SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 197
Baixar para ler offline
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
  
ĐOÀN NGỌC MINH
HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI Y HỌC
CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
  
ĐOÀN NGỌC MINH
HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI Y HỌC
CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành : LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số : 62.22.80.01
Người hướng dẫn khoa học :
HD1: PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA
HD2: PGS.TS. LÝ VĂN XUÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2013
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa được ai công bố.
Đoàn Ngọc Minh
2
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………. 4
1. Tính cấp thiết của đề tài .…………………………... 4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ……….. 9
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài ……... 15
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ……… 15
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài …………..….. 17
6. Đóng góp mới của đề tài ………………………………. 17
7. Kết cấu của luận án ………..…...……………........................... 18
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH ..…. 19
1.1. Nguồn gốc hình thành học thuyết Ngũ hành …….……….. 19
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa của Trung Quốc cổ đại .. 19
1.1.2. Nhu cầu tìm hiểu, giải thích thế giới của người Trung Quốc
cổ đại với sự hình thành học thuyết Ngũ hành …..………. 35
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của học thuyết Ngũ hành…….. 41
1.2.1. Sự hình thành của học thuyết Ngũ hành từ thời cổ đại đến
đời nhà Hán …………………………………………….. 41
1.2.2. Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành thời Hậu Hán …… 65
1.3. Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành vào Việt Nam …………. 83
Kết luận chương 1 … …………………………………………... 91
CHƯƠNG 2 : NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA
HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH TRONG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI
VÀ CON NGƯỜI ……………. 94
2.1. Nội dung cơ bản của học thuyết Ngũ hành .…….. 94
2.1.1. Những yếu tố cơ bản tạo nên Ngũ hành .……………..... 94
2.1.2. Sự biểu hiện của Ngũ hành trong tự nhiên,
xã hội và con người …………………………………………….104
2.1.3. Những quy luật cơ bản của Ngũ hành …………….… 119
2.2. Cách giải thích mới về thế giới của học thuyết Ngũ hành…….. 129
3
2.2.1. Quan điểm duy vật chất phác trong học thuyết Ngũ hành
về sự nhận thức và giải thích thế giới ……………….. 129
2.2.2. Học thuyết Ngũ hành với quan điểm biện chứng sơ khai… 132
Kết luận chương 2 ………………………………………………... 134
CHƯƠNG 3 : Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG ………….. 136
3.1. Khái quát về y học cổ truyền phương Đông và ý nghĩa
việc vận dụng học thuyết Ngũ hành đối với y học cổ truyền
phương Đông ………………………………………………… 136
3.2. Những biểu hiện của học thuyết Ngũ hành trong
bệnh lý người ………………………………….. ……… 142
3.2.1. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng thận ……... 143
3.2.2. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng tâm ……… ……... 144
3.2.3. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng can … …………... 145
3.2.4. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng phế ....................... 146
3.2.5. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng tỳ …………… 147
3.3. Học thuyết Ngũ hành với phương pháp dưỡng sinh,
chẩn bệnh và chữa bệnh …………………………………… 148
3.3.1. Học thuyết Ngũ hành với phương pháp dưỡng sinh …. 148
3.3.2. Chẩn bệnh theo học thuyết Ngũ hành ………………… 153
3.3.3. Chữa bệnh theo học thuyết Ngũ hành ………………… 161
3.3.4. Kết quả khảo sát 504 bệnh án tại Bệnh viện
Khoa Y học cổ truyền thuộc bệnh viện Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh từ 2008 đến 2010 và giá trị
Tỳ Thổ của học thuyết Ngũ hành đối với sức khỏe
con người …………….…………………………………... 167
Kết luận chương 3…………………………………………... 180
KẾT LUẬN CHUNG ……………………………………… 182
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………… 186
4
MỞ ĐẦU
1. TÌNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Suốt mấy nghìn năm qua, kể từ thời thượng cổ, học thuyết Ngũ hành là
một trong những học thuyết quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến triết học Trung
Quốc nói riêng, triết học và văn hóa phương Đông nói chung. Không bao lâu
sau khi ra đời, nó đã chiếm vị trí nổi bật, chứng tỏ đó là một học thuyết nhất
quán, hoàn chỉnh không chỉ giải thích nguồn gốc và cơ cấu của vũ trụ, mà còn
góp phần vào giải thích những hiện tượng trong cuộc sống của con người.
Là một học thuyết phát triển mạnh ở phương Đông và tồn tại hàng
nghìn năm trong lịch sử, học thuyết Ngũ hành phát triển vượt ra ngoài phạm
vi triết học và đặt dấu ấn đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Các nguyên lý cơ bản của Ngũ hành đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực
của đời sống xã hội ở Trung Quốc và ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ
xung quanh như: Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên, Đài Loan,
Hồng Kông, Singapore... Trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế,
chính trị, văn hoá, hôn nhân, gia đình, âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc, quân sự, y
học cổ truyền, v.v..).
Ngũ hành là biểu tượng của một trong hai nền văn minh Trung Hoa
xưa. Từ thời thượng cổ đến thời Xuân Thu (thế kỉ thứ VIII, trước công
nguyên), đất Trung Hoa chia làm hai miền khác nhau về phương diện chủng
tộc và văn hoá: lưu vực sông Hoàng Hà và lưu vực sông Dương Tử. Hoa tộc
miền Bắc đã tổ chức thành một liên bang phong kiến rộng lớn, gồm hàng trăm
chư hầu, dọc theo bờ sông Hoàng Hà; trong khi dân tộc lưu vực sông Dương
Tử thì sống rời rạc, chia thành nhiều tiểu quốc độc lập. Nhà Trung Hoa học
người Pháp, Marcel Granet (1884-1940), cho rằng, rất có thể nguyên nhân của
sự phát triển văn minh chính thức Trung Hoa là sự tiếp xúc của hai nền văn
minh chính yếu, một bên là văn minh vùng cao ráo của lúa kê, một bên là văn
minh vùng đồng thấp của lúa gạo. Học thuyết Ngũ hành - tinh hoa của văn
5
minh Hoa tộc miền Bắc, được làm giàu, phong phú thêm bởi sự dung hoà với
văn minh ma phương hay Lạc Thư của Tam Miêu hình thành Hà Đồ; Hà Đồ
ghép với Âm Dương của Việt tộc miền Nam với Bát quái và Kinh Dịch làm
thành nền tảng văn hoá Trung Hoa, để rồi trên mảnh đất ấy mọc lên nhiều cổ
thụ triết lý đặc sắc và sum suê.
Nghiên cứu học thuyết Ngũ hành để không chỉ khám phá một lý luận
độc đáo khi luận bàn về bản nguyên và cấu trúc của vũ trụ, mà còn thấy được
tính ứng dụng cao của nó trong nhiều lĩnh vực xã hội, thậm chí có lĩnh vực
trừu tượng, huyền bí như: thiên văn, lịch số, phong thuỷ…trong đó đặc sắc và
hữu dụng nhất, phải kể đến y học cổ truyền phương Đông vốn đã tồn tại hàng
nghìn năm nay.
Trong lĩnh vực y học, các quy luật của Ngũ hành đã đặt dấu ấn ở
phương pháp quan sát, quy nạp, tìm sự tương quan của hoạt động sinh lý,
bệnh lý các tạng phủ để chẩn đoán bệnh tật, tìm tính năng, tác dụng của thuốc
và tiến hành hoạt động bào chế thuốc. Kể từ khi xuất hiện Hoàng đế Nội kinh
tố vấn và với ảnh hưởng mạnh mẽ của tác phẩm này, nền y học Trung Quốc
và nhiều nước phương Đông khác có những bước tiến đáng khâm phục.
Học thuyết Ngũ hành vào Việt Nam từ rất sớm. Các nhà tư tưởng Việt
Nam tích cực tiếp nhận và nỗ lực vận dụng học thuyết này một cách sáng tạo
trong nhiều lĩnh vực, nhất là phát triển nền y học dân tộc cổ truyền cả trên
phương diện lý luận và thực tiễn lâm sàng. Một trong những tấm gương tiêu
biểu là đại danh y, nhà lý luận y học Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác với
tác phẩm y học đồ sộ Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh. Y học cổ truyền
Việt Nam được hình thành ngay từ buổi đầu dựng nước và ngày càng phát
triển trong cuộc đấu tranh chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ con
người. Cũng như y học cổ truyền Trung Quốc, cơ sở để xây dựng lý luận y
học cổ truyền Việt Nam không tách rời học thuyết Ngũ hành.
6
Trong khi người ta đang tiếp tục nâng cao tính ứng dụng của Ngũ hành
vào các lĩnh vực đời sống thì một lần nữa, nó lại chạm vào những vấn đề vi
mô của khoa học hiện đại.
Đầu thế kỉ XX, với những phát minh, đặc biệt là cơ học lượng tử cho
thấy trong thế giới vi mô định luật ngẫu nhiên có tính quyết định. Đây là thế
kỷ của những sự kiện vĩ đại: Sự ra đời của thuyết Tương đối, thuyết Giãn nở
của vũ trụ, Bức xạ tàn dư; thuyết Big Bang và sự thoát thai của vũ trụ, v.v..
Từ đây con người có tham vọng truy tìm tận căn nguyên của thế giới vi mô;
muốn tìm ra viên gạch cơ bản cuối cùng, quy luật cơ bản cuối cùng của vật lý,
nhưng đến nay vẫn chưa ai thực hiện được điều ấy. Cho tới những năm cuối
của thế kỷ XX, về mặt xã hội, những chủ thuyết lớn nếu không vận dụng sáng
tạo sẽ tất dẫn đến đổ vỡ; về tự nhiên, các nhà khoa học từ những nghiên cứu
công phu, nhận ra cái giới hạn của nhận thức. Sự đổ vỡ của những thể chế
quan liêu, giáo điều, sự trừng phạt của thiên nhiên chống lại sự cải tạo của
con người, chạy đua vũ trang, chiến tranh, khủng bố, phân biệt chủng tộc, bất
bình đẳng giới, chênh lệch giàu nghèo… cùng với sự phát minh ra lý thuyết
hỗn độn, hiệu ứng cánh bướm, hình học fractal, những hệ phi tuyến… là cơ sở
sâu xa cho sự xuất hiện tinh thần hậu hiện đại. Đối với hậu hiện đại, mọi sự
thật thường hằng sẽ biến mất, thay vào đó là những biểu hiện của những bề
mặt không bản chất. Trong thời hậu hiện đại, những lý thuyết có từ thời Ánh
sáng đều đã bị đổ vỡ (Lyotard).
Trong bối cảnh ấy, với sự thôi thúc của nền khoa học hậu hiện đại,
người ta lại nghĩ đến, nói đến tư tưởng của triết học phương Đông, trong đó
có học thuyết Ngũ hành với niềm tin vào một lý thuyết về sự thống nhất, góp
phần lắp vào khe hở của lý thuyết đương đại về thế giới.
Kể từ khi hai nền văn hoá Đông - Tây giao lưu và tiếp biến, thế giới lại
một lần nữa nhận thấy rằng: Ngũ hành là một cơ sở quan trọng tạo nên một
cái nhìn mới về sự huyền vĩ của văn hoá phương Đông. Khi bắt đầu tìm hiểu
khái niệm, nguyên lý của học thuyết này, ai cũng cảm thấy dường như mình
7
hiểu được nó, nhưng khi đi sâu khám phá bản chất và thực tại khách quan mà
nó phản ánh thì người ta lại bế tắc, cảm nhận rất rõ về tính chưa thuyết phục
của các ý kiến đã nêu. Biết bao luận bàn của hậu thế về diễn biến lịch sử, nội
dung và bản chất của học thuyết Ngũ hành đang tiếp tục bỏ ngỏ. Chính cái
huyền vĩ của nó đã là một hấp dẫn. Nhưng, đó cũng chính là điểm tựa cho
những suy ngẫm khi tri kiến về những vấn đề của khoa học hiện đại.
Trong hơn bốn thập kỷ qua, khoa học lí thuyết của thế giới gần như bị
chững lại, khoa học thế giới đang lâm vào tình trạng thoái trào giống như đầu
thế kỉ XX. Những tiến bộ của công nghệ đang là nỗ lực cuối cùng để lấp kín
những khe hở của khoa học lí thuyết. Tương lai không sáng sủa của khoa học
duy lý, cho thấy rằng nhân loại đang tiến dần vào chặng đường khó khăn của
khoa học. Trong bối cảnh đó, nhà vật lí học nổi tiếng Stephen Hawking, sinh
năm 1942, đã nói về một lí thuyết thống nhất, mà nếu phát kiến được lý
thuyết đó thì “tất cả chúng ta, các nhà khoa học, các triết gia và cả mọi người
bình thường sẽ hiểu được và tham gia thảo luận câu hỏi vì sao vũ trụ và chúng
ta tồn tại” (Lược sử thời gian, S.Hawking). Nhưng theo ông, tri thức của khoa
học hiện đại chưa đủ nhân duyên để tự thân nó minh chứng cho sự tồn tại của
lý thuyết này, mà nó chỉ có thể được nhận dạng qua những tiêu chí khoa học
cho một lý thuyết khoa học và những điểm tương đồng với nó.
Theo Steven Weinberg - nhà vật lý người Mỹ, được tặng giải Nobel vì
có công thống nhất tương tác điện từ và tương tác yếu - thì một mục tiêu cơ
bản của vật lý là bằng cái nhìn thống nhất quan sát sự đa dạng của tự nhiên.
Những thành tựu từ thế kỉ XVII đến những năm 20 của thế kỷ XX là một sự
minh chứng cho một lý thuyết thống nhất: Từ sự thống nhất giữa cơ học thiên
thể và cơ học (trên) Trái đất của Newton thế kỷ XVII, giữa quang học và và
lý thuyết điện và từ của Maxwell ở thế kỷ XIX, thống nhất hình học không -
thời gian và lý thuyết hấp dẫn bởi Einstein năm 1905 và 1916, đến thống nhất
giữa hoá học và vật lý nguyên tử thông qua cơ học lượng tử ở thập kỷ 20 thế
8
kỷ XX. Và nay là thuyết thống nhất - một nỗ lực không thể một sớm một
chiều để hoàn thành.
Mặc dù chính Stephen Hawking, vào năm 2002, công bố bài giảng
Gödel & sự kết thúc của vật lý (Gödel & The End of Physics), thể hiện một sự
thay đổi mang tính cách mạng trong nhận thức của ông về Lý thuyết Cuối
cùng (Final Theory) của vật lý học, khác xa với những gì ông đã phát biểu
trong Lược sử thời gian 11 năm trước, khi cho rằng: Tri thức khoa học hiện
đại không thể nào tìm ra được lý thuyết thống nhất và việc tìm ra lý thuyết
thống nhất là vô vọng, chỉ đơn giản là “Chính lý thuyết đó đã quyết định như
vậy”. Nhưng tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất khoa học thực sự đã tồn
tại. Chính từ cơ sở này sẽ quyết định một lý thuyết khoa học nào đó xuất phát
từ nền tảng tri thức của nền văn minh nhân loại, một khi thoả mãn các tiêu chí
của một lý thuyết thống nhất thì điều đó có nghĩa là nó sẽ chính là lý thuyết
thống nhất.
Và lí thuyết mà các nhà khoa học hàng đầu hiện nay mong đợi có thể
thấy được những gợi mở từ trong học thuyết Ngũ hành. Mặc dù có không ít
quan niệm khác nhau, thậm chí phủ định nó, nhưng dần dà người ta nhận ra
tính minh triết và đặt vấn đề về tính khoa học của nó. Bởi lẽ, “Ngũ hành là chỉ
vào thế lực tự nhiên, vì luôn luôn động nên gọi là Hành và phản chiếu vào
tinh thần người ta thành ra có những biến thái, động tác tâm lý, sinh lý”
(Nguyễn Đăng Thục), nó đã giải thích từ sự hình thành vũ trụ đến những vấn
đề liên quan tới con người. Thiên Hồng Phạm đã mở đầu: Sơ nhất viết Ngũ
hành. Thứ nhị viết kính dụng Ngũ sự để khẳng định một nguyên lý căn bản: Ở
vũ trụ chỉ có Ngũ hành, ở con người chỉ có Ngũ sự; Ngũ sự hoà với Ngũ
hành, tức Thiên - Nhân hợp nhất. Đấy là quan điểm Vạn vật nhất thể. Tư
tưởng này đã tồn tại mấy nghìn năm và học thuyết Ngũ hành vẫn thể hiện
bằng sự hiệu quả thiết thực và hữu dụng trong thực tiễn đời sống xã hội, nhất
là phương Đông từ xưa đến nay.
9
Hơn nữa, ở Việt Nam việc chữa bệnh bằng y học cổ truyền đã có hiệu
quả rõ rệt và được nhân dân ngày càng tin dùng. Xuất phát từ nhu cầu thực tế
đó, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất mạnh vai trò của việc kết hợp y học cổ
truyền với y học hiện đại. Có thể nói đó là một trong những quan điểm cơ bản
về y tế của Đảng. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn còn một số nhận thức sai lệch
khi cho rằng, y học cổ truyền chỉ là tập hợp những kinh nghiệm dân dã về một
số bài thuốc và vị thuốc thông thường; rằng y học này chưa có cơ sở lý luận
rõ ràng, vì vậy hiệu quả chữa bệnh còn hạn chế; hoặc là quan niệm thổi phồng
vai trò của Ngũ hành và y học cổ truyền, cho rằng với sự chỉ dẫn của Ngũ
hành, y học cổ truyền có thể “chữa bách bệnh”. Rõ ràng là, quan điểm kết hợp
y học cổ truyền với y học hiện đại của Đảng và Nhà nước ta chưa được nhận
thức đầy đủ, chưa được vận dụng một cách nhuần nhuyễn và có hiệu quả.
Để thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu
cầu của nhân dân về chữa bệnh bằng y học cổ truyền, đồng thời góp phần
khẳng định y học cổ truyền là một khoa học với các phương pháp phòng và
chữa bệnh có hiệu quả, thì việc nghiên cứu cơ sở triết học của nó, mà trước
hết là nghiên cứu học thuyết Âm dương - Ngũ hành, là rất cần thiết. Vì chính
học thuyết Âm dương - Ngũ hành là cơ sở lý luận để giải thích nguyên nhân,
cơ chế phát sinh bệnh học, điều trị học và phòng bệnh của y học cổ truyền.
Đề tài luận án Học thuyết Ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ
truyền phương Đông góp phần nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện học
thuyết Ngũ hành và vai trò của nó đối với y học cổ truyền phương Đông, qua
đó làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ giữa việc bảo tồn và phát triển bằng cách
ứng dụng các tri thức y học cổ truyền trong việc phòng bệnh, chữa bệnh.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Từ thời cổ đại đến nay, với ý nghĩa thực tiễn khá sâu sắc của học thuyết
Ngũ hành và sự vận chuyển của nó để giải thích những hiện tượng tự nhiên,
xã hội và con người đã được nhiều nhà nghiên cứu phương Đông – trong đó
có Trung Quốc và Việt Nam quan tâm; và đã thu được những kết quả to lớn
10
cho cuộc sống, đặc biệt là những kết quả nghiên cứu về học thuyết Âm dương
– Ngũ hành với y học cổ truyền phương Đông. Nội dung trên đã được thể
hiện trong khối lượng tài liệu to lớn của nhiều tác giả theo hai hướng: hướng
triết học và hướng y học.
Một là, hướng thứ nhất, có các công trình tiêu biểu: Đại cương triết học
Trung Quốc; Lịch sử triết học Trung Quốc của Hồng Tiềm - Nhiệm Hoa -
Uông Tử Tung (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1957); Đạo của Trương Lập
Văn chủ biên, Hồ Châu - Tạ Phúc Chinh - Nguyễn Văn Đức dịch (Nhà xuất
bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998). Triết giáo Đông phương của Dương
Ngọc Dũng - Lê Anh Minh (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí
Minh, 2003); Lịch sử triết học Trung Quốc của Phùng Hữu Lan, Lê Anh
Minh dịch (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006); Trung Quốc triết
học sử đại cương của Hồ Thích, Huỳnh Minh Đức dịch (Nhà xuất bản Văn
hoá Thông tin, Hà Nội, 2004). Khi trình bày nội dung nghiên cứu này, các tác
giả kể trên đều khẳng định Âm dương và Ngũ hành là những phạm trù triết
học quan trọng trong thế giới quan của người Trung Quốc. Đó là những khái
niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa đối với sự sản sinh và biến hóa của
vũ trụ, là cội nguồn của các quan điểm duy vật và biện chứng trong các tư
tưởng triết học mang màu sắc Trung Quốc. Chẳng hạn tác giả Ngô Vinh
Chính đánh giá: “Việc sử dụng các phạm trù Âm dương và Ngũ hành đánh
dấu bước tư duy khoa học đầu tiên nhằm thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng
của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống. Đó là cội nguồn duy vật
và biện chứng trong tư tưởng triết học của người Trung Quốc”[17, tr.43].
Ngược dòng lịch sử quá trình nghiên cứu, chúng ta thấy việc đánh giá
và vận dụng học thuyết Âm dương – Ngũ hành đã từng được đề cập rộng rãi
trong các tác phẩm của người Trung Quốc cổ xưa. Từ đời Hán trở đi, nhiều
tác giả như Lưu Biểu, Quảng Lô, Vương Bật, Phí Trực (đời Hán); Trịnh
Huyền (đời Hán); Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Trình Hạo, Trình Di (đời Tống);
11
Hoàng Tôn Hy, Tôn Viêm, Mao Kỳ Linh, Hồ Vi, Huệ Đống, Trương Huệ
Ngôn, Lý Quang Địa (đời Thanh)… đều khẳng định tư tưởng chủ đạo trong
Kinh Dịch là tư tưởng về mối quan hệ giữa âm và dương. Trong những năm
gần đây một loạt các công trình nghiên cứu xuất bản ở Hồng Kông và Đài
Bắc (Đài Loan) như Chu Dịch tân giải của Tào Thăng; Chu Dịch cổ kinh kim
chú của Cao Hanh; Dịch học tân luận của Nghiêm Linh Phong… đều bàn về
lẽ biến hóa của Âm dương trong Kinh Dịch.
Kinh Dịch là sách nói về Âm dương, còn Kinh Thư là tác phẩm đầu tiên
của người Trung Quốc cổ đại đề cập tới khái niệm Ngũ hành, nghiên cứu và
dịch thuật về Kinh Thư ở Việt Nam đã được Thẩm Quỳnh biên dịch từ năm
1965 và là cơ sở cho nhiều tác giả Việt Nam tiếp tục nghiên cứu và bàn luận
về thuyết Âm dương – Ngũ hành.
Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu riêng rẽ về các tác phẩm của người
Trung Quốc cổ đại xưa, khi đề cập về thuyết Âm dương – Ngũ hành như Kinh
Thư, Kinh Dịch các tác giả Việt Nam cũng đề cập về thuyết Âm dương – Ngũ
hành từ góc độ nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc và phương Đông nói
chung. Có thể kể ra một số tác giả và công trình nghiên cứu tiêu biểu những
năm gần đây như: Nguyễn Đăng Thục với Lịch sử triết học phương Đông
(Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1961); Nguyễn Tài Thư (chủ biên) với Lịch sử tư
tưởng Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993); Cao Xuân
Huy với Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu (Nhà xuất
bản Văn học – Hà Nội, 1995); Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc do
Doãn Chính (chủ biên) (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997);
Triết lý phương Đông - Giá trị và bài học lịch sử của Doãn Chính (Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006); Lịch sử triết học Trung Quốc của Hà
Thúc Minh (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tập 1; 1999 tập
2)[67]; Từ điển triết học Trung Quốc của Doãn Chính (Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2009),v.v.. Trong những tác phẩm kể trên, các tác giả đánh
12
giá cao vai trò và ý nghĩa của học thuyết Âm dương – Ngũ hành trong lịch sử
phát triển các tư tưởng triết học phương Đông, đồng thời coi nó là một trong
các dòng triết học quan trọng có từ thời kỳ “Bách gia chư tử”.
Hai là, hướng thứ hai, có những công trình nghiên cứu đề cập học
thuyết Âm dương – Ngũ hành trong mối quan hệ gắn bó với sự phát triển của
các khoa học và đời sống xã hội và con người như thiên văn học, dự đoán
học, nông học v.v… Trong lĩnh vực y học, học thuyết Âm dương - Ngũ hành
đã được các nhà tư tưởng và danh y nghiên cứu xưa nay đề cập hết sức rộng
rãi và sâu sắc. Từ đời Hán, ở Trung Quốc đã xuất hiện các bộ sách nổi tiếng
như Hoàng đế Nội kinh (chưa rõ tác giả); Thương hàn tạp bệnh luận; Kim
Quỹ yếu lược (của Trương Trọng Cảnh); Nạn kinh (của Tần Việt Nhận). Đây
là những tác phẩm lý luận y học đầu tiên của nền y học Trung Quốc cổ đại đã
biết lấy lý luận duy vật thô sơ là học thuyết Âm dương - Ngũ hành làm hệ
thống lý luận của y học. Dùng lý thuyết ấy để giải thích về mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, quan hệ lẫn nhau giữa các tạng phủ trong thân thể và
theo nguyên tắc của quan niệm chỉnh thể đã phát minh được những vấn đề có
quan hệ đến y học như bệnh lý, chẩn đoán, phòng bệnh, chữa bệnh v.v…
Ở Việt Nam, những công trình vận dụng học thuyết Âm dương - Ngũ
hành vào y học đã xuất hiện ngay từ thời Trần. Các tác phẩm và tác giả tiêu
biểu phải kể tới Chu An với Y học giản yếu, Tuệ Tĩnh với Nam dược thần
hiệu và Hồng nghĩa giác tư y thư. Đến thế kỷ XVIII, xuất hiện nhà tư tưởng,
nhà y học nổi tiếng Lê Hữu Trác, với bộ sách Hải Thượng Lãn Ông Y tông
tâm lĩnh nổi tiếng (Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 1993), trong đó ông đã vận
dụng học thuyết Âm dương - Ngũ hành để giải thích đời sống xã hội, và
phương pháp bảo vệ sức khỏe cho con người. Sang nửa cuối thế kỷ XIX, nhà
tư tưởng cũng đồng thời là nhà y học Nguyễn Đình Chiểu cũng đã vận dụng
học thuyết Âm dương – Ngũ hành để diễn giải các vấn đề về lý luận y học
trong tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp.
13
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có nhiều tác giả, nhiều
công trình nghiên cứu về học thuyết Âm dương - Ngũ hành trong lý luận y
học cổ truyền phương Đông. Chẳng hạn, Lê Trần Đức với các công trình
nghiên cứu về Tuệ Tĩnh, Lê Hữu Trác, Nguyễn Đình Chiểu… Hoàng Tuất
[117-118] với các công trình Học thuyết Âm dương và phương dược cổ
truyền; Học thuyết Tâm - Thận trong y học cổ truyền; Phó Đức Thảo [106]
với Học thuyết Thủy hỏa và mệnh môn trong y học cổ truyền; Lê Khánh Trai
với Khảo cứu về tiền đề Âm dương - Ngũ hành từ Kinh Dịch và mô hình kinh
mạch trong cơ thể người; Hoàng Phương [74] với Tích hợp đa văn hóa Đông
Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai; Trần Thúy [98] với Nội kinh v.v..
Tất cả các tác giả này đều khẳng định Âm dương – Ngũ hành là lý luận không
thể thiếu đối với y học cổ truyền.
Những năm gần đây, một số tác giả và các công trình nghiên cứu có xu
hướng đi sâu nghiên cứu tác phẩm của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, và
những bình luận, đánh giá học thuyết Âm dương – Ngũ hành dưới nhiều góc
độ khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của Nguyễn
Tài Thư với Lê Hữu Trác, nhà tư tưởng lớn trưởng thành từ nghiệp y (in
trong cuốn: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1993); Nguyễn Đức Sự với Cơ sở triết học của bộ Lãn Ông tâm lĩnh và hiện
thực lịch sử nước ta thế kỷ XVIII (Tạp chí Triết học số 1-1974) và Bước đầu
tìm hiểu y lý của Hải Thượng Lãn Ông qua tập: “Ngoại cảm thông trị” (Tạp
chí Đông y, số 110 -111, 1970); Trần Sĩ Nghi với Học thuyết thủy hỏa của
Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông (Tạp chí Đông y số 1, năm 1971); Nguyễn
Văn Thọ với Quan niệm về thận của Hải Thượng Lãn Ông đối chiếu với Tây
y (Tạp chí Phương Đông, số 17, năm 1952); Trần Văn Giàu với Sự phát triển
của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng 8 (Tập 1, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973); Nguyễn Đình Phủ với các công trình: Tìm
hiểu và ứng dụng triết lý Âm dương, Nxb. VHDT, Hà Nội, 1998, và Tìm hiểu
và ứng dụng học thuyết Ngũ hành, Nxb. VHDT, Hà Nội, 2001 v.v.. Trong các
14
tác phẩm và các công trình nghiên cứu kể trên, các tác giả đã đề cập đến học
thuyết Âm dương – Ngũ hành và đều cho rằng: học thuyết Âm dương – Ngũ
hành là một trong những cơ sở triết học quan trọng để hình thành thế giới
quan duy vật phương Đông, đồng thời cũng là cơ sở triết học chủ yếu để xây
dựng lý luận y học cổ truyền phương Đông. Chẳng hạn, Trần Văn Giàu viết:
“Nước ta ở thế kỷ XIX từ triều đình cho tới thứ dân, qua các tầng lớp Nho sĩ,
từ trong sách vở cho tới những phong tục tập quán, đâu đấu cũng thấy dấu
vết ảnh hưởng của thuyết Âm dương – Ngũ hành”[ 34, tr.212], hoặc Đỗ Tất
Lợi viết: “Nghề làm thuốc không thể vượt ra ngoài nguyên lý Âm dương –
Ngũ hành… Việc điều trị bệnh tật là sự lặp lại cân bằng Âm dương trong con
người, giữa con người với trời đất” [54, tr.16]; Trần Văn Thụy trong bộ Hải
Thượng Y tông tâm lĩnh với sự vận dụng những tư tưởng triết học thời cổ
(Luận án Tiến sĩ Triết học, 1996) đã đề cập tới học thuyết Âm dương – Ngũ
hành và coi đó là một trong những tư tưởng triết học quan trọng của bộ Hải
Thượng y tông tâm lĩnh; Phạm Công Nhất trong Tư tưởng triết học về con
người qua tác phẩm y học của Hải Thượng Lãn Ông (Luận án Tiến sĩ triết
học, 2001); Trần Thị Huyên với Thuyết âm dương – ngũ hành với tác phẩm
Hoàng đế Nội kinh và Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (Luận án Tiến sĩ, 2002);
Nguyễn Thị Hồng Mai với Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong tác
phẩm Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (Luận án Tiến sĩ, 2012). Với sự vận dụng
học thuyết Âm dương - Ngũ hành vào y học cổ truyền Việt Nam, đặc biệt học
thuyết Thủy hỏa của danh y Lê Hữu Trác trong tác phẩm Hải Thượng Lãn
Ông Y tông tâm lĩnh.
Nhìn chung, các tác giả và công trình nghiên cứu nói trên đều nói lên
mối quan hệ giữa Âm dương - Ngũ hành với các hoạt động sống của con
người và khẳng định lý thuyết này là cơ sở triết học chủ yếu cho việc hình
thành và phát triển lý luận và thực tiễn của nền y học cổ truyền phương Đông
từ xưa tới nay. Tuy vậy, các quan niệm trên còn rời rạc, tản mạn, chưa thành
hệ thống nhất quán. Có thể nói, cho đến nay, chưa có tác phẩm nào nghiên
15
cứu một cách tập trung và có hệ thống về sự hình thành và phát triển học
thuyết Ngũ hành trong y học cổ truyền phương Đông, đề tài “Học thuyết Ngũ
hành với ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương Đông” góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề trên.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ lịch sử phát triển, nội dung
cơ bản của học thuyết Ngũ hành và ý nghĩa của chúng đối với sự phát triển y
học cổ truyền của phương Đông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận án triển khai thực hiện các nhiệm vụ
như sau:
Một là, phân tích nguồn gốc và lịch sử hình thành của học thuyết Ngũ
hành và những nội dung cơ bản của học thuyết Ngũ hành;
Hai là, trình bày và phân tích ý nghĩa, phương pháp luận việc vận dụng
học thuyết Ngũ hành vào các chức năng sinh lý của các tạng cơ thể người;
Ba là, phân tích, rút ra ý nghĩa của học thuyết Ngũ hành trong lịch sử
và trong quá trình phát triển của y học cổ truyền phương Đông.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận án là nguồn gốc và nội dung cơ bản của
thuyết Ngũ hành; sự vận dụng học thuyết Ngũ hành vào y học cổ truyền
Trung Quốc và Việt Nam; không đi sâu nghiên cứu Ngũ hành với Thiên can,
Địa chi, tức ngũ vận lục khí và những lĩnh vực khác.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Cơ sở lý luận của đề tài
Luận án được thực hiện dựa trên thế giới quan và phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là những nguyên lý về lịch sử Triết học, về
phép biện chứng duy vật; đồng thời sử dụng lý luận Triết học phương Đông
16
về Ngũ hành và lý luận y học cổ truyền phương Đông để hoàn thành mục tiêu
và nhiệm vụ của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp luận chung
Vấn đề học thuyết Ngũ hành và sự ứng dụng nó trong y học cổ truyền
phương Đông được nghiên cứu theo phương pháp triết học lịch sử. Các
nguyên tắc phương pháp luận được quán triệt là quan điểm toàn diện, lịch sử -
cụ thể và phát triển. Với phương pháp luận này cho phép nắm bắt và nhận
thức các khái niệm, phạm trù của học thuyết Ngũ hành được trình bày tương
đối toàn diện, chuẩn xác, như nó vốn có; việc khai thác tài liệu, thông tin phải
thực hiện phân tích phê phán một cách biện chứng, thấy được sự thống nhất
và khác biệt của luận đề mà các nhà triết học thời cổ đại Trung Quốc đặt ra và
điều chỉnh, bổ sung trong suốt quá trình phát triển của xã hội Trung Quốc;
thấy được tính không đồng nhất về giá trị của học thuyết đó trong những
những lĩnh vực khác nhau.
Các phương pháp cụ thể
Vấn đề nghiên cứu được tiếp cận và phân tích trên cơ sở phương pháp
lôgic và lịch sử kết hợp với phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và hệ thống
hoá để thấy được nguyên lý Ngũ hành và những vấn đề y học cổ truyền có
liên quan và mang tính độc lập tương đối trong sự phát triển, có lôgic nội tại
và được hình thành, phát triển từ những điều kiện lịch sử nhất định của xã hội
Trung Quốc từ thời thượng cổ.
Việc thu thập và xử lí thông tin được thực hiện thông qua phương pháp
nghiên cứu lí thuyết nhằm làm rõ một số khái niệm, phạm trù có liên quan và
nghiên cứu, khai thác tư liệu, văn bản; phương pháp so sánh cho thấy được sự
tương đồng và khác biệt khi trình bày sự biến đổi của Ngũ hành qua các thời
kỳ lịch sử; phương pháp thống kê số liệu thực tiễn từ 500 bệnh án góp phần
thực hiện những yêu cầu của nhiệm vụ luận án.
17
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Nội dung và bản chất của học thuyết Ngũ hành được phân tích qua các
đặc điểm, sự biến hoá của năm hành chất và quy luật vận động của chúng;
tương quan Ngũ hành với những biểu hiện của tạng tượng trong cơ thể sinh lý
con người.
Kết quả nghiên cứu của luận án có nhiều ý nghĩa:
Ý nghĩa khoa học:
Luận án đưa đến một cách tiếp cận và phương pháp nhận thức mới về
các nguyên lý của học thuyết Ngũ hành, về đặc điểm các hành chất cơ bản của
Ngũ hành trong triết học phương Đông biểu hiện ra các mặt tự nhiên, xã hội
và con người, nơi tạng tượng, nơi sinh lý cơ thể người. Luận án còn đem đến
một hiểu biết tương đối có hệ thống về mối quan hệ giữa một vấn đề triết học
với một vấn đề thuộc về khoa học lý luận và thực hành y học cổ truyền
phương Đông trong lịch sử và hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả của luận án đem đến cơ sở y học cổ truyền một tài liệu không
chỉ có giá trị về lý luận mà còn cả thực tiễn để góp phần bảo vệ và phát huy
giá trị y học cổ truyển của dân tộc, trong đó có di sản y văn của các danh y
Việt Nam từ việc tiếp thu Ngũ hành đã xây dựng bộ sách quý báu về y thuật;
đề xuất phương pháp dưỡng sinh theo Ngũ hành, chẩn đoán và điều trị bệnh
cho con người theo Ngũ hành.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy môn lịch sử triết học phương Đông, môn y đức và đặc biệt là việc chẩn
đoán và hướng điều trị cũng như phòng bệnh, nâng cao sức khỏe con người.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Luận án có luận giải mới về nội dung học thuyết Ngũ hành ở hai mặt:
thứ nhất là tư tưởng duy vật chất phác về nhận thức thế giới; thứ hai là tư
tưởng biện chứng thô sơ.
18
Luận án đã nêu lên ý nghĩa việc vận dụng học thuyết Ngũ hành vào y
học cổ truyền phương Đông như: phép dưỡng sinh, phương pháp chẩn đoán
cũng như phép điều trị cho y học cổ truyền phương Đông.
Cụ thể, luận án có cuộc điều tra 504 bệnh án tại Khoa Y học cổ truyền
Bệnh viện Đại học Y dược Thành phồ Hồ Chí Minh để đề cao vai trò quan
trọng của sự tiêu hóa (ăn uống) có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề sức khỏe
con người.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục (đóng
riêng), luận án có 3 chương, 8 tiết.
19
Chương 1
NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
1.1. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa của Trung Quốc cổ đại
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng
tầng, triết học trong quá trình hình thành và phát triển luôn chịu sự chi phối,
quyết định bởi những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Lịch sử triết học
hàng ngàn năm của nhân loại đã chứng minh rằng không có một học thuyết
hay trường phái triết học nào nảy sinh trên mảnh đất trống không; chúng bao
giờ cũng là sản phẩm của lịch sử, dân tộc và thời đại nhất định, đồng thời là
tấm gương phản chiếu sâu sắc đời sống muôn vẻ của lịch sử, dân tộc và của
thời đại đó. Đúng như C.Mác đã nói: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ
trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh
tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học”
[61, tr.156]. Vì vậy, “Phàm đã gọi là một học thuyết quyết không thể là một
cái gì từ trên trời rơi xuống. Nếu nghiên cứu tỉ mỉ hơn chúng ta tất sẽ tìm ra
được nhiều nguyên nhân đã xảy ra trước và hậu quả về sau của nó” [62, tr.53].
Quá trình hình thành và phát triển của các học thuyết, trường phái triết
học Trung Quốc thời cổ đại cũng không nằm ngoài tính quy luật nói trên.
Chúng ra đời không phải ngẫu nhiên hay từ ý muốn chủ quan của các nhà triết
học, mà từ những hoàn cảnh, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
Trung Quốc cổ đại. Do đó, sẽ là chủ quan, võ đoán, phi lịch sử khi nghiên cứu
tư tưởng của một học thuyết, trường phái triết học nào đó mà không chú ý tìm
hiểu thấu đáo những điều kiện kinh tế - xã hội – cái đã quy định nội dung,
tính chất và sự phát triển của nó như thế nào. Vì vậy, chỉ có trên cơ sở mổ xẻ,
phân tích sâu sắc những điều kiện lịch sử xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội thời Trung Quốc cổ đại mới có thể luận giải một cách có căn cứ khoa
20
học những vấn đề đặt ra liên quan đến nội dung tư tưởng của các học thuyết,
trường phái triết học sinh ra trong giai đoạn này. Trong số đó có học thuyết
Ngũ hành. Học thuyết này được nhiều nhà nghiên cứu xem là yếu tố cơ bản
của văn hóa Trung Quốc cổ đại, thể hiện những quan niệm về cơ cấu của vũ
trụ, vạn vật, tâm lý và chính trị - xã hội của người Trung Quốc cổ đại, được
xây dựng dựa trên các quan sát, thực nghiệm của họ trong giai đoạn mà nền
kinh tế nông nghiệp hãy còn sơ khai. Tiến trình lịch sử Trung Quốc cổ đại bắt
đầu từ thời Hạ, Thương Ân, Chu, Xuân thu - Chiến quốc, nhà Tần.
Giai đoạn nhà Hạ
Khởi đầu, lịch sử Trung Quốc đã trải qua thời kỳ xã hội nguyên thủy
với các truyền thuyết về thời thượng cổ như Bàn Cổ, Tam hoàng, Ngũ đế.
Theo những truyền thuyết này, xã hội nguyên thủy Trung Quốc đã phát triển
tuần tự qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn được đánh dấu bằng những phát
minh quan trọng như lửa, đồ đá, dụng cụ bằng xương động vật… chứng tỏ
thành quả của những nhận thức và lao động tuyệt vời mà nhân dân Trung
Quốc đã đạt được trong thời kỳ cổ đại.
Đời nhà Hạ 2205 - 1766 trước công nguyên, nhà nước chiếm hữu nô
lệ đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc cổ đại là sự ra đời nhà Hạ, kết thúc thời
kỳ lịch sử xã hội Trung Quốc từ trước đó hàng nghìn năm. Tuy nhiên, hiện
nay còn có một số quan điểm khác cho rằng nhà nước chiếm hữu nô lệ ra đời
vào thời Ân (1766 - 1027 tr.CN) (xem Trần Đình Hượu), hoặc (Petơrốp, Viện
sĩ Liên Xô) ra đời vào thời Tây Chu.
Như vậy, trong quá trình tìm hiểu thực tế cuộc sống để sinh tồn, con
người đã bước lần tìm hiểu bản nguyên của vũ trụ qua thực tiễn. Tư tưởng
Ngũ hành đã khởi đầu khám phá một vài yếu tố của Ngũ hành từ thời nhà Hạ
là đất, nước, cây cối và đặc biệt là lửa. Những khám phá ban đầu này (đất,
nước, cây cối và lửa), nó vừa là nhận thức mới về vật chất phục vụ cuộc sống,
vừa giúp cho lao động bước đầu tiến bộ của nhân dân Trung Quốc cổ đại thời
kỳ nhà Hạ.
21
Giai đoạn nhà Thương
Năm 1766 trước công nguyên, Thành Thang, vua một nước nhỏ (vốn
thuộc Hạ) ở vùng hạ lưu sông Hoàng Hà, vì nhà Hạ vô đạo nên nhà Thương
hội quân chư hầu đã lật đổ triều vua cuối cùng của nhà Hạ, lập nên nhà
Thương đặt đô tại đất Bạc (thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay). Khoảng 300 năm
sau Công Nguyên vua tiếp theo của nhà Thương là Bàn Canh đã dời đô đến
đất Ân (thuộc thành phố An Dương tỉnh Hà Nam ngày nay). Vì thế, nhà
Thương còn được gọi là nhà Ân. Dưới triều đại Ân - Thương, nền kinh tế xã
hội có sự phân công sâu sắc giữa sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, và sản xuất
thủ công nghiệp. Các công cụ bằng đồng đã được sử dụng phổ biến góp phần
phát triển sản xuất. Thời Ân - Thương nông nghiệp đã trở thành ngành sản
xuất chủ yếu của xã hội. Về nhận thức, người đời Thương đã biết dùng mai
rùa, xương thú để bói toán xem lành dữ, may rủi và sáng tạo ra văn tự còn gọi
là ‘giáp cốt”. Họ còn biết chia ra lịch pháp để phục vụ cho việc xác định thời
vụ trong sản xuất nông nghiệp. Một năm được chia thành 12 tháng, một tháng
được chia thành 30 ngày, có tháng đủ, tháng thiếu, mỗi tuần có 10 ngày và
biết dùng hệ thống can - chi (gồm 10 can và 12 chi), phối hợp với nhau để
tính giờ, ngày, tháng và năm. Người Ân - Thương biết quan sát thiên văn, biết
được sự vận hành của mặt trăng và vị trí của nhiều ngôi sao, giải thích được
hiện tượng nhật thực và nguyệt thực, tính được chu kỳ của thủy triều, tìm ra
quy luật sinh trưởng của cây trồng mà đặt ra lịch âm.
Nhà Thương từ khi xây dựng tới lúc diệt vong kéo dài khoảng 500
năm (có hơn 270 năm ở đất Ân), phát triển đến cực độ rồi dần dần bị suy
vong.
Trong giai đoạn nhà Thương (Ân), nhân dân Trung Quốc cổ đại đã từ
sự khám phá lửa dần đến khám phá chất kim loại đồng, một loại kim loại dễ
nóng chảy và định hình sắt loại công cụ lao động phục vụ cho con người tinh
xảo hơn dụng cụ lao động bằng đá. Từ đó dụng cụ đồ đồng được thay thể mà
dụng cụ đồ đá đã sử sụng trong lao động trước đây của người Trung Quốc cồ
22
đại. Từ thực tế khám phá đồ đồng, con người trong giai đoạn nhà Thương Ân
đã tiếp tục khám phá thêm một yếu tố vật chất nữa là yếu tố kim loại làm
hoàn thiện năm yếu tố của tư tưởng Ngũ hành. Như vậy, từ điều kiện kinh tế -
xã hội thời Thương Ân, nhân dân Trung Quốc cổ đại đã hoàn thiện các yếu tố
vật chất của Ngũ hành và tiếp tục phát triển củng cố sang đời Tây Chu với
công cụ đồ sắt.
Giai đoạn nhà Tây Chu và Xuân thu – Chiến quốc
Năm 1123 trước công nguyên, con của vua Chu Văn Vương là Chu
Vũ Vương đã nổi dậy diệt vua Trụ nhà Ân Thương lập ra nhà Chu, đóng đô ở
Hạo Kinh (phía tây thành Tây An ngày nay). Lịch sử gọi là Tây Chu.
Thời Tây Chu, lực lượng sản xuất đã đạt tới trình độ cao hơn nhiều so
với Ân – Thương. Việc sử dụng các công cụ, vật dụng bằng sắt bắt đầu xuất
hiện đã thúc đẩy một số ngành thủ công nghiệp phát triển, từ đó làm cho kỹ
thuật canh tác đất đai được cải thiện. Các lĩnh vực nhận thức về các khoa học
tự nhiên như: lịch pháp, thiên văn, địa lý, y học… cũng đã phát triển rất
mạnh. Về chính trị, hệ thống chính trị đã tương đối hoàn thiện hơn so với nhà
Ân – Thương trước đó. Là một nhà nước được xây dựng trên cơ sở của chế độ
chiếm hữu nô lệ, song cách thức quản lý quốc gia của nhà Chu lại theo kiểu
“phong hầu kiến địa” (cắt đất phong tước hầu) nặng về huyết thống, giòng
tộc. Người đứng đầu nhà Chu được gọi là “Thiên tử” có uy quyền tuyệt đối.
Cùng với sự hoàn thiện hệ thống chính trị, nhà Chu cũng tiến hành cải cách
quan hệ sản xuất, thực hiện rộng rãi chế độ “tỉnh điền”, một kiểu quản lý và
thu lợi từ đất đai (do nhân dân lao động trực tiếp sản xuất) của giai cấp thống
trị quý tộc nhà Chu lúc bấy giờ. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển mọi mặt
đời sống xã hội so với thời kỳ Ân – Thương, các mâu thuẫn giai cấp trong
lòng xã hội tộc Chu đang dần dần bộc lộ gay gắt.
Tư tưởng triết học Trung Quốc có mầm mống từ thời tiền sử, nhưng
đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc mới thực sự trở thành một hệ thống. Xuân
Thu – Chiến Quốc, về niên đại, được xem là bắt đầu từ năm 771 và kết thúc
23
vào năm 221 trước công nguyên. Thời kỳ Đông Chu còn gọi là thời kỳ Xuân
thu – Chiến quốc (771 – 221 trước công nguyên), là giai đoạn giao thời giữa
hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn và hình thái kinh tế - xã hội
phong kiến sơ kỳ. Thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc được chia thành hai giai
đoạn: giai đoạn Xuân thu và giai đoạn Chiến quốc.
Giai đoạn Xuân thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương lên
ngôi nhà Chu (năm 771 tr.CN), sau đó dời đô về phía Đông đến Lạc Ấp (Lạc
Dương, tỉnh Hà Nam ngày nay) nên lịch sử gọi là Đông Chu. Tên “Xuân thu”
là gọi theo bộ sử biên niên của Khổng Tử (chép sử nước Lỗ từ năm thứ nhất
đời Lỗ Ẩn Công đến năm thứ 14 đời Lỗ Ai Công (từ năm 722 đến năm 481
trước công nguyên). Giai đoạn Chiến quốc bắt đầu từ Chu Nguyên Vương lên
ngôi vương triều nhà Chu (năm 403 trước công nguyên), kết thúc giai đoạn
cuối Tần tức là năm 221 trước công nguyên. Gọi là Chiến quốc vì giai đoạn
này lịch sử Trung Quốc cổ đại đã chứng kiến các cuộc chiến tranh khốc liệt
của các quốc gia vốn là chư hầu của nhà Chu (chủ yếu là cuộc chiến tranh
thôn tính lẫn nhau giữa bảy nước lớn thời đó, còn gọi là “Chiến quốc thất
hùng” (Sở, Hàn, Ngụy, Tần, Yên, Tề, Triệu), kết cục là nước Tần tiêu diệt sáu
nước và thay thế vào đó bằng một quốc gia thống nhất mới do Tần Thủy
Hoàng đế đứng đầu. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc.
Theo Đàm Gia Kiện, “Tiên Tần - đặc biệt thời Xuân Thu – Chiến Quốc, là
ngọn nguồn đầu tiên một cao trào của sự phát triển triết học Trung Quốc, đã
xuất hiện đông đảo các nhà tư tưởng triết học thành một cục diện trăm nhà
đua tiếng” [43, tr.433].
Sự chuyển mình sôi động của thời Xuân Thu được thể hiện trên các
lĩnh vực: Về kinh tế, đây là thời kỳ mà nền kinh tế Trung Quốc có sự chuyển
tiếp từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Sắt là một phát hiện của dân tộc
Di, một tộc người ở về phía Đông của Trung Quốc. Cư dân Hoa Hạ kế thừa
được công nghệ đúc sắt của người Di đã chế tạo ra nhiều công cụ lao động
bằng sắt. Sự ra đời của đồ sắt có thể coi như một cuộc cách mạng trong công
24
cụ sản xuất. Nó trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế cổ đại
Trung Quốc phát triển trên nhiều lĩnh vực. Trước hết là nông nghiệp, ngành
kinh tế giữ vai trò đặc biệt quan trọng, lâu đời trong đời sống xã hội Trung
Quốc.
Để tồn tại và phát triển, người Trung Quốc buộc phải không ngừng cải
tiến công cụ sản xuất, phát triển sản xuất nông nghiệp. Từ đồ sắt, người ta có
thể chế tạo ra các công cụ sản xuất tinh xảo hơn, mở mang diện tích canh tác,
phát triển hệ thống thủy lợi, các phương tiện vận chuyển, tạo mới vũ khí trong
các cuộc giao tranh. Nhờ vậy, nó đã góp phần giảm nhẹ sức lao động cơ bắp
của con người, mở rộng diện tích sản xuất, tăng năng suất lao động. Đặc biệt,
kỹ thuật canh tác nông nghiệp đã có tiến bộ vượt bậc với tri thức ngày càng
sâu sắc, phong phú. Họ đã tích lũy và phát triển kỹ thuật sản xuất nông nghiệp
thành một môn khoa học. Sách Quản Tử thời Xuân thu đã ghi lại việc chia đất
đai toàn quốc theo độ phì nhiêu làm ba cấp: thượng, trung, hạ. Trong đó, mỗi
cấp chia làm sáu loại và chỉ ra giống cây trồng thích hợp với mỗi loại đất đó.
Từ những tiến bộ vượt bậc trong sản xuất nông nghiệp do sự xuất hiện
của đồ sắt, tất yếu dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong quan hệ sản xuất thời
Xuân thu. Nếu dưới thời Tây Chu, giai cấp quý tộc chủ nô nắm giữ toàn bộ
nguồn gốc mọi của cải trong xã hội, đó là sức lao động nô lệ và ruộng đất, thì
giờ đây, công xã đã giao hẳn đất công cho từng gia đình nông nô cày cấy
trong thời hạn lâu dài. Họ có điều kiện lưu canh, luân canh để tăng năng suất
cây trồng. Sự phân hóa đất công còn diễn ra mạnh mẽ, một phần do quý tộc
chuyển sang thương nhân giàu có, một phần do chư hầu phong cấp cho các
tướng lĩnh có công, một phần quý tộc chiếm làm ruộng tư, hay đất tự nhiên do
được phép khai hoang giờ đã trở thành đất của các nông dân tự do, v.v.. Chế
độ “tỉnh điền” dần dần tan rã, chế độ “tư hữu ruộng đất” từng bước hình
thành, đưa tới sự ra đời của giai cấp địa chủ phong kiến từng bước thay thế
giai cấp quý tộc chủ nô.
25
Theo chế độ “tỉnh điền”, ruộng đất của công xã được chia cho nông nô
theo chữ “tỉnh” có chín ô, những nông nô cày cấy tám ô xung quanh, phải có
trách nhiệm cày cấy ô ở giữa để thu hoa lợi nộp cho triều đình. Khi chế độ tư
hữu ruộng đất phát triển, số lượng ruộng đất giữa các nông nô có sự chênh
lệch, nhà nước đã ban hành chế độ thu thuế mới đánh vào từng mẫu ruộng
(gọi là thuế sơ mẫu), bãi bỏ hình thức thu thuế cũ. Nước Lỗ là nước đầu tiên
thi hành chế độ thuế mới vào năm 594 tr.CN.
Đồ sắt ra đời thay thế đồ đồng, không những thúc đẩy nông nghiệp
phát triển, mà còn thúc đẩy tiểu thủ công nghiệp phát triển. Với tính ưu việt
của đồ sắt như: quặng sắt nhiều hơn quặng đồng, đồ sắt lại bền hơn, cứng hơn
và sắc bén hơn, sử dụng tiện lợi hơn đồ đồng, cho nên, việc sử dụng công cụ
bằng sắt ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và phổ biến. Quá trình đó thực
sự góp phần thúc đẩy việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự
phân công trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp nhanh chóng đạt tới trình độ
chuyên nghiệp cao, mở ra cơ hội cho một loạt các ngành nghề thủ công ra đời,
phát triển như: nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ
gốm, v.v.. Vào cuối thời Xuân thu, nước Ngô dựng lò luyện sắt, số thợ lên
đến 300 người, nước Tấn trưng mua sắt để đúc đỉnh hình. Phản ánh về sự phát
triển của sản xuất thủ công nghiệp, mở mang ngành nghề, sách Chu Lễ viết:
“thợ mộc chiếm bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần, thợ thuộc da chiếm
năm phần, thợ nề chiếm hai phần…”. Sự phát triển đa dạng của nhiều ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp về kinh tế đã có ý nghĩa tích cực trong việc giải
phóng sức lao động, góp phần phá vỡ nền kinh tế thuần nông, nâng cao đời
sống của người dân Trung Quốc thời cổ đại.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp phát triển đã tạo cơ sở cho thương
nghiệp phát triển hơn trước và tiền tệ ra đời. Trong xã hội hình thành một tầng
lớp thương nhân giàu có, danh tiếng như: Phạm Lãi, Huyền Cao (nước Trịnh),
Tử Cống (là học trò của Khổng Tử)… Họ ngày càng có thế lực, có nhiều
người kết giao với chư hầu, công khanh đại phu, gây nhiều ảnh hưởng đối với
26
đời sống chính trị đương thời. Tuy nhiên, do thực trạng khó khăn lúc bấy giờ
cản trở rất lớn đến việc giao lưu, buôn bán như xã hội rối ren, lãnh thổ chia
năm xẻ bảy, phương tiện giao thông thô sơ, đường sá hiểm trở khiến việc
buôn bán không phải ai cũng làm được, nó đòi hỏi phải có những con người
tháo vát, quyết đoán, mạo hiểm. Đặc biệt, trong quan niệm cổ truyền của
người Trung Quốc, luôn xem thường, khinh rẻ nghề buôn bán, với tư duy
“nông bản, thương mại”, “trọng nông ức thương” (coi trọng nông nghiệp, hạn
chế buôn bán). Chính vì thế, thương nghiệp lúc này chưa thực sự phát triển,
chưa có tác động ảnh hưởng lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội. Song sự
hình thành của nó, đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã hội một tầng lớp mới -
tiền thân của một tầng lớp thương nhân sau này ngày càng tranh giành quyền
lợi với tầng lớp quý tộc cũ. Trường hợp Tử Cống, Huyền Cao của nước Trịnh
là một ví dụ.
Về chính trị xã hội, trước hết, đó là sự phân hóa trong cơ cấu giai cấp
thống trị - giai cấp mà tính cố kết, bền chặt của nó có ý nghĩa quyết định đến
sự vững bền của chế độ. Nếu như ở thời Tây Chu, giai cấp thống trị chỉ bao
gồm những quý tộc chủ nô, thì đến thời Xuân thu ngoài một bộ phận trong số
họ, còn được bổ sung ở tầng lớp tự do vì giàu có, tài ba mà trở nên có thế lực,
tầng lớp này bắt đầu chi phối xã hội theo cách của mình. Cả hai giai cấp, tầng
lớp này đều xuất hiện với tư cách là những quý tộc mới. Họ đã nhận thấy
đường lối, chính sách cai trị của quý tộc chủ nô là không còn phù hợp, cần
phải có sự đổi thay mới tồn tại. Sự xuất hiện của họ đã đe dọa trực tiếp đến
thế và lực của nhà Chu, là đầu mối của mọi sự biến đổi và chuyển mình của
xã hội Trung Quốc suốt thời Xuân thu - Chiến quốc.
Dưới thời Tây Chu, chế độ tông pháp còn được tôn nghiêm, cai trị xã
hội chủ yếu dựa vào lễ và tập tục; quý tộc chủ nô tùy tiện dùng hình phạt khắc
nghiệt trừng trị những kẻ làm trái ý mình. Điều đó, có tác dụng tích cực giúp
nhà Chu tồn tại hưng thịnh trong một thời gian dài. Nhưng cũng chính từ cách
cai trị đó đã gây ra nhiều bất công, oán thán âm ỉ kéo dài và cuối cùng nó đã
27
bùng nổ ở thời Xuân thu. Đến lúc này, chế độ tông pháp nhà Chu không còn
được tôn nghiêm, đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính trị, quân sự giữa
thiên tử và các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, những liên hệ về kinh tế trên
cơ sở chiếm hữu ruộng đất tăng lên, trật tự lễ nghĩa nhà Chu dần dần bị phá
bỏ. Nếu thời Tây Chu, xã hội vận hành nhờ lễ, tập tục, các quan hệ xã hội
cũng được đánh giá theo tiêu chuẩn lễ, tập tục; thì đến thời Xuân thu lễ cũ đã
băng, tập tục cũ đã hoại. Những biến đổi, rạn nứt trên đã làm cho trật tự
quyền hành giữa Thiên tử, Chư hầu, Công khanh, đại phu chỉ còn là hình
thức, trên danh nghĩa. Thực chất, lúc này thiên tử nhà Chu hầu như không còn
quyền uy gì với các nước chư hầu. Thiên tử không còn đủ thực quyền xét xử
những cuộc tranh chấp giữa các nước chư hầu. Thời Tây Chu việc lễ, việc
nhạc, việc chính trị, việc hình phạt do thiên tử đề ra, và các nước chư hầu phải
theo đó mà thực hiện. Đến thời Xuân thu, hầu như không còn do thiên tử sắp
xếp, quyết định; mà đều do chư hầu, khanh đại phu tùy ý, tự tiện nêu ra và
thực hiện. Nhân cơ hội này nhiều nước đua nhau động binh, mượn tiếng, lấy
cớ khôi phục chế độ tông pháp nhà Chu với khẩu hiệu “tôn vương bài di”,
nhưng thực chất là để bảo vệ, khẳng định mở rộng quyền lực chính trị, kinh
tế… của mình, thôn tính các nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ.
Thời Xuân thu, trong khoảng 242 năm đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ
giữa các nước chư hầu. Ngay trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc
tranh giành đất đai, địa vị, quyền thế giữa những quý tộc với nhau. Chẳng
hạn, vào năm 403 trước công nguyên, ở nước Tấn có ba dòng họ là Hàn,
Triệu, Ngụy đã nổi lên phế bỏ vua Tấn, dựng lên ba nước Hàn, Triệu, Ngụy.
Chiến tranh triền miên, khốc liệt giữa các nước chư hầu, các quý tộc đã tàn
phá xã hội nghiêm trọng.
Trước hết, chiến tranh dẫn đến sự diệt vong của hàng loạt các nước
chư hầu. Đầu thời Tây Chu có hơn một ngàn nước, đến cuối thời Xuân thu chỉ
còn hơn một trăm nước. Trước và sau thời Xuân thu, nước Sở thôn tính 45
nước, nước Tề đời Tề Hoàn Công thôn tính 35 nước, nước Tấn diệt 20 nước,
28
nước Lỗ diệt 12 nước, nước Tống diệt 6 nước, v.v.. Cuối thời Đông Chu, chỉ
còn 5 nước lớn: Tống, Sở, Tề, Tần, Việt và 4 nước nhỏ sắp bị diệt là Lỗ,
Tống, Trịnh, Vệ. Sau bao cuộc chinh phạt đẫm máu lẫn nhau, đến thời Chiến
quốc, chỉ còn 7 nước là Tề, Tần, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy (được gọi là thất
hùng).
Thứ đến, chiến tranh loạn lạc, trật tự lễ nghĩa băng hoại đã xô đẩy
người dân đến cùng khổ, mất mát. Trước áp lực đòi hỏi của cuộc chiến, các
lãnh chúa, quý tộc tăng cường mộ phu, bắt lính, bóc lột tàn khốc nhân dân lao
động. Người dân phải gánh chịu sưu cao, thuế nặng, phu phen, lao dịch nặng
nề. Dân lưu vong “đồng trong, ruộng ngoài bỏ hoang”. Không những thế, dân
còn chịu sự cướp bóc, đàn áp của các lãnh chúa, quý tộc. Họ đã không từ một
thủ đoạn nào để chiếm đoạt ruộng đất, cưỡng bức dân lành.
Chiến tranh giữa các nước chư hầu còn góp phần phá vỡ lễ nghĩa nhà
Chu, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi, các tệ nạn xã hội ngày càng gia
tăng và mang tính phổ biến như “tiếm ngôi việt vị”, chư hầu chiếm dụng lễ
nghĩa của thiên tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa của chư hầu, chế độ triều
cống cũng bị các chư hầu tự ý gạt bỏ. Thậm chí, các nước chư hầu lớn còn
mệnh danh thiên tử bắt các chư hầu nhỏ cống nạp và lệ thuộc vào mình. Theo
Tử Sản, mỗi lần nước Trịnh cống nạp cho nước Tấn “phải dùng đến một trăm
xe chở lụa và da thú, mà một trăm xe thì phải cả một ngàn người phục vụ”
[14, tr.35]. Ngoài ra, trong xã hội, cảnh bề tôi giết vua, anh em, vợ chồng sát
hại lẫn nhau thường xuyên xảy ra. Trước cảnh lễ nghĩa, cương thường đảo
lộn, đạo đức suy đồi, khiến Tề Cảnh Công phải than rằng: “Nghĩ như vua
chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, ở trong tình
cảnh hỗn loạn như thế, dẫu ta có lúa đầy kho, có giữ được mà ăn chăng?” (Tín
như quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc
nhi thực chư?) [17, tr.189]. Điều này cũng đã góp phần lý giải tại sao các bậc
quân tử, ẩn sĩ thời Khổng Tử đã phải thốt lên: “Khắp thiên hạ đều loạn lạc
như nước đổ cuồn cuộn. Ai có thể thay đổi được?” (Thao thao giả thiên hạ
29
giai thị dã. Nhi thùy dĩ dịch chi?) [18, tr.288 - 289]. Theo Khổng Tử, tất cả
thảm trạng xã hội trên, không phải nguyên nhân của một sớm một chiều, mà
nó đã âm ỉ, mục ruỗng từ lâu. Điều đó, chứng tỏ chế độ lễ nghĩa nhà Chu đã
trở thành hình thức, sáo rỗng, giả tạo. Việc “tang viếng, tế lễ, chúc mừng” chỉ
là những thủ tục ngoại giao, đối phó, đạo đức giả; chứ không còn hàm chứa
sự cung kính, đạo đức, bổn phận của quan hệ thân tộc và trật tự xã hội nữa.
Kết cục, những cuộc chiến tranh triền miên, tàn khốc giữa các chư
hầu, quý tộc đã không những không khôi phục lại địa vị tông chủ của nhà
Chu, mà còn thúc đẩy mâu thuẫn xã hội thời Xuân thu lên đến đỉnh cao, đưa
chế độ chiếm hữu nô lệ lao nhanh đến giờ phút cáo chung. Đó cũng là xu thế
tất yếu của lịch sử.
Thời Chiến quốc (475 – 221 tr.CN), tuy các cuộc chiến tranh và mâu
thuẫn xã hội từ thời Xuân thu vẫn tiếp tục và ngày càng diễn ra gay gắt và có
phần phức tạp hơn, nhưng về kinh tế, vẫn có bước phát triển mạnh mẽ. Trước
hết, là nghề luyện sắt đã không ngừng được mở rộng về quy mô, nâng cao về
kỹ thuật. Đó là sự ra đời của các trung tâm luyện sắt lớn, như trung tâm Hàm
Đan ở nước Triệu, Đường Khê ở nước Hàn, Lâm Truy ở nước Tề… Người
Trung Quốc thời đó vì thế đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong phú như
kinh nghiệm chọn khoáng sản, nhiên liệu, lò luyện, quạt gió, nóng chảy, đúc,
v.v.. Đặc biệt, một trong những khâu then chốt của luyện và nung đúc sắt là
kỹ thuật xử nhiệt, kỹ thuật xử lý tụ lửa đã đạt tới trình độ cao. Chính sự phát
triển của nghề luyện và nung đúc sắt đã tạo ra nhiều công cụ sản xuất như:
lưỡi cày, liềm, cuốc, rìu, dao… được sử dụng phổ biến. Điều đó, có ý nghĩa
quyết định trực tiếp đến sự phát triển, mở rộng của kỹ thuật thủy lợi và canh
tác, khai khẩn đất đai. Giờ đây, các công trình thủy lợi được xây dựng khắp
nơi từ lưu vực Hoàng Hà tới lưu vực Trường Giang, từ biển phía Đông đến
vùng Tứ Xuyên. Năm 597 tr.CN, Tôn Thúc Ngao của nước Sở từng chủ trì
xây dựng thủy khố theo mô hình lớn đầu tiên của Trung Quốc… công trình
tưới tiêu trữ nước Thược Pha. Từ năm 256 đến 251 tr.CN, Thái thú Lý Băng
30
của quận Thục nước Tần và con trai là Nhị Lang lãnh đạo nhân dân Tứ Xuyên
xây dựng công trình thủy lợi chủ chốt bờ đập Đô Giang nổi tiếng, trở thành
một kỳ tích trong lịch sử thủy lợi của Trung Quốc cổ đại, và cũng là một kỳ
tích trong lịch sử thủy lợi thế giới. Ngoài đập Đô Giang tiêu biểu, thời Tần
còn có kênh đào Trịnh Quốc do một người tên là Trịnh Quốc thiết kế. Nó có
tác dụng dẫn nước từ huyện Kinh (Thiểm Tây) vào Lạc Thủy, dài hơn 3000
dặm, biến hơn 200 vạn mẫu đất phèn chua của bình nguyên Quan Trung thành
đất canh tác đạt sản lượng cao. Đặc biệt, Tần Thủy Hoàng đế sau khi thống
nhất Trung Quốc, đã chú ý đến vấn đề giao thông vùng Tây Nam, giải quyết
vấn đề vận chuyển quân lương, sai sứ Lộc đào kênh Linh ở huyện Hưng An –
Quảng Tây dài hơn 30 dặm với thiết kế, bố cục đều rất khoa học, giữ vị trí
huy hoàng trong lịch sử hàng hải thế giới.
Cùng với thủy lợi là sự phát triển của nghề thủ công, như nghề làm đồ
gốm, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, nghề chạm trổ vàng bạc, tiền kim loại
ra đời. Người Trung Quốc đã dùng khuôn kim loại để đúc tiền. Sự ra đời của
đồng tiền bằng kim loại đã trở thành một bộ phận quan trọng cấu thành sinh
hoạt xã hội, kinh tế của Trung Quốc lúc bấy giờ, đã góp phần thúc đẩy mạnh
mẽ việc trao đổi, buôn bán hàng hóa. Những nơi như Hàm Dương nước Tần,
Thọ Xuân nước Sở, Lâm Truy nước Tề, Khai Phong nước Ngụy… đã trở
thành những trung tâm kinh tế sầm uất. Ngoài ra, xã hội Xuân thu – Chiến
quốc đã có các thành tựu sau:
Về thiên văn học, lúc bấy giờ người Trung Quốc đã biết sử dụng la
bàn, biết phân biệt và hệ thống vị trí của các vì sao. Đặc biệt, họ chỉ căn cứ
vào vị trí và tính chất của 28 ngôi sao, gọi là “nhị thập bát tú” để xây dựng lên
một thứ lịch âm rất khoa học. Trong lĩnh vực Y dược học, họ đã biết được các
vị thuốc cũng như các phương pháp chữa bệnh cơ bản. Qua thực tiễn lâm sàng
hết sức phong phú, họ đã biết cách tổng kết và viết ra những cuốn sách lý luận
y dược học đầu tiên hết sứ quý báu như Hoàng đế nội kinh, Thần Nông bản
thảo. Những danh y nổi tiếng xuất hiện như Biển Thước, Y Hòa v.v..
31
Về toán học, thời này cũng đã đạt được trình độ khá cao. Các nhà toán
học đã biết được các quan hệ về tỷ lệ giữa cạnh và góc trong một hình tam
giác, biết cách tính diện tích của các hình như hình vuông, hình tròn, biết sáng
chế và quy đổi giữa các đơn vị về đo lường…
Về nông học, họ đã có những kinh nghiệm khoa học đáng quý như
cách trị thủy đối với các con sông lớn, kỹ thuật “dẫn thủy nhập điền”, các
phương pháp về chuyên canh các loại cây lương thực…
Về văn học, họ đã để lại nhiều tác phẩm văn học quan trọng như Kinh
Thi (một tuyển tập thi ca gồm 305 bài thơ được nhân dân Trung Quốc cổ đại
sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm từ thời Tây Chu đến thời Xuân thu).
Về sử học, thời cổ đại người Trung Quốc đã sáng tạo ra nhiều bộ sử
có giá trị như Xuân thu, Tả truyện, Quốc ngữ…
Tuy nhiên, chiến tranh với tính chất tàn khốc, diễn ra triền miên giữa
các nước chư hầu đã đẩy cuộc sống của nhân dân lao động ngày càng cùng
cực, đau khổ. Mạnh Tử đã thốt lên rằng: “Đánh nhau tranh thành, giết người
thây chất đầy thành, đánh nhau giành đất, giết người thây chất đầy đồng”.
“Càng về cuối thời Chiến quốc, tình cảnh càng bi đát: Nước Vệ bắt lính tới 1
phần 5 dân số, nước Tấn bắt ông già 73 tuổi ra tòng quân, nước Tề thu thuế
của dân tới 2 phần 3 hoa lợi, ruộng đất bỏ hoang, có kẻ đói quá, phải đổi con
cho nhau mà ăn thịt” [52, tr.34]. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển mạnh
của nền kinh tế hàng hóa, sự biến đổi của đời sống xã hội đã phá vỡ chế độ
công xã nông thôn. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần dần trở thành
quan hệ sở hữu thống trị, chế độ thu thuế tính theo số lượng ruộng đất ra đời,
thay thế cho chế độ thu thuế dựa vào sản lượng. Đặc biệt, giờ đây việc mua
bán ruộng đất tự do diễn ra mạnh mẽ và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã mở
đường, tạo cơ hội cho việc tích tụ, tập trung ruộng đất vào tay lãnh chúa, địa
chủ thắng trận, giàu có. Và, hậu quả tất yếu dẫn đến với đa số nông dân là mất
ruộng đất, phải đi cày thuê, cấy mướn, trở thành những tá điền, cố nông suốt
đời và thậm chí còn diễn ra nhiều đời. Chế độ bóc lột mới bằng phát canh thu
32
tô xuất hiện. Trong lòng xã hội, nảy sinh những yếu tố của quan hệ sản xuất
mới. Mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, đã đẩy xã hội đến nguy cơ đảo
lộn nghiêm trọng. Thực tiễn đòi hỏi cần phải có sự thay đổi về đường lối,
chính sách cai trị mới có thể cứu vớt nguy cơ thời cuộc. Hơn ai hết, giai cấp
thống trị đã nhận thấy điều đó, nên họ đã tiến hành một số biện pháp cải cách
nhằm ngăn chặn nguy cơ đảo lộn xã hội. Đó là phong trào “Biến pháp” diễn
ra trong suốt thời Chiến quốc ở một loạt nước như: Ngụy, Triệu, Hàn, Tề,
Tần. Thế kỷ thứ VI trước công nguyên, ở nước Tề, Quản Trọng đã nêu ra
đường lối trị nước là phải dựa vào lễ, và dựa vào hình luật. Dựa vào hình luật
phải đề cao: “Luật, hình, lệnh, chính”. Theo ông, luật pháp là phải công khai
rõ ràng, phải dạy cho dân biết luật pháp và khi thực hành phải giữ lòng tin đối
với dân. Đề cao pháp luật, nhưng không được xem nhẹ nhân, nghĩa, lễ, trí
trong phép trị nước. Thế kỷ thứ VI trước công nguyên, Đặng Tích ở nước
Trịnh còn chép hình như trên thẻ tre, gọi là “trúc hình” ban bố rộng rãi cho
dân chúng.
Vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, Tử Sản ở nước Trịnh cho đúc
“hình đỉnh”, ban bố pháp luật trên đỉnh đồng để mọi người biết và thực hiện.
Trong hàng loạt các “Biến pháp” trên, thì chủ trương “Biến pháp” của
Thương Ưởng là có hiệu quả nhất đối với nhà Tần. Vào năm 359 trước công
nguyên, ông đề xuất cải cách về luật pháp với những nội dung: xóa bỏ chế độ
“tông pháp”, xây dựng chế độ quận huyện; tổ chức liên gia, thực hiện chính
sách cáo gian, khuyến khích khai hoang, cày cấy nuôi tằm dệt lụa; thực hiện
thưởng phạt nghiêm minh. Đến năm 350 trước công nguyên, Thương Ưởng
tiếp tục đẩy mạnh cải cách, nhưng lần này chủ yếu thiên về hành chính và tài
chính: Khuyến khích khai hoang, thực hiện một thứ thuế thống nhất và công
bằng cho mọi người, thống nhất đồ đo lường… Tư tưởng xuyên suốt trong
phép trị nước của Thương Ưởng là đề cao pháp luật. Theo ông, pháp luật phải
tôn nghiêm, ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới đều phải thi hành,
ai có tội thì phải phạt và phạt nặng. Đó là cách “dĩ hình khử hình” (dùng hình
33
phạt để trừ bỏ hình phạt). Nhờ những cải cách và sử dụng pháp trị của
Thương Ưởng mà chỉ trong một thời gian ngắn, nước Tần đã trở thành nước
hùng mạnh nhất, lần lượt đánh bại sáu nước Ngụy, Tề, Sở, Yên, Hàn và Triệu
chấm dứt cuộc chiến tranh liên miên tàn khốc, thống nhất Trung Quốc, xác
lập chế độ phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên vào năm 221 trước công
nguyên. Đó là đế chế Tần mà người có công thống nhất đất nước là A Chính
(tức Tần Thủy Hoàng đế).
Như vậy, những biến đổi toàn diện, phức tạp và sâu sắc của xã hội
Trung Quốc cổ đại từ Hạ, Thương, Chu đến thời Xuân thu - Chiến quốc đã
đặt ra hàng loạt những vấn đề về triết học, chính trị - xã hội, đạo đức, pháp
luật, quân sự… thúc đẩy, yêu cầu các triết gia, các nhà tư tưởng đương thời
phải trăn trở, tìm hiểu, nghiên cứu để đưa ra những diệu kế, những phương
pháp thực tiễn hơn để cứu đời, “tề gia trị quốc bình thiên hạ”, cho nên, thời kỳ
này đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng thiên tài, nhiều trường phái triết học lớn.
Nó đã thực sự trở thành điểm đỉnh của toàn bộ đời sống văn hóa tinh thần xã
hội Trung Quốc cổ đại, như một mốc son chói lọi trong lịch sử tư tưởng
phương Đông. Như vậy, triết học cổ đại đã thực sự là một hình thái ý thức xã
hội phản ánh những điều kiện kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại.
Sự phong phú, đa dạng của các hệ thống triết học thời Xuân thu -
Chiến quốc khiến người ta phải gọi là thời kỳ “Bách gia chư tử” như trăm hoa
đua nở, trăm nhà đua tiếng (Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh). Mỗi
phái có hệ thống lý luận riêng cho việc trị nước, an dân, bình thiên hạ. “Phái
thì chủ trương nhân trị, phái thì lại bảo nếu người nào cũng yêu người khác
như người thân của mình thì không cần ai tranh giành với ai mà xã hội sẽ yên.
Phái thì lại bảo phải trở về với thời thượng cổ, nhà cầm quyền không can
thiệp vào công việc của dân, để dân sống một thời chất phác, hết ham muốn,
hết tranh giành; kẻ thì lại bảo phải dùng pháp luật cho nghiêm, thưởng phạt
công bằng thì nhà cầm quyền chẳng cần tài đức mà nước cũng trị” [8, tr.104].
Cho dù mỗi trường phái triết học kể trên là đại diện cho tiếng nói của mỗi
34
tầng lớp, giai cấp khác nhau, nhưng chúng đều được nhà cầm quyền khai thác
sử dụng, dù có thuyết bị chê là vu khoát không theo được. Vì vậy, thời Chiến
Quốc trở thành thời đại hoàng kim của triết học; ngôn luận được hoàn toàn tự
do bàn cãi, tranh luận không chỉ diễn ra giữa các trường phái triết học đối lập
với nhau, mà còn diễn ra giữa các triết gia trong cùng một trường phái.
Song, trong thời Xuân thu - Chiến quốc, có một học thuyết là cơ sở
của nhiều học thuyết khác là học thuyết Ngũ hành của trường phái Âm dương
gia. Phái Âm dương gia bắt đầu là Trâu Tạng sống trước Mạnh Tử. Và sau
Mạnh Tử, Trâu Diễn khởi xướng mạnh mẽ và đứng đầu học phái Âm dương
gia. Đa phần triết gia thuộc nước Tề chú trọng đến cái gọi là “thiên nhân chi
tế” (quan hệ giữa trời và người), đề xướng học thuyết Ngũ hành Âm dương.
Học thuyết Ngũ hành được đề cập trong nhiều học phái, kinh điển khác bắt
nguồn từ Kinh Thư, Tả truyện, Quốc ngữ đến các sách như Mạnh Tử (phái
“Nhân trị”), sách Lã thị xuân thu (phái Tạp gia), sách Hoàng đế nội kinh (phái
y học phương Đông).
Như vậy, tiến trình một giai đoạn dài từ Tây Chu, đến thời Xuân thu –
Chiến quốc, thời Tần, tư tưởng là phát triển từ năm vật chất cơ bản (kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ) của tư tưởng Ngũ hành họ đã phát triển bằng cách “quy làm
các thuộc tính vật chất” để quy về Ngũ hành ban đầu. Như vậy, từ giai đoạn
này tư tưởng Ngũ hành được biểu hiện ra tự nhiên rồi đến xã hội, cuối cùng là
con người. Ở con người, Ngũ hành được quy làm với ngũ tạng, lục phủ, ngũ
quan, ngũ tình… đóng góp bước đầu tư tưởng y học cổ truyền phương Đông
sau này trở thành lý luận y học cổ truyền phương Đông qua bộ Hoàng Đế Nội
kinh. Bởi vì bộ Hoàng Đế Nội kinh là do một loạt tác giả có trong nhân dân
Trung Quốc được kéo dài hình thành qua nhiều thời kỳ song song với sự hình
thành tư tưởng Ngũ hành. Thời kỳ này cũng đã xảy ra hàng loạt chiến tranh
tàn khốc đã dẫn đến người Trung Quốc thời Xuân thu – Chiến quốc, nhà Tần
đã dẫn đến nhận các hành, các hiện tượng xã hội, lịch sử theo sự quy loài tính
chất của Ngũ hành đã xuất hiện tính tương khắc của các hành, các hiện tượng
35
xã hội, lịch sử theo sự quy loài tính chất của Ngũ hành (sách Mạnh Tử). Như
vậy, từ điều kiện kinh tế xã hội từ thời Xuân thu – Chiến quốc, thời nhà Tần,
học thuyết Ngũ hành đã dần hoàn thiện từ khám phá năm yếu tố vật chất ban
đầu, dần họ đã “quy loài theo tính chất” từ tự nhiên, xã hội, con người rất
phong phú và toàn diện, tiếp theo họ phát hiện quy luật tương khắc. Bao nhiêu
khám phá thực tiễn đó của người Trung Quốc, họ đã xây dựng học thuyết Ngũ
hành và sang đời Hán, với nhà tư tưởng Đổng Trọng Thư bổ sung và hoàn
thiện học thuyết Ngũ hành từ các dạng vật chất cơ bản đến các quy luật. Từ
điều kiện kinh tế - xã hội, người Trung Quốc cổ đại đã đóng góp một tư tưởng
duy vật tiến bộ ban đầu có giá trị khoa học cho việc giải thích mới về thế giới.
1.1.2. Nhu cầu tìm hiểu, giải thích thế giới của người Trung Quốc
cổ đại với sự hình thành học thuyết Ngũ hành
Khi con người xuất hiện trên trái đất này, từ ngàn xưa, thì con người
đã có nhu cầu tồn tại và phát triển. Muốn vậy họ cần phải hiểu, phải giải thích
được thế giới chung quanh. Con người Trung Quốc thời cổ đại cũng đã có
nhu cầu đó.
Cũng như một số nền triết học cổ đại khác, ngay từ thời nhà Hạ,
những mầm mống đầu tiên của triết học đã xuất hiện. Nhưng do trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất còn cực kỳ thấp kém và do sự hạn chế về năng
lực nhận thức, đứng trước các thế lực của tự nhiên vô cùng mạnh mẽ luôn
luôn đe dọa tới đời sống con người như sấm sét, mưa bão, lụt lội, hạn hán,
dịch bệnh, thú dữ, v.v.. người Trung Quốc cổ đại đã giải thích chúng bằng
những biểu tượng và những quan niệm có tính chất hoang đường, thần bí. Các
bằng chứng khảo cổ học đã cho thấy, ngay từ thời kỳ nguyên thủy, người
Trung Quốc cổ đại đã có quan niệm về sự bất tử của linh hồn, xuất hiện các
hiện tượng sùng bái, tôn thờ uy thế của những lực lượng tự nhiên, biểu tượng
cho ý chí, sức mạnh huyết thống của tổ tiên bộ lạc mình.
Bước sang giai đoạn tiếp theo, dưới các triều đại Ân Thương, Tây
Chu, thế giới quan thần thoại tôn giáo, duy tâm chủ nghĩa trở thành hình thái
36
ý thức chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Tư tưởng thờ
Trời (Thượng đế), đề cao vai trò của Thiên tử (vai trò của các bậc vua chúa
trong xã hội) đã thành ý thức thường trực và chi phối hành vi của rất nhiều
người trong xã hội.
Trải qua hành động thực tiễn lâu dài, những tri thức khoa học mà nhân
dân Trung Quốc lần lượt đạt được, bước sang thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc
đã góp phần thúc đẩy đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Hơn thế nữa,
nó đã góp phần phát triển trình độ nhận thức, làm cơ sở cho thế giới quan triết
học nảy nở và phát triển sau này.
Chính trong thời đại lịch sử biến đổi toàn diện và sâu sắc đó đã đặt ra
các vấn đề triết học, chính trị - xã hội, luân lý đạo đức, pháp luật, quân sự,
ngoại giao… và đã kích thích trí tuệ con người, khiến các bậc danh sĩ đương
thời quan tâm lý giải để tìm ra phương pháp giải quyết “cứu đời, cứu người”
làm nảy sinh một loạt các nhà tư tưởng và các học phái nổi tiếng. Sự phong
phú đa dạng, đan xen và có phần quyết liệt của các học phái triết học trong
thời Xuân thu - Chiến quốc, khiến người ta phải gọi đó là thời kỳ “Bách gia
chư tử” (trăm nhà nhiều thầy), có khi gọi là thời kỳ “Bách gia tranh minh,
bách hoa tề phóng” (Trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở).
Như vậy có thể nói, chính các điều kiện về lịch sử, kinh tế, chính trị,
xã hội đầy biến động và phức tạp của thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc đã làm
cho các tư tưởng triết học của Trung Quốc cổ đại vốn bắt nguồn từ thần thoại
và tôn giáo thời cổ, đến thời kỳ này đã được hình thành bằng các hệ thống tri
thức lý luận chặt chẽ. Vì vậy, nó không chỉ giữ vai trò là cơ sở của thế giới
quan, nhân sinh quan mà còn là cơ sở để tạo ra phương pháp luận trong hoạt
động của người Trung Quốc thời cổ.
Chính trong bối cảnh đó, một trong những học thuyết triết học duy vật
Trung Quốc thời cổ đã hình thành và phát triển. Nó không chỉ để lại một dấu
ấn quan trọng trong sự phát triển của thời kỳ “Bách gia chư tử”, mà còn có
37
một ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của tư tưởng triết học duy vật
Trung Quốc mãi về sau, đó là thuyết Âm dương – Ngũ hành.
Học thuyết Âm dương – Ngũ hành đối lập với những quan điểm duy
tâm và tôn giáo, biểu hiện những tư tưởng duy vật chất phác và có tính chất
vô thần, tiến bộ, khẳng định vị trí và tác dụng hoạt động của con người trong
xã hội cũng như trong quan hệ với tự nhiên. Một số nhà tư tưởng đã giải thích
sự biến hóa của tự nhiên bằng sự hiểu biết về thiên văn và địa lý học. Bá Văn
Dương nhân vụ địa chấn năm 780 trước công nguyên đã cho rằng, thế lực
dương bị thế lực âm đè nén nên không thể lộ ra được tác dụng của nó nên sinh
ra động đất (theo Quốc ngữ). Quan sử Thúc Hưng lại quan niệm những hiện
tượng lạ lùng do tự nhiên sinh ra “là việc của Âm Dương”, không thể chi phối
được họa phúc vận mệnh của con người (theo Tả truyện).
Nổi bật trong tất cả các tư tưởng duy vật sơ khai thời đó là quan niệm
về sự tác động phối hợp của Ngũ hành, tức là năm yếu tố vật chất cơ bản đầu
tiên tạo thành vạn vật vũ trụ. Đó là các yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ
được thấy trong Kinh Thư, thiên Hồng phạm. Tư tưởng đó thể hiện rõ tính
chất duy vật chất phác và biện chứng tự phát trong tư duy người Trung Quốc
cổ đại, là Kinh Dịch.
Có thể nói học thuyết Ngũ hành là học thuyết triết học quan trọng
trong tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại, phản ánh sự vận động biến hóa và
liên hệ lẫn nhau của các sự vật trong vũ trụ qua sự liên hệ, tương tác giữa các
hành chất tự nhiên cơ bản nhất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sự xuất hiện
của quan niệm Ngũ hành đánh dấu bước chuyển đầu tiên trong tư duy khoa
học của người Trung Quốc cổ đại nhằm thoát khỏi sự chi phối của thế giới
quan thần thoại và tôn giáo truyền thống ở Trung Quốc thời đó. Tư tưởng sâu
sắc của học thuyết Ngũ hành không những ảnh hưởng đến đời sống nhân dân
Trung Quốc cổ đại, mà còn ảnh hưởng đến quan điểm tư tưởng của hầu hết
các môn phái triết học sau này.
38
Như vậy, dưới các triều đại Thương Ân và Tây Chu, các tư tưởng triết
học Trung Quốc cổ đại đã được nảy sinh. Bên cạnh thế giới quan thần thoại,
tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí chiếm địa vị thống trị trong đời sống
tinh thần của con người, thì chính sự biến đổi của đời sống hiện thực, thực
tiễn sản xuất, cải tạo xã hội đã làm xuất hiện những quan điểm có tính chất
duy vật, chất phác. Đó là bước tiến quan trọng của người Trung Quốc cổ đại
trong quá trình lý giải thế giới xung quanh và sự nhận thức về mình. Tuy còn
hết sức thô sơ nhưng chủ nghĩa duy vật và vô thần hình thành trong thời kỳ
Thương Ân và Tây Chu thực sự là tư tưởng mở đường cho sự phát triển của
triết học Trung Quốc trong thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc sau này.
Phân tích về sự xuất hiện học thuyết Ngũ hành ta thấy, Cam thệ nói về
lịch sử đầu đời Hạ, còn Hồng phạm nói rằng Ngũ hành là cái mà Trời ban cho
Đại Vũ. Hai thiên Cam thệ và Hồng phạm cho thấy rằng học thuyết Ngũ hành
được nảy sinh đầu đời Hạ. Trước đây, nhiều người bác bỏ quan niệm học
thuyết Ngũ hành bắt nguồn từ đời Hạ (khoảng 2205 – 1776 tr.CN), vì họ cho
rằng đời Hạ chưa có kim loại. Chưa có kim loại thì chưa có cơ sở để tạo ra
khái niệm về hành Kim. Tuy nhiên, những khai quật khảo cổ tại di chỉ Nhị Lý
Đầu văn hóa (tương đương đời Hạ) và di chỉ Long Sơn văn hóa cho thấy đời
Hạ đã biết chế tạo những vật dụng bằng đồng. Điều này cho thấy người đời
Hạ đã biết luyện kim, mà Kim là một trong ngũ hành, do đó học thuyết Ngũ
hành bắt nguồn từ đời nhà Hạ cũng là hợp lý.
Yếu tố đầu tiên mà người Trung Quốc cổ đại biết đến là nước (Thủy),
vì sự sống nhờ nước, sau đó họ biết đến cây trái (Mộc), và ruộng đất (Thổ),
trồng trọt và đặc biệt tiếp theo là sự khám phá ra lửa (Hỏa) để họ sưởi ấm và
nấu chín thức ăn. Có thể thấy từ xa xưa bốn hành thủy, hỏa, mộc, thổ liên
quan mật thiết với đời sống con người. Sau cùng, việc phát hiện kim loại và
ứng dụng nó vào đời sống làm cho văn hóa nhân loại phát triển đáng kể.
Ngay từ đầu, học thuyết ngũ hành chỉ là năm yếu tố vật chất đơn thuần
giữ vai trò quan trọng trong sinh hoạt và lao động của con người. Rồi sau đó
39
tư tưởng triết học về Ngũ hành mới được nảy sinh. Học thuyết Ngũ hành xuất
phát từ thực tế cuộc sống từ thời nhà Hạ qua Cam thệ và Hồng phạm, theo
thời gian nó phát triển thành lý luận triết học với học phái Âm dương gia và
nhanh chóng có ảnh hưởng tới các học phái khác do tính thiết thực của nó, chi
phối rất nhiều lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội, con người.
Học thuyết Ngũ hành với những tư tưởng Kinh Dịch
Từ điều kiện kinh tế, xã hội chính trị của thời Trung Quốc cổ đại,
người dân có nhu cầu giải thích tự nhiên xã hội, học thuyết Ngũ hành cùng
với tư tưởng Kinh Dịch là cơ sở tư tưởng duy vật đầu tiên tuy còn thô sơ
nhưng đã đặt nền móng lý giải triết học khoa học cho con người. Phùng Hữu
Lan có nói về Kinh Dịch trong các góc độ như sau:
“Khổng Tử nói: Dịch bắt đầu từ Thái cực. Thái cực phân ra làm hai,
cho nên sinh ra trời đất. Trời đất có thời tiết xuân thu đông hạ, cho nên sinh ra
bốn mùa. Mỗi mùa đều có sự phân biệt Âm và Dương, cương và nhu, cho nên
sinh ra Bát quái. Bát quái được phân bố vị trí, thì đạo của trời đất thành lập,
và các biểu tượng sấm, gió, nước, lửa, núi, ao đầm được ấn định. Sự phân bố
của chúng là để áp dụng vào sự việc. Chấn sinh vạn vật ở hướng đông, vị trí ở
tháng 2. Tốn phân tán vạn vật ở hướng đông nam, vị trí ở tháng 4. Ly tăng
trưởng vạn vật ở hướng nam, vị trí ở tháng 5. Khôn nuôi dưỡng vạn vật ở
hướng tây nam, vị trí ở tháng 6. Đoài thu vạn vật ở hướng tây, vị trí ở tháng 8.
Càn chế tạo vạn vật ở hướng tây bắc, vị trí ở tháng 10. Khảm cất chứa vạn vật
ở hướng bắc, vị trí ở tháng 11. Cấn đánh dấu khởi thủy và chung cuộc của vạn
vật ở hướng đông bắc, vị trí ở tháng 12. Khí của Bát quái hết, thì bốn hướng
chính và bốn hướng phụ phân minh, đạo sinh-trưởng-thu-tàng hoàn bị, các thể
Âm Dương ổn định, đức của thần minh thông suốt, và vạn vật mỗi thứ hoàn
thành chủng loại của mình. Chúng đều được bao gồm trong Dịch. Đức của
Dịch lớn lắm thay” [52, tr.96]. Trong đoạn giải thích này lý giải sự xuất hiện
của Lưỡng nghi (sự phân hai của Thái cực), bốn mùa (tương ứng với Tứ
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

BỎNG
BỎNGBỎNG
BỎNGSoM
 
BÀI GIẢNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
BÀI GIẢNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNHBÀI GIẢNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
BÀI GIẢNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNHSoM
 
Vai trò-bổ-thể
Vai trò-bổ-thểVai trò-bổ-thể
Vai trò-bổ-thểNhung Le
 
Sinh Lý Neuron - Thần Kinh
Sinh Lý Neuron - Thần KinhSinh Lý Neuron - Thần Kinh
Sinh Lý Neuron - Thần KinhViet Nguyen
 
HOẠT ĐỘNG ĐIỆN TIM
HOẠT ĐỘNG ĐIỆN TIMHOẠT ĐỘNG ĐIỆN TIM
HOẠT ĐỘNG ĐIỆN TIMSoM
 
Giáo trình tâm lý học đại cương
Giáo trình tâm lý học đại cươngGiáo trình tâm lý học đại cương
Giáo trình tâm lý học đại cươngjackjohn45
 
Đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng thức ăn nhanh của sinh viên tại thị ...
Đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng thức ăn nhanh của sinh viên tại thị ...Đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng thức ăn nhanh của sinh viên tại thị ...
Đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng thức ăn nhanh của sinh viên tại thị ...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Khái niệm biến số và yếu tố nhiễu
Khái niệm biến số và yếu tố nhiễuKhái niệm biến số và yếu tố nhiễu
Khái niệm biến số và yếu tố nhiễuSoM
 
218 mau slide lam bao cao de tai nckh cua hs sv
218 mau slide lam bao cao de tai nckh cua hs sv218 mau slide lam bao cao de tai nckh cua hs sv
218 mau slide lam bao cao de tai nckh cua hs svTuan Hoang
 
Tổng hợp câu hỏi thi
Tổng hợp câu hỏi thiTổng hợp câu hỏi thi
Tổng hợp câu hỏi thiLj Nguyen
 
CáC VấN đề Về TăNg DâN Số
CáC VấN đề Về TăNg DâN SốCáC VấN đề Về TăNg DâN Số
CáC VấN đề Về TăNg DâN SốNam Tran
 
Bài giảng hóa học acid nucleic
Bài giảng hóa học acid nucleicBài giảng hóa học acid nucleic
Bài giảng hóa học acid nucleicLam Nguyen
 
BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: DƯỢC LÝ: THUỐC GIẢM ĐAU LOẠI MORPHIN
BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: DƯỢC LÝ: THUỐC GIẢM ĐAU LOẠI MORPHIN BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: DƯỢC LÝ: THUỐC GIẢM ĐAU LOẠI MORPHIN
BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: DƯỢC LÝ: THUỐC GIẢM ĐAU LOẠI MORPHIN nataliej4
 
Viêm mũi dị ứng trẻ em luận án tiến sĩ Vũ Trung Kiên
Viêm mũi dị ứng trẻ em luận án tiến sĩ Vũ Trung KiênViêm mũi dị ứng trẻ em luận án tiến sĩ Vũ Trung Kiên
Viêm mũi dị ứng trẻ em luận án tiến sĩ Vũ Trung KiênBệnh Hô Hấp Mãn Tính
 
Giáo Trình Lý Sinh Y Học NXB Y Học
Giáo Trình Lý Sinh Y Học NXB Y HọcGiáo Trình Lý Sinh Y Học NXB Y Học
Giáo Trình Lý Sinh Y Học NXB Y Họcbuiquangthu90
 
Trac nghiem hoa sinh
Trac nghiem hoa sinhTrac nghiem hoa sinh
Trac nghiem hoa sinhVũ Thanh
 

Mais procurados (20)

BỎNG
BỎNGBỎNG
BỎNG
 
BÀI GIẢNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
BÀI GIẢNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNHBÀI GIẢNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
BÀI GIẢNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
 
Vai trò-bổ-thể
Vai trò-bổ-thểVai trò-bổ-thể
Vai trò-bổ-thể
 
Sinh Lý Neuron - Thần Kinh
Sinh Lý Neuron - Thần KinhSinh Lý Neuron - Thần Kinh
Sinh Lý Neuron - Thần Kinh
 
HOẠT ĐỘNG ĐIỆN TIM
HOẠT ĐỘNG ĐIỆN TIMHOẠT ĐỘNG ĐIỆN TIM
HOẠT ĐỘNG ĐIỆN TIM
 
Giáo trình tâm lý học đại cương
Giáo trình tâm lý học đại cươngGiáo trình tâm lý học đại cương
Giáo trình tâm lý học đại cương
 
dược lý
dược  lýdược  lý
dược lý
 
Đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng thức ăn nhanh của sinh viên tại thị ...
Đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng thức ăn nhanh của sinh viên tại thị ...Đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng thức ăn nhanh của sinh viên tại thị ...
Đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng thức ăn nhanh của sinh viên tại thị ...
 
Khái niệm biến số và yếu tố nhiễu
Khái niệm biến số và yếu tố nhiễuKhái niệm biến số và yếu tố nhiễu
Khái niệm biến số và yếu tố nhiễu
 
Đề Tài cong tac tiem chung
Đề Tài cong tac tiem chungĐề Tài cong tac tiem chung
Đề Tài cong tac tiem chung
 
218 mau slide lam bao cao de tai nckh cua hs sv
218 mau slide lam bao cao de tai nckh cua hs sv218 mau slide lam bao cao de tai nckh cua hs sv
218 mau slide lam bao cao de tai nckh cua hs sv
 
Tổng hợp câu hỏi thi
Tổng hợp câu hỏi thiTổng hợp câu hỏi thi
Tổng hợp câu hỏi thi
 
Ma trận SWOT trong chiến lược kinh doanh của Công ty Dược
Ma trận SWOT trong chiến lược kinh doanh của Công ty DượcMa trận SWOT trong chiến lược kinh doanh của Công ty Dược
Ma trận SWOT trong chiến lược kinh doanh của Công ty Dược
 
CáC VấN đề Về TăNg DâN Số
CáC VấN đề Về TăNg DâN SốCáC VấN đề Về TăNg DâN Số
CáC VấN đề Về TăNg DâN Số
 
Bài giảng hóa học acid nucleic
Bài giảng hóa học acid nucleicBài giảng hóa học acid nucleic
Bài giảng hóa học acid nucleic
 
BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: DƯỢC LÝ: THUỐC GIẢM ĐAU LOẠI MORPHIN
BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: DƯỢC LÝ: THUỐC GIẢM ĐAU LOẠI MORPHIN BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: DƯỢC LÝ: THUỐC GIẢM ĐAU LOẠI MORPHIN
BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: DƯỢC LÝ: THUỐC GIẢM ĐAU LOẠI MORPHIN
 
Viêm mũi dị ứng trẻ em luận án tiến sĩ Vũ Trung Kiên
Viêm mũi dị ứng trẻ em luận án tiến sĩ Vũ Trung KiênViêm mũi dị ứng trẻ em luận án tiến sĩ Vũ Trung Kiên
Viêm mũi dị ứng trẻ em luận án tiến sĩ Vũ Trung Kiên
 
Giáo Trình Lý Sinh Y Học NXB Y Học
Giáo Trình Lý Sinh Y Học NXB Y HọcGiáo Trình Lý Sinh Y Học NXB Y Học
Giáo Trình Lý Sinh Y Học NXB Y Học
 
Trac nghiem hoa sinh
Trac nghiem hoa sinhTrac nghiem hoa sinh
Trac nghiem hoa sinh
 
Thay doi hanh vi
Thay doi hanh viThay doi hanh vi
Thay doi hanh vi
 

Semelhante a Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông

Giáo trình Triết học Marx - Lenin
Giáo trình Triết học Marx - LeninGiáo trình Triết học Marx - Lenin
Giáo trình Triết học Marx - LeninVuKirikou
 
Tài liệu triết lí
Tài liệu triết líTài liệu triết lí
Tài liệu triết líHuyTranThanh1
 
Chương 1 - Triết học Mác Lênin 2021 (edit).pptx
Chương 1 - Triết học Mác Lênin 2021 (edit).pptxChương 1 - Triết học Mác Lênin 2021 (edit).pptx
Chương 1 - Triết học Mác Lênin 2021 (edit).pptxtrinhvinhh205
 
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmacleninPhi Phi
 
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhGiao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhTrung Huynh
 
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docxNamNguyenHoang40
 
Baigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thươngBaigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thươngHoa Huong Duong
 
Giáo trình triết học
Giáo trình triết họcGiáo trình triết học
Giáo trình triết họcnataliej4
 
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431nataliej4
 
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdfDatThinh1
 
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdfladucsdh231
 
Chương-1.-Triết-học.pdf
Chương-1.-Triết-học.pdfChương-1.-Triết-học.pdf
Chương-1.-Triết-học.pdfNamDngTun
 
Báo cao copy
Báo cao   copyBáo cao   copy
Báo cao copyRa Bi
 
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC THM-L -.pdf
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC  THM-L -.pdfCHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC  THM-L -.pdf
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC THM-L -.pdfhophuonguyen2004
 
Triết học nho giáo và ảnh hưởng của triết học nho giáo đến nền văn hóa truyền...
Triết học nho giáo và ảnh hưởng của triết học nho giáo đến nền văn hóa truyền...Triết học nho giáo và ảnh hưởng của triết học nho giáo đến nền văn hóa truyền...
Triết học nho giáo và ảnh hưởng của triết học nho giáo đến nền văn hóa truyền...Huynh Loc
 
Chuong 1- Lich sử Các học thuyết kinh tế
Chuong 1- Lich sử Các học thuyết kinh tếChuong 1- Lich sử Các học thuyết kinh tế
Chuong 1- Lich sử Các học thuyết kinh tếKhải Khải
 

Semelhante a Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông (20)

Giáo trình Triết học Marx - Lenin
Giáo trình Triết học Marx - LeninGiáo trình Triết học Marx - Lenin
Giáo trình Triết học Marx - Lenin
 
Tài liệu triết lí
Tài liệu triết líTài liệu triết lí
Tài liệu triết lí
 
Chương 1 - Triết học Mác Lênin 2021 (edit).pptx
Chương 1 - Triết học Mác Lênin 2021 (edit).pptxChương 1 - Triết học Mác Lênin 2021 (edit).pptx
Chương 1 - Triết học Mác Lênin 2021 (edit).pptx
 
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
 
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhGiao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
 
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx
 
Baigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thươngBaigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thương
 
Giáo trình triết học
Giáo trình triết họcGiáo trình triết học
Giáo trình triết học
 
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431
 
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf
 
Tiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít Bêcơn
Tiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít BêcơnTiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít Bêcơn
Tiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít Bêcơn
 
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf
 
Chương-1.-Triết-học.pdf
Chương-1.-Triết-học.pdfChương-1.-Triết-học.pdf
Chương-1.-Triết-học.pdf
 
Báo cao copy
Báo cao   copyBáo cao   copy
Báo cao copy
 
Tiểu Luận Môn Chính Trị Cuộc Cách Mạng Triết Học Do Mác – Ăngghen Thực Hiện
Tiểu Luận Môn Chính Trị Cuộc Cách Mạng Triết Học Do Mác – Ăngghen Thực HiệnTiểu Luận Môn Chính Trị Cuộc Cách Mạng Triết Học Do Mác – Ăngghen Thực Hiện
Tiểu Luận Môn Chính Trị Cuộc Cách Mạng Triết Học Do Mác – Ăngghen Thực Hiện
 
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC THM-L -.pdf
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC  THM-L -.pdfCHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC  THM-L -.pdf
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC THM-L -.pdf
 
Những Nét Cơ Bản Nhất Của Lịch Sử Hình Thành Phép Biện Chứng.doc
Những Nét Cơ Bản Nhất Của Lịch Sử Hình Thành Phép Biện Chứng.docNhững Nét Cơ Bản Nhất Của Lịch Sử Hình Thành Phép Biện Chứng.doc
Những Nét Cơ Bản Nhất Của Lịch Sử Hình Thành Phép Biện Chứng.doc
 
Triết học nho giáo và ảnh hưởng của triết học nho giáo đến nền văn hóa truyền...
Triết học nho giáo và ảnh hưởng của triết học nho giáo đến nền văn hóa truyền...Triết học nho giáo và ảnh hưởng của triết học nho giáo đến nền văn hóa truyền...
Triết học nho giáo và ảnh hưởng của triết học nho giáo đến nền văn hóa truyền...
 
Triet hoc mac lenin
Triet hoc mac leninTriet hoc mac lenin
Triet hoc mac lenin
 
Chuong 1- Lich sử Các học thuyết kinh tế
Chuong 1- Lich sử Các học thuyết kinh tếChuong 1- Lich sử Các học thuyết kinh tế
Chuong 1- Lich sử Các học thuyết kinh tế
 

Mais de Man_Ebook

BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdfBÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdfMan_Ebook
 
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.docTL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.docMan_Ebook
 
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdfGiáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdfGiáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdfGiáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdfGiáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình .Net - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình .Net  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình .Net  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình .Net - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình song song - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình song song  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình song song  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình song song - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdfGiáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdfGiáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình kỹ thuật phản ứng - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình kỹ thuật phản ứng  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình kỹ thuật phản ứng  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình kỹ thuật phản ứng - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 

Mais de Man_Ebook (20)

BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdfBÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
 
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.docTL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
 
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdfGiáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
 
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdfGiáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
 
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdfGiáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
 
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdfGiáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
 
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lập trình .Net - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình .Net  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình .Net  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình .Net - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lập trình song song - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình song song  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình song song  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình song song - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdfGiáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
 
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdfGiáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
 
Giáo trình kỹ thuật phản ứng - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình kỹ thuật phản ứng  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình kỹ thuật phản ứng  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình kỹ thuật phản ứng - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 

Último

Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...
Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...
Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...Xem Số Mệnh
 
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem Số Mệnh
 
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hardBookoTime
 
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...PhcTrn274398
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdfLinh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdfXem Số Mệnh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...Xem Số Mệnh
 
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ haoBookoTime
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdf
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdfGieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdf
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdfXem Số Mệnh
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfMạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfXem Số Mệnh
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 

Último (20)

Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...
Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...
Luận giải tử vi của 12 con giáp năm 2024 chi tiết và chính xác -...
 
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
Xem tử vi miễn phí trực tuyến cho kết quả chính xác cùng luậ...
 
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
2第二课:汉语不太难.pptx. Chinese lesson 2: Chinese not that hard
 
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdfLinh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
Linh kiện điện tử - Điện tử số sáng tạo VN.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
Lập lá số tử vi trọn đời có luận giải chi tiết, chính xác n...
 
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
1第一课:你好.pptx. Chinese lesson 1: Hello.Nỉ hao
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdf
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdfGieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdf
Gieo quẻ kinh dịch, xin xăm,Xin lộc thánh.pdf
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdfMạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
Mạch điện tử - Điện tử số sáng tạo VN-new.pdf
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 

Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN    ĐOÀN NGỌC MINH HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN    ĐOÀN NGỌC MINH HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành : LỊCH SỬ TRIẾT HỌC Mã số : 62.22.80.01 Người hướng dẫn khoa học : HD1: PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA HD2: PGS.TS. LÝ VĂN XUÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2013
  • 3. 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa được ai công bố. Đoàn Ngọc Minh
  • 4. 2 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………. 4 1. Tính cấp thiết của đề tài .…………………………... 4 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ……….. 9 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài ……... 15 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ……… 15 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài …………..….. 17 6. Đóng góp mới của đề tài ………………………………. 17 7. Kết cấu của luận án ………..…...……………........................... 18 CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH ..…. 19 1.1. Nguồn gốc hình thành học thuyết Ngũ hành …….……….. 19 1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa của Trung Quốc cổ đại .. 19 1.1.2. Nhu cầu tìm hiểu, giải thích thế giới của người Trung Quốc cổ đại với sự hình thành học thuyết Ngũ hành …..………. 35 1.2. Quá trình hình thành và phát triển của học thuyết Ngũ hành…….. 41 1.2.1. Sự hình thành của học thuyết Ngũ hành từ thời cổ đại đến đời nhà Hán …………………………………………….. 41 1.2.2. Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành thời Hậu Hán …… 65 1.3. Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành vào Việt Nam …………. 83 Kết luận chương 1 … …………………………………………... 91 CHƯƠNG 2 : NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH TRONG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI ……………. 94 2.1. Nội dung cơ bản của học thuyết Ngũ hành .…….. 94 2.1.1. Những yếu tố cơ bản tạo nên Ngũ hành .……………..... 94 2.1.2. Sự biểu hiện của Ngũ hành trong tự nhiên, xã hội và con người …………………………………………….104 2.1.3. Những quy luật cơ bản của Ngũ hành …………….… 119 2.2. Cách giải thích mới về thế giới của học thuyết Ngũ hành…….. 129
  • 5. 3 2.2.1. Quan điểm duy vật chất phác trong học thuyết Ngũ hành về sự nhận thức và giải thích thế giới ……………….. 129 2.2.2. Học thuyết Ngũ hành với quan điểm biện chứng sơ khai… 132 Kết luận chương 2 ………………………………………………... 134 CHƯƠNG 3 : Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG ………….. 136 3.1. Khái quát về y học cổ truyền phương Đông và ý nghĩa việc vận dụng học thuyết Ngũ hành đối với y học cổ truyền phương Đông ………………………………………………… 136 3.2. Những biểu hiện của học thuyết Ngũ hành trong bệnh lý người ………………………………….. ……… 142 3.2.1. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng thận ……... 143 3.2.2. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng tâm ……… ……... 144 3.2.3. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng can … …………... 145 3.2.4. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng phế ....................... 146 3.2.5. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng tỳ …………… 147 3.3. Học thuyết Ngũ hành với phương pháp dưỡng sinh, chẩn bệnh và chữa bệnh …………………………………… 148 3.3.1. Học thuyết Ngũ hành với phương pháp dưỡng sinh …. 148 3.3.2. Chẩn bệnh theo học thuyết Ngũ hành ………………… 153 3.3.3. Chữa bệnh theo học thuyết Ngũ hành ………………… 161 3.3.4. Kết quả khảo sát 504 bệnh án tại Bệnh viện Khoa Y học cổ truyền thuộc bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ 2008 đến 2010 và giá trị Tỳ Thổ của học thuyết Ngũ hành đối với sức khỏe con người …………….…………………………………... 167 Kết luận chương 3…………………………………………... 180 KẾT LUẬN CHUNG ……………………………………… 182 TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………… 186
  • 6. 4 MỞ ĐẦU 1. TÌNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Suốt mấy nghìn năm qua, kể từ thời thượng cổ, học thuyết Ngũ hành là một trong những học thuyết quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến triết học Trung Quốc nói riêng, triết học và văn hóa phương Đông nói chung. Không bao lâu sau khi ra đời, nó đã chiếm vị trí nổi bật, chứng tỏ đó là một học thuyết nhất quán, hoàn chỉnh không chỉ giải thích nguồn gốc và cơ cấu của vũ trụ, mà còn góp phần vào giải thích những hiện tượng trong cuộc sống của con người. Là một học thuyết phát triển mạnh ở phương Đông và tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử, học thuyết Ngũ hành phát triển vượt ra ngoài phạm vi triết học và đặt dấu ấn đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Các nguyên lý cơ bản của Ngũ hành đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực của đời sống xã hội ở Trung Quốc và ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ xung quanh như: Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore... Trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá, hôn nhân, gia đình, âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc, quân sự, y học cổ truyền, v.v..). Ngũ hành là biểu tượng của một trong hai nền văn minh Trung Hoa xưa. Từ thời thượng cổ đến thời Xuân Thu (thế kỉ thứ VIII, trước công nguyên), đất Trung Hoa chia làm hai miền khác nhau về phương diện chủng tộc và văn hoá: lưu vực sông Hoàng Hà và lưu vực sông Dương Tử. Hoa tộc miền Bắc đã tổ chức thành một liên bang phong kiến rộng lớn, gồm hàng trăm chư hầu, dọc theo bờ sông Hoàng Hà; trong khi dân tộc lưu vực sông Dương Tử thì sống rời rạc, chia thành nhiều tiểu quốc độc lập. Nhà Trung Hoa học người Pháp, Marcel Granet (1884-1940), cho rằng, rất có thể nguyên nhân của sự phát triển văn minh chính thức Trung Hoa là sự tiếp xúc của hai nền văn minh chính yếu, một bên là văn minh vùng cao ráo của lúa kê, một bên là văn minh vùng đồng thấp của lúa gạo. Học thuyết Ngũ hành - tinh hoa của văn
  • 7. 5 minh Hoa tộc miền Bắc, được làm giàu, phong phú thêm bởi sự dung hoà với văn minh ma phương hay Lạc Thư của Tam Miêu hình thành Hà Đồ; Hà Đồ ghép với Âm Dương của Việt tộc miền Nam với Bát quái và Kinh Dịch làm thành nền tảng văn hoá Trung Hoa, để rồi trên mảnh đất ấy mọc lên nhiều cổ thụ triết lý đặc sắc và sum suê. Nghiên cứu học thuyết Ngũ hành để không chỉ khám phá một lý luận độc đáo khi luận bàn về bản nguyên và cấu trúc của vũ trụ, mà còn thấy được tính ứng dụng cao của nó trong nhiều lĩnh vực xã hội, thậm chí có lĩnh vực trừu tượng, huyền bí như: thiên văn, lịch số, phong thuỷ…trong đó đặc sắc và hữu dụng nhất, phải kể đến y học cổ truyền phương Đông vốn đã tồn tại hàng nghìn năm nay. Trong lĩnh vực y học, các quy luật của Ngũ hành đã đặt dấu ấn ở phương pháp quan sát, quy nạp, tìm sự tương quan của hoạt động sinh lý, bệnh lý các tạng phủ để chẩn đoán bệnh tật, tìm tính năng, tác dụng của thuốc và tiến hành hoạt động bào chế thuốc. Kể từ khi xuất hiện Hoàng đế Nội kinh tố vấn và với ảnh hưởng mạnh mẽ của tác phẩm này, nền y học Trung Quốc và nhiều nước phương Đông khác có những bước tiến đáng khâm phục. Học thuyết Ngũ hành vào Việt Nam từ rất sớm. Các nhà tư tưởng Việt Nam tích cực tiếp nhận và nỗ lực vận dụng học thuyết này một cách sáng tạo trong nhiều lĩnh vực, nhất là phát triển nền y học dân tộc cổ truyền cả trên phương diện lý luận và thực tiễn lâm sàng. Một trong những tấm gương tiêu biểu là đại danh y, nhà lý luận y học Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác với tác phẩm y học đồ sộ Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh. Y học cổ truyền Việt Nam được hình thành ngay từ buổi đầu dựng nước và ngày càng phát triển trong cuộc đấu tranh chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ con người. Cũng như y học cổ truyền Trung Quốc, cơ sở để xây dựng lý luận y học cổ truyền Việt Nam không tách rời học thuyết Ngũ hành.
  • 8. 6 Trong khi người ta đang tiếp tục nâng cao tính ứng dụng của Ngũ hành vào các lĩnh vực đời sống thì một lần nữa, nó lại chạm vào những vấn đề vi mô của khoa học hiện đại. Đầu thế kỉ XX, với những phát minh, đặc biệt là cơ học lượng tử cho thấy trong thế giới vi mô định luật ngẫu nhiên có tính quyết định. Đây là thế kỷ của những sự kiện vĩ đại: Sự ra đời của thuyết Tương đối, thuyết Giãn nở của vũ trụ, Bức xạ tàn dư; thuyết Big Bang và sự thoát thai của vũ trụ, v.v.. Từ đây con người có tham vọng truy tìm tận căn nguyên của thế giới vi mô; muốn tìm ra viên gạch cơ bản cuối cùng, quy luật cơ bản cuối cùng của vật lý, nhưng đến nay vẫn chưa ai thực hiện được điều ấy. Cho tới những năm cuối của thế kỷ XX, về mặt xã hội, những chủ thuyết lớn nếu không vận dụng sáng tạo sẽ tất dẫn đến đổ vỡ; về tự nhiên, các nhà khoa học từ những nghiên cứu công phu, nhận ra cái giới hạn của nhận thức. Sự đổ vỡ của những thể chế quan liêu, giáo điều, sự trừng phạt của thiên nhiên chống lại sự cải tạo của con người, chạy đua vũ trang, chiến tranh, khủng bố, phân biệt chủng tộc, bất bình đẳng giới, chênh lệch giàu nghèo… cùng với sự phát minh ra lý thuyết hỗn độn, hiệu ứng cánh bướm, hình học fractal, những hệ phi tuyến… là cơ sở sâu xa cho sự xuất hiện tinh thần hậu hiện đại. Đối với hậu hiện đại, mọi sự thật thường hằng sẽ biến mất, thay vào đó là những biểu hiện của những bề mặt không bản chất. Trong thời hậu hiện đại, những lý thuyết có từ thời Ánh sáng đều đã bị đổ vỡ (Lyotard). Trong bối cảnh ấy, với sự thôi thúc của nền khoa học hậu hiện đại, người ta lại nghĩ đến, nói đến tư tưởng của triết học phương Đông, trong đó có học thuyết Ngũ hành với niềm tin vào một lý thuyết về sự thống nhất, góp phần lắp vào khe hở của lý thuyết đương đại về thế giới. Kể từ khi hai nền văn hoá Đông - Tây giao lưu và tiếp biến, thế giới lại một lần nữa nhận thấy rằng: Ngũ hành là một cơ sở quan trọng tạo nên một cái nhìn mới về sự huyền vĩ của văn hoá phương Đông. Khi bắt đầu tìm hiểu khái niệm, nguyên lý của học thuyết này, ai cũng cảm thấy dường như mình
  • 9. 7 hiểu được nó, nhưng khi đi sâu khám phá bản chất và thực tại khách quan mà nó phản ánh thì người ta lại bế tắc, cảm nhận rất rõ về tính chưa thuyết phục của các ý kiến đã nêu. Biết bao luận bàn của hậu thế về diễn biến lịch sử, nội dung và bản chất của học thuyết Ngũ hành đang tiếp tục bỏ ngỏ. Chính cái huyền vĩ của nó đã là một hấp dẫn. Nhưng, đó cũng chính là điểm tựa cho những suy ngẫm khi tri kiến về những vấn đề của khoa học hiện đại. Trong hơn bốn thập kỷ qua, khoa học lí thuyết của thế giới gần như bị chững lại, khoa học thế giới đang lâm vào tình trạng thoái trào giống như đầu thế kỉ XX. Những tiến bộ của công nghệ đang là nỗ lực cuối cùng để lấp kín những khe hở của khoa học lí thuyết. Tương lai không sáng sủa của khoa học duy lý, cho thấy rằng nhân loại đang tiến dần vào chặng đường khó khăn của khoa học. Trong bối cảnh đó, nhà vật lí học nổi tiếng Stephen Hawking, sinh năm 1942, đã nói về một lí thuyết thống nhất, mà nếu phát kiến được lý thuyết đó thì “tất cả chúng ta, các nhà khoa học, các triết gia và cả mọi người bình thường sẽ hiểu được và tham gia thảo luận câu hỏi vì sao vũ trụ và chúng ta tồn tại” (Lược sử thời gian, S.Hawking). Nhưng theo ông, tri thức của khoa học hiện đại chưa đủ nhân duyên để tự thân nó minh chứng cho sự tồn tại của lý thuyết này, mà nó chỉ có thể được nhận dạng qua những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và những điểm tương đồng với nó. Theo Steven Weinberg - nhà vật lý người Mỹ, được tặng giải Nobel vì có công thống nhất tương tác điện từ và tương tác yếu - thì một mục tiêu cơ bản của vật lý là bằng cái nhìn thống nhất quan sát sự đa dạng của tự nhiên. Những thành tựu từ thế kỉ XVII đến những năm 20 của thế kỷ XX là một sự minh chứng cho một lý thuyết thống nhất: Từ sự thống nhất giữa cơ học thiên thể và cơ học (trên) Trái đất của Newton thế kỷ XVII, giữa quang học và và lý thuyết điện và từ của Maxwell ở thế kỷ XIX, thống nhất hình học không - thời gian và lý thuyết hấp dẫn bởi Einstein năm 1905 và 1916, đến thống nhất giữa hoá học và vật lý nguyên tử thông qua cơ học lượng tử ở thập kỷ 20 thế
  • 10. 8 kỷ XX. Và nay là thuyết thống nhất - một nỗ lực không thể một sớm một chiều để hoàn thành. Mặc dù chính Stephen Hawking, vào năm 2002, công bố bài giảng Gödel & sự kết thúc của vật lý (Gödel & The End of Physics), thể hiện một sự thay đổi mang tính cách mạng trong nhận thức của ông về Lý thuyết Cuối cùng (Final Theory) của vật lý học, khác xa với những gì ông đã phát biểu trong Lược sử thời gian 11 năm trước, khi cho rằng: Tri thức khoa học hiện đại không thể nào tìm ra được lý thuyết thống nhất và việc tìm ra lý thuyết thống nhất là vô vọng, chỉ đơn giản là “Chính lý thuyết đó đã quyết định như vậy”. Nhưng tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất khoa học thực sự đã tồn tại. Chính từ cơ sở này sẽ quyết định một lý thuyết khoa học nào đó xuất phát từ nền tảng tri thức của nền văn minh nhân loại, một khi thoả mãn các tiêu chí của một lý thuyết thống nhất thì điều đó có nghĩa là nó sẽ chính là lý thuyết thống nhất. Và lí thuyết mà các nhà khoa học hàng đầu hiện nay mong đợi có thể thấy được những gợi mở từ trong học thuyết Ngũ hành. Mặc dù có không ít quan niệm khác nhau, thậm chí phủ định nó, nhưng dần dà người ta nhận ra tính minh triết và đặt vấn đề về tính khoa học của nó. Bởi lẽ, “Ngũ hành là chỉ vào thế lực tự nhiên, vì luôn luôn động nên gọi là Hành và phản chiếu vào tinh thần người ta thành ra có những biến thái, động tác tâm lý, sinh lý” (Nguyễn Đăng Thục), nó đã giải thích từ sự hình thành vũ trụ đến những vấn đề liên quan tới con người. Thiên Hồng Phạm đã mở đầu: Sơ nhất viết Ngũ hành. Thứ nhị viết kính dụng Ngũ sự để khẳng định một nguyên lý căn bản: Ở vũ trụ chỉ có Ngũ hành, ở con người chỉ có Ngũ sự; Ngũ sự hoà với Ngũ hành, tức Thiên - Nhân hợp nhất. Đấy là quan điểm Vạn vật nhất thể. Tư tưởng này đã tồn tại mấy nghìn năm và học thuyết Ngũ hành vẫn thể hiện bằng sự hiệu quả thiết thực và hữu dụng trong thực tiễn đời sống xã hội, nhất là phương Đông từ xưa đến nay.
  • 11. 9 Hơn nữa, ở Việt Nam việc chữa bệnh bằng y học cổ truyền đã có hiệu quả rõ rệt và được nhân dân ngày càng tin dùng. Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất mạnh vai trò của việc kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại. Có thể nói đó là một trong những quan điểm cơ bản về y tế của Đảng. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn còn một số nhận thức sai lệch khi cho rằng, y học cổ truyền chỉ là tập hợp những kinh nghiệm dân dã về một số bài thuốc và vị thuốc thông thường; rằng y học này chưa có cơ sở lý luận rõ ràng, vì vậy hiệu quả chữa bệnh còn hạn chế; hoặc là quan niệm thổi phồng vai trò của Ngũ hành và y học cổ truyền, cho rằng với sự chỉ dẫn của Ngũ hành, y học cổ truyền có thể “chữa bách bệnh”. Rõ ràng là, quan điểm kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại của Đảng và Nhà nước ta chưa được nhận thức đầy đủ, chưa được vận dụng một cách nhuần nhuyễn và có hiệu quả. Để thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của nhân dân về chữa bệnh bằng y học cổ truyền, đồng thời góp phần khẳng định y học cổ truyền là một khoa học với các phương pháp phòng và chữa bệnh có hiệu quả, thì việc nghiên cứu cơ sở triết học của nó, mà trước hết là nghiên cứu học thuyết Âm dương - Ngũ hành, là rất cần thiết. Vì chính học thuyết Âm dương - Ngũ hành là cơ sở lý luận để giải thích nguyên nhân, cơ chế phát sinh bệnh học, điều trị học và phòng bệnh của y học cổ truyền. Đề tài luận án Học thuyết Ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương Đông góp phần nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện học thuyết Ngũ hành và vai trò của nó đối với y học cổ truyền phương Đông, qua đó làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ giữa việc bảo tồn và phát triển bằng cách ứng dụng các tri thức y học cổ truyền trong việc phòng bệnh, chữa bệnh. 2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Từ thời cổ đại đến nay, với ý nghĩa thực tiễn khá sâu sắc của học thuyết Ngũ hành và sự vận chuyển của nó để giải thích những hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người đã được nhiều nhà nghiên cứu phương Đông – trong đó có Trung Quốc và Việt Nam quan tâm; và đã thu được những kết quả to lớn
  • 12. 10 cho cuộc sống, đặc biệt là những kết quả nghiên cứu về học thuyết Âm dương – Ngũ hành với y học cổ truyền phương Đông. Nội dung trên đã được thể hiện trong khối lượng tài liệu to lớn của nhiều tác giả theo hai hướng: hướng triết học và hướng y học. Một là, hướng thứ nhất, có các công trình tiêu biểu: Đại cương triết học Trung Quốc; Lịch sử triết học Trung Quốc của Hồng Tiềm - Nhiệm Hoa - Uông Tử Tung (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1957); Đạo của Trương Lập Văn chủ biên, Hồ Châu - Tạ Phúc Chinh - Nguyễn Văn Đức dịch (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998). Triết giáo Đông phương của Dương Ngọc Dũng - Lê Anh Minh (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2003); Lịch sử triết học Trung Quốc của Phùng Hữu Lan, Lê Anh Minh dịch (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006); Trung Quốc triết học sử đại cương của Hồ Thích, Huỳnh Minh Đức dịch (Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2004). Khi trình bày nội dung nghiên cứu này, các tác giả kể trên đều khẳng định Âm dương và Ngũ hành là những phạm trù triết học quan trọng trong thế giới quan của người Trung Quốc. Đó là những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa đối với sự sản sinh và biến hóa của vũ trụ, là cội nguồn của các quan điểm duy vật và biện chứng trong các tư tưởng triết học mang màu sắc Trung Quốc. Chẳng hạn tác giả Ngô Vinh Chính đánh giá: “Việc sử dụng các phạm trù Âm dương và Ngũ hành đánh dấu bước tư duy khoa học đầu tiên nhằm thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống. Đó là cội nguồn duy vật và biện chứng trong tư tưởng triết học của người Trung Quốc”[17, tr.43]. Ngược dòng lịch sử quá trình nghiên cứu, chúng ta thấy việc đánh giá và vận dụng học thuyết Âm dương – Ngũ hành đã từng được đề cập rộng rãi trong các tác phẩm của người Trung Quốc cổ xưa. Từ đời Hán trở đi, nhiều tác giả như Lưu Biểu, Quảng Lô, Vương Bật, Phí Trực (đời Hán); Trịnh Huyền (đời Hán); Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Trình Hạo, Trình Di (đời Tống);
  • 13. 11 Hoàng Tôn Hy, Tôn Viêm, Mao Kỳ Linh, Hồ Vi, Huệ Đống, Trương Huệ Ngôn, Lý Quang Địa (đời Thanh)… đều khẳng định tư tưởng chủ đạo trong Kinh Dịch là tư tưởng về mối quan hệ giữa âm và dương. Trong những năm gần đây một loạt các công trình nghiên cứu xuất bản ở Hồng Kông và Đài Bắc (Đài Loan) như Chu Dịch tân giải của Tào Thăng; Chu Dịch cổ kinh kim chú của Cao Hanh; Dịch học tân luận của Nghiêm Linh Phong… đều bàn về lẽ biến hóa của Âm dương trong Kinh Dịch. Kinh Dịch là sách nói về Âm dương, còn Kinh Thư là tác phẩm đầu tiên của người Trung Quốc cổ đại đề cập tới khái niệm Ngũ hành, nghiên cứu và dịch thuật về Kinh Thư ở Việt Nam đã được Thẩm Quỳnh biên dịch từ năm 1965 và là cơ sở cho nhiều tác giả Việt Nam tiếp tục nghiên cứu và bàn luận về thuyết Âm dương – Ngũ hành. Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu riêng rẽ về các tác phẩm của người Trung Quốc cổ đại xưa, khi đề cập về thuyết Âm dương – Ngũ hành như Kinh Thư, Kinh Dịch các tác giả Việt Nam cũng đề cập về thuyết Âm dương – Ngũ hành từ góc độ nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc và phương Đông nói chung. Có thể kể ra một số tác giả và công trình nghiên cứu tiêu biểu những năm gần đây như: Nguyễn Đăng Thục với Lịch sử triết học phương Đông (Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1961); Nguyễn Tài Thư (chủ biên) với Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993); Cao Xuân Huy với Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu (Nhà xuất bản Văn học – Hà Nội, 1995); Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc do Doãn Chính (chủ biên) (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997); Triết lý phương Đông - Giá trị và bài học lịch sử của Doãn Chính (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006); Lịch sử triết học Trung Quốc của Hà Thúc Minh (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tập 1; 1999 tập 2)[67]; Từ điển triết học Trung Quốc của Doãn Chính (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009),v.v.. Trong những tác phẩm kể trên, các tác giả đánh
  • 14. 12 giá cao vai trò và ý nghĩa của học thuyết Âm dương – Ngũ hành trong lịch sử phát triển các tư tưởng triết học phương Đông, đồng thời coi nó là một trong các dòng triết học quan trọng có từ thời kỳ “Bách gia chư tử”. Hai là, hướng thứ hai, có những công trình nghiên cứu đề cập học thuyết Âm dương – Ngũ hành trong mối quan hệ gắn bó với sự phát triển của các khoa học và đời sống xã hội và con người như thiên văn học, dự đoán học, nông học v.v… Trong lĩnh vực y học, học thuyết Âm dương - Ngũ hành đã được các nhà tư tưởng và danh y nghiên cứu xưa nay đề cập hết sức rộng rãi và sâu sắc. Từ đời Hán, ở Trung Quốc đã xuất hiện các bộ sách nổi tiếng như Hoàng đế Nội kinh (chưa rõ tác giả); Thương hàn tạp bệnh luận; Kim Quỹ yếu lược (của Trương Trọng Cảnh); Nạn kinh (của Tần Việt Nhận). Đây là những tác phẩm lý luận y học đầu tiên của nền y học Trung Quốc cổ đại đã biết lấy lý luận duy vật thô sơ là học thuyết Âm dương - Ngũ hành làm hệ thống lý luận của y học. Dùng lý thuyết ấy để giải thích về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, quan hệ lẫn nhau giữa các tạng phủ trong thân thể và theo nguyên tắc của quan niệm chỉnh thể đã phát minh được những vấn đề có quan hệ đến y học như bệnh lý, chẩn đoán, phòng bệnh, chữa bệnh v.v… Ở Việt Nam, những công trình vận dụng học thuyết Âm dương - Ngũ hành vào y học đã xuất hiện ngay từ thời Trần. Các tác phẩm và tác giả tiêu biểu phải kể tới Chu An với Y học giản yếu, Tuệ Tĩnh với Nam dược thần hiệu và Hồng nghĩa giác tư y thư. Đến thế kỷ XVIII, xuất hiện nhà tư tưởng, nhà y học nổi tiếng Lê Hữu Trác, với bộ sách Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh nổi tiếng (Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 1993), trong đó ông đã vận dụng học thuyết Âm dương - Ngũ hành để giải thích đời sống xã hội, và phương pháp bảo vệ sức khỏe cho con người. Sang nửa cuối thế kỷ XIX, nhà tư tưởng cũng đồng thời là nhà y học Nguyễn Đình Chiểu cũng đã vận dụng học thuyết Âm dương – Ngũ hành để diễn giải các vấn đề về lý luận y học trong tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp.
  • 15. 13 Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu về học thuyết Âm dương - Ngũ hành trong lý luận y học cổ truyền phương Đông. Chẳng hạn, Lê Trần Đức với các công trình nghiên cứu về Tuệ Tĩnh, Lê Hữu Trác, Nguyễn Đình Chiểu… Hoàng Tuất [117-118] với các công trình Học thuyết Âm dương và phương dược cổ truyền; Học thuyết Tâm - Thận trong y học cổ truyền; Phó Đức Thảo [106] với Học thuyết Thủy hỏa và mệnh môn trong y học cổ truyền; Lê Khánh Trai với Khảo cứu về tiền đề Âm dương - Ngũ hành từ Kinh Dịch và mô hình kinh mạch trong cơ thể người; Hoàng Phương [74] với Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai; Trần Thúy [98] với Nội kinh v.v.. Tất cả các tác giả này đều khẳng định Âm dương – Ngũ hành là lý luận không thể thiếu đối với y học cổ truyền. Những năm gần đây, một số tác giả và các công trình nghiên cứu có xu hướng đi sâu nghiên cứu tác phẩm của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, và những bình luận, đánh giá học thuyết Âm dương – Ngũ hành dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của Nguyễn Tài Thư với Lê Hữu Trác, nhà tư tưởng lớn trưởng thành từ nghiệp y (in trong cuốn: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993); Nguyễn Đức Sự với Cơ sở triết học của bộ Lãn Ông tâm lĩnh và hiện thực lịch sử nước ta thế kỷ XVIII (Tạp chí Triết học số 1-1974) và Bước đầu tìm hiểu y lý của Hải Thượng Lãn Ông qua tập: “Ngoại cảm thông trị” (Tạp chí Đông y, số 110 -111, 1970); Trần Sĩ Nghi với Học thuyết thủy hỏa của Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông (Tạp chí Đông y số 1, năm 1971); Nguyễn Văn Thọ với Quan niệm về thận của Hải Thượng Lãn Ông đối chiếu với Tây y (Tạp chí Phương Đông, số 17, năm 1952); Trần Văn Giàu với Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng 8 (Tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973); Nguyễn Đình Phủ với các công trình: Tìm hiểu và ứng dụng triết lý Âm dương, Nxb. VHDT, Hà Nội, 1998, và Tìm hiểu và ứng dụng học thuyết Ngũ hành, Nxb. VHDT, Hà Nội, 2001 v.v.. Trong các
  • 16. 14 tác phẩm và các công trình nghiên cứu kể trên, các tác giả đã đề cập đến học thuyết Âm dương – Ngũ hành và đều cho rằng: học thuyết Âm dương – Ngũ hành là một trong những cơ sở triết học quan trọng để hình thành thế giới quan duy vật phương Đông, đồng thời cũng là cơ sở triết học chủ yếu để xây dựng lý luận y học cổ truyền phương Đông. Chẳng hạn, Trần Văn Giàu viết: “Nước ta ở thế kỷ XIX từ triều đình cho tới thứ dân, qua các tầng lớp Nho sĩ, từ trong sách vở cho tới những phong tục tập quán, đâu đấu cũng thấy dấu vết ảnh hưởng của thuyết Âm dương – Ngũ hành”[ 34, tr.212], hoặc Đỗ Tất Lợi viết: “Nghề làm thuốc không thể vượt ra ngoài nguyên lý Âm dương – Ngũ hành… Việc điều trị bệnh tật là sự lặp lại cân bằng Âm dương trong con người, giữa con người với trời đất” [54, tr.16]; Trần Văn Thụy trong bộ Hải Thượng Y tông tâm lĩnh với sự vận dụng những tư tưởng triết học thời cổ (Luận án Tiến sĩ Triết học, 1996) đã đề cập tới học thuyết Âm dương – Ngũ hành và coi đó là một trong những tư tưởng triết học quan trọng của bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh; Phạm Công Nhất trong Tư tưởng triết học về con người qua tác phẩm y học của Hải Thượng Lãn Ông (Luận án Tiến sĩ triết học, 2001); Trần Thị Huyên với Thuyết âm dương – ngũ hành với tác phẩm Hoàng đế Nội kinh và Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (Luận án Tiến sĩ, 2002); Nguyễn Thị Hồng Mai với Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong tác phẩm Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (Luận án Tiến sĩ, 2012). Với sự vận dụng học thuyết Âm dương - Ngũ hành vào y học cổ truyền Việt Nam, đặc biệt học thuyết Thủy hỏa của danh y Lê Hữu Trác trong tác phẩm Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh. Nhìn chung, các tác giả và công trình nghiên cứu nói trên đều nói lên mối quan hệ giữa Âm dương - Ngũ hành với các hoạt động sống của con người và khẳng định lý thuyết này là cơ sở triết học chủ yếu cho việc hình thành và phát triển lý luận và thực tiễn của nền y học cổ truyền phương Đông từ xưa tới nay. Tuy vậy, các quan niệm trên còn rời rạc, tản mạn, chưa thành hệ thống nhất quán. Có thể nói, cho đến nay, chưa có tác phẩm nào nghiên
  • 17. 15 cứu một cách tập trung và có hệ thống về sự hình thành và phát triển học thuyết Ngũ hành trong y học cổ truyền phương Đông, đề tài “Học thuyết Ngũ hành với ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương Đông” góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên. 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ lịch sử phát triển, nội dung cơ bản của học thuyết Ngũ hành và ý nghĩa của chúng đối với sự phát triển y học cổ truyền của phương Đông. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích trên, luận án triển khai thực hiện các nhiệm vụ như sau: Một là, phân tích nguồn gốc và lịch sử hình thành của học thuyết Ngũ hành và những nội dung cơ bản của học thuyết Ngũ hành; Hai là, trình bày và phân tích ý nghĩa, phương pháp luận việc vận dụng học thuyết Ngũ hành vào các chức năng sinh lý của các tạng cơ thể người; Ba là, phân tích, rút ra ý nghĩa của học thuyết Ngũ hành trong lịch sử và trong quá trình phát triển của y học cổ truyền phương Đông. 3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Phạm vi nghiên cứu của luận án là nguồn gốc và nội dung cơ bản của thuyết Ngũ hành; sự vận dụng học thuyết Ngũ hành vào y học cổ truyền Trung Quốc và Việt Nam; không đi sâu nghiên cứu Ngũ hành với Thiên can, Địa chi, tức ngũ vận lục khí và những lĩnh vực khác. 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 4.1. Cơ sở lý luận của đề tài Luận án được thực hiện dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là những nguyên lý về lịch sử Triết học, về phép biện chứng duy vật; đồng thời sử dụng lý luận Triết học phương Đông
  • 18. 16 về Ngũ hành và lý luận y học cổ truyền phương Đông để hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ của luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Phương pháp luận chung Vấn đề học thuyết Ngũ hành và sự ứng dụng nó trong y học cổ truyền phương Đông được nghiên cứu theo phương pháp triết học lịch sử. Các nguyên tắc phương pháp luận được quán triệt là quan điểm toàn diện, lịch sử - cụ thể và phát triển. Với phương pháp luận này cho phép nắm bắt và nhận thức các khái niệm, phạm trù của học thuyết Ngũ hành được trình bày tương đối toàn diện, chuẩn xác, như nó vốn có; việc khai thác tài liệu, thông tin phải thực hiện phân tích phê phán một cách biện chứng, thấy được sự thống nhất và khác biệt của luận đề mà các nhà triết học thời cổ đại Trung Quốc đặt ra và điều chỉnh, bổ sung trong suốt quá trình phát triển của xã hội Trung Quốc; thấy được tính không đồng nhất về giá trị của học thuyết đó trong những những lĩnh vực khác nhau. Các phương pháp cụ thể Vấn đề nghiên cứu được tiếp cận và phân tích trên cơ sở phương pháp lôgic và lịch sử kết hợp với phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và hệ thống hoá để thấy được nguyên lý Ngũ hành và những vấn đề y học cổ truyền có liên quan và mang tính độc lập tương đối trong sự phát triển, có lôgic nội tại và được hình thành, phát triển từ những điều kiện lịch sử nhất định của xã hội Trung Quốc từ thời thượng cổ. Việc thu thập và xử lí thông tin được thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu lí thuyết nhằm làm rõ một số khái niệm, phạm trù có liên quan và nghiên cứu, khai thác tư liệu, văn bản; phương pháp so sánh cho thấy được sự tương đồng và khác biệt khi trình bày sự biến đổi của Ngũ hành qua các thời kỳ lịch sử; phương pháp thống kê số liệu thực tiễn từ 500 bệnh án góp phần thực hiện những yêu cầu của nhiệm vụ luận án.
  • 19. 17 5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Nội dung và bản chất của học thuyết Ngũ hành được phân tích qua các đặc điểm, sự biến hoá của năm hành chất và quy luật vận động của chúng; tương quan Ngũ hành với những biểu hiện của tạng tượng trong cơ thể sinh lý con người. Kết quả nghiên cứu của luận án có nhiều ý nghĩa: Ý nghĩa khoa học: Luận án đưa đến một cách tiếp cận và phương pháp nhận thức mới về các nguyên lý của học thuyết Ngũ hành, về đặc điểm các hành chất cơ bản của Ngũ hành trong triết học phương Đông biểu hiện ra các mặt tự nhiên, xã hội và con người, nơi tạng tượng, nơi sinh lý cơ thể người. Luận án còn đem đến một hiểu biết tương đối có hệ thống về mối quan hệ giữa một vấn đề triết học với một vấn đề thuộc về khoa học lý luận và thực hành y học cổ truyền phương Đông trong lịch sử và hiện nay. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của luận án đem đến cơ sở y học cổ truyền một tài liệu không chỉ có giá trị về lý luận mà còn cả thực tiễn để góp phần bảo vệ và phát huy giá trị y học cổ truyển của dân tộc, trong đó có di sản y văn của các danh y Việt Nam từ việc tiếp thu Ngũ hành đã xây dựng bộ sách quý báu về y thuật; đề xuất phương pháp dưỡng sinh theo Ngũ hành, chẩn đoán và điều trị bệnh cho con người theo Ngũ hành. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn lịch sử triết học phương Đông, môn y đức và đặc biệt là việc chẩn đoán và hướng điều trị cũng như phòng bệnh, nâng cao sức khỏe con người. 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI Luận án có luận giải mới về nội dung học thuyết Ngũ hành ở hai mặt: thứ nhất là tư tưởng duy vật chất phác về nhận thức thế giới; thứ hai là tư tưởng biện chứng thô sơ.
  • 20. 18 Luận án đã nêu lên ý nghĩa việc vận dụng học thuyết Ngũ hành vào y học cổ truyền phương Đông như: phép dưỡng sinh, phương pháp chẩn đoán cũng như phép điều trị cho y học cổ truyền phương Đông. Cụ thể, luận án có cuộc điều tra 504 bệnh án tại Khoa Y học cổ truyền Bệnh viện Đại học Y dược Thành phồ Hồ Chí Minh để đề cao vai trò quan trọng của sự tiêu hóa (ăn uống) có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề sức khỏe con người. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục (đóng riêng), luận án có 3 chương, 8 tiết.
  • 21. 19 Chương 1 NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH 1.1. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH 1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa của Trung Quốc cổ đại Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, triết học trong quá trình hình thành và phát triển luôn chịu sự chi phối, quyết định bởi những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Lịch sử triết học hàng ngàn năm của nhân loại đã chứng minh rằng không có một học thuyết hay trường phái triết học nào nảy sinh trên mảnh đất trống không; chúng bao giờ cũng là sản phẩm của lịch sử, dân tộc và thời đại nhất định, đồng thời là tấm gương phản chiếu sâu sắc đời sống muôn vẻ của lịch sử, dân tộc và của thời đại đó. Đúng như C.Mác đã nói: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học” [61, tr.156]. Vì vậy, “Phàm đã gọi là một học thuyết quyết không thể là một cái gì từ trên trời rơi xuống. Nếu nghiên cứu tỉ mỉ hơn chúng ta tất sẽ tìm ra được nhiều nguyên nhân đã xảy ra trước và hậu quả về sau của nó” [62, tr.53]. Quá trình hình thành và phát triển của các học thuyết, trường phái triết học Trung Quốc thời cổ đại cũng không nằm ngoài tính quy luật nói trên. Chúng ra đời không phải ngẫu nhiên hay từ ý muốn chủ quan của các nhà triết học, mà từ những hoàn cảnh, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Trung Quốc cổ đại. Do đó, sẽ là chủ quan, võ đoán, phi lịch sử khi nghiên cứu tư tưởng của một học thuyết, trường phái triết học nào đó mà không chú ý tìm hiểu thấu đáo những điều kiện kinh tế - xã hội – cái đã quy định nội dung, tính chất và sự phát triển của nó như thế nào. Vì vậy, chỉ có trên cơ sở mổ xẻ, phân tích sâu sắc những điều kiện lịch sử xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thời Trung Quốc cổ đại mới có thể luận giải một cách có căn cứ khoa
  • 22. 20 học những vấn đề đặt ra liên quan đến nội dung tư tưởng của các học thuyết, trường phái triết học sinh ra trong giai đoạn này. Trong số đó có học thuyết Ngũ hành. Học thuyết này được nhiều nhà nghiên cứu xem là yếu tố cơ bản của văn hóa Trung Quốc cổ đại, thể hiện những quan niệm về cơ cấu của vũ trụ, vạn vật, tâm lý và chính trị - xã hội của người Trung Quốc cổ đại, được xây dựng dựa trên các quan sát, thực nghiệm của họ trong giai đoạn mà nền kinh tế nông nghiệp hãy còn sơ khai. Tiến trình lịch sử Trung Quốc cổ đại bắt đầu từ thời Hạ, Thương Ân, Chu, Xuân thu - Chiến quốc, nhà Tần. Giai đoạn nhà Hạ Khởi đầu, lịch sử Trung Quốc đã trải qua thời kỳ xã hội nguyên thủy với các truyền thuyết về thời thượng cổ như Bàn Cổ, Tam hoàng, Ngũ đế. Theo những truyền thuyết này, xã hội nguyên thủy Trung Quốc đã phát triển tuần tự qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn được đánh dấu bằng những phát minh quan trọng như lửa, đồ đá, dụng cụ bằng xương động vật… chứng tỏ thành quả của những nhận thức và lao động tuyệt vời mà nhân dân Trung Quốc đã đạt được trong thời kỳ cổ đại. Đời nhà Hạ 2205 - 1766 trước công nguyên, nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc cổ đại là sự ra đời nhà Hạ, kết thúc thời kỳ lịch sử xã hội Trung Quốc từ trước đó hàng nghìn năm. Tuy nhiên, hiện nay còn có một số quan điểm khác cho rằng nhà nước chiếm hữu nô lệ ra đời vào thời Ân (1766 - 1027 tr.CN) (xem Trần Đình Hượu), hoặc (Petơrốp, Viện sĩ Liên Xô) ra đời vào thời Tây Chu. Như vậy, trong quá trình tìm hiểu thực tế cuộc sống để sinh tồn, con người đã bước lần tìm hiểu bản nguyên của vũ trụ qua thực tiễn. Tư tưởng Ngũ hành đã khởi đầu khám phá một vài yếu tố của Ngũ hành từ thời nhà Hạ là đất, nước, cây cối và đặc biệt là lửa. Những khám phá ban đầu này (đất, nước, cây cối và lửa), nó vừa là nhận thức mới về vật chất phục vụ cuộc sống, vừa giúp cho lao động bước đầu tiến bộ của nhân dân Trung Quốc cổ đại thời kỳ nhà Hạ.
  • 23. 21 Giai đoạn nhà Thương Năm 1766 trước công nguyên, Thành Thang, vua một nước nhỏ (vốn thuộc Hạ) ở vùng hạ lưu sông Hoàng Hà, vì nhà Hạ vô đạo nên nhà Thương hội quân chư hầu đã lật đổ triều vua cuối cùng của nhà Hạ, lập nên nhà Thương đặt đô tại đất Bạc (thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay). Khoảng 300 năm sau Công Nguyên vua tiếp theo của nhà Thương là Bàn Canh đã dời đô đến đất Ân (thuộc thành phố An Dương tỉnh Hà Nam ngày nay). Vì thế, nhà Thương còn được gọi là nhà Ân. Dưới triều đại Ân - Thương, nền kinh tế xã hội có sự phân công sâu sắc giữa sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, và sản xuất thủ công nghiệp. Các công cụ bằng đồng đã được sử dụng phổ biến góp phần phát triển sản xuất. Thời Ân - Thương nông nghiệp đã trở thành ngành sản xuất chủ yếu của xã hội. Về nhận thức, người đời Thương đã biết dùng mai rùa, xương thú để bói toán xem lành dữ, may rủi và sáng tạo ra văn tự còn gọi là ‘giáp cốt”. Họ còn biết chia ra lịch pháp để phục vụ cho việc xác định thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. Một năm được chia thành 12 tháng, một tháng được chia thành 30 ngày, có tháng đủ, tháng thiếu, mỗi tuần có 10 ngày và biết dùng hệ thống can - chi (gồm 10 can và 12 chi), phối hợp với nhau để tính giờ, ngày, tháng và năm. Người Ân - Thương biết quan sát thiên văn, biết được sự vận hành của mặt trăng và vị trí của nhiều ngôi sao, giải thích được hiện tượng nhật thực và nguyệt thực, tính được chu kỳ của thủy triều, tìm ra quy luật sinh trưởng của cây trồng mà đặt ra lịch âm. Nhà Thương từ khi xây dựng tới lúc diệt vong kéo dài khoảng 500 năm (có hơn 270 năm ở đất Ân), phát triển đến cực độ rồi dần dần bị suy vong. Trong giai đoạn nhà Thương (Ân), nhân dân Trung Quốc cổ đại đã từ sự khám phá lửa dần đến khám phá chất kim loại đồng, một loại kim loại dễ nóng chảy và định hình sắt loại công cụ lao động phục vụ cho con người tinh xảo hơn dụng cụ lao động bằng đá. Từ đó dụng cụ đồ đồng được thay thể mà dụng cụ đồ đá đã sử sụng trong lao động trước đây của người Trung Quốc cồ
  • 24. 22 đại. Từ thực tế khám phá đồ đồng, con người trong giai đoạn nhà Thương Ân đã tiếp tục khám phá thêm một yếu tố vật chất nữa là yếu tố kim loại làm hoàn thiện năm yếu tố của tư tưởng Ngũ hành. Như vậy, từ điều kiện kinh tế - xã hội thời Thương Ân, nhân dân Trung Quốc cổ đại đã hoàn thiện các yếu tố vật chất của Ngũ hành và tiếp tục phát triển củng cố sang đời Tây Chu với công cụ đồ sắt. Giai đoạn nhà Tây Chu và Xuân thu – Chiến quốc Năm 1123 trước công nguyên, con của vua Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương đã nổi dậy diệt vua Trụ nhà Ân Thương lập ra nhà Chu, đóng đô ở Hạo Kinh (phía tây thành Tây An ngày nay). Lịch sử gọi là Tây Chu. Thời Tây Chu, lực lượng sản xuất đã đạt tới trình độ cao hơn nhiều so với Ân – Thương. Việc sử dụng các công cụ, vật dụng bằng sắt bắt đầu xuất hiện đã thúc đẩy một số ngành thủ công nghiệp phát triển, từ đó làm cho kỹ thuật canh tác đất đai được cải thiện. Các lĩnh vực nhận thức về các khoa học tự nhiên như: lịch pháp, thiên văn, địa lý, y học… cũng đã phát triển rất mạnh. Về chính trị, hệ thống chính trị đã tương đối hoàn thiện hơn so với nhà Ân – Thương trước đó. Là một nhà nước được xây dựng trên cơ sở của chế độ chiếm hữu nô lệ, song cách thức quản lý quốc gia của nhà Chu lại theo kiểu “phong hầu kiến địa” (cắt đất phong tước hầu) nặng về huyết thống, giòng tộc. Người đứng đầu nhà Chu được gọi là “Thiên tử” có uy quyền tuyệt đối. Cùng với sự hoàn thiện hệ thống chính trị, nhà Chu cũng tiến hành cải cách quan hệ sản xuất, thực hiện rộng rãi chế độ “tỉnh điền”, một kiểu quản lý và thu lợi từ đất đai (do nhân dân lao động trực tiếp sản xuất) của giai cấp thống trị quý tộc nhà Chu lúc bấy giờ. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển mọi mặt đời sống xã hội so với thời kỳ Ân – Thương, các mâu thuẫn giai cấp trong lòng xã hội tộc Chu đang dần dần bộc lộ gay gắt. Tư tưởng triết học Trung Quốc có mầm mống từ thời tiền sử, nhưng đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc mới thực sự trở thành một hệ thống. Xuân Thu – Chiến Quốc, về niên đại, được xem là bắt đầu từ năm 771 và kết thúc
  • 25. 23 vào năm 221 trước công nguyên. Thời kỳ Đông Chu còn gọi là thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc (771 – 221 trước công nguyên), là giai đoạn giao thời giữa hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn và hình thái kinh tế - xã hội phong kiến sơ kỳ. Thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn Xuân thu và giai đoạn Chiến quốc. Giai đoạn Xuân thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương lên ngôi nhà Chu (năm 771 tr.CN), sau đó dời đô về phía Đông đến Lạc Ấp (Lạc Dương, tỉnh Hà Nam ngày nay) nên lịch sử gọi là Đông Chu. Tên “Xuân thu” là gọi theo bộ sử biên niên của Khổng Tử (chép sử nước Lỗ từ năm thứ nhất đời Lỗ Ẩn Công đến năm thứ 14 đời Lỗ Ai Công (từ năm 722 đến năm 481 trước công nguyên). Giai đoạn Chiến quốc bắt đầu từ Chu Nguyên Vương lên ngôi vương triều nhà Chu (năm 403 trước công nguyên), kết thúc giai đoạn cuối Tần tức là năm 221 trước công nguyên. Gọi là Chiến quốc vì giai đoạn này lịch sử Trung Quốc cổ đại đã chứng kiến các cuộc chiến tranh khốc liệt của các quốc gia vốn là chư hầu của nhà Chu (chủ yếu là cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa bảy nước lớn thời đó, còn gọi là “Chiến quốc thất hùng” (Sở, Hàn, Ngụy, Tần, Yên, Tề, Triệu), kết cục là nước Tần tiêu diệt sáu nước và thay thế vào đó bằng một quốc gia thống nhất mới do Tần Thủy Hoàng đế đứng đầu. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc. Theo Đàm Gia Kiện, “Tiên Tần - đặc biệt thời Xuân Thu – Chiến Quốc, là ngọn nguồn đầu tiên một cao trào của sự phát triển triết học Trung Quốc, đã xuất hiện đông đảo các nhà tư tưởng triết học thành một cục diện trăm nhà đua tiếng” [43, tr.433]. Sự chuyển mình sôi động của thời Xuân Thu được thể hiện trên các lĩnh vực: Về kinh tế, đây là thời kỳ mà nền kinh tế Trung Quốc có sự chuyển tiếp từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Sắt là một phát hiện của dân tộc Di, một tộc người ở về phía Đông của Trung Quốc. Cư dân Hoa Hạ kế thừa được công nghệ đúc sắt của người Di đã chế tạo ra nhiều công cụ lao động bằng sắt. Sự ra đời của đồ sắt có thể coi như một cuộc cách mạng trong công
  • 26. 24 cụ sản xuất. Nó trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế cổ đại Trung Quốc phát triển trên nhiều lĩnh vực. Trước hết là nông nghiệp, ngành kinh tế giữ vai trò đặc biệt quan trọng, lâu đời trong đời sống xã hội Trung Quốc. Để tồn tại và phát triển, người Trung Quốc buộc phải không ngừng cải tiến công cụ sản xuất, phát triển sản xuất nông nghiệp. Từ đồ sắt, người ta có thể chế tạo ra các công cụ sản xuất tinh xảo hơn, mở mang diện tích canh tác, phát triển hệ thống thủy lợi, các phương tiện vận chuyển, tạo mới vũ khí trong các cuộc giao tranh. Nhờ vậy, nó đã góp phần giảm nhẹ sức lao động cơ bắp của con người, mở rộng diện tích sản xuất, tăng năng suất lao động. Đặc biệt, kỹ thuật canh tác nông nghiệp đã có tiến bộ vượt bậc với tri thức ngày càng sâu sắc, phong phú. Họ đã tích lũy và phát triển kỹ thuật sản xuất nông nghiệp thành một môn khoa học. Sách Quản Tử thời Xuân thu đã ghi lại việc chia đất đai toàn quốc theo độ phì nhiêu làm ba cấp: thượng, trung, hạ. Trong đó, mỗi cấp chia làm sáu loại và chỉ ra giống cây trồng thích hợp với mỗi loại đất đó. Từ những tiến bộ vượt bậc trong sản xuất nông nghiệp do sự xuất hiện của đồ sắt, tất yếu dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong quan hệ sản xuất thời Xuân thu. Nếu dưới thời Tây Chu, giai cấp quý tộc chủ nô nắm giữ toàn bộ nguồn gốc mọi của cải trong xã hội, đó là sức lao động nô lệ và ruộng đất, thì giờ đây, công xã đã giao hẳn đất công cho từng gia đình nông nô cày cấy trong thời hạn lâu dài. Họ có điều kiện lưu canh, luân canh để tăng năng suất cây trồng. Sự phân hóa đất công còn diễn ra mạnh mẽ, một phần do quý tộc chuyển sang thương nhân giàu có, một phần do chư hầu phong cấp cho các tướng lĩnh có công, một phần quý tộc chiếm làm ruộng tư, hay đất tự nhiên do được phép khai hoang giờ đã trở thành đất của các nông dân tự do, v.v.. Chế độ “tỉnh điền” dần dần tan rã, chế độ “tư hữu ruộng đất” từng bước hình thành, đưa tới sự ra đời của giai cấp địa chủ phong kiến từng bước thay thế giai cấp quý tộc chủ nô.
  • 27. 25 Theo chế độ “tỉnh điền”, ruộng đất của công xã được chia cho nông nô theo chữ “tỉnh” có chín ô, những nông nô cày cấy tám ô xung quanh, phải có trách nhiệm cày cấy ô ở giữa để thu hoa lợi nộp cho triều đình. Khi chế độ tư hữu ruộng đất phát triển, số lượng ruộng đất giữa các nông nô có sự chênh lệch, nhà nước đã ban hành chế độ thu thuế mới đánh vào từng mẫu ruộng (gọi là thuế sơ mẫu), bãi bỏ hình thức thu thuế cũ. Nước Lỗ là nước đầu tiên thi hành chế độ thuế mới vào năm 594 tr.CN. Đồ sắt ra đời thay thế đồ đồng, không những thúc đẩy nông nghiệp phát triển, mà còn thúc đẩy tiểu thủ công nghiệp phát triển. Với tính ưu việt của đồ sắt như: quặng sắt nhiều hơn quặng đồng, đồ sắt lại bền hơn, cứng hơn và sắc bén hơn, sử dụng tiện lợi hơn đồ đồng, cho nên, việc sử dụng công cụ bằng sắt ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và phổ biến. Quá trình đó thực sự góp phần thúc đẩy việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp nhanh chóng đạt tới trình độ chuyên nghiệp cao, mở ra cơ hội cho một loạt các ngành nghề thủ công ra đời, phát triển như: nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ gốm, v.v.. Vào cuối thời Xuân thu, nước Ngô dựng lò luyện sắt, số thợ lên đến 300 người, nước Tấn trưng mua sắt để đúc đỉnh hình. Phản ánh về sự phát triển của sản xuất thủ công nghiệp, mở mang ngành nghề, sách Chu Lễ viết: “thợ mộc chiếm bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần, thợ thuộc da chiếm năm phần, thợ nề chiếm hai phần…”. Sự phát triển đa dạng của nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp về kinh tế đã có ý nghĩa tích cực trong việc giải phóng sức lao động, góp phần phá vỡ nền kinh tế thuần nông, nâng cao đời sống của người dân Trung Quốc thời cổ đại. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp phát triển đã tạo cơ sở cho thương nghiệp phát triển hơn trước và tiền tệ ra đời. Trong xã hội hình thành một tầng lớp thương nhân giàu có, danh tiếng như: Phạm Lãi, Huyền Cao (nước Trịnh), Tử Cống (là học trò của Khổng Tử)… Họ ngày càng có thế lực, có nhiều người kết giao với chư hầu, công khanh đại phu, gây nhiều ảnh hưởng đối với
  • 28. 26 đời sống chính trị đương thời. Tuy nhiên, do thực trạng khó khăn lúc bấy giờ cản trở rất lớn đến việc giao lưu, buôn bán như xã hội rối ren, lãnh thổ chia năm xẻ bảy, phương tiện giao thông thô sơ, đường sá hiểm trở khiến việc buôn bán không phải ai cũng làm được, nó đòi hỏi phải có những con người tháo vát, quyết đoán, mạo hiểm. Đặc biệt, trong quan niệm cổ truyền của người Trung Quốc, luôn xem thường, khinh rẻ nghề buôn bán, với tư duy “nông bản, thương mại”, “trọng nông ức thương” (coi trọng nông nghiệp, hạn chế buôn bán). Chính vì thế, thương nghiệp lúc này chưa thực sự phát triển, chưa có tác động ảnh hưởng lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội. Song sự hình thành của nó, đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã hội một tầng lớp mới - tiền thân của một tầng lớp thương nhân sau này ngày càng tranh giành quyền lợi với tầng lớp quý tộc cũ. Trường hợp Tử Cống, Huyền Cao của nước Trịnh là một ví dụ. Về chính trị xã hội, trước hết, đó là sự phân hóa trong cơ cấu giai cấp thống trị - giai cấp mà tính cố kết, bền chặt của nó có ý nghĩa quyết định đến sự vững bền của chế độ. Nếu như ở thời Tây Chu, giai cấp thống trị chỉ bao gồm những quý tộc chủ nô, thì đến thời Xuân thu ngoài một bộ phận trong số họ, còn được bổ sung ở tầng lớp tự do vì giàu có, tài ba mà trở nên có thế lực, tầng lớp này bắt đầu chi phối xã hội theo cách của mình. Cả hai giai cấp, tầng lớp này đều xuất hiện với tư cách là những quý tộc mới. Họ đã nhận thấy đường lối, chính sách cai trị của quý tộc chủ nô là không còn phù hợp, cần phải có sự đổi thay mới tồn tại. Sự xuất hiện của họ đã đe dọa trực tiếp đến thế và lực của nhà Chu, là đầu mối của mọi sự biến đổi và chuyển mình của xã hội Trung Quốc suốt thời Xuân thu - Chiến quốc. Dưới thời Tây Chu, chế độ tông pháp còn được tôn nghiêm, cai trị xã hội chủ yếu dựa vào lễ và tập tục; quý tộc chủ nô tùy tiện dùng hình phạt khắc nghiệt trừng trị những kẻ làm trái ý mình. Điều đó, có tác dụng tích cực giúp nhà Chu tồn tại hưng thịnh trong một thời gian dài. Nhưng cũng chính từ cách cai trị đó đã gây ra nhiều bất công, oán thán âm ỉ kéo dài và cuối cùng nó đã
  • 29. 27 bùng nổ ở thời Xuân thu. Đến lúc này, chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn nghiêm, đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính trị, quân sự giữa thiên tử và các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, những liên hệ về kinh tế trên cơ sở chiếm hữu ruộng đất tăng lên, trật tự lễ nghĩa nhà Chu dần dần bị phá bỏ. Nếu thời Tây Chu, xã hội vận hành nhờ lễ, tập tục, các quan hệ xã hội cũng được đánh giá theo tiêu chuẩn lễ, tập tục; thì đến thời Xuân thu lễ cũ đã băng, tập tục cũ đã hoại. Những biến đổi, rạn nứt trên đã làm cho trật tự quyền hành giữa Thiên tử, Chư hầu, Công khanh, đại phu chỉ còn là hình thức, trên danh nghĩa. Thực chất, lúc này thiên tử nhà Chu hầu như không còn quyền uy gì với các nước chư hầu. Thiên tử không còn đủ thực quyền xét xử những cuộc tranh chấp giữa các nước chư hầu. Thời Tây Chu việc lễ, việc nhạc, việc chính trị, việc hình phạt do thiên tử đề ra, và các nước chư hầu phải theo đó mà thực hiện. Đến thời Xuân thu, hầu như không còn do thiên tử sắp xếp, quyết định; mà đều do chư hầu, khanh đại phu tùy ý, tự tiện nêu ra và thực hiện. Nhân cơ hội này nhiều nước đua nhau động binh, mượn tiếng, lấy cớ khôi phục chế độ tông pháp nhà Chu với khẩu hiệu “tôn vương bài di”, nhưng thực chất là để bảo vệ, khẳng định mở rộng quyền lực chính trị, kinh tế… của mình, thôn tính các nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ. Thời Xuân thu, trong khoảng 242 năm đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ giữa các nước chư hầu. Ngay trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc tranh giành đất đai, địa vị, quyền thế giữa những quý tộc với nhau. Chẳng hạn, vào năm 403 trước công nguyên, ở nước Tấn có ba dòng họ là Hàn, Triệu, Ngụy đã nổi lên phế bỏ vua Tấn, dựng lên ba nước Hàn, Triệu, Ngụy. Chiến tranh triền miên, khốc liệt giữa các nước chư hầu, các quý tộc đã tàn phá xã hội nghiêm trọng. Trước hết, chiến tranh dẫn đến sự diệt vong của hàng loạt các nước chư hầu. Đầu thời Tây Chu có hơn một ngàn nước, đến cuối thời Xuân thu chỉ còn hơn một trăm nước. Trước và sau thời Xuân thu, nước Sở thôn tính 45 nước, nước Tề đời Tề Hoàn Công thôn tính 35 nước, nước Tấn diệt 20 nước,
  • 30. 28 nước Lỗ diệt 12 nước, nước Tống diệt 6 nước, v.v.. Cuối thời Đông Chu, chỉ còn 5 nước lớn: Tống, Sở, Tề, Tần, Việt và 4 nước nhỏ sắp bị diệt là Lỗ, Tống, Trịnh, Vệ. Sau bao cuộc chinh phạt đẫm máu lẫn nhau, đến thời Chiến quốc, chỉ còn 7 nước là Tề, Tần, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy (được gọi là thất hùng). Thứ đến, chiến tranh loạn lạc, trật tự lễ nghĩa băng hoại đã xô đẩy người dân đến cùng khổ, mất mát. Trước áp lực đòi hỏi của cuộc chiến, các lãnh chúa, quý tộc tăng cường mộ phu, bắt lính, bóc lột tàn khốc nhân dân lao động. Người dân phải gánh chịu sưu cao, thuế nặng, phu phen, lao dịch nặng nề. Dân lưu vong “đồng trong, ruộng ngoài bỏ hoang”. Không những thế, dân còn chịu sự cướp bóc, đàn áp của các lãnh chúa, quý tộc. Họ đã không từ một thủ đoạn nào để chiếm đoạt ruộng đất, cưỡng bức dân lành. Chiến tranh giữa các nước chư hầu còn góp phần phá vỡ lễ nghĩa nhà Chu, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng và mang tính phổ biến như “tiếm ngôi việt vị”, chư hầu chiếm dụng lễ nghĩa của thiên tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa của chư hầu, chế độ triều cống cũng bị các chư hầu tự ý gạt bỏ. Thậm chí, các nước chư hầu lớn còn mệnh danh thiên tử bắt các chư hầu nhỏ cống nạp và lệ thuộc vào mình. Theo Tử Sản, mỗi lần nước Trịnh cống nạp cho nước Tấn “phải dùng đến một trăm xe chở lụa và da thú, mà một trăm xe thì phải cả một ngàn người phục vụ” [14, tr.35]. Ngoài ra, trong xã hội, cảnh bề tôi giết vua, anh em, vợ chồng sát hại lẫn nhau thường xuyên xảy ra. Trước cảnh lễ nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi, khiến Tề Cảnh Công phải than rằng: “Nghĩ như vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, ở trong tình cảnh hỗn loạn như thế, dẫu ta có lúa đầy kho, có giữ được mà ăn chăng?” (Tín như quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chư?) [17, tr.189]. Điều này cũng đã góp phần lý giải tại sao các bậc quân tử, ẩn sĩ thời Khổng Tử đã phải thốt lên: “Khắp thiên hạ đều loạn lạc như nước đổ cuồn cuộn. Ai có thể thay đổi được?” (Thao thao giả thiên hạ
  • 31. 29 giai thị dã. Nhi thùy dĩ dịch chi?) [18, tr.288 - 289]. Theo Khổng Tử, tất cả thảm trạng xã hội trên, không phải nguyên nhân của một sớm một chiều, mà nó đã âm ỉ, mục ruỗng từ lâu. Điều đó, chứng tỏ chế độ lễ nghĩa nhà Chu đã trở thành hình thức, sáo rỗng, giả tạo. Việc “tang viếng, tế lễ, chúc mừng” chỉ là những thủ tục ngoại giao, đối phó, đạo đức giả; chứ không còn hàm chứa sự cung kính, đạo đức, bổn phận của quan hệ thân tộc và trật tự xã hội nữa. Kết cục, những cuộc chiến tranh triền miên, tàn khốc giữa các chư hầu, quý tộc đã không những không khôi phục lại địa vị tông chủ của nhà Chu, mà còn thúc đẩy mâu thuẫn xã hội thời Xuân thu lên đến đỉnh cao, đưa chế độ chiếm hữu nô lệ lao nhanh đến giờ phút cáo chung. Đó cũng là xu thế tất yếu của lịch sử. Thời Chiến quốc (475 – 221 tr.CN), tuy các cuộc chiến tranh và mâu thuẫn xã hội từ thời Xuân thu vẫn tiếp tục và ngày càng diễn ra gay gắt và có phần phức tạp hơn, nhưng về kinh tế, vẫn có bước phát triển mạnh mẽ. Trước hết, là nghề luyện sắt đã không ngừng được mở rộng về quy mô, nâng cao về kỹ thuật. Đó là sự ra đời của các trung tâm luyện sắt lớn, như trung tâm Hàm Đan ở nước Triệu, Đường Khê ở nước Hàn, Lâm Truy ở nước Tề… Người Trung Quốc thời đó vì thế đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong phú như kinh nghiệm chọn khoáng sản, nhiên liệu, lò luyện, quạt gió, nóng chảy, đúc, v.v.. Đặc biệt, một trong những khâu then chốt của luyện và nung đúc sắt là kỹ thuật xử nhiệt, kỹ thuật xử lý tụ lửa đã đạt tới trình độ cao. Chính sự phát triển của nghề luyện và nung đúc sắt đã tạo ra nhiều công cụ sản xuất như: lưỡi cày, liềm, cuốc, rìu, dao… được sử dụng phổ biến. Điều đó, có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến sự phát triển, mở rộng của kỹ thuật thủy lợi và canh tác, khai khẩn đất đai. Giờ đây, các công trình thủy lợi được xây dựng khắp nơi từ lưu vực Hoàng Hà tới lưu vực Trường Giang, từ biển phía Đông đến vùng Tứ Xuyên. Năm 597 tr.CN, Tôn Thúc Ngao của nước Sở từng chủ trì xây dựng thủy khố theo mô hình lớn đầu tiên của Trung Quốc… công trình tưới tiêu trữ nước Thược Pha. Từ năm 256 đến 251 tr.CN, Thái thú Lý Băng
  • 32. 30 của quận Thục nước Tần và con trai là Nhị Lang lãnh đạo nhân dân Tứ Xuyên xây dựng công trình thủy lợi chủ chốt bờ đập Đô Giang nổi tiếng, trở thành một kỳ tích trong lịch sử thủy lợi của Trung Quốc cổ đại, và cũng là một kỳ tích trong lịch sử thủy lợi thế giới. Ngoài đập Đô Giang tiêu biểu, thời Tần còn có kênh đào Trịnh Quốc do một người tên là Trịnh Quốc thiết kế. Nó có tác dụng dẫn nước từ huyện Kinh (Thiểm Tây) vào Lạc Thủy, dài hơn 3000 dặm, biến hơn 200 vạn mẫu đất phèn chua của bình nguyên Quan Trung thành đất canh tác đạt sản lượng cao. Đặc biệt, Tần Thủy Hoàng đế sau khi thống nhất Trung Quốc, đã chú ý đến vấn đề giao thông vùng Tây Nam, giải quyết vấn đề vận chuyển quân lương, sai sứ Lộc đào kênh Linh ở huyện Hưng An – Quảng Tây dài hơn 30 dặm với thiết kế, bố cục đều rất khoa học, giữ vị trí huy hoàng trong lịch sử hàng hải thế giới. Cùng với thủy lợi là sự phát triển của nghề thủ công, như nghề làm đồ gốm, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, nghề chạm trổ vàng bạc, tiền kim loại ra đời. Người Trung Quốc đã dùng khuôn kim loại để đúc tiền. Sự ra đời của đồng tiền bằng kim loại đã trở thành một bộ phận quan trọng cấu thành sinh hoạt xã hội, kinh tế của Trung Quốc lúc bấy giờ, đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ việc trao đổi, buôn bán hàng hóa. Những nơi như Hàm Dương nước Tần, Thọ Xuân nước Sở, Lâm Truy nước Tề, Khai Phong nước Ngụy… đã trở thành những trung tâm kinh tế sầm uất. Ngoài ra, xã hội Xuân thu – Chiến quốc đã có các thành tựu sau: Về thiên văn học, lúc bấy giờ người Trung Quốc đã biết sử dụng la bàn, biết phân biệt và hệ thống vị trí của các vì sao. Đặc biệt, họ chỉ căn cứ vào vị trí và tính chất của 28 ngôi sao, gọi là “nhị thập bát tú” để xây dựng lên một thứ lịch âm rất khoa học. Trong lĩnh vực Y dược học, họ đã biết được các vị thuốc cũng như các phương pháp chữa bệnh cơ bản. Qua thực tiễn lâm sàng hết sức phong phú, họ đã biết cách tổng kết và viết ra những cuốn sách lý luận y dược học đầu tiên hết sứ quý báu như Hoàng đế nội kinh, Thần Nông bản thảo. Những danh y nổi tiếng xuất hiện như Biển Thước, Y Hòa v.v..
  • 33. 31 Về toán học, thời này cũng đã đạt được trình độ khá cao. Các nhà toán học đã biết được các quan hệ về tỷ lệ giữa cạnh và góc trong một hình tam giác, biết cách tính diện tích của các hình như hình vuông, hình tròn, biết sáng chế và quy đổi giữa các đơn vị về đo lường… Về nông học, họ đã có những kinh nghiệm khoa học đáng quý như cách trị thủy đối với các con sông lớn, kỹ thuật “dẫn thủy nhập điền”, các phương pháp về chuyên canh các loại cây lương thực… Về văn học, họ đã để lại nhiều tác phẩm văn học quan trọng như Kinh Thi (một tuyển tập thi ca gồm 305 bài thơ được nhân dân Trung Quốc cổ đại sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm từ thời Tây Chu đến thời Xuân thu). Về sử học, thời cổ đại người Trung Quốc đã sáng tạo ra nhiều bộ sử có giá trị như Xuân thu, Tả truyện, Quốc ngữ… Tuy nhiên, chiến tranh với tính chất tàn khốc, diễn ra triền miên giữa các nước chư hầu đã đẩy cuộc sống của nhân dân lao động ngày càng cùng cực, đau khổ. Mạnh Tử đã thốt lên rằng: “Đánh nhau tranh thành, giết người thây chất đầy thành, đánh nhau giành đất, giết người thây chất đầy đồng”. “Càng về cuối thời Chiến quốc, tình cảnh càng bi đát: Nước Vệ bắt lính tới 1 phần 5 dân số, nước Tấn bắt ông già 73 tuổi ra tòng quân, nước Tề thu thuế của dân tới 2 phần 3 hoa lợi, ruộng đất bỏ hoang, có kẻ đói quá, phải đổi con cho nhau mà ăn thịt” [52, tr.34]. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế hàng hóa, sự biến đổi của đời sống xã hội đã phá vỡ chế độ công xã nông thôn. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần dần trở thành quan hệ sở hữu thống trị, chế độ thu thuế tính theo số lượng ruộng đất ra đời, thay thế cho chế độ thu thuế dựa vào sản lượng. Đặc biệt, giờ đây việc mua bán ruộng đất tự do diễn ra mạnh mẽ và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã mở đường, tạo cơ hội cho việc tích tụ, tập trung ruộng đất vào tay lãnh chúa, địa chủ thắng trận, giàu có. Và, hậu quả tất yếu dẫn đến với đa số nông dân là mất ruộng đất, phải đi cày thuê, cấy mướn, trở thành những tá điền, cố nông suốt đời và thậm chí còn diễn ra nhiều đời. Chế độ bóc lột mới bằng phát canh thu
  • 34. 32 tô xuất hiện. Trong lòng xã hội, nảy sinh những yếu tố của quan hệ sản xuất mới. Mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, đã đẩy xã hội đến nguy cơ đảo lộn nghiêm trọng. Thực tiễn đòi hỏi cần phải có sự thay đổi về đường lối, chính sách cai trị mới có thể cứu vớt nguy cơ thời cuộc. Hơn ai hết, giai cấp thống trị đã nhận thấy điều đó, nên họ đã tiến hành một số biện pháp cải cách nhằm ngăn chặn nguy cơ đảo lộn xã hội. Đó là phong trào “Biến pháp” diễn ra trong suốt thời Chiến quốc ở một loạt nước như: Ngụy, Triệu, Hàn, Tề, Tần. Thế kỷ thứ VI trước công nguyên, ở nước Tề, Quản Trọng đã nêu ra đường lối trị nước là phải dựa vào lễ, và dựa vào hình luật. Dựa vào hình luật phải đề cao: “Luật, hình, lệnh, chính”. Theo ông, luật pháp là phải công khai rõ ràng, phải dạy cho dân biết luật pháp và khi thực hành phải giữ lòng tin đối với dân. Đề cao pháp luật, nhưng không được xem nhẹ nhân, nghĩa, lễ, trí trong phép trị nước. Thế kỷ thứ VI trước công nguyên, Đặng Tích ở nước Trịnh còn chép hình như trên thẻ tre, gọi là “trúc hình” ban bố rộng rãi cho dân chúng. Vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, Tử Sản ở nước Trịnh cho đúc “hình đỉnh”, ban bố pháp luật trên đỉnh đồng để mọi người biết và thực hiện. Trong hàng loạt các “Biến pháp” trên, thì chủ trương “Biến pháp” của Thương Ưởng là có hiệu quả nhất đối với nhà Tần. Vào năm 359 trước công nguyên, ông đề xuất cải cách về luật pháp với những nội dung: xóa bỏ chế độ “tông pháp”, xây dựng chế độ quận huyện; tổ chức liên gia, thực hiện chính sách cáo gian, khuyến khích khai hoang, cày cấy nuôi tằm dệt lụa; thực hiện thưởng phạt nghiêm minh. Đến năm 350 trước công nguyên, Thương Ưởng tiếp tục đẩy mạnh cải cách, nhưng lần này chủ yếu thiên về hành chính và tài chính: Khuyến khích khai hoang, thực hiện một thứ thuế thống nhất và công bằng cho mọi người, thống nhất đồ đo lường… Tư tưởng xuyên suốt trong phép trị nước của Thương Ưởng là đề cao pháp luật. Theo ông, pháp luật phải tôn nghiêm, ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới đều phải thi hành, ai có tội thì phải phạt và phạt nặng. Đó là cách “dĩ hình khử hình” (dùng hình
  • 35. 33 phạt để trừ bỏ hình phạt). Nhờ những cải cách và sử dụng pháp trị của Thương Ưởng mà chỉ trong một thời gian ngắn, nước Tần đã trở thành nước hùng mạnh nhất, lần lượt đánh bại sáu nước Ngụy, Tề, Sở, Yên, Hàn và Triệu chấm dứt cuộc chiến tranh liên miên tàn khốc, thống nhất Trung Quốc, xác lập chế độ phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên vào năm 221 trước công nguyên. Đó là đế chế Tần mà người có công thống nhất đất nước là A Chính (tức Tần Thủy Hoàng đế). Như vậy, những biến đổi toàn diện, phức tạp và sâu sắc của xã hội Trung Quốc cổ đại từ Hạ, Thương, Chu đến thời Xuân thu - Chiến quốc đã đặt ra hàng loạt những vấn đề về triết học, chính trị - xã hội, đạo đức, pháp luật, quân sự… thúc đẩy, yêu cầu các triết gia, các nhà tư tưởng đương thời phải trăn trở, tìm hiểu, nghiên cứu để đưa ra những diệu kế, những phương pháp thực tiễn hơn để cứu đời, “tề gia trị quốc bình thiên hạ”, cho nên, thời kỳ này đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng thiên tài, nhiều trường phái triết học lớn. Nó đã thực sự trở thành điểm đỉnh của toàn bộ đời sống văn hóa tinh thần xã hội Trung Quốc cổ đại, như một mốc son chói lọi trong lịch sử tư tưởng phương Đông. Như vậy, triết học cổ đại đã thực sự là một hình thái ý thức xã hội phản ánh những điều kiện kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại. Sự phong phú, đa dạng của các hệ thống triết học thời Xuân thu - Chiến quốc khiến người ta phải gọi là thời kỳ “Bách gia chư tử” như trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng (Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh). Mỗi phái có hệ thống lý luận riêng cho việc trị nước, an dân, bình thiên hạ. “Phái thì chủ trương nhân trị, phái thì lại bảo nếu người nào cũng yêu người khác như người thân của mình thì không cần ai tranh giành với ai mà xã hội sẽ yên. Phái thì lại bảo phải trở về với thời thượng cổ, nhà cầm quyền không can thiệp vào công việc của dân, để dân sống một thời chất phác, hết ham muốn, hết tranh giành; kẻ thì lại bảo phải dùng pháp luật cho nghiêm, thưởng phạt công bằng thì nhà cầm quyền chẳng cần tài đức mà nước cũng trị” [8, tr.104]. Cho dù mỗi trường phái triết học kể trên là đại diện cho tiếng nói của mỗi
  • 36. 34 tầng lớp, giai cấp khác nhau, nhưng chúng đều được nhà cầm quyền khai thác sử dụng, dù có thuyết bị chê là vu khoát không theo được. Vì vậy, thời Chiến Quốc trở thành thời đại hoàng kim của triết học; ngôn luận được hoàn toàn tự do bàn cãi, tranh luận không chỉ diễn ra giữa các trường phái triết học đối lập với nhau, mà còn diễn ra giữa các triết gia trong cùng một trường phái. Song, trong thời Xuân thu - Chiến quốc, có một học thuyết là cơ sở của nhiều học thuyết khác là học thuyết Ngũ hành của trường phái Âm dương gia. Phái Âm dương gia bắt đầu là Trâu Tạng sống trước Mạnh Tử. Và sau Mạnh Tử, Trâu Diễn khởi xướng mạnh mẽ và đứng đầu học phái Âm dương gia. Đa phần triết gia thuộc nước Tề chú trọng đến cái gọi là “thiên nhân chi tế” (quan hệ giữa trời và người), đề xướng học thuyết Ngũ hành Âm dương. Học thuyết Ngũ hành được đề cập trong nhiều học phái, kinh điển khác bắt nguồn từ Kinh Thư, Tả truyện, Quốc ngữ đến các sách như Mạnh Tử (phái “Nhân trị”), sách Lã thị xuân thu (phái Tạp gia), sách Hoàng đế nội kinh (phái y học phương Đông). Như vậy, tiến trình một giai đoạn dài từ Tây Chu, đến thời Xuân thu – Chiến quốc, thời Tần, tư tưởng là phát triển từ năm vật chất cơ bản (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) của tư tưởng Ngũ hành họ đã phát triển bằng cách “quy làm các thuộc tính vật chất” để quy về Ngũ hành ban đầu. Như vậy, từ giai đoạn này tư tưởng Ngũ hành được biểu hiện ra tự nhiên rồi đến xã hội, cuối cùng là con người. Ở con người, Ngũ hành được quy làm với ngũ tạng, lục phủ, ngũ quan, ngũ tình… đóng góp bước đầu tư tưởng y học cổ truyền phương Đông sau này trở thành lý luận y học cổ truyền phương Đông qua bộ Hoàng Đế Nội kinh. Bởi vì bộ Hoàng Đế Nội kinh là do một loạt tác giả có trong nhân dân Trung Quốc được kéo dài hình thành qua nhiều thời kỳ song song với sự hình thành tư tưởng Ngũ hành. Thời kỳ này cũng đã xảy ra hàng loạt chiến tranh tàn khốc đã dẫn đến người Trung Quốc thời Xuân thu – Chiến quốc, nhà Tần đã dẫn đến nhận các hành, các hiện tượng xã hội, lịch sử theo sự quy loài tính chất của Ngũ hành đã xuất hiện tính tương khắc của các hành, các hiện tượng
  • 37. 35 xã hội, lịch sử theo sự quy loài tính chất của Ngũ hành (sách Mạnh Tử). Như vậy, từ điều kiện kinh tế xã hội từ thời Xuân thu – Chiến quốc, thời nhà Tần, học thuyết Ngũ hành đã dần hoàn thiện từ khám phá năm yếu tố vật chất ban đầu, dần họ đã “quy loài theo tính chất” từ tự nhiên, xã hội, con người rất phong phú và toàn diện, tiếp theo họ phát hiện quy luật tương khắc. Bao nhiêu khám phá thực tiễn đó của người Trung Quốc, họ đã xây dựng học thuyết Ngũ hành và sang đời Hán, với nhà tư tưởng Đổng Trọng Thư bổ sung và hoàn thiện học thuyết Ngũ hành từ các dạng vật chất cơ bản đến các quy luật. Từ điều kiện kinh tế - xã hội, người Trung Quốc cổ đại đã đóng góp một tư tưởng duy vật tiến bộ ban đầu có giá trị khoa học cho việc giải thích mới về thế giới. 1.1.2. Nhu cầu tìm hiểu, giải thích thế giới của người Trung Quốc cổ đại với sự hình thành học thuyết Ngũ hành Khi con người xuất hiện trên trái đất này, từ ngàn xưa, thì con người đã có nhu cầu tồn tại và phát triển. Muốn vậy họ cần phải hiểu, phải giải thích được thế giới chung quanh. Con người Trung Quốc thời cổ đại cũng đã có nhu cầu đó. Cũng như một số nền triết học cổ đại khác, ngay từ thời nhà Hạ, những mầm mống đầu tiên của triết học đã xuất hiện. Nhưng do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn cực kỳ thấp kém và do sự hạn chế về năng lực nhận thức, đứng trước các thế lực của tự nhiên vô cùng mạnh mẽ luôn luôn đe dọa tới đời sống con người như sấm sét, mưa bão, lụt lội, hạn hán, dịch bệnh, thú dữ, v.v.. người Trung Quốc cổ đại đã giải thích chúng bằng những biểu tượng và những quan niệm có tính chất hoang đường, thần bí. Các bằng chứng khảo cổ học đã cho thấy, ngay từ thời kỳ nguyên thủy, người Trung Quốc cổ đại đã có quan niệm về sự bất tử của linh hồn, xuất hiện các hiện tượng sùng bái, tôn thờ uy thế của những lực lượng tự nhiên, biểu tượng cho ý chí, sức mạnh huyết thống của tổ tiên bộ lạc mình. Bước sang giai đoạn tiếp theo, dưới các triều đại Ân Thương, Tây Chu, thế giới quan thần thoại tôn giáo, duy tâm chủ nghĩa trở thành hình thái
  • 38. 36 ý thức chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Tư tưởng thờ Trời (Thượng đế), đề cao vai trò của Thiên tử (vai trò của các bậc vua chúa trong xã hội) đã thành ý thức thường trực và chi phối hành vi của rất nhiều người trong xã hội. Trải qua hành động thực tiễn lâu dài, những tri thức khoa học mà nhân dân Trung Quốc lần lượt đạt được, bước sang thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc đã góp phần thúc đẩy đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Hơn thế nữa, nó đã góp phần phát triển trình độ nhận thức, làm cơ sở cho thế giới quan triết học nảy nở và phát triển sau này. Chính trong thời đại lịch sử biến đổi toàn diện và sâu sắc đó đã đặt ra các vấn đề triết học, chính trị - xã hội, luân lý đạo đức, pháp luật, quân sự, ngoại giao… và đã kích thích trí tuệ con người, khiến các bậc danh sĩ đương thời quan tâm lý giải để tìm ra phương pháp giải quyết “cứu đời, cứu người” làm nảy sinh một loạt các nhà tư tưởng và các học phái nổi tiếng. Sự phong phú đa dạng, đan xen và có phần quyết liệt của các học phái triết học trong thời Xuân thu - Chiến quốc, khiến người ta phải gọi đó là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà nhiều thầy), có khi gọi là thời kỳ “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng” (Trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở). Như vậy có thể nói, chính các điều kiện về lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội đầy biến động và phức tạp của thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc đã làm cho các tư tưởng triết học của Trung Quốc cổ đại vốn bắt nguồn từ thần thoại và tôn giáo thời cổ, đến thời kỳ này đã được hình thành bằng các hệ thống tri thức lý luận chặt chẽ. Vì vậy, nó không chỉ giữ vai trò là cơ sở của thế giới quan, nhân sinh quan mà còn là cơ sở để tạo ra phương pháp luận trong hoạt động của người Trung Quốc thời cổ. Chính trong bối cảnh đó, một trong những học thuyết triết học duy vật Trung Quốc thời cổ đã hình thành và phát triển. Nó không chỉ để lại một dấu ấn quan trọng trong sự phát triển của thời kỳ “Bách gia chư tử”, mà còn có
  • 39. 37 một ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của tư tưởng triết học duy vật Trung Quốc mãi về sau, đó là thuyết Âm dương – Ngũ hành. Học thuyết Âm dương – Ngũ hành đối lập với những quan điểm duy tâm và tôn giáo, biểu hiện những tư tưởng duy vật chất phác và có tính chất vô thần, tiến bộ, khẳng định vị trí và tác dụng hoạt động của con người trong xã hội cũng như trong quan hệ với tự nhiên. Một số nhà tư tưởng đã giải thích sự biến hóa của tự nhiên bằng sự hiểu biết về thiên văn và địa lý học. Bá Văn Dương nhân vụ địa chấn năm 780 trước công nguyên đã cho rằng, thế lực dương bị thế lực âm đè nén nên không thể lộ ra được tác dụng của nó nên sinh ra động đất (theo Quốc ngữ). Quan sử Thúc Hưng lại quan niệm những hiện tượng lạ lùng do tự nhiên sinh ra “là việc của Âm Dương”, không thể chi phối được họa phúc vận mệnh của con người (theo Tả truyện). Nổi bật trong tất cả các tư tưởng duy vật sơ khai thời đó là quan niệm về sự tác động phối hợp của Ngũ hành, tức là năm yếu tố vật chất cơ bản đầu tiên tạo thành vạn vật vũ trụ. Đó là các yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ được thấy trong Kinh Thư, thiên Hồng phạm. Tư tưởng đó thể hiện rõ tính chất duy vật chất phác và biện chứng tự phát trong tư duy người Trung Quốc cổ đại, là Kinh Dịch. Có thể nói học thuyết Ngũ hành là học thuyết triết học quan trọng trong tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại, phản ánh sự vận động biến hóa và liên hệ lẫn nhau của các sự vật trong vũ trụ qua sự liên hệ, tương tác giữa các hành chất tự nhiên cơ bản nhất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sự xuất hiện của quan niệm Ngũ hành đánh dấu bước chuyển đầu tiên trong tư duy khoa học của người Trung Quốc cổ đại nhằm thoát khỏi sự chi phối của thế giới quan thần thoại và tôn giáo truyền thống ở Trung Quốc thời đó. Tư tưởng sâu sắc của học thuyết Ngũ hành không những ảnh hưởng đến đời sống nhân dân Trung Quốc cổ đại, mà còn ảnh hưởng đến quan điểm tư tưởng của hầu hết các môn phái triết học sau này.
  • 40. 38 Như vậy, dưới các triều đại Thương Ân và Tây Chu, các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại đã được nảy sinh. Bên cạnh thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của con người, thì chính sự biến đổi của đời sống hiện thực, thực tiễn sản xuất, cải tạo xã hội đã làm xuất hiện những quan điểm có tính chất duy vật, chất phác. Đó là bước tiến quan trọng của người Trung Quốc cổ đại trong quá trình lý giải thế giới xung quanh và sự nhận thức về mình. Tuy còn hết sức thô sơ nhưng chủ nghĩa duy vật và vô thần hình thành trong thời kỳ Thương Ân và Tây Chu thực sự là tư tưởng mở đường cho sự phát triển của triết học Trung Quốc trong thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc sau này. Phân tích về sự xuất hiện học thuyết Ngũ hành ta thấy, Cam thệ nói về lịch sử đầu đời Hạ, còn Hồng phạm nói rằng Ngũ hành là cái mà Trời ban cho Đại Vũ. Hai thiên Cam thệ và Hồng phạm cho thấy rằng học thuyết Ngũ hành được nảy sinh đầu đời Hạ. Trước đây, nhiều người bác bỏ quan niệm học thuyết Ngũ hành bắt nguồn từ đời Hạ (khoảng 2205 – 1776 tr.CN), vì họ cho rằng đời Hạ chưa có kim loại. Chưa có kim loại thì chưa có cơ sở để tạo ra khái niệm về hành Kim. Tuy nhiên, những khai quật khảo cổ tại di chỉ Nhị Lý Đầu văn hóa (tương đương đời Hạ) và di chỉ Long Sơn văn hóa cho thấy đời Hạ đã biết chế tạo những vật dụng bằng đồng. Điều này cho thấy người đời Hạ đã biết luyện kim, mà Kim là một trong ngũ hành, do đó học thuyết Ngũ hành bắt nguồn từ đời nhà Hạ cũng là hợp lý. Yếu tố đầu tiên mà người Trung Quốc cổ đại biết đến là nước (Thủy), vì sự sống nhờ nước, sau đó họ biết đến cây trái (Mộc), và ruộng đất (Thổ), trồng trọt và đặc biệt tiếp theo là sự khám phá ra lửa (Hỏa) để họ sưởi ấm và nấu chín thức ăn. Có thể thấy từ xa xưa bốn hành thủy, hỏa, mộc, thổ liên quan mật thiết với đời sống con người. Sau cùng, việc phát hiện kim loại và ứng dụng nó vào đời sống làm cho văn hóa nhân loại phát triển đáng kể. Ngay từ đầu, học thuyết ngũ hành chỉ là năm yếu tố vật chất đơn thuần giữ vai trò quan trọng trong sinh hoạt và lao động của con người. Rồi sau đó
  • 41. 39 tư tưởng triết học về Ngũ hành mới được nảy sinh. Học thuyết Ngũ hành xuất phát từ thực tế cuộc sống từ thời nhà Hạ qua Cam thệ và Hồng phạm, theo thời gian nó phát triển thành lý luận triết học với học phái Âm dương gia và nhanh chóng có ảnh hưởng tới các học phái khác do tính thiết thực của nó, chi phối rất nhiều lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội, con người. Học thuyết Ngũ hành với những tư tưởng Kinh Dịch Từ điều kiện kinh tế, xã hội chính trị của thời Trung Quốc cổ đại, người dân có nhu cầu giải thích tự nhiên xã hội, học thuyết Ngũ hành cùng với tư tưởng Kinh Dịch là cơ sở tư tưởng duy vật đầu tiên tuy còn thô sơ nhưng đã đặt nền móng lý giải triết học khoa học cho con người. Phùng Hữu Lan có nói về Kinh Dịch trong các góc độ như sau: “Khổng Tử nói: Dịch bắt đầu từ Thái cực. Thái cực phân ra làm hai, cho nên sinh ra trời đất. Trời đất có thời tiết xuân thu đông hạ, cho nên sinh ra bốn mùa. Mỗi mùa đều có sự phân biệt Âm và Dương, cương và nhu, cho nên sinh ra Bát quái. Bát quái được phân bố vị trí, thì đạo của trời đất thành lập, và các biểu tượng sấm, gió, nước, lửa, núi, ao đầm được ấn định. Sự phân bố của chúng là để áp dụng vào sự việc. Chấn sinh vạn vật ở hướng đông, vị trí ở tháng 2. Tốn phân tán vạn vật ở hướng đông nam, vị trí ở tháng 4. Ly tăng trưởng vạn vật ở hướng nam, vị trí ở tháng 5. Khôn nuôi dưỡng vạn vật ở hướng tây nam, vị trí ở tháng 6. Đoài thu vạn vật ở hướng tây, vị trí ở tháng 8. Càn chế tạo vạn vật ở hướng tây bắc, vị trí ở tháng 10. Khảm cất chứa vạn vật ở hướng bắc, vị trí ở tháng 11. Cấn đánh dấu khởi thủy và chung cuộc của vạn vật ở hướng đông bắc, vị trí ở tháng 12. Khí của Bát quái hết, thì bốn hướng chính và bốn hướng phụ phân minh, đạo sinh-trưởng-thu-tàng hoàn bị, các thể Âm Dương ổn định, đức của thần minh thông suốt, và vạn vật mỗi thứ hoàn thành chủng loại của mình. Chúng đều được bao gồm trong Dịch. Đức của Dịch lớn lắm thay” [52, tr.96]. Trong đoạn giải thích này lý giải sự xuất hiện của Lưỡng nghi (sự phân hai của Thái cực), bốn mùa (tương ứng với Tứ