng liêng, quan trọng trong việc giữ gìn và truyền lại hạt lúa cho mùa sau, đời sau, đó là truyền lại sự sinh tồn và phát triển đối với một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời, đó cũng là việc truyền lại tình yêu và niềm hi vọng về sự sống.
  • 16. - Nhân Dân còn chuyền lửa qua nỗi nhà, từ hòn than qua con cái. Lửa là hình ảnh của một quá khứ xa xăm khi có người bắt đầu tìm đến ánh sáng văn minh, khi với việc tìm ra lửa, loài người thực sự tách ra khỏi thế giới nguyên thuỷ tăm tối, dã man. Chính ngọn lửa đã duy trì sự sống, sự tồn tại cho nhân loại. + Nhắc tới lửa là nhắc tới cuộc sống thịnh vượng, sum vầy và cảm giác ấm áp, chở che, Bên những những bếp lửa ấp iu nồng đượm (Bằng Việt), gia đình, cộng đồng quây quần đầm ấm, gắn bó, yêu thương. Từ ngàn xưa, qua những viên than ấp ủ, những con cái bện bằng rơm, người Việt đã truyền lửa cho nhau trong những không gian thẩm đượm tình làng nghĩa xóm, trong những khi tối lửa tắt đèn... + Lửa cũng đồng thời gợi đến những cuộc chiến tranh màu lửa để từ đó Đất Nước rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Nguyễn Đình Thi); ý thơ cùng gợi liên tưởng đến những người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa với hoả mai đánh bằng rơm con cúi..., trong sự liên tưởng ấy, ngọn lửa chính là biểu tượng của lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí bất khuất kiên cường đánh giặc ngoại xâm. + Trong sự gắn bó với cuộc sống sinh hoạt, lao động và chiến đấu của Nhân Dân, hình ảnh ngọn lửa khi bình dị, thân yêu, nồng ấm, khi rực rỡ, kì vĩ, lớn lao. Từ đó có thể thấy, chuyền lửa qua mỗi nhà vừa là hình ảnh cụ thể của tình làng nghĩa xóm khi tắt lửa tối đèn, là trao gửi sự sống ấm áp trong những không gian làng xã Việt bằng hòn than qua con củi như thuở xa xưa, là truyền lại sự sống trường tồn cho bốn nghìn năm Đất Nước mà cũng là truyền lại những tình cảm, những phẩm chất đẹp đẽ, lớn lao, truyền lại bầu nhiệt huyết để Nhân Dân nối tiếp nhau dựng nước và giữ nước. - Hai câu thơ tiếp theo lại nói về công lao của Nhân Dân trong việc tạo lập và giữ gìn truyền thống văn hoá, tinh thần của Đất Nước. Nhân Dân đã truyền giọng điệu mình cho con tập nói. + Tiếng nói là của cải tinh thần vô giá, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của một cộng đồng xã hội, là một giá trị văn hoá phi vật thể góp phần làm nên bản sắc văn hoá của một dân tộc. + Tiếng nói ấy trường tồn và phát triển cùng Đất Nước bất chấp hàng ngàn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm Pháp thuộc và bao nhiêu cuộc chiến tranh, bất chấp tất cả những âm mưu đồng hoá của mọi kẻ thù xâm lược. + Đó là nhờ công sức và tấm lòng của Nhân Dân từ bao đời nay, qua những lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ, qua những lời ca câu ví dân gian, qua sự trong trẻo, thâm trầm của thế giới thần thoại, cổ tích..., Nhân Dân đã truyền lại cho con cháu không chỉ những tình cảm thắm thiết ân tình, những bài học đạo lí, những kinh nghiệm sâu sắc trí tuệ mà còn cả giọng điệu, tiếng nói, ngôn ngữ của dân tộc. - Nhân Dân còn trân trọng giữ gìn cả những địa danh thân thuộc của từng |vùng miền quê hương đất nước: Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân. + Trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân, trong sự vận động và phát triển của lịch sử Đất Nước, có thể có những sự thay đổi nơi cư trú vì chiến tranh, vì cuộc sống hoặc để hưởng ứng những chủ trương chính sách của nhà nước đưa Nhân Dân đi khai khẩn đất hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới. + Hành trang người dân mang theo trong những chuyến di dân không chỉ là đồ đạc, lương thực, bên cạnh những giá trị vật chất còn là những giá trị tinh thần thiêng liêng, quý giá. Nghệ thuật ẩn dụ trong câu thơ qua động từ gánh đã khiến những khái niệm trừu tượng như tên xã tên làng bỗng trở nên cụ thể và trĩu nặng.
  • 17. + Đó không đơn thuần chỉ là địa danh, tên xã tên làng là hình ảnh của những làng xã Việt, gợi đến những phong tục tập quán, những đình chùa lễ hội, những giếng nước gốc đa thấm đẫm bao kỉ niệm yêu thương... Những cái tên được mang theo trong mỗi chuyến di dân – vì thế mà trĩu nặng tình yêu và nỗi nhớ, nhất là sự thiêng liêng ấm áp của nơi cắt rốn chôn rau. + Người dân mang theo những tên xã tên làng thân thuộc đặt cho vùng đất mới vừa để làm dịu với phần nào nỗi nhớ quê hương của thế hệ này, vừa để khắc sâu nỗi nhớ của những thế hệ sau về cội nguồn quê cha đất tổ, về những truyền thống văn hoá, những thuần phong mỹ tục của quê hương ban quản. - Nhân Dân còn xây dựng những nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp: “Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái” + Nghĩa của những cụm động từ đắp đập, be bờ gợi lên sự vun vén cho đầy đặn hơn, vững chắc hơn, đây là hình ảnh thể hiện sự chăm chút ân cần của những người đi trước với con cháu đời sau. Nhân Dân kiên nhẫn, bền bỉ đắp đập be bờ cho các thế hệ sau yên tâm trồng cây hái trái. + Sự khác nhau giữa hai cụm động từ ở đầu và cuối câu thơ về cả thời gian (đời trước - đời sau), và tính chất công việc chuẩn bị – hưởng thụ) đã cho thấy đức hi sinh lớn lao, cao thượng của những người đi trước. + Họ vất vả lo lắng làm lụng nhưng có thể chẳng được hưởng thành quả lao động của mình, cây và trái hầu như chỉ dành cho đời sau, nhưng họ vẫn bình tâm thanh thản, mãn nguyện trong niềm hy vọng con cháu được hưởng phúc, được sung sướng, ấm no từ sự chuẩn bị chu đáo, trìu mến của mình. - Khi Đất Nước có chiến tranh, Nhân Dân lại là những người xông pha nơi hòn tên mũi đạn, dũng cảm chiến đấu, sân sang hi sinh để bảo vệ sự bình yên cho Đất Nước: “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại” + Cấu trúc hô ứng: cỏ, thì điệp lại liên tiếp trong hai dòng thơ cùng một loạt những động từ mạnh; chồng..., vùng lên, đánh bại... khiến giọng điệu thơ rắn rồi, đanh thép, cho thấy tinh thần tự nguyện cao độ của Nhân Dân trong sự nghiệp giữ nước. + Trong những cuộc chiến tranh vệ quốc, Nhân Dân đã không hề toan tính, ngại ngần, không yêu cầu, yêu sách, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì Đất Nước, cũng là để bảo vệ những giá trị tinh thần và vật chất quý giá do thế hệ trước để lại, do họ vất vả gánh vác, giữ gìn, tạo dựng và truyền lại cho đời sau. Đó là những giá trị thiêng liêng thấm đẫm mồ hôi, nước mắt, máu xương của biết bao nhiêu thế hệ mà Nhân Dân không cho phép bất cứ kẻ thù nào xâm phạm, huỷ hoại. - Đoạn thơ đã cho thấy công lao vĩ đại của Nhân Dân đối với Đất Nước: họ nối tiếp nhau sáng tạo, giữ gìn, phát triển và truyền lại cho các thế hệ mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của Đất Nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói đến tên xã tên làng, tục ngữ, ca dao. Mỗi thành quả của Đất Nước ngày hôm nay đều là kết tinh, thừa hưởng, tiếp nối quá trình lao động sáng tạo cần cù, bền bỉ của Nhân Dân. Bất chấp những gian khó nhọc nhắn trong lao động dựng xây, những mất mát hy sinh trong những cuộc chiến tranh máu lửa, suốt bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, Nhân Dân đã giữ gìn hồn thiêng sông núi, làm nên bản sắc dân tộc, đã nối tiếp nhau viết những trang sử hào hùng bằng sức mạnh của tình yêu và ý chí bất khuất kiên cường.
  • 18. - Mạch cảm xúc, suy ngẫm của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi: “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân Đất Nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại” + Những khái niệm đất nước, nhân dân được viết hoa trang trọng, được lặp lại nhiều lần trong hai câu thơ đã cho thấy sự gắn bó không thể tách rời giữa Nhân Dân và Đất Nước, cũng là cách để nhà thơ tô đậm ý nghĩa khẳng định cho tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. + Sau những câu thơ khẳng định công lao to lớn của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, câu thơ Để Đất Nước này là đất nước nhân dân tạo ra mối quan hệ nhân quả giữa hai đoạn thơ, nhờ đó, tác giả đã có thể lý giải sâu sắc và thấm thía hơn tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân Dân qua cách định danh mang đậm sắc thái sở hữu thiêng liêng: Đất Nước Nhân Dân. + Với cụm danh từ Đất Nước Nhân Dân, nhà thơ đã khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bằng một nguyên nhân giản dị mà sâu sắc: Đất Nước này do Nhân Dân dựng xây và gìn giữ, kiến tạo và bảo vệ, Đất Nước này tất yếu phải thuộc về Nhân Dân. Câu thơ sau đã lý giải rõ hơn cách định danh cho Đất Nước ở câu trên. + Câu thơ tách thành hai về có tính chất đẳng lập khiến người đọc nhận ra mối quan hệ gắn kết giữa Nhân Dân ở vế thứ nhất và ca dao thần thoại ở vế thứ hai. Ca dao thần thoại có thể coi là hình ảnh hoán dụ cho văn hoá dân gian, mà văn hoá dân gian là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của Nhân Dân, cũng là nơi chia sẻ cảm thông cho những đau thương, bất hạnh của Nhân Dân. + Văn học dân gian do Nhân Dân sáng tạo nên và phản ánh cuộc sống Nhân Dân, cho nên, đến với văn học dân gian cũng là đến với Nhân Dân. Sự tương đồng ấy cho phép nhà thơ lí giải tư tưởng của mình một cách thấm thía và xúc động: Đất Nước của Nhân Dân vì Đất Nước được tạo dựng, được giữ gìn, bảo vệ... bởi tình yêu và nỗi đau của Nhân Dân, bằng nước mắt, mồ hôi, xương máu của vô vàn những con người thầm lặng, đói nghèo nhưng nghĩa tình trung hậu, của những số phận bất hạnh khổ đau mà dũng cảm biến cường, đó là những nội dung đã được chính Nhân Dân phản ánh một cách chân thực và cảm động trong ca dao thần thoại, trong văn học dân gian, trong ca dao thần thoại. - Qua ca dao thần thoại, Nhân Dân đã đem đến cho chúng ta những bài học đạo lý, dạy chúng ta biết yêu thương, biết trân trọng công sức nghĩa tình, biết căm ghét cái xấu, cái ác, biết kiên nhẫn phục thù – biết cách làm người: Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi Biết quý công cảm vững những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gây Đi trả thù mà không sợ dài lâu. Ca dao thần thoại còn ngân nga trong lời hát ca về Đất Nước Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
  • 19. Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên thành câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...” + Có lẽ tứ thơ xuất phát từ cảm hứng về những âm thanh ngọt ngào của những điệu hò mái nhì mới đây trên sông Hương xứ Huế, âm thanh tha thiết của những điệu hò ví dặm sông Lam, âm thanh hào trang trẻ trung trong những tiếng hồ của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác trên dòng sông khúc thượng nguồn Tây Bắc... - đó là những tiếng hát được truyền từ đời này sang đời khác, thể hiện tình yêu với cuộc sống lao động, tình yêu với quê hương Đất Nước, thể hiện tinh thần lạc quan tươi trẻ của những người lao động - và tình yêu ấy chính là cội nguồn sâu xa nhất của mọi phẩm chất đã giúp Nhân Dân dựng nước và giữ nước. Có một câu cá đã hình dung Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bầu... - mọi dòng sông dù có nguồn cội từ đầu nhưng khi về Đất Nước mình thì bắt lên thành câu hát, tới với Đất Nước của những tấm lòng nhân hậu, của những tâm hồn lãng mạn, trẻ trung thì văn xuôi cũng hoá thành thơ, lời nói đời thường cũng ngân nga thành câu hát. + Tứ thơ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm giúp người đọc nhận rõ hơn tư tưởng chủ đạo của bài thơ: Đất Nước của Nhân Dân, Nhân Dân làm nên Đất Nước - Nhân Dân không chỉ lao động dựng xây, không chỉ chiến đấu để giữ gìn và bảo vệ Đất Nước, chính Nhân Dân với tình yêu và những khát vọng mãnh liệt, với trái tim luôn tràn đầy sự lạc quan tươi trẻ đã đem đến vẻ đẹp lãng mạn say người cho Đất Nước trên trăm dáng sông xuôi...