SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 110
Baixar para ler offline
BỘGIÁODỤCVÀĐÀOTẠO BỘVĂNHÓA,THỂTHAOVÀDULỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
----------*----------
Ngô Thị Hồng Giang
TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG
ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2019
BỘGIÁODỤCVÀĐÀOTẠO BỘVĂNHÓA,THỂTHAOVÀDULỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
----------*----------
Ngô Thị Hồng Giang
TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG
ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 9229040
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Kiều Thu Hoạch
Hà Nội - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Truyền thuyết Thánh Gióng – Đặc
điểm và giá trị văn hóa là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dƣới sự
hƣớng dẫn khoa học của GS.TS Kiều Thu Hoạch. Luận án dựa trên kết quả
của quá trình thực hiện nghiêm túc, khách quan và chƣa từng đƣợc công bố.
Các tài liệu tham khảo, trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận án là trung
thực và có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận án
Ngô Thị Hồng Giang
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... iii
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN..............8
1.1. Tổng quan tình hình sƣu tầm và nghiên cứu truyền thuyết Thánh Gióng........8
1.2. Các lý thuyết nghiên cứu và quan điểm tiếp cận truyền thuyết Thánh Gióng19
Tiểu kết ..................................................................................................................36
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG ....................37
2.1. Truyền thuyết Thánh Gióng theo thời gian và không gian lƣu truyền...........37
2.2. Truyền thuyết Thánh Gióng về nội dung và kết cấu ......................................43
2.3. Truyền thuyết Thánh Gióng trong mối quan hệ với các thành tố văn hóa.....53
Tiểu kết ..................................................................................................................81
Chƣơng 3: GIÁ TRỊ CỦA TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG .........................83
3.1. Giá trị lịch sử ..................................................................................................83
3.2. Giá trị văn hóa sinh thái..................................................................................94
3.3. Giá trị biểu tƣợng..........................................................................................100
3.4. Giá trị giáo dục đạo đức và triết lý sống.......................................................113
Tiểu kết ................................................................................................................121
Chƣơng 4: TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG VÀ VIỆC BẢO TỒN, PHÁT
HUY GIÁ TRỊ TRONG XÃ HỘI ĐƢƠNG ĐẠI...................................................123
4.1. Truyền thuyết Thánh Gióng và sinh hoạt văn hóa hiện nay.........................123
4.2. Thực trạng và vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị của Truyền thuyết Thánh Gióng
trong xã hội hiện nay.............................................................................................137
Tiểu kết ................................................................................................................153
KẾT LUẬN.............................................................................................................156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ........................159
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................160
PHỤ LỤC................................................................................................................176
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQL: Ban quản lý
cb: Chủ biên
DSVH: Di sản văn hóa
DSVHPVT: Di sản văn hóa phi vật thể
H: Hà Nội
HGOĐPĐVĐS: Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc
KHXH: Khoa học xã hội
LHTG: Lễ hội Thánh Gióng
NCS: Nghiên cứu sinh
Nxb: Nhà xuất bản
Sđd: Sách đã dẫn
Tp: Thành phố
Tp HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
Tr: Trang
TTTG: Truyền thuyết Thánh Gióng
TTVHDGNV: Tổng tập văn học dân gian ngƣời Việt
Ub: Ủy ban
UBND: Uỷ ban nhân dân
UNESCO: United Nation Education, Scientific &
Cultural Oganization (Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc)
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong hệ thống truyền thuyết Việt Nam thì Truyền thuyết Thánh
Gióng (TTTG) đƣợc xếp vào một trong 5 truyện cổ thuộc hạng đứng đầu
trong hệ thống truyện kể dân gian ngƣời Việt [40]. Từ khi đƣợc chính thức
ghi chép trong sử sách đến nay đã gần một nghìn năm TTTG liên tục sống
động trong lòng dân gắn liền với các di tích, sinh hoạt tín ngƣỡng, lễ hội.
Không chỉ trong tâm thức nhân dân, có thể nói TTTG tồn tại về mặt văn bản
ghi chép nhƣ một phần của lịch sử ở các phƣơng diện lịch sử, địa lý, văn học,
văn hóa ... Trong quá trình tồn tại, TTTG luôn đƣợc sáng tạo, và có nhiều dị
bản ở các không gian, thời gian khác nhau. TTTG cũng đã đƣợc nhiều học giả
trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu với những phƣơng pháp tiếp cận
khác nhau nhƣ Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Văn Huyên, Đinh
Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Cao Huy Đỉnh, G.Dumoutier, E. Sombthay...
1.2. Theo tài liệu của giới nghiên cứu khoa học xã hội, hiện nay ở Việt
Nam có hơn 60 làng thờ Thánh Gióng [118, tr.6] và hầu nhƣ các làng đều có
ít nhiều những câu chuyện truyền thuyết khác nhau, nơi thì gắn với vết chân
ngựa sắt, nơi thì gắn với roi, áo sắt, nơi gắn với chỗ nghỉ chân... Những câu
chuyện tƣởng nhƣ đơn giản nhƣng lại có sức sống mạnh mẽ, linh thiêng trong
lòng dân chúng và nó thôi thúc sự tái diễn thƣờng niên ở vùng châu thổ Bắc
Bộ suốt hàng ngàn năm. Không chỉ đƣợc nhân dân các địa phƣơng một lòng
tôn thờ, Thánh Gióng và truyền thuyết về Thánh Gióng còn đƣợc các nhà
chép sử ở các triều đại khác nhau dành cho những vị trí nhất định. Gắn với
những nơi thờ là những bản thần tích, những bản sắc phong và hình tƣợng
Thánh Gióng luôn là hiện thân của Thần, Thánh, Vƣơng, Anh hùng dân tộc từ
các triều đại phong kiến đến thời đại Hồ Chí Minh.
1.3. Thánh Gióng là một trong “Tứ bất tử” của ngƣời Việt, lâu nay đã
có nhiều tác giả viết về Thánh Gióng từ những góc nhìn khác nhau nhƣ trên
2
vừa nói. Trong các bài viết, các công trình nghiên cứu trên thì không có tác
giả nào chỉ viết về Thánh Gióng mà không viết về lễ hội Gióng, cũng nhƣ
vậy, không có tác giả nào viết về lễ hội Gióng mà không viết về sự tích,
TTTG. Đó là một qui luật của văn hóa tín ngƣỡng, văn hóa lễ hội mà folklore
học thế giới đã tổng kết. Năm 2010, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc
đã đƣợc UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại theo Công ƣớc về bảo vệ các di sản văn hóa phi vật thể đƣợc Đại hội
đồng UNESCO thông qua năm 2003, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của di
sản đối với đa dạng văn hóa và là một bảo đảm cho sự phát triển bền vững đối
với từng quốc gia cũng nhƣ toàn thế giới, trong đó Hội Gióng ở Việt Nam.
1.4. Nhƣ NCS đã trình bày, TTTG dƣờng nhƣ đứng hàng đầu về các
bản kể, cả diễn ngôn dân gian lẫn các văn bản ghi chép nên không tránh khỏi
có khá nhiều dị bản tạo thành một hệ thống truyền thuyết. Hệ thống TTTG dù
đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu song nhìn từ góc độ văn hóa
học với hệ thống truyền thuyết này vẫn là một khoảng trống, ngay cả với
Người anh hùng làng Dóng [30], một công trình nghiên cứu nổi tiếng của Cao
Huy Đỉnh (1969), thì tác giả của nó cũng chỉ coi truyện Ông Dóng là thuộc
thể loại văn học dân gian (Lời nói đầu). Trƣớc thực trạng trên, NCS nhận thấy
TTTG cần đƣợc nghiên cứu tổng hợp nhƣ một tác phẩm văn hóa, một hiện
tƣợng văn hóa tín ngƣỡng, một thực hành văn hóa mà không đơn thuần chỉ là
sáng tác văn học dân gian Việt Nam.Với những lí do nhƣ đã trình bày, NCS
đã lựa chọn đề tài: Truyền thuyết Thánh Gióng - Đặc điểm và giá trị văn hóa
làm đề tài luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ sức sống của TTTG, phân tích các đặc điểm và giá trị của
TTTG nhƣ một hiện tƣợng văn hóa góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị
của TTTG trong bối cảnh xã hội Việt Nam đƣơng đại.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, tìm hiểu các đặc điểm của TTTG trong đời sống văn hóa
xã hội Việt Nam qua các văn bản và diễn ngôn dân gian.
- Xem xét TTTG nhƣ một hiện tƣợng văn hóa trong tổng thể nguyên hợp
của văn hóa dân gian, trong mối quan hệ với các sinh hoạt văn hóa hiện nay.
- Xác định một số giá trị của TTTG trong đời sống văn hóa xã hội của
ngƣời dân Việt Nam trong bối cảnh xã hội Việt Nam đƣơng đại. Tìm ra ý
nghĩa của thực hành văn hóa qua sự tồn tại của TTTG từ xƣa tới nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các đặc điểm và giá trị văn hóa của TTTG – một di sản văn
hóa phi vật thể của ngƣời Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về tài liệu nghiên cứu, NCS nghiên cứu TTTG và các thành tố văn hóa
liên quan khác qua các nguồn tài liệu do các tác giả đi trƣớc viết với những
kiến thức đa dạng, sâu rộng cả về không gian và thời gian. Trong đó, về phạm
vi không gian tập trung chủ yếu là châu thổ Bắc Bộ, các khu vực Gia Lâm,
Sóc Sơn, Hà Nội. Về thời gian, NCS nghiên cứu từ các ghi chép sớm nhất về
TTTG đến những sƣu tầm và những ghi chép đánh giá đƣơng đại hiện nay
nhƣ một tổng thể của một hiện tƣợng văn hóa.
Về danh xƣng Thánh Gióng, ngoài danh xƣng Phù Đổng Thiên Vƣơng,
tên ngƣời anh hùng làng Phù Đổng đã từng đƣợc ghi bằng hai cách khác
nhau: Dóng và Gióng. Qua quá trình nghiên cứu, NCS dùng Gi để viết tên
ngƣời anh hùng làng Phù Đổng cũng nhƣ tên truyền thuyết là Thánh Gióng.
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
(1) Bản chất TTTG là gì? Vì sao Thánh Gióng – nhân vật huyền thoại
trở thành ngƣời anh hùng dân tộc, Thánh – Thần – Vƣơng, đƣợc nhân dân tôn
4
thờ và mở hội hàng năm để ghi nhớ công ơn trên một không gian rộng lớn,
suốt từ thời dựng nƣớc cho đến tận ngày nay?
(2) TTTG có những đặc điểm gì và trong xã hội đƣơng đại nó đƣợc bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa nhƣ thế nào?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
- TTTG có những đặc điểm và giá trị văn hóa sâu sắc trong đời sống xã
hội từ khi tồn tại đến nay.
- TTTG hiện nay vẫn đang tồn tại, biến thiên và sáng tạo liên tục, đóng
góp vào lịch sử văn hóa Việt ở nhiều khía cạnh tạo nên diện mạo riêng trong
văn hóa truyền thống Việt Nam.
5. Phƣơng pháp tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp tiếp cận của đề tài
Luận án vận dụng phƣơng pháp tiếp cận của văn hóa học là phƣơng pháp
nghiên cứu tập hợp nhiều phƣơng thức, thao tác và biện pháp đƣợc sử dụng để
phân tích hiện tƣợng văn hóa. Cụ thể là sử dụng phƣơng pháp tiếp cận liên
ngành, trong đó sử dụng phối hợp các phƣơng pháp nghiên cứu của các khoa học
khác nhƣ Văn hóa dân gian, Nhân học văn hóa, Lịch sử, Văn học.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phƣơng pháp nghiên cứu tổng thể: Nhận thức TTTG nhƣ một bức
tranh toàn cảnh từ các diễn ngôn dân gian đến các văn bản thời trung đại bao
gồm truyện kể, thơ văn đến các bản thần tích, thần sắc, các di tích tôn thờ
Thánh Gióng ở các địa phƣơng tiêu biểu còn tồn tại đến nay trong vùng văn
hóa châu thổ Bắc Bộ.
- Phƣơng pháp so sánh văn bản: Truyền thuyết Thánh Gióng đã đƣợc
ghi chép trong các sách Hán Nôm và hiện đã có nhiều bản dịch đã xuất bản,
đồng thời TTTG cũng tồn tại ở các diễn ngôn dân gian ở những vùng miền
mà truyền thuyết Thánh Gióng đã lƣu hành. NCS sử dụng phƣơng pháp so
5
sánh văn bản kết hợp với kết quả nghiên cứu, sƣu tầm của những ngƣời đi
trƣớc và kết quả khảo sát điền dã của NCS nhằm thấy đƣợc chiều kích lịch đại
và đồng đại của huyền tích Thánh Gióng để tạo cơ sở cho việc khám phá ý
nghĩa các đặc điểm và giá trị của một hiện tƣợng văn hóa, của TTTG.
- Phƣơng pháp quan sát tham dự: Hiện tƣợng văn hóa tín ngƣỡng và
thực hành văn hóa về Thánh Gióng tồn tại ở các sinh hoạt thƣờng kỳ ở các di
tích, lễ hội, tập tục, kỵ hèm… Để thấy đƣợc các đặc điểm và giá trị của TTTG
đòi hỏi phải có sự quan sát và tham dự nhằm thấy rõ vai trò của TTTG trong
bối cảnh đƣơng đại.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Diễn giải về mặt lý thuyết để thấy rõ một số hƣớng tiếp cận đối với
truyền thuyết ở trong và ngoài nƣớc. Khẳng định rõ hơn: truyền thuyết không
đơn thuần chỉ là văn học dân gian mà truyền thuyết còn là một tác phẩm văn
hóa đa nghĩa luôn gắn kết với tín ngƣỡng và lễ hội nói riêng, với văn hóa Việt
Nam nói chung.
- Đóng góp vào quá trình tìm hiểu các giá trị của hệ thống truyền thuyết
về các nhân vật anh hùng huyền thoại đƣợc tôn vinh trong lịch sử và vấn đề
lịch sử hóa ngƣời anh hùng trong truyền thuyết.
- Đƣa ra những phân tích, lý giải các đặc trƣng của TTTG và mối quan
hệ của nó với các thành tố văn hóa truyền thống khác.
- Hệ thống hóa những giá trị văn hóa, ý nghĩa về TTTG nhƣ một biểu
tƣợng của tinh thần yêu nƣớc và chủ nghĩa anh hùng chống xâm lƣợc của mọi
thời đại trong lịch sử Việt Nam.
- Cung cấp cơ sở lý luận trong quá trình sáng tạo ra chân dung ngƣời
anh hùng và cách thức lịch sử hóa các nhân vật huyền thoại trong lịch sử văn
hóa dân tộc.
6
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận án tổng hợp các ghi chép, nghiên cứu về TTTG làm cho ngƣời
đọc có cái nhìn đa chiều và toàn diện về TTTG góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa
văn hóa của truyền thuyết Thánh Gióng phù hợp với chuyên ngành Văn hóa
học của luận án.
Đồng thời, nghiên cứu TTTG kết hợp với nghiên cứu tín ngƣỡng, thực
hành nghi lễ, lễ hội nhất là từ khi Hội Gióng đƣợc UNESCO ghi danh là di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2010 với những hƣớng tiếp
cận mới là vấn đề cần thiết để thấy đƣợc các giá trị của TTTG trong đời sống
xã hội. Luận án áp dụng một số lý thuyết mới để nghiên cứu TTTG nhƣ các lý
thuyết về giá trị, lý thuyết chức năng, lý thuyết bối cảnh diễn xƣớng góp phần
gìn giữ và phát huy tốt hơn di sản văn hóa lễ hội Thánh Gióng và TTTG trong
xã hội Việt Nam đƣơng đại.
- Luận án làm tăng thêm hàm lƣợng tri thức góp phần giáo dục, nâng
cao nhận thức của ngƣời dân nói chung và ngƣời dân ở các khu vực có lƣu
truyền và thờ tự Thánh Gióng nói riêng.
- Qua hình tƣợng anh hùng Gióng, nêu cao ý nghĩa, tinh thần xây dựng
đất nƣớc và chống kẻ thù xâm lƣợc cho thế hệ thanh thiếu nhi Việt Nam hiện
nay. Đồng thời nêu cao đạo lý uống nƣớc nhớ nguồn của cha ông ta.
Đóng góp mới của luận án:
- Hệ thống hóa các loại hình tƣ liệu về TTTG.
- Khám phá những đặc điểm về giá trị của TTTG qua các phạm trù văn
hóa nghệ thuật và lịch sử theo các lát cắt lịch đại và đồng đại.
- Nghiên cứu TTTG nhƣ một di sản văn hóa cổ truyền từ truyền thống
đến đƣơng đại theo hƣớng bảo tồn và phát triển.
7
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu (7 trang), kết luận (3 trang), tài liệu tham khảo (15
trang), phụ lục (32 trang) luận án đƣợc kết cấu thành 4 chƣơng:
Chƣơng 1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu và cơ sở lý luận (29 trang).
Chƣơng 2. Đặc điểm của truyền thuyết Thánh Gióng (44 trang).
Chƣơng 3. Giá trị của truyền thuyết Thánh Gióng (39 trang).
Chƣơng 4. Truyền thuyết Thánh Gióng và việc bảo tồn, phát huy giá trị
trong xã hội đƣơng đại (32 trang).
8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình sƣu tầm và nghiên cứu truyền thuyết
Thánh Gióng
1.1.1. Những sưu tầm, truyện kể về Thánh Gióng
Xét theo tiến trình thời gian, trong khoảng thời gian dài, (khoảng thế kỷ
XIII đến thế kỷ XVIII) các ghi chép về Thánh Gióng chủ yếu tồn tại dƣới
dạng là các mẩu truyện kể dân gian chƣa xác định chính xác về thể loại, và
gần nhƣ không có nhận định chính xác nào về thời điểm xuất hiện truyền
thuyết này. Nhìn chung những bản ghi chép sƣu tập truyện dân gian thời trung
đại chƣa có tên gọi về thể loại. Tuy nhiên, qua bài Tựa sách Lĩnh Nam chích
quái chẳng hạn, cũng có thể giúp chúng ta thấy rõ nhiều nhận thức của ngƣời
xƣa về nguồn gốc, xuất xứ của các truyện đƣợc sƣu tập: “Những chuyện chép
ở đây, là sử ở trong truyện chăng, lai lịch ra sao, có từ thời nào, tên họ ngƣời
hoàn thành đều không thấy ghi rõ. Viết ra đầu tiên (chỉ những chuyện trong
Lĩnh Nam chích quái) là những bậc tài cao học rộng ở đời Lý - Trần, còn
những ngƣời nhuận sắc là các bậc quân tử bác nhã hiếu cổ ngày nay” [123].
Nhƣ vậy, qua bài Tựa sách Lĩnh Nam chích quái, ít ra chúng ta cũng đƣợc biết
các truyện trong đó đã đƣợc sƣu tập từ thời Lý – Trần, và đến thời Lê Thánh
Tông thì đƣợc bổ sung, hoàn chỉnh thêm. Các ghi chép trong các tài liệu nhƣ
An Nam chí lược (thế kỷ XIII), Thiền uyển tập anh ngữ lục (thế kỷ XIV), Việt
điện u linh (Lý Tế Xuyên, thế kỷ XIV), Dư địa chí (Nguyễn Trãi thế kỷ XV),
Lĩnh Nam chích quái (Vũ Quỳnh, Kiều Phú, thế kỷ XIV-XV). Thế kỷ XVI có
chép về truyện Thánh Gióng, chủ yếu ở các dạng thần tích nhƣ: thần tích Phù
Đổng Thiên Vƣơng, thần tích Sóc thiên vương thực lục thần tích ở đền Thanh
Nhàn (xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn) và Ngọc phả ghi chép về vị tôn thần
thời Hùng vƣơng ở xã Ân Phú, Giới Tế (huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh)
[xem phụ lục 1, tr.178]. Năm 1606, trong Hiển linh từ thạch bi ở đền Phù
9
Đổng, ngƣời dân trong vùng có ghi lại huyền thoại này, không có gì khác biệt
với huyền thoại từ trƣớc đền khi ấy [11].
Khoảng cuối thế kỷ XVII, TTTG đƣợc ghi chép trong Thiên Nam ngữ
lục (tác phẩm viết bằng thơ Nôm, diễn ca lịch sử đầy tự hào từ thời mở nƣớc
của dân tộc) và Đại Việt sử ký toàn thư (1697), bộ quốc sử Việt Nam xƣa nhất
còn tồn tại đến này nay. Thế kỷ XIX, ghi chép trong Lịch triều hiến chương
loại chí (Phan Huy Chú), trong Đại Nam quốc sử diễn ca, trong Sử Nam chí
dị, trong Bắc Ninh phong thổ tạp ký, Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí, Bắc Ninh
địa dư chí [11]...
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là các ghi chép trong: Các truyền
thuyết lịch sử của Trung Kỳ và Bắc Kỳ - tiếng Pháp (1887- G.Dumoutier
(1850-1904), Ba mươi truyền thuyết và cổ tích Bắc Kỳ - tiếng Pháp (Truyện
Đền Phù Đổng- E. Sombthay (1893). G.Dumoutier (1893) trong Nghiên cứu
lịch sử và khảo cổ về Cổ Loa, đô thành của vương quốc Âu Lạc (nước Thục
và nước Văn Lang hợp lại) 255-207 TCN trang 46-50 của công trình này, ông
có công bố huyền thoại về Thánh Gióng với nhan đề “Đứa trẻ thần kỳ, ngƣời
giải phóng vƣơng quốc” [11].
1.1.2. Những nghiên cứu về truyền thuyết Thánh Gióng
Qua những ghi chép nhƣ trên, có thể nói đến những năm cuối thế kỷ
XIX, và thế kỷ XX bắt đầu có xu hƣớng nghiên cứu về Thánh Gióng nói
chung và hội Gióng nói riêng song song với các ghi chép về thần tích và
truyền thuyết Thánh Gióng. Trong đó có những hƣớng tiếp cận nghiên cứu về
TTTG nhƣ:
1.1.2.1. Tiếp cận truyền thuyết Thánh Gióng nhìn từ những ghi chép về lễ
hội và diễn xướng dân gian
Đỗ Trọng Vĩ (khoảng 1882-1885), với công trình Bắc Ninh địa dư chí,
tác giả đã ghi chép về hội Phù Đổng ở huyện Tiên Du và hội đền Phù Đổng
thiên vƣơng núi Vệ Linh và hội Gióng ở tổng Phù Lỗ. Phạm Xuân Lộc
10
(1920), trong Bắc Ninh tỉnh khảo dị đã có những trang ghi chép khá chi tiết và
chân thực về hội Gióng ở đền Phù Đổng trong mục Dân tục thần tích xã Phù
Đổng huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh [11, tr.22]. Lê Ta (tức nhà
thơ Thế Lữ 1934), viết bài “Giới thiệu về hội Gióng ở đền Phù Đổng” trên
Phong hóa tuần báo. Toan Ánh (1969) trong Nếp cũ hội hè đình đám đã viết
về Lễ hội làng Phù Đổng bằng ký ức và tƣ liệu sẵn có trong thƣ tịch bằng
phƣơng pháp miêu thuật của các nhà dân tộc học [7]. Và nhiều tác giả khác
với những công trình và bài viết nhƣ: Trần Việt Ngữ (1979), Hội trận đền
Gióng [95]; Nguyễn Khắc Đạm (1981), Một số vấn đề về hội Gióng [28];
Trần Bá Chí (1986), Hội Dóng đền Sóc [21].
Ngoài ra còn có những công trình ghi chép, nghiên cứu về riêng hội
Gióng hoặc chung với các lễ hội khác trong cả nƣớc hoặc những nhận định
tản mạn có đề cập đến hội Gióng của các tác giả nhƣ: Thu Linh và Đặng Văn
Lung (1984), Lễ hội truyền thống và hiện đại, Lê Hồng Lý (2010), Tìm hiểu lễ
hội Hà Nội, Bùi Thiết (1993), Từ điển hội lễ Việt Nam... Đặc biệt là một loạt
công trình, bài viết về lễ hội Thánh Gióng nói riêng và lễ hội cổ truyền nói
chung của tác giả Lê Trung Vũ nhƣ: “Thử giải mã nội dung của hội Gióng xã
Phù Đổng Gia Lâm” (1993), “Hội Gióng đền Sóc Xuân Đỉnh (2005), Hội
Gióng Sóc Sơn” (2005), “Hội Phù Gióng Chi Nam” (2005), “Hội Thánh
Gióng Phù Đổng” (2005), “Hội làng Hà Nội” (2006), “Lễ hội cổ truyền”
(1992), “Lễ hội Thăng Long” (1998), “Lễ hội Việt Nam” (2005) [11, tr. 638].
Trong số các công trình nghiên cứu, sƣu tầm về hội Gióng, có thể nói
công trình của Nguyễn Văn Huyên là một trong những công trình sƣu tầm
sớm và công phu, đƣợc nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao. Năm 1938,
Nguyễn Văn Huyên công bố công trình Hội Phù Đổng, một trận đánh thần kỳ
trong truyền thuyết Việt Nam, bằng tiếng Pháp và năm 1941, ông công bố
công trình Hát và múa Ải Lao ở hội Phù Đổng (Bắc Ninh) cũng bằng tiếng
11
Pháp. Năm 1996, cả hai công trình này đã đƣợc ra mắt bạn đọc bằng tiếng
Việt [42]. Với công trình thứ nhất, Nguyễn Văn Huyên đã miêu thuật từ
truyền thuyết, đến việc tổ chức lễ hội và diễn trình của lễ hội một cách cụ thể
và chi tiết. Trong công trình Hát và múa Ải Lao ở hội Phù Đổng (Bắc Ninh),
ông bổ sung thêm vào ba ca khúc mới do Tri huyện Tiên Du sai trợ tá của
mình là một nho sĩ sáng tác ra để cho đoàn ca múa Ải Lao trình diễn vào năm
1941. Đây là những công trình mẫu mực, ghi chép, nhận định về hội Gióng ở
làng Phù Đổng một cách chân xác khoa học theo hƣớng tiếp cận từ quan điểm
dân tộc học và khảo cứu.
Không chỉ dừng lại ở những ghi chép về hội Gióng, nửa sau thế kỷ XX
đã xuất hiện những hƣớng tiếp cận mới về Thánh Gióng nhƣ cách tiếp cận ở
phƣơng diện diễn xƣớng nhƣ: Năm 1977, Nguyễn Huy Hồng nghiên cứu ở
phƣơng diện diễn xƣớng của hội Gióng [62], để khẳng định đây là một bản
diễn xƣớng anh hùng ca. Tác giả miêu thuật tƣơng đối chi tiết về Hội Gióng
(nhƣ miêu thuật của Nguyễn Văn Huyên) từ khâu tổ chức, chuẩn bị đến các
trò diễn trong lễ hội nhƣ múa rối nƣớc, săn hổ, xuất quân. Và đi đến kết luận:
Hội Gióng đã “tập trung tất cả những khả năng nghệ thuật của nhân dân thời
cổ để diễn tả uy lực của ngƣời anh hùng làng Gióng” và “đây là một màn hoạt
kịch và là một hình thức sân khấu cổ của chúng ta, đồng thời là một diễn
xƣớng lịch sử lớn, toàn diện, chứa đựng nội dung tƣ tƣởng sâu sắc” [62,
tr.136]. Năm 1978, tác giả Chu Hà khi nghiên cứu diễn xƣớng dân gian đã
khẳng định: Hát cửa đình, hội trận đền Gióng là hình thức diễn xƣớng dân
gian có qui mô lớn và từ lâu đời [62].
1.1.2.2. Xu hướng tiếp cận Truyền thuyết Thánh Gióng nhìn từ khía
cạnh lịch sử
Với những tìm hiểu và suy luận của mình, Tạ Chí Đại Trƣờng (1996),
trong bài viết “Lịch sử một thần tích: Phù Đổng Thiên vƣơng” [154] đã xuất
12
phát từ “bề thế của một hội lễ” để truy tìm tông tích của thần tích Phù Đổng
Thiên Vƣơng và thấy rằng: “Sử và thần tích Phù Đổng quyện lại làm một
đang chờ sự xét đoán dƣới một quan điểm lịch đại để vẽ lại lịch sử của thần”
[154, tr.231].
Cũng dƣới cái nhìn và cách viết theo lịch đại và ghi chép lịch sử có
nhiều công trình đã ghi lại TTTG nhƣ một dấu mốc lịch sử văn hóa của các
tác giả nhƣ: Nguyễn Thế Long (1998), Đình và đền Hà Nội; Doãn Đoan Trinh
(2000), Hà Nội, di tích lịch sử văn hóa và danh thắng; Nhiều tác giả (2000)
Di tích lịch sử văn hóa Hà Nội [11]...
1.1.2.3. Xu hướng tiếp cận Truyền thuyết Thánh Gióng trên phương
diện loại hình truyền thuyết, thần tích và tư tưởng tôn giáo tín ngưỡng
Nhìn chung xu hƣớng tiếp cận TTTG dƣới cái nhìn là truyện kể dân
gian và thần tích là nhiều hơn cả, đó là các công trình ghi chép về địa chí,
thần tích của các vùng miền nhƣ: Phạm Văn Thụ (1921), “Viết lại sự tích về
Thánh Gióng” trong Sóc Sơn từ phả. Nguyễn Khánh Trƣờng (1938), Truyền
thuyết những vị thần chính được thờ ở tỉnh Phúc Yên (Bắc Kỳ) [11]. Các bài
viết trong công trình nghiên cứu văn học nhƣ: Nguyễn Đổng Chi (1956) Lược
khảo thần thoại Việt Nam [19]; Nguyễn Đổng Chi (1975), Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam, tái bản năm 1993 [20], tập IV; Vũ Ngọc Phan (1957), Truyện
cổ Việt Nam; Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1962), Văn học dân gian Việt
Nam; Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi và Vũ Ngọc Phan
(1957), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (quyển I); Trần Văn Giàu (1967),
Tư tưởng chủ yếu của người Việt cổ qua những truyện đứng đầu trong thần
thoại và truyền thuyết [40]; Vũ Tuân Sán (1968), Truyền thuyết về Thánh
Gióng [125]; Vũ Ngọc Phan (1968), Phù Đổng (tức Thánh Gióng) là hình tượng
văn học đẹp đẽ và hùng mạnh của nhân dân ta từ xưa đến nay; Đỗ Bình Trị
(1970), Lịch sử văn học Việt Nam (tập 1); Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên
13
(1962), Văn học dân gian Việt Nam, tái bản năm 1997 [70]; Trần Quốc
Vƣợng, Vũ Tuân Sán (2004), Hà Nội nghìn xưa; Bùi Văn Nguyên (1978), Để
hiểu thêm ý nghĩa cảnh giác, chống ngoại xâm của truyền thuyết Thánh
Gióng [91]; Hoàng Tiến Tựu (1979), Sự phát triển của truyền thuyết về đề tài
chống giặc ngoại xâm từ truyền thuyết về Thánh Gióng đến An Dương Vương
[158]... Keith Weller Taylor (1983), The birth of Viet Nam (Sự hình thành của
nước Việt Nam, Hoa Kỳ) đã đề cập đến truyền thuyết Thánh Gióng, ông
khẳng định: “truyền thuyết này đƣợc nhân dân Việt Nam ghi nhớ bởi lẽ chúng
thể hiện bản sắc sớm nhất của họ với tƣ cách là một dân tộc” [11, tr.21]...
Nhìn TTTG từ khía cạnh xem xét về tƣ tƣởng, tôn giáo tín ngƣỡng có
thể kể đến các tác giả với những công trình nhƣ: Ngô Đức Thịnh và Vũ Ngọc
Khánh (1990), Tứ bất tử [72]. Trong công trình này các tác giả đã xem xét
nhân vật Thánh Gióng nhƣ một trong bốn vị thánh bất tử (bao gồm Đức
Thánh Tản, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng, Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh)
luôn đƣợc phụng thờ. Và trong tâm thức dân gian Việt Nam, đó là các biểu
tƣợng của sự trƣờng tồn, bất diệt của dân tộc kể từ thuở khai thiên lập địa đến
ngày nay. Nhƣ lời Nxb nhận xét “Ở đây không chỉ liên quan đến tín ngƣỡng,
mà cả các mặt triết học, sử học, dân tộc học”. Ở phần viết về Đức Thánh
Gióng, các tác giả đã chia làm ba phần trong đó phần 1 là ghi chép những sự
tích và huyền thoại về Thánh Gióng; từ những ghi chép trong sử sách đến sự
phát triển của huyền thoại, truyện kể ở “vùng ông Gióng”. Phần 2 là đề cập
đến những Sinh hoạt văn hóa chung quanh đề tài Thánh Gióng nhƣ tín
ngƣỡng về Đức Thánh Gióng, hội Gióng, văn hóa nghệ thuật xung quanh đề
tài Thánh Gióng (nhƣ thơ ca, truyện, bài hát, phong trào thể dục thể thao – hội
khỏe Phù Đổng lấy biểu tƣợng Thánh Gióng làm trung tâm). Phần ba là một
số tƣ liệu về Thánh Gióng nhƣ các dị bản qua các sách thần tích, qua các chi
tiết ở trong lễ hội.
14
Đề cập đến mối quan hệ của Thánh Gióng nói riêng và TTTG nói
chung trong mối quan hệ với Phật giáo, tác giả Nhƣ Hạnh (1996) đã có những
phân tích sắc sảo qua bài viết “Từ Tỳ Sa Môn Thiên Vƣơng (Vaisravana), qua
Sóc Thiên vƣơng đến Phù Đổng Thiên vƣơng”. Ông đã đi đến kết luận rằng
qua câu chuyện về giấc mơ của Khuông Việt trong Thiền uyển tập anh cho
chúng ta “một ví dụ điển hình về những nỗ lực đầu tiên của giới lãnh đạo Phật
giáo trong việc thiết lập nguồn gốc của quốc gia Việt Nam trong Phật giáo”
và cũng là “sự nỗ lực tạo dựng huyền thoại”. Song giấc mơ của Khuông Việt
“đã không đƣợc các thế hệ Phật giáo kế tiếp chịu mơ chung, thành ra cuối
cùng chỉ là một giấc mơ nhỏ bé bị quên lãng vùi lấp dƣới những ảo tƣởng Tổ
sƣ Thiền” [106, tr.154].
Ngoài ra còn có các công trình khác đề cập đến Văn hóa tâm linh nói
chung có đề cập đến TTTG nhƣ: Văn Quảng (2009), Văn hóa tâm linh Thăng
Long Hà Nội; Cung Khắc Lƣợc, Lƣơng Văn Kế (1998), Bản dịch thần tích ở
đền Bộ Đầu, xã Thống Nhất, huyện Thường Tín [11]; và các ghi chép, nhận
định về các thần tích nói chung trong đó có thần tích về Thánh Gióng.Gần đây
tác giả Tạ Đức trong công trình Nguồn gốc người Việt – người Mường [34]
cũng có đề cập đến việc lý giải biểu tƣợng và tên gọi Thánh Gióng. Năm 2017
với chuyên đề Nguồn gốc và sự phát triển của trống đồng Đông Sơn [35], Tạ
Đức đã khẳng định Thánh Gióng là Thần trống đồng nƣớc Xích Quỉ.
1.1.2.4. Xu hướng tiếp cận liên ngành về truyền thuyết Thánh Gióng
Trong số các công trình nghiên cứu mang tính chất tiếp cận liên ngành
có thể kể đến chuyên luận Người anh hùng làng Dóng của Cao Huy Đỉnh.
Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá, công trình này của Cao Huy Đỉnh là một
chuyên luận qui mô về truyền thuyết và lễ hội Thánh Gióng. Nguyễn Xuân
Kính đã nhận xét: “Ở những năm 60, khi mà không ít ngƣời nghiên cứu văn
học dân gian vẫn còn nhìn folklore ngôn từ bằng con mắt văn học, từ giác độ
15
văn hóa, Cao Huy Đỉnh đã kiên trì một phƣơng pháp làm việc: đặt tác phẩm
văn học dân gian vào môi trƣờng nảy sinh ra nó mà khảo sát” [106, tr.783] và
Nguyễn Xuân Kính cũng khẳng định ở đây, Cao Huy Đỉnh đã dùng phƣơng
pháp nghiên cứu tổng hợp. Mặc dù, tác giả đã tự xếp loại là công trình văn
học dân gian, nhƣng thực chất tác giả đã tiếp cận từ nhiều góc độ: văn hóa
dân gian, dân tộc học lịch sử và văn học nói chung (cả dân gian và cổ cận đại,
đƣơng đại). Nhƣ vậy, Cao Huy Đỉnh đã dùng phƣơng pháp nghiên cứu tổng
hợp, liên ngành mặc dù, tác giả đã tự xếp loại là công trình văn học dân gian,
nhƣng thực chất tác giả đã tiếp cận từ nhiều góc độ: văn hóa dân gian, dân tộc
học lịch sử và văn học nói chung. Tác phẩm gồm 6 chƣơng: Chƣơng 1: Đất
nƣớc vùng Trung châu kể chuyện ông Dóng; Chƣơng 2: Từ truyện ngƣời anh
hùng bộ lạc đến truyện ngƣời anh hùng dân tộc; Chƣơng 3: Hội Dóng và nghệ
thuật diễn xƣớng anh hùng ca; Chƣơng 4: Truyện ông Dóng trong văn học
thời phong kiến và thuộc Pháp; Chƣơng 5: Các tác giả ngày nay bàn về truyện
ông Dóng; Chƣơng 6: Dóng là hình tƣợng anh hùng ca Việt Nam rất cổ mà rất
mới. Để thực hiện công trình này, tác giả đã có sự khảo sát tƣờng tận vùng
Phù Đổng là nơi có đền thờ Thánh Gióng đƣợc sinh ra và các dấu tích của
cuộc hoài thai và sinh nở vẫn còn (dấu chân ông Khổng lồ, vƣờn cà, liềm đá,
chõng đá, thống đá) và các làng, các ngọn núi, dòng sông, đầm hồ, rặng tre...
ở Bắc Ninh, Gia Lâm, Hà Nội. Công trình này có ý nghĩa phƣơng pháp quan
trọng đó là đã nghiên cứu một truyền thuyết từ cách tiếp cận tổng thể folklore:
điều tra điền dã các di tích, những nơi hình thành truyền thuyết, những ngƣời
kể, lƣu truyền và diễn xƣớng truyền thuyết, thông qua đó, công trình gợi mở
các vấn đề của thể loại nhƣ quá trình hình thành và lƣu truyền truyền thuyết,
vấn đề trung tâm và lan tỏa, mối quan hệ giữa truyền thuyết và lịch sử. So với
công trình Hội Phù Đổng (một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt
Nam) của Nguyễn Văn Huyên tập trung miêu tả lễ hội Phù Đổng, công trình
16
của Cao Huy Đỉnh đã mở rộng các giới hạn mà truyền thuyết liên quan, từ đó
cho thấy đời sống phong phú, sinh động của một truyền thuyết và nhu cầu
tinh thần của ngƣời dân về việc sáng tạo ra các biểu tƣợng của lịch sử dân tộc,
sống với các biểu tƣợng đó trong các thời đại [4, tr.26].
Có thể nói Trần Quốc Vƣợng (1934-2005) cũng là ngƣời đã sớm sử
dụng phƣơng pháp này trong các bài viết “Căn bản triết lý ngƣời anh hùng
Phù Đổng và hội Gióng” [106, tr.435] và “Truyền thuyết về ông Gióng – trong
sách vở và ở ngoài đời” [106, tr.283]. Bài “Căn bản triết lý ngƣời anh hùng Phù
Đổng và hội Gióng” là bài viết có nhiều phát hiện, đồng thời bƣớc đầu đã gợi
mở về những mô típ, những mã văn hóa cần đƣợc giải ảo về mặt biểu tƣợng.
Trong đó tác giả đã đề cập đến các triết lý xã hội sâu sắc về ngƣời anh hùng
Phù Đổng. Ông đã phát hiện hình thái cấu trúc trong TTTG đó là cấu trúc đối
ứng với những nhân tố, chi tiết tƣơng phản để tôn cao, nổi bật lẫn nhau nhƣ
mẹ Đất – cha Trời; mẹ thực – cha ảo; tuổi nhỏ - chí lớn... Và ông cũng khẳng
định “Phù Đổng là biểu tƣợng của tuổi trẻ anh hùng Việt Nam, biểu tƣợng của
chính Việt Nam... một hằng số Phù Đổng của lịch sử Việt Nam” [106, tr.435].
Ông đã tiến hành lý giải các mô típ tạo thành chủ đề câu chuyện, đồng thời lý
giải các “hiện thực lịch sử Việt Nam đƣợc xạ ảnh trong huyền thoại Gióng”.
Ông đã đi từ hội Gióng, huyền thoại Gióng đến không gian phân bố các di
tích có liên quan đến huyền tích Thánh Gióng để lý giải các biểu tƣợng trong
TTTG từ đó tìm hiểu đƣợc Tâm thức dân gian Việt Nam “tìm hiểu đƣợc mối
bận tâm hằng xuyên của Đại Việt – Việt Nam, từ triều đình đến thôn quê: Đó
là làm ăn – đánh giặc – giao phối – vui chơi” [106, tr.447]. Tìm ra đƣợc qui
luật vận hành của huyền thoại đó là quá trình thời sự hóa (evhémérisé) và lịch
sử hóa (historisé). Anh hùng thần thoại trở thành anh hùng trong tôn giáo,
trong đạo giáo. Bài “Truyền thuyết về ông Gióng – trong sách vở và ở ngoài đời”,
đúng nhƣ tên gọi của bài viết tác giả đã đi từ những lý luận chung đến đi sâu
17
phân tích từng khía cạnh nhƣ từ sự phân tích chữ nghĩa đến thƣ tịch để vạch
ra một diễn trình lịch sử của Thần từ buổi ban đầu đến ngày nay.
Ngoài ra có thể kể đến các tác giả và tác phẩm đã sử dụng xu hƣớng
liên ngành khác nhau để nghiên cứu TTTG nhƣ: Đinh Gia Khánh và Trần
Tiến (cb, 1991), Địa chí văn hóa dân gian Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội;
Lê Văn Kỳ (1995), Mối quan hệ giữa truyền thuyết của người Việt và hội lễ
về các anh hùng [74]; Nhiều tác giả (2008), Bách khoa thư Hà Nội [101];
Nhiều tác giả (2009), Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long (Nxb Văn
hóa Thông tin, H); Nguyễn Thụy Loan (2009), Một tuyên ngôn giữ nước bằng
lễ hội ở đầu đời Lý; Kiều Thu Hoạch, Nguyễn Chí Bền (2010), Gióng hay
Dóng lý giải từ góc nhìn ngữ âm học lịch sử tiếng Việt và từ cộng đồng [107];
Đinh Hồng Hải (2015), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền
thống Việt Nam, tập 2, Các vị thần [47]...
Gần đây có thể kể đến công trình Lễ hội Thánh Gióng [106] là công
trình sƣu tập các di tích và huyền thoại về Thánh Gióng cùng các bài viết của
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về di tích, truyền thuyết và lễ hội
Thánh Gióng từ trƣớc tới 2009. Công trình Hội Gióng ở đền phù Đổng và đền
Sóc [11] đã trình bày một tiến trình nghiên cứu về di sản Thánh Gióng khá
đầy đủ và tổng hợp. Tác giả đã tiếp cận hiện tƣợng văn hóa tín ngƣỡng này ở
dạng tổng thể của một di sản văn hóa phi vật thể, nhằm miêu thuật hiện tƣợng
văn hóa – tín ngƣỡng liên quan đến ngƣời anh hùng làng Phù Đổng, giải mã
các giá trị của hội Gióng, trên các phƣơng diện lịch sử, văn hóa, tín ngƣỡng...
đặt vấn đề bảo tồn và phát huy hội Gióng trong xã hội đƣơng đại. Tiếp nối
những công trình này là công trình Hội Gióng di sản văn hóa phi vật thể của
nhân loại [13] giúp ngƣời đọc có cái nhìn đầy đủ hơn kể từ khi Hội Gióng
đƣợc công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại đến nay.
18
Về mặt văn bản, hiện nay trong công trình Lễ hội Thánh Gióng [106] ở
phần I – Di tích và huyền thoại đã có 27 bản dịch và tổng hợp các ghi chép về
truyền thuyết Thánh Gióng, ở Tổng tập Văn học dân gian người Việt [59], tập
4, truyền thuyết dân gian ngƣời Việt có 8 chuyện về Thánh Gióng đƣợc sƣu
tập từ các ghi chép; tập 5 có truyện Thánh Gióng ở xã Bộ Đầu.
Không chỉ là đề tài của nhiều công trình nghiên cứu, các chuyên luận,
hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc năm 2010 còn đƣợc UNESCO công
nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Nhƣ vậy, với đầy đủ
tính chất của một di sản văn hóa, Thánh Gióng và hội Gióng nói chung mà cốt
lõi là TTTG đã đƣợc giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc thừa nhận là một
sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, đƣợc lƣu giữ bằng trí
nhớ, chữ viết, đƣợc lƣu truyền bằng truyền miệng, và các hình thức lƣu truyền
khác. Cùng với nó, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên
cứu tổ chức thành các cuộc hội thảo khoa học, tập trung nhiều bài viết, nhiều
tranh luận mang tính khoa học thời sự về Thánh Gióng. Năm 2010, Hội thảo
khoa học quốc tế: Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội
đương đại (trường hợp hội Gióng) [107], do UBND thành phố Hà Nội và Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức đã có hàng trăm nhà khoa học trong và
ngoài nƣớc tham gia. Trong đó có nhiều bài viết đề cập trực tiếp đến hội
Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc. Các nhà nghiên cứu nhƣ: Hoàng Lƣơng,
Trần Lê Bảo, Nguyễn Tri Nguyên, Nguyễn Bích Hà, Bùi Quang Thanh, Lê
Thị Hoài Phƣơng, Nguyễn Văn Phong, Đỗ Lan Phƣơng, Đoàn Minh Châu,
Vũ Anh Tú, Lê Thị Minh Lý, Từ Thị Loan, Phạm Nam Thanh, Hoàng Đức
Cƣờng... đã có nhiều bài viết tiếp cận từ các góc nhìn khác nhau. Nhƣ vậy,
cùng với những công trình có đóng góp to lớn nhƣ các công trình của G.
Dumoutier, Nguyễn Văn Huyên, Trần Quốc Vƣợng, Nguyễn Tự Cƣờng (tức
Nhƣ Hạnh), Cao Huy Đỉnh, Tạ Chí Đại Trƣờng... cách tiếp cận liên ngành đã
19
khiến cho các kết quả nghiên cứu về TTTG có nhiều thành tựu từ nhiều góc
nhìn khác nhau.
1.2. Các lý thuyết nghiên cứu và quan điểm tiếp cận truyền thuyết
Thánh Gióng
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
*Truyện theo Từ điển tiếng Việt [173, tr.328] thì truyện là tác phẩm văn
học kể chuyện bằng hình tƣợng, bằng hƣ cấu nghệ thuật. Theo Từ điển thuật ngữ
Văn học thì truyện là phƣơng thức tự sự tái hiện đời sống bên cạnh hai phƣơng
thức khác là trữ tình và kịch đƣợc dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn
học. Là phƣơng thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con
ngƣời làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái
gì đó. Tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện, gắn liền với cốt truyện là một
hệ thống nhân vật đƣợc khắc họa nhờ các thủ pháp nghệ thuật đa dạng.Về
phƣợng diện thể loại văn học, trên cơ sở phƣơng thức phản ánh tự sự đã hình
thành loại hình tự sự. Có thể dựa vào tiêu chí nội dung hoặc tiêu chí hình thức để
phân chia các tác phẩm tự sự thành các thể loại nhỏ hơn. Chia theo nội dung thể
loại ta sẽ có: tác phẩm mang chủ đề lịch sử dân tộc, thế sự, đạo đức, đời tƣ. Chia
theo hình thức ta sẽ có các thể loại cơ bản: anh hùng ca, truyện, tiểu thuyết,
truyện ngắn, ngụ ngôn…
Trong nhiều bài viết khác thƣờng nói Truyện Ông Gióng, Truyện Thánh
Gióng và đôi khi trong luận án NCS cũng sử dụng cách nói này để chỉ truyền
thuyết Thánh Gióng bởi đó là cách gọi quen thuộc khi thể loại truyền thuyết
chƣa đƣợc xác định rõ ràng về mặt thể loại. Mặt khác, trƣớc khi xác định là
thuộc thể loại truyền thuyết, TTTG đƣợc xếp vào truyện kể dân gian nói chung,
có khi là truyện thần quái, truyện cổ tích, anh hùng ca…
*Truyện kể dân gian: Là các chuyện kể của nhân dân các thời đại đƣợc
sáng tác và lƣu truyền bằng miệng từ khi chƣa có chữ viết, sau này đƣợc sƣu tầm
20
và ghi chép lại gồm các thể loại nhƣ: thần thoại, truyền thuyết, truyện cƣời,
truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn… Vào thời trung đại, các nho sĩ khi sƣu tập và
ghi chép các loại thần thoại, truyền thuyết, cổ tích thƣờng chỉ dùng chung một từ
là “truyện”, vì thời đó chƣa có sự phân loại các thể loại rạch ròi nhƣ ngày nay
(NCS đã sơ bộ nói về vấn đề này ở 1.1.1).
* Truyền thuyết
Trên thế giới, khoa học về truyền thuyết dân gian hay còn gọi là truyền
thuyết học, vốn là một thuật ngữ đƣợc dịch từ tiếng Đức: Volksagen kunde.
Volk có nghĩa là dân gian, sagen có nghĩa là truyền thuyết, kunde có nghĩa là
môn khoa học. Đây là một thuật ngữ đã khá thông dụng trong folklore học
quốc tế thời cận đại. Tƣơng đƣơng với từ sage trong tiếng Đức, tiếng Anh có
legend và tiếng Pháp có légende. Nói chung, theo folklore học thế giới thì
truyền thuyết là một thuật ngữ chỉ một bộ phận ngôn từ đặc biệt và sớm được
chú ý với tư cách là một thể loại. Truyền thuyết ngay từ đầu đã là một trong
ba thể loại chính của tự sự dân gian: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích (Quan
niệm này sớm định hình trong bộ sƣu tập của anh em Grim trong Thần thoại
Đức (1835). Cách phân biệt này đã đƣợc các nhà nghiên cứu ngữ văn dân
gian coi nhƣ có tính chất hƣớng đạo trong một thời gian dài).
Ở Việt Nam, có lẽ Đào Duy Anh là ngƣời sớm sử dụng từ truyền thuyết
khi ông viết về vấn đề “Những truyền thuyết thời thƣợng cổ nƣớc ta” trong
Tạp chí Tri tân (số 30 năm 1942): “Sách xƣa của ngƣời Trung Quốc không
chép việc Triệu Đà đánh An Dƣơng Vƣơng để chiếm Tƣợng quận, nhƣng cứ
truyền thuyết ấy, nếu ta bỏ đi những yếu tố hoang đƣờng thì cũng còn lại cái
kỷ niệm của một cuộc chiến tranh hẳn có” [59, tr.22].
Đến những năm 50 của thế kỷ XX, một loạt công trình nghiên cứu liên
tiếp ra đời nhƣ: Lược khảo về thần thoại Việt Nam [19], Lược thảo lịch sử văn
học Việt Nam [95], Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam [96]... thuật ngữ truyền
21
thuyết đã đƣợc sử dụng nhiều hơn và đƣợc bàn đến ở những mức độ khác
nhau. Nhóm Lê Quí Đôn khi viết văn học sử đã bƣớc đầu định nghĩa truyền
thuyết:
Truyền thuyết là tất cả những chuyện lƣu hành trong dân gian, có
thật xảy ra hay không thì không có gì đảm bảo. Nhƣ vậy có những
truyền thuyết lịch sử, mà cũng có những truyền thuyết khác, hoặc
dính dáng về một đặc điểm địa lý, hoặc kể lại gốc tích một sự vật
gì, hoặc giải thích những phong tục tập quán, hoặc nói về sự tích
các nghề nghiệp và tất cả những chuyện kỳ lạ khác [95, tr.60].
Nguyễn Đổng Chi lại sơ bộ nhận xét về sự xuất hiện của truyền thuyết
nhƣ sau: “Truyền thuyết là những truyện lịch sử chỉ có thể có khi con ngƣời
có ý thức về lịch sử của mình, về xứ sở và đất đai của mình” [96, tr.81].
Khoảng những năm 1970, công trình Truyền thống anh hùng trong loại
hình tự sự dân gian [60], đã tập hợp đƣợc nhiều bài viết có giá trị về truyền
thuyết, lúc này, việc nghiên cứu truyền thuyết về mặt thể loại mới bắt đầu
đƣợc quan tâm. Trong đó, đặc biệt phải kể đến chuyên khảo Truyền thuyết
anh hùng trong thời kỳ phong kiến, dày 60 trang in của Kiều Thu Hoạch đƣợc
dƣ luận đồng tình và coi nhƣ cái mốc đầu tiên trong nghiên cứu truyền thuyết
nhƣ một thể loại của folklore (văn hóa dân gian). Tại chuyên khảo này Kiều
Thu Hoạch đã định nghĩa về truyền thuyết nhƣ sau:
Truyền thuyết là một thể loại truyện kể truyền miệng, nằm trong
loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện
tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật
địa phƣơng theo quan điểm của nhân dân. Biện pháp nghệ thuật phổ
biến của nó là khoa trƣơng, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng
những yếu tố hƣ ảo, thần kỳ nhƣ cổ tích và thần thoại; nó khác cổ
tích ở chỗ không phản ánh xung đột gia đình, sinh hoạt xã hội và số
phận cá nhân mà thƣờng phản ánh những vấn đề thuộc phạm vi quốc
22
gia, dân tộc rộng lớn; nó khác thần thoại ở chỗ nhào nặn tự nhiên và
xã hội trên cơ sở sự thật lịch sử cụ thể chứ không phải hoàn toàn
trong trí tƣởng tƣợng và bằng trí tƣởng tƣợng [60, tr.24].
Từ năm những 1960 đến 1990, thể loại truyền thuyết đã đƣợc nhiều tác
giả quan tâm viết trong giáo trình đại học, hoặc viết báo, tạp chí với các tác
giả nhƣ Nguyễn Đổng Chi, Trần Văn Giàu (Tầm Vu), Bùi Văn Nguyên, Đỗ
Bình Trị, Đinh Gia khánh, Chu Xuân Diên, Hoàng Tiến Tựu, Phan Kế Hoành
- Trần Quốc Vƣợng (Phan Trần), Kiều Thu Hoạch, Bùi Quang Thanh...
Năm 1990, trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam do Lê Chí Quế
chủ biên, tái bản năm 2004 [122], ở mục viết về thể loại truyền thuyết có nhận
xét:
Trong khoa nghiên cứu văn học dân gian ở nhiều nƣớc trên thế giới
việc coi truyền thuyết là một thể loại riêng biệt đã trở thành truyền
thống không phải bàn luận nhiều. Nếu có chăng là ở sự tranh luận
về nội hàm, ngoại diên của khái niệm và đặc trƣng thi pháp của nó
mà thôi. Nhƣng ở nƣớc ta vấn đề này cần phải biện giải thêm [122].
Trong đó các nhà khoa học Việt Nam khi nghiên cứu truyền thuyết bao
giờ cũng đặt nó trong mối quan hệ với thần thoại và cổ tích. Tuy cách sắp xếp
truyền thuyết trong hệ thống các thể loại văn học dân gian có khác nhau, nhƣng
xác định bản chất thể loại của truyền thuyết thì có thể tìm thấy tiếng nói tƣơng
đồng giữa các nhà khoa học. Điểm qua ý kiến của các nhà nghiên cứu chuyên
hoặc không chuyên về văn học dân gian, tác giả một mặt đánh giá cao chuyên
khảo về truyền thuyết của Kiều Thu Hoạch, mặt khác đã tổng kết các nét chính
về bản chất thể loại của truyền thuyết nhƣ sau:
- Truyền thuyết ra đời sau thần thoại nhƣng vẫn có những yếu tố song
trùng với thần thoại.
- Truyền thuyết và cổ tích có những nét gần gũi.
23
- Nét riêng biệt của truyền thuyết là bên trong cái vỏ thần kỳ hàm chứa
những yếu tố gắn với lịch sử dân tộc thời kỳ dựng nƣớc và giữ nƣớc.
Năm 2014, Trần Thị An với công trình Đặc trưng thể loại truyền thuyết
và quá trình văn bản hóa truyền thuyết dân gian Việt Nam [4] đã có những
đóng góp đáng kể trong nghiên cứu truyền thuyết về mặt thể loại. Trong đó
tác giả cũng nhận xét ở Lời nói đầu về thể loại truyền thuyết đó là do cảm
hứng đặc biệt của ngƣời kể chuyện nên những câu chuyện thƣờng gắn với tín
ngƣỡng, gắn với diễn xƣớng nhiều hơn là đọc hoặc kể; do tính tự sự của các
câu chuyện đƣợc kể không thật đa dạng; do truyền thuyết dân gian sớm đƣợc
biên soạn theo các công thức của thần tích hay đƣợc ghi chép và trở thành
một bộ phận của văn xuôi và các thƣ tịch khác thời trung đại. Thể loại truyền
thuyết nằm trong sự giao thoa khó tách bạch với thần thoại và truyện cổ tích.
Có một đặc điểm quan trọng là, hơn bất cứ một thể loại văn học dân
gian nào khác, truyền thuyết có sự gắn bó chặt chẽ với văn hóa dân
gian; và nhƣ vậy, nghiên cứu truyền thuyết không thể không nghiên
cứu văn hóa dân gian, hay nói cách khác, nghiên cứu tín ngƣỡng, lễ
hội dân gian, không thể không đề cập tới phƣơng diện ngôn từ của
niềm tin, đó là truyền thuyết [4, tr.9].
Nhƣ vậy cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu về truyền thuyết từ các
đặc điểm về hình thức, nội dung và ý nghĩa thể loại cũng nhƣ sự khu biệt nó
với các thể loại văn học dân gian khác. Nói một cách ngắn gọn thì: Truyền
thuyết là một thể loại truyện dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh và lí
giải các nhân vật và sự kiện lịch sử có ảnh hưởng quan trọng đối với một thời
kỳ, một bộ tộc, một địa phương hay một quốc gia trong quá trình tồn tại và
phát triển.
Truyền thuyết Thánh Gióng
TTTG là một trong những truyện kể dân gian đƣợc lƣu truyền, ghi chép
từ thời Hùng Vƣơng dựng nƣớc và phát triển liên tục theo thời gian bằng
24
nhiều hình thức nghệ thuật ngôn từ khác nhau nhƣ thần tích, thần phả, sự tích,
huyền thoại, truyện thơ... Song đến nay về cơ bản truyện về ông Gióng đều
đƣợc các nhà nghiên cứu xem xét chủ yếu là thuộc thể loại truyền thuyết. Với
cốt truyện cơ bản là kể về sự sinh ra, lớn lên và đánh giặc một cách thần kỳ
của một cậu bé ở làng Phù Đổng. Cậu bé lên ba mà chƣa biết nói chƣa biết
cƣời, đặt đâu nằm đấy thế mà nghe tiếng sứ giả rao có quân giặc đến là biết
nói chuyện với sứ giả và xung phong ra trận, lớn nhanh nhƣ thổi, có sức mạnh
phi thƣờng, đánh thắng giặc rồi bay lên trời. Cho đến nay, TTTG tồn tại ở
nhiều hình thức văn bản cũng nhƣ thực hành văn hóa, đã trở thành một hiện
tƣợng văn hóa độc đáo đƣợc nhiều cá nhân và tổ chức nghiên cứu công phu
và công nhận sự tồn tại cần đƣợc bảo tồn.
Trong đó nhân vật trung tâm của TTTG là Thánh Gióng (còn gọi là Phù
Đổng Thiên Vƣơng, Sóc Thiên Vƣơng, Anh hùng làng Gióng) một trong bốn
vị Thánh bất tử trong tín ngƣỡng dân gian Việt Nam. Ông Gióng đƣợc xem là
tƣợng trƣng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ Việt Nam.
Từ thời Lý đến các triều đại phong kiến ở Việt Nam đều ghi nhận Thánh
Gióng là vị Thần - Thánh – Vƣơng, anh hùng chống giặc ngoại xâm, vị Phúc
Thần bảo hộ, che chở, cứu giúp nhân dân đƣợc đời đời thờ cúng thể hiện ở
các sắc phong, thần tích đƣợc lƣu giữ trong các di tích lịch sử của địa phƣơng
và đất nƣớc. Sau này trong thời kỳ xây dựng đất nƣớc Xã hội chủ nghĩa, thời
đại Hồ Chí Minh, Thánh Gióng biểu tƣợng cho sức mạnh của tuổi trẻ trong
việc tiên phong dẫn đầu trong việc xây dựng con ngƣời mới lớn khỏe cả về
thể chất và trí tuệ để xây dựng đất nƣớc.
Trong tín ngƣỡng và văn hóa của ngƣời Việt hiện nay, Thánh Gióng
vẫn giữ vai trò quan trọng là biểu tƣợng tiên phong của sức mạnh, trí tuệ và
sự bảo vệ che chở đƣợc tuyệt đối tin tƣởng. Đến nay vẫn tồn tại nhiều di tích,
lễ hội, tín ngƣỡng, tục hèm và diễn xƣớng liên quan đến Thánh Gióng, trong
đó đậm đặc nhất là khu vực Gia Lâm và Sóc Sơn nằm ở phía Bắc sông Hồng.
25
Trong đó, xã Phù Đổng là nơi sinh ra, lớn lên, rèn đúc vũ khí, tập hợp quân sĩ
và điểm ra trận của Thánh Gióng. Tại đây hàng năm vẫn tổ chức lễ hội để
tƣởng nhớ Thánh Gióng thuộc các di tích nhƣ đền Phù Đổng (xã Phù Đổng,
huyện Gia Lâm, Hà Nội) – nơi đƣợc công nhận là Di tích lịch sử và kiến trúc
nghệ thuật quốc gia đặc biệt. Lễ hội Gióng ở đền Phù Đổng đƣợc đánh giá là
lễ hội chiến trận độc đáo nhất của lịch sử văn hóa Việt Nam. Đồng thời đây
cũng là một trong hai trung tâm diễn ra Lễ hội Thánh Gióng đã đƣợc
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Thứ
hai là trung tâm huyện Sóc Sơn, tƣơng truyền là nơi Thánh Gióng thắng trận
và cƣỡi ngựa bay lên trời tại núi Vệ Linh, thôn Vệ Linh, huyện Sóc Sơn hiện
nay. Ngoài ra lễ hội và các di tích về Thánh Gióng còn ở các làng xã lân cận
khác nhƣ làng Cán, xã Nguyên Khê (huyện Đông Anh), làng Sen Hồ, xã Lệ
Chi (huyện Gia Lâm). Vùng lan tỏa của hội Gióng nằm ở phía Nam sông
Hồng nhƣ hội đền Sóc ở xã Xuân Đỉnh (nay là phƣờng Xuân Đỉnh, quận Bắc
Từ Liêm, Hà Nội), đền Bộ Đầu, xã Thống Nhất (huyện Thƣờng Tín, Hà
Nội)… [xem thêm phụ lục 1, tr.178].
* Đặc điểm: Là nét riêng biệt, nét làm nên diện mạo của ngƣời, sự vật,
hiện tƣợng nào đó. Nói đến đặc điểm của truyền thuyết Thánh Gióng là muốn
nói đến những nét cơ bản làm nên diện mạo riêng biệt của truyền thuyết
Thánh Gióng, hay nói cách khác trong phạm vi luận án NCS muốn phác họa
diện mạo của một hiện tƣợng văn hóa để tìm ra những ý nghĩa, bài học, đặc
điểm và giá trị của nó trong đời sống văn hóa dân tộc.
Một mặt NCS trực tiếp tìm hiểu về nội dung, các nhân vật, trong TTTG
với tƣ cách là một huyền tích tổng hợp, phức hợp nhiều tình tiết của các
truyền thuyết địa phƣơng. Đồng thời, tìm hiểu về các hình thức tồn tại, các dị
bản và các hình thức khác nhƣ kể miệng, diễn xƣớng, nghệ thuật tạo hình…
các hình thức thể hiện lƣu đƣợc dấu ấn sâu sắc trong lịch sử văn hóa Việt
Nam. Mặt khác NCS cũng nghiên cứu TTTG trên những bình diện không
26
gian, thời gian cụ thể và nhìn nhận nó trong mối quan hệ với các thành tố văn
hóa khác trong đời sống theo tiến trình lịch sử. Sự thể hiện của TTTG qua các
sinh hoạt văn hóa, các mô típ, sự nổi bật của các hiện tƣợng, sự kiện, sự giao
lƣu, các nguồn ảnh hƣởng, các di tích đều góp phần nhận thức đúng diện mạo
của nó trong tổng thể folklore Việt Nam.
* Giá trị: Là khái niệm phức tạp và đƣợc sử dụng nhiều trong các khoa
học khác nhau. Tác giả Trần Ngọc Thêm trong công trình Hệ giá trị Việt Nam
từ truyền thống đến hiện đại và con đường hướng tới tương lai có nhận xét là
từ khi giá trị học nhƣ một khoa học về giá trị ra đời thì các nhà khoa học trên
thế giới và Việt Nam vẫn không ngừng thảo luận về vấn đề này [136, tr.29].
Sau khi tổng kết các xu hƣớng quan niệm về giá trị khác nhau, các tác giả
trong công trình nêu trên cho rằng một quan niệm hợp lý về giá trị phải là sự
kết hợp cả ba cách tiếp cận, từ khách thể, chủ thể và các mối quan hệ mà
chúng tham gia và đi đến định nghĩa: “Giá trị là tính chất của khách thể đƣợc
chủ thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh với các khách thể khác cùng loại
trong một bối cảnh không gian - thời gian cụ thể” [136, tr.39]. Tham khảo
thêm nhiều tài liệu khác, NCS cho rằng giá trị là tính chất của một vật thể,
một hiện tƣợng xã hội nào đó, nhằm thỏa mãn một nhu cầu, một mong muốn,
một lợi ích của chủ thể xã hội. Khái niệm giá trị thể hiện ý nghĩa của một vật
thể hoặc một hiện tƣợng thực tiễn nào đó đối với cá nhân hay xã hội.
Giá trị văn hóa: Theo nghĩa rộng, là hệ thống những đối tƣợng, trạng
thái, nhu cầu, mục đích thiết thân đối với con ngƣời và xã hội, trên cơ sở
những thứ đó cuộc sống con ngƣời cũng nhƣ mối quan hệ giữa con ngƣời với
thế giới xung quanh đƣợc điều hòa… Trên bình diện giá trị học văn hóa
(axiologique de la culture), văn hóa đƣợc ngƣời ta coi là tổng thể những giá
trị vật chất và tinh thần của bao nhiêu thế hệ con ngƣời sáng tạo nên, các giá
trị này chính là sức mạnh bản chất của con ngƣời đƣợc “vật thể hóa” [2,
27
tr.166]. Xem xét giá trị và giá trị văn hóa của TTTG cũng là tìm hiểu ý nghĩa
của một hiện tƣợng văn hóa tín ngƣỡng đối với lịch sử - xã hội Việt Nam
trong quá khứ và hiện tại. Đồng thời cũng là xem xét một tác phẩm văn hóa
có ý nghĩa, đáp ứng nhu cầu, mục đích của ngƣời Việt trong quá trình tồn tại
từ buổi đầu dựng nƣớc đến nay.
1.2.2. Các lý thuyết nghiên cứu
1.2.2.1. Tiếp cận lý thuyết chức năng
Lý thuyết chức năng là một trong những lý thuyết đƣợc vận dụng trong
triết học, xã hội học với tên tuổi của Herbert Spencer(1820-1903), Emile
Durkheim (1858-1917, nhà Xã hội học ngƣời Pháp), sau đó đến nhân loại học
cận hiện đại với hai đại diện là Alfred Radliffe – Brown (1881-1955, nhà
nhân loại học ngƣời Anh) và Bronislaw Malinowski (1884-1942, nhà nhân
loại học Anh, gốc Ba Lan). Ngƣời đƣợc coi nhƣ cha đẻ của học thuyết này là
Emile Durkheim, nhƣng trƣớc đó Herbert Spencer (1820-1903) đã sử dụng nó
trong các nghiên cứu của ông về khoa học xã hội. Tƣ tƣởng cơ bản của chức
năng luận là: Bất kỳ một hệ thống ổn định nào cũng bao gồm những bộ phận
khác nhau nhƣng liên hệ với nhau, chúng cùng nhau vận hành để tạo nên cái
toàn bộ, tạo nên sự ổn định hệ thống. Có thể xem là hiểu đƣợc một bộ phận
trong hệ thống khi hiểu đƣợc cái cách mà nó đóng góp vào sự vận hành của
hệ thống. Sự đóng góp vào việc vận hành ổn định của hệ thống đƣợc gọi là
chức năng. Các bộ phận có tầm quan trọng chức năng khác nhau đối với hệ
thống. Các lý thuyết về chức năng luận của Durkheim đƣợc tiếp nối bởi
Alfred Radxliffe- Brown (1881-1955), Bronislaw Malinowski (1884-1942) và
Talcott Parsons (1902-1979)... Trong đó, cả 3 tác giả Radxliffe-Brown,
Bronislaw Malinowski và Talcott Parsons dù có những điểm không giống
nhau hoàn toàn song đều thống nhất với nhau ở chỗ coi quan điểm chức năng
– cấu trúc nhƣ là một công cụ quan trọng trong việc tiếp cận nghiên cứu văn
28
hóa xã hội. Theo cách nhìn này thì mỗi hiện tƣợng văn hóa hay xã hội đều
đƣợc cấu thành bởi những bộ phận hay yếu tố nhất định, trong đó mỗi bộ
phận hay yếu tố đều phải đảm bảo một hay nhiều chức năng. Khi các chức
năng này bị rối loạn sẽ dẫn tới sự bất ổn định của cấu trúc tổng thể, thậm chí
có thể phá vỡ cấu trúc tổng thể.
Ý nghĩa của thuyết chức năng đối với văn hóa học thể hiện ở chỗ, bất
cứ văn hóa nào cũng đƣợc nhà khoa học nghiên cứu dƣới cái nhìn thực hiện
các chức năng khác nhau của nó. Về phía mình, khái niệm văn hóa thƣờng
đồng nhất với tổng thể các chức năng của nó đƣợc thực hiện. Sự phân xuất ra
các chức năng của văn hóa nhƣ một cơ chế toàn vẹn xác định các chiều hƣớng
trong nghiên cứu văn hóa, nó tạo ra một cấu trúc đẳng cấp, bao gồm các tiểu
hệ thống chức năng ấy trở thành đối tƣợng của sự phân tích khoa học gồm:
Chức năng thực thể còn gọi là chức năng duy trì, bảo đảm sự nối dài cuộc
sống cho cộng đồng. Chức năng thích nghi hoặc thích ứng, nhằm duy trì ít
hay nhiều các quan hệ hài hòa giữa môi trƣờng tự nhiên và cộng đồng văn hóa
tộc ngƣời. Chức năng bảo tồn và tái sản sinh ra các truyền thống, các tín
ngƣỡng tôn giáo, các nghi thức, cũng nhƣ lịch sử dân tộc. Chức năng ký hiệu
– tƣợng trƣng của văn hóa, thể hiện trong sự sáng tạo và tái sản sinh ra những
giá trị văn hóa. Chức năng vận thông của văn hóa, hƣớng tới việc đảm bảo sự
giao tiếp, truyền đạt thông tin, hiểu các nền văn hóa khác. Chức năng điều tiết
– chuẩn mực của văn hóa, thể hiện trong việc duy trì trạng thái cân bằng trong
cộng đồng, nó chứa đựng những hình thái thiết chế, cho phép giải quyết các
xung đột. Chức năng điều hòa văn hóa, ý nghĩa cơ bản của nó là giải tỏa
những căng thẳng về thể chất [dẫn theo 46, tr.85].
Khi nghiên cứu TTTG chúng tôi nhận thấy rằng TTTG tồn tại trong
suốt thơi gian dài, liên tục đƣợc bồi đắp, sáng tạo, điều này cho thấy rằng
TTTG đã tồn tại nhƣ một thành tố trong hệ thống văn hóa và nó luôn đáp ứng
29
các nhu cầu tinh thần nhất định của nhân dân để thực hành các chức năng
thực thể, thích nghi, bảo tồn và tái sản sinh ra các truyền thống, tín ngƣỡng và
đảm bảo sự nối dài của lịch sử.
1.2.2.2. Tiếp cận lý thuyết giá trị
Giá trị là khái niệm đƣợc nghiên cứu và sử dụng trong nhiều ngành
khoa học khác nhau nhƣ Tâm lý học, Triết học, Nhân chủng học, Xã hội học,
và Văn hóa học.Đồng thời nó cũng là một khái niệm khá phức tạp với nhiều
cách nhìn và quan điểm khác nhau.
Ngô Đức Thịnh (2010), trong công trình Bảo tồn, làm giàu và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập [142]
cũng đã đƣa ra kết luận: Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ
quan của con ngƣời về bất cứ một hiện tƣợng tự nhiên, xã hội và tƣ duy theo
hƣớng những cái đó là cần, là tốt, là hay, là đẹp... Một khi những nhận thức
giá trị ấy đã hình thành và định hình thì nó chi phối cách suy nghĩ, niềm tin,
hành vi, tình cảm của con ngƣời [142, tr.22]. Trong đó ông cũng cho rằng:
Các giá trị văn hóa còn đƣợc thể hiện thông qua “cái vỏ” là ngôn ngữ và hình
tƣợng, đó là các biểu trƣng, biểu tƣợng của văn hóa với mối quan hệ tổng thể.
Giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, nó đƣợc sáng tạo và
kết tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tƣơng ứng với
môi trƣờng tự nhiên và xã hội nhất định. Giá trị văn hóa hƣớng đến
thỏa mãn những nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về những điều
tốt đẹp (chân thiện mỹ), từ đó bồi đắp và nâng cao bản chất Ngƣời.
Giá trị văn hóa luôn ẩn tàng trong bản sắc văn hóa, biểu tƣợng,
chuẩn mực văn hóa. Chính vì vậy mà thông qua hệ giá trị của nó
góp phần điều tiết sự phát triển xã hội [142, tr.22].
Cũng ở công trình này khi đề cập đến vấn đề phân loại giá trị, tác giả
cũng đã chỉ ra các cách phân loại của các tác giả đi trƣớc nhƣ Đoàn Văn
30
Chúc, Hoàng Vinh, Trần Văn Giàu... từ đó sắp xếp hệ giá trị văn hóa Việt
Nam là sự phân hợp từ hai dạng: hệ giá trị tổng quát và những hệ giá trị bộ
phận. Trong đó, hệ giá trị tổng quát bao gồm những giá trị chung nhất mang
tính phổ quát, có vai trò định hƣớng với tƣ duy, hành động của cả cộng đồng.
Ví dụ nhƣ yêu nƣớc, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thƣơng ngƣời, vì
nghĩa [142, tr.25]. Hệ giá trị bộ phận là phân theo một số lĩnh vực chính trong
hoạt động của con ngƣời nhƣ trong sinh hoạt, ứng xử, giáo dục...
Trên cơ sở tổng kết và nghiên cứu về lịch sử nghiên cứu giá trị và các
xu hƣớng định nghĩa, các tiêu chí nhận diện và các đặc trƣng của giá trị, Trần
Ngọc Thêm trong công trình Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại
và con đường tới tương lai [136] đã kết luận: “Giá trị là tính chất của khách
thể, đƣợc chủ thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh với các khách thể
khác cùng loại, trong một bối cảnh không gian, thời gian cụ thể” [136, tr.39].
Trên cơ sở định nghĩa trên Trần Ngọc Thêm cũng đồng thời chỉ ra 4 tiêu chí
để nhận diện giá trị đó là: (1) Là tính chất của khách thể (sự vật, hiện tƣợng,
trạng thái, hoạt động), tức là những khách thể này cũng không phải là đối
tƣợng đánh giá toàn diện, đối tƣợng đánh giá thực sự chỉ là một (một số) tính
chất nào đó của khách thể mà thôi; (2) Đƣợc chủ thể (con ngƣời) đánh giá là
tích cực; (3) Xét trong quan hệ so sánh với các khách thể cùng loại; (4) Đƣợc
định vị trong một bối cảnh không gian, thời gian cụ thể.
Trong đó khi xác định cấu trúc và loại hình giá trị văn hóa ông đã chỉ ra
nhiều cấu trúc và loại hình khi xem xét ở các khía cạnh khác nhau nhƣ xét
theo không gian, theo bản chất, theo các thành tố văn hóa, theo tầm quan
trọng… Và xét theo chủ thể thì cấu trúc giá trị văn hóa điển hình đƣợc xác
định theo bộ ba chân thiện mỹ. Chúng có thể coi là những giá trị đơn lẻ và
cũng có thể xem nhƣ tên gọi chung cho ba nhóm giá trị: nhận thức – đạo đức
– thẩm mỹ.
31
Nhƣ vậy khi nghiên cứu TTTG – đặc điểm và giá trị ta không thể
không xem xét đến lý thuyết về giá trị, giá trị văn hóa trong mối liên hệ tổng
thể với các thành tố văn hóa khác trong hệ thống văn hóa. Theo đó khái niệm
giá trị nhƣ là một khái niệm, một lý thuyết then chốt để nghiên cứu, tìm hiểu
về TTTG với tƣ cách là một tác phẩm văn hóa. Với nhiệm vụ và mục đích tìm
hiểu các giá trị của TTTG, NCS thấy việc sử dụng lý thuyết và cách nhận diện
giá trị của các tác giả trên là cần thiết. Dựa trên các tiêu chí nhận diện giá trị
của Trần Ngọc Thêm có thể thấy rằng TTTG cần đƣợc đánh giá ở một số tính
chất nhƣ có sức sống mạnh mẽ và ảnh hƣởng đến nhiều thành tố văn hóa
khác, tác động của nó đến sinh hoạt văn hóa tinh thần thƣờng kỳ của dân
chúng tại vùng lƣu truyền truyền thuyết và các vùng lan tỏa khác. Đồng thời
TTTG đƣợc đánh giá tích cực ở các mặt nhƣ Thánh Gióng đã trở thành biểu
tƣợng của tinh thần chống giặc ngoại xâm, tinh thần lớn mạnh thần kỳ trong
xây dựng đất nƣớc, giáo dục truyền thống đoàn kết toàn dân toàn diện trên
nhiều lĩnh vực, đồng thời là biểu tƣợng cho sức mạnh bảo vệ che chở cho
nhân dân trƣớc mọi hiểm nguy và tai họa của thiên nhiên và xã hội.
TTTG đƣợc định vị trong không gian, thời gian cụ thể là nó đã tồn tại
và phát triển liên tục trên vùng văn hóa khá rộng lớn – vùng văn hóa châu thổ
Bắc Bộ, trung tâm là văn hóa xứ Bắc, là vùng văn hóa trung tâm vƣợt trội và
lan tỏa của cả nƣớc. Thậm chí còn lan tỏa sang cả vùng văn hóa khác nhƣ
vùng văn hóa xứ Thanh nơi cũng lƣu truyền các truyền thuyết và di tích về
Thánh Gióng. Thậm chí không chỉ đề cập đến các giá trị, TTTG còn có thể
đƣợc đánh giá nhƣ một khách thể văn hóa chứa đựng hệ giá trị bởi TTTG là
một hệ thống truyền thuyết có mối quan hệ nhiều mặt với các thành tố văn
hóa khác nên đã hình thành đƣợc hệ giá trị về mặt tinh thần trong ngôn từ, tín
ngƣỡng, lễ hội và diễn xƣớng. Trong đó, hệ giá trị là “toàn bộ các giá trị của
32
một khách thể trong một bối cảnh không gian – thời gian xác định cùng với
mạng lƣới các mối quan hệ của chúng” [136, tr.51].
1.2.2.3. Tiếp cận lý thuyết bối cảnh và diễn xướng
Bối cảnh theo Từ điển tiếng Việt là hoàn cảnh, tình hình, điều kiện gắn
liền với sự kiện, sự việc. Nói đến lý thuyết bối cảnh và diễn xƣớng là nói đến
một trào lƣu nghiên cứu đánh dấu sự thay đổi trong nghiên cứu folklore bắt
đầu vào những năm 1960 ở Hoa Kỳ và các nƣớc phƣơng Tây. Đó là một định
hƣớng nghiên cứu chứa đựng trong đó nhiều lý thuyết, nhiều phƣơng pháp từ
các ngành khoa học khác nhau. Ở Việt Nam, hƣớng tiếp cận này bắt đầu đƣợc
biết đến vào cuối thế kỷ XX với các bài viết của Nguyễn Thị Hiền nhƣ “Quan
niệm mới về folklore và quá trình văn bản hóa folklore ở Hoa Kỳ” [52] và
“Một số phƣơng pháp nghiên cứu folklore phƣơng Tây” [51]. Trong đó tác
giả đã chỉ ra sự thay đổi cơ bản trong nghiên cứu folklore ở Hoa Kỳ là định
hƣớng từ folklore tƣ liệu (folklore- as-materials) sang folklore giao tiếp
(folklore – as - communication), từ cách tiếp cận lấy văn bản làm trung tâm
(text-centered) đến lấy bối cảnh làm trung tâm (context – centered). Những
thay đổi đó đã dẫn đến những cách hiểu mới về văn học dân gian so với
truyền thống nhƣ là: nghệ thuật ngôn từ (verbal art), hành vi ngôn ngữ (verbal
behaviour), cách thức nói (the way of speaking) và nghệ thuật ngôn từ nhƣ là
sự diễn xƣớng (verbal art as performance) [52]. Đặc biệt là với công trình
Folklore thế giới – Một số công trình nghiên cứu cơ bản [140] và Folklore –
một số thuật ngữ đương đại [147] do Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan chủ
biên đã cung cấp cho ngƣời đọc Việt Nam các bài viết về nghiên cứu folklore
trên thế giới một cách phong phú. Trong đó các nhà biên soạn đã giới thiệu
nhiều công trình có giá trị lý thuyết quan trọng cho hƣớng tiếp cận theo bối
cảnh và diễn xƣớng của các tác giả nhƣ Roman Jakobson, Bronislaw
Malinowski, Wlliam Bascom, Richard Bauman… Các tác giả đã tìm hiểu
33
folklore trong mối quan hệ với nhiều khoa học khác nhƣ với ngôn ngữ học họ
cho rằng: ngôn ngữ mà folklore sử dụng là ngôn ngữ giao tiếp mang tính
nghệ thuật, là diễn ngôn trong đời sống, tức là nó có quan hệ mật thiết với các
giá trị văn hóa của cộng đồng mà nói nhƣ Roman Jakobson thì “sự tồn tại của
một sản phẩm folklore chỉ thực sự bắt đầu khi nó đƣợc cộng đồng nhất định
chấp nhận, chỉ tồn tại ở nó những gì mà cộng đồng này thu nhận” [140, tr.29].
Folklore trong mối quan hệ với nhân học qua các công trình của Bronislaw
Malinowski và Wlliam Bascom, trong đó nhấn mạnh đến các khái niệm bối
cảnh tình huống và bối cảnh văn hóa khi định nghĩa về folklore, họ cho rằng:
“Bối cảnh xã hội, thái độ văn hóa, tình huống hùng biện và năng lực cá nhân
là những biến số tạo ra sự khác biệt rõ rệt trong cấu trúc, văn bản và kết cấu
của sản phẩm ngôn từ, …” [140, tr.211]. Và theo Alan Dundes thì nhà nghiên
cứu folklore cần căn cứ trên ba cấp phân tích là kết cấu, văn bản và bối cảnh,
trong đó “bối cảnh có thể cắt nghĩa cho những biến đổi trong văn bản và kết
cấu” [140, tr.512].
Vận dụng lý thuyết bối cảnh và diễn xƣớng trong nghiên cứu về TTTG
là một cách nhìn cập nhật với xu hƣớng nghiên cứu mới của folklore trong và
ngoài nƣớc. Mặt khác TTTG là một sản phẩm văn hóa thực sự thể hiện đƣợc
đa dạng các chiều cạnh của bối cảnh và diễn xƣớng xét theo thời gian, không
gian và cách thức tồn tại. Với mỗi không gian và thời gian khác nhau TTTG
tồn tại trong những bối cảnh văn hóa khác nhau. Những giá trị văn hóa nhƣ
đƣợc ghi dấu trong truyền thuyết này một cách súc tích và cô đọng nhƣ những
mã, những biểu tƣợng mà phải tìm đến bối cảnh văn hóa cụ thể mới hiểu thấu
hết đƣợc. Những không gian văn hóa khác nhau lại khiến cho TTTG bổ sung
và chỉnh sửa những nội dung phù hợp nhƣng vẫn giữ nội dung cốt lõi cho
thấy sự chấp nhận và sáng tạo của cộng đồng với những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp truyền từ đời này sang đời khác.
34
TTTG từ trƣớc tới nay tồn tại không chỉ là những văn bản khô khan,
mà nó tồn tại thông qua sự giao tiếp thƣờng xuyên giữa đời sống thực tiễn và
thực hành diễn xƣớng cùng nhiều hình thức khác nhau. Thông qua lễ hội, các
trò diễn, tín ngƣỡng của nhân dân vùng châu thổ Bắc Bộ và một số vùng lan
tỏa khác mà TTTG ngày càng có sức sống và là lý do của sự tồn tại hàng ngàn
năm nay. Thông qua truyền thuyết, truyền thuyết là kích bản cho diễn xƣớng,
nó tác động sâu sắc đến ngƣời nghe, ngƣời kể và ngƣời diễn nhƣ những tác
động tâm lý đến các thế hệ ngƣời Việt. Thực chất đây cũng là một đặc điểm
vốn chứa đựng trong những tác phẩm văn học dân gian trong đó có TTTG.
Đó là tính chất nguyên hợp, là sản phẩm chứa đựng tổng hợp các hình thức
sinh hoạt văn hóa mà trong các tài liệu về phƣơng pháp nghiên cứu văn hóa
dân gian của Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên [70], Nguyễn Đổng Chi [20]
và một số học giả khác đã chỉ ra trong các công trình nghiên cứu của mình.
Do vậy khi nghiên cứu TTTG thì đồng thời cần nghiên cứu cả các đặc trƣng
của một thể loại văn học dân gian và các đặc trƣng của một hiện tƣợng
folklore (văn hóa, truyền thống dân gian) mới thấy hết đƣợc các đặc điểm và
giá trị của nó.
1.2.3. Quan điểm tiếp cận truyền thuyết Thánh Gióng
Từ trƣớc tới nay đã có khá nhiều tác giả viết về huyền tích Thánh
Gióng với những góc nhìn khác nhau nhƣ phần 1.1.2 NCS đã đề cập, song
nhƣ nhận xét của Nguyễn Chí Bền: về hiện tƣợng văn hóa, tín ngƣỡng Thánh
Gióng, đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận bằng các phƣơng pháp khác
nhau với những mặt mạnh, yếu khác nhau. Tuy nhiên nhìn lại việc nghiên cứu
ấy không chỉ thấy tiến trình, kết quả của việc nghiên cứu, mà còn thấy đƣợc
việc vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của các tác giả để chúng ta tiếp
cận tốt hơn các hiện tƣợng văn hóa dân gian [11]. Có thể thấy rằng nghiên
cứu truyền thuyết Thánh Gióng cũng tức là nghiên cứu tổng thể một hiện
35
tƣợng văn hóa tín ngƣỡng trong văn hóa Việt Nam. Trong phạm vi nghiên
cứu của luận án NCS nghiên cứu truyền thuyết Thánh Gióng nhƣ một hiện
tƣợng văn hóa tổng thể không chỉ nghiên cứu đơn thuần về mặt văn học, nghệ
thuật ngôn từ, mà NCS tìm hiểu, nghiên cứu các đặc điểm và giá trị của nó
trong hệ thống văn hóa với tƣ cách là một tác phẩm văn hóa nhƣ nhà văn hóa
Phạm Văn Đồng đã không chỉ coi truyền thuyết là một thể loại văn học, mà là
thuộc phạm trù văn hóa – là “những tác phẩm văn hóa mà đời đời con ngƣời
ƣa thích” [59]. Và nhƣ một nhà nghiên cứu folklore phƣơng Tây cũng tiếp cận
truyền thuyết từ góc nhìn văn hóa, coi truyền thuyết là tác phẩm văn hóa khi
đƣa ra nhận xét: Bao quát một phạm trù rộng lớn các tác phẩm, truyền thuyết
anh hùng/truyền thuyết sử thi (legende héroique/ lesgende épique) đƣợc nhận
diện là một trƣờng ca sử thi bao gồm các mô típ truyền thống đƣợc trình bày
bằng miệng, thành bài hát có nhạc cụ đệm. Truyền thuyết anh hùng kể về một
vị anh hùng nam hoặc nữ nổi tiếng hay hƣ cấu lịch sử (từ các vị anh hùng Hy
Lạp). Bởi vì có những nguồn gốc huyền bí và những mối quan hệ siêu nhiên,
các nhân vật chính đó đƣợc phú cho những quyền lực và tri thức siêu nhiên…
Có một số loại truyền thuyết anh hùng đƣợc biết đến trên toàn thế giới, nó kết
hợp những sự kiện lịch sử với các yếu tố huyền thoại và truyện cổ tích theo
nhiều cách khác nhau, thích ứng với môi trƣờng văn hóa nhất định. Không dễ
phân biệt nội dung của nó với các huyền thoại và truyện cổ tích tƣơng đƣơng.
Truyền thuyết dân gian có chung các yếu tố truyền thống với truyền thuyết
tôn giáo và anh hùng đƣợc các nhà văn hóa dân gian học xác định là một thể
loại văn hóa dân gian [147, tr.315].
TTTG trƣớc hết là một truyện kể dân gian và tồn tại dƣới nhiều hình
thức nghệ thuật khác nhau, do đó, nếu tiếp cận TTTG theo phƣơng pháp
nghiên cứu liên ngành, từ văn hóa học, sử học, nhân loại học… thì rõ ràng
truyền thuyết trƣớc mắt chúng ta không chỉ là những văn bản thần tích chữ
36
Hán theo công thức khô cứng. Với cách tiếp cận liên ngành chúng ta thấy
đƣợc trong TTTG chứa đựng những tín ngƣỡng, phong tục, những kỵ hèm
dân dã, những lễ hội với những trò chơi, trò diễn, những diễn xƣớng dân gian,
lễ rƣớc cùng những buổi chèo sân đình, các liên hoan ca múa nhạc sôi động
có sức thu hút đông đảo công chúng các vùng miền đến tham dự. Đó là những
lớp nghĩa văn hóa mà các diễn ngôn văn học đơn thuần của truyền thuyết
không thể biểu hiện đƣợc, đây cũng là kỳ vọng của NCS khi nghiên cứu tìm
hiểu các đặc điểm và giá trị văn hóa trong TTTG.
Tiểu kết
Tình hình nghiên cứu, sƣu tầm về TTTG cho thấy: TTTG đã đƣợc
nghiên cứu và sƣu tầm khá phong phú trong cùng một hệ thống tổng hợp với
lễ hội, tín ngƣỡng và các diễn xƣớng văn hóa dân gian khác. Mặt khác nhƣ
các nhà nghiên cứu trƣớc đó đã đánh giá: chủ yếu TTTG đã đƣợc nghiên cứu
trao đổi và bàn luận ở các khía cạnh là cơ sở xã hội và tƣ tƣởng chủ đề của
truyền thuyết này với tƣ cách là một tác phẩm văn học dân gian. Quá trình
sƣu tầm các TTTG và liên quan đến Thánh Gióng còn khiêm tốn và vẫn còn
nằm nhiều ở các mẩu chuyện truyền miệng dân gian. Do đó, ở đây, NCS kỳ
vọng luận án sẽ cung cấp cho ngƣời đọc cái nhìn tổng thể về TTTG với các
đặc điểm của một tác phẩm văn hóa sống động mang nhiều giá trị lịch sử, văn
hóa.
Các lý thuyết nghiên cứu về truyền thuyết đặc điểm và giá trị văn hóa,
đề tài dựa trên các lý thuyết chuyên ngành liên quan. Hƣớng nghiên cứu dựa
trên các lý thuyết này chú trọng xem xét các giá trị của một hiện tƣợng văn
hóa đối với lịch sử văn hóa – xã hội ngƣời Việt. Sử dụng lý thuyết bối cảnh và
diễn xƣớng nhƣ một xu thế tất yếu trong nghiên cứu folklore ở Việt Nam và
thế giới nhằm nhìn tác phẩm folklore ở trạng thái sinh động trong các hình
thức thể hiện, những thực hành văn hóa ở các không gian và thời gian khác
nhau của một hiện tƣợng văn hóa.
37
Chƣơng 2
ĐẶC ĐIỂM CỦA TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG
2.1. Truyền thuyết Thánh Gióng theo thời gian và không gian lƣu
truyền
2.1.1. Truyền thuyết Thánh Gióng theo thời gian tồn tại
Xét theo tiến trình thời gian, trong khoảng thời gian dài (khoảng thế kỷ
XIII đến thế kỷ XVIII) các ghi chép về Thánh Gióng chủ yếu tồn tại dƣới
dạng là các mẩu truyện kể dân gian (chƣa xác định chính xác về thể loại),
thần tích, truyện thơ, câu đối, hoành phi... Trong đó, các nhà nghiên cứu về
văn bản TTTG đều công nhận tác phẩm An Nam chí lược của Lê Trắc là cuốn
sách ghi chép về huyền thoại Thánh Gióng sớm nhất với nội dung đơn giản
theo mô típ: trong nƣớc có loạn, có một ngƣời đứng lên, dân đi theo đánh
giặc, đánh giặc xong, ngƣời ấy bay về trời, dân chúng lập đền thờ: “Tại làng
Phù Đổng, hồi xƣa trong nƣớc rối loạn, chợt thấy một ngƣời có uy có đức,
dân đều theo về, ngƣời ấy bèn cầm quân dẹp loạn, rồi bay lên trời đi mất, hiệu
là Xung Thiên vƣơng, dân lập đền miếu để thờ” [11, tr.112].
Tài liệu thành văn sớm nhất tƣơng đối hoàn chỉnh về Thánh Gióng là
ghi chép của Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư (1475 - Bộ sử này
đƣợc khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm 1697 triều vua Lê Hy
Tông, là bộ chính sử Việt Nam xƣa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay,
do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn [xem phụ lục 1.3,
tr.182].
Đầu thế kỷ XIV, trong Viện điện u linh, Lý Tế Xuyên có ghi truyện về
Xung thiên dũng liệt chiêu ứng uy tín đại vƣơng. Cũng sách này trong phần
lời ngƣời sao lục lại ghi: “Vua Lý Thái Tổ truy phong ngài là Xung Thiên
thần vƣơng, lập miếu thờ ở chùa Kiến Sơ” [11, tr.14].
38
Thế kỷ XV, Nguyễn Văn Chất có sách Tục Việt điện u linh, nghĩa là
phần tục biên, trong bản thảo này mới xuất hiện Sự tích Sóc Thiên Vương và
ngƣời viết đã hòa trộn truyện Tỳ Sa Môn thiên vương vào truyện Thánh
Gióng. Mô típ của truyện có phần đơn giản hơn, nhƣng đã xuất hiện chi tiết
thanh gƣơm, ngựa sắt.Bản kể của Vũ Quỳnh và Kiều Phú trong Lĩnh Nam
chích quái có thể nói đã là một huyền thoại hoàn chỉnh về ngƣời anh hùng.
Câu chuyện đã có mở đầu với việc Hùng Vƣơng lập đàn cầu đảo Long vƣơng,
rồi lai lịch ngƣời anh hùng làng Phù Đổng: sinh vào ngày 7 tháng giêng, cậu
bé nhờ mẹ gọi sứ giả của vua Hùng Vƣơng, yêu cầu rèn ngựa sắt, kiếm sắt,
roi sắt và nón sắt để đi đánh giặc, hàng xóm cùng chăm lo cho cậu bé, trận
đánh diễn ra ở núi Trâu Sơn huyện Vũ Ninh, nơi bay về trời của ngƣời anh
hùng là Sóc Sơn, huyện Kim Hoa, ngày hóa là 9 tháng 4, Hùng Vƣơng tôn là
Phù Đổng Thiên Vƣơng “lập miếu thờ cũ ở trong làng… Lý Thái Tổ phong
làm Xung Thiên thần vƣơng, lập miếu thờ ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến
Sơ, lại tạc tƣợng ở núi Vệ Linh”. Trong bản kể, những chi tiết mà theo cảm
quan của các nhà nho là “hoang đƣờng”, “không đáng tin” liên quan đến ông
Đổng, vết chân ông Đổng, bà mẹ giẫm vào vết chân lạ kỳ về thụ thai đã bị
lƣợc bỏ.
Thế kỷ XVI, thần tích Phù Đổng Thiên Vƣơng và Sóc Thiên Vƣơng
thực lục đã ghi lại huyền thoại một cách đầy đủ các chi tiết về sinh nở, chiến
công, giấc mơ của Khuông Việt, phù trợ cho Lý Thái Tổ thay nhà Lê, phù hộ
cho Lê Lợi đánh tan giặc Minh…. Vào cuối thế kỷ XVII, trong Thiên Nam
ngữ lục một tác phẩm diễn ca lịch sử viết theo thể truyện thơ Nôm đồ sộ gồm
hơn 8000 câu thơ lục bát, tác giả đã kể TTTG bằng những ngôn ngữ mang
đậm chất anh hùng ca; trong Đại Nam Quốc sử diễn ca ở thời Nguyễn, Lê
Ngô Cát và Phạm Đình Toái cũng đã diễn nôm sự tích Thánh Gióng bằng thơ
nôm lục bát.
39
Thế kỷ XIX, Phan Huy Chú soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí,
chép về “Đền Phù Đổng ở huyện Tiên Du”, Trần Gia Du viết Sử Nam chí dị
bằng chữ nôm cũng chép về Sự tích Thánh Đổng với huyền tích về Thánh
Gióng không khác các bản ghi chép ở các thế kỷ trƣớc đó. Trong các bộ sƣu
tầm nhƣ Các truyền thuyết lịch sử của Trung Kỳ và Bắc Kỳ (G.Dumoutier) và
Ba mươi truyền thuyết và cổ tích Bắc Kỳ (E. Sombthay) cũng có ghi về TTTG
qua các lời kể dân gian.
Đến những năm 60 của thế kỷ XX Cao Huy Đỉnh đã có công trình
nghiên cứu sâu sắc về truyền thuyết Thánh Gióng với tên gọi Người anh hùng
langd Dóng [30], ông đặc biệt chú ý đến việc tìm hiểu các truyền thuyết khác
nhau về Thánh Gióng và tình hình lƣu truyền nó trong nhân dân. Ông đã dựa
trên cả hai tài liệu thành văn và truyền miệng để tìm hiểu truyền thuyết này và
đã đƣa ra kết luận: Truyện tiền thân của truyện Ông Dóng là truyền thuyết
dân gian về ngƣời anh hùng trẻ nhỏ không rõ là ở đời nào và làng nào, đã diệt
đƣợc giặc (truyền thuyết cũng không nói là giặc nào) và hóa ở núi Vệ Linh,
đƣợc nhân dân lập đền thờ ở đó. Đến nhà Lý mới dời đền về hồ Tây. Ngoài ra
Cao Huy Đỉnh đã sƣu tầm nghiên cứu và giới thiệu nhiều bản kể về Thánh
Gióng trong Người anh hùng làng Dóng nhƣ về Ông tổ nghề thợ rào (thợ rèn)
ở làng Y Na, Mai Cƣơng (Bắc Ninh), Thạch tướng quân ở Việt Trì, về ông
Lân Hổ ở Sơn Tây (Hà Nội)…
2.1.2. Truyền thuyết Thánh Gióng theo không gian lưu truyền
Cao Huy Đỉnh đã có kết luận về những địa điểm liên quan đến truyện
Ông Gióng: Những địa điểm liên quan đến truyện ông Gióng vẽ ra một vùng
lớn của đất Trung Châu từ đuôi Tam Đảo (Sóc Sơn) mở xòe ra giữa ba sông:
sông Cầu, sông Đuống và sông Hồng. Đông – Tây từ Phả Lại đến Phúc Yên.
Bắc – Nam từ Thị Cầu đến bến Bồ Đề sang làng Cáo cạnh hồ Tây. Ông thống
kê địa điểm, có bốn loại (với khoảng 40 địa danh) gồm: 1. Nơi sinh ra anh
40
hùng Dóng; 2. Địa điểm rèn vũ khí sắt; 3. Những nơi có ngƣời theo ông Dóng
đi đánh giặc; 4. Những nơi đánh dấu con đƣờng Dóng ra trận và trở về hóa.
Đó là con đƣờng ông Dóng phóng ngựa sắt, đuổi giặc Ân rồi trở về và hóa ở
núi Sóc với tất cả những dấu ấn của ông đã để lại trên con ngƣời, thiên nhiên,
đất nƣớc và sản vật vùng Trung châu [31].
Theo nhà sử học Trần Quốc Vƣợng: “Không gian truyện Phù Đổng cứ
mở rộng dần, tích hợp dần các truyền thuyết “nhỏ” ở các địa phƣơng để cuối
cùng thành một tuyến hệ thống có vẻ hoàn chỉnh trong cái “tam giác châu”
Trung Châu mà ba đỉnh là Phù Đổng (nơi xuất xứ) – núi Trâu (Vũ Ninh sơn)
(nơi đánh giặc) – núi Sóc (nơi bay lên trời): Lịch trình Phù Đổng sẽ là: từ
Nam qua Đông rồi lên Tây (Bắc). Ngoài không gian trung châu Bắc Bộ,
truyện Phù Đổng còn lan tỏa vào quê hƣơng chúa Trịnh (từ thế kỷ XVI)là
làng Sóc Sơn bên bờ sông Mã (nay thuộc huyện Thiệu Yên, Thanh Hóa). Ở
đây có tên núi trùng tên với núi Vệ Linh, núi Sóc Sơn. Thần núi Sóc Sơn
Thanh Hóa đƣợc đồng hóa với thần núi Sóc Bắc Bộ rồi cuối cùng cũng đƣợc
đồng hóa với Đổng Thiên Vƣơng, sự lan truyền folklore có mặt do sự di động
của dân cƣ [107, tr.320].
Núi Sóc Núi Trâu
B
B Đ
T N
Phù Đổng
Không gian truyện Thánh Gióng theo quan điểm của Trần Quốc Vượng: Tam giác
châu [107, tr.320]
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtMô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtnataliej4
 
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT nataliej4
 
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐlongvanhien
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam nataliej4
 
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ nataliej4
 
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 nataliej4
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 

Mais procurados (20)

Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
 
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
 
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
 
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtMô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
 
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt namLuận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
 
Đề tài: Khai thác văn hóa Then của người Tày tại Quảng Ninh, HOT
Đề tài: Khai thác văn hóa Then của người Tày tại Quảng Ninh, HOTĐề tài: Khai thác văn hóa Then của người Tày tại Quảng Ninh, HOT
Đề tài: Khai thác văn hóa Then của người Tày tại Quảng Ninh, HOT
 
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAY
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAYLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAY
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAY
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
 
BÀI MẪU Tiểu luận về văn hóa ẩm thực Việt Nam, HAY
BÀI MẪU Tiểu luận về văn hóa ẩm thực Việt Nam, HAYBÀI MẪU Tiểu luận về văn hóa ẩm thực Việt Nam, HAY
BÀI MẪU Tiểu luận về văn hóa ẩm thực Việt Nam, HAY
 
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt NamLuận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
 
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt NamLuận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai ChâuLuận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
 
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
 
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAYLuận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
 
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 

Semelhante a Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443

Nhận diện lễ hội văn hóa truyền thống của người Việt thông qua lễ hội chọi tr...
Nhận diện lễ hội văn hóa truyền thống của người Việt thông qua lễ hội chọi tr...Nhận diện lễ hội văn hóa truyền thống của người Việt thông qua lễ hội chọi tr...
Nhận diện lễ hội văn hóa truyền thống của người Việt thông qua lễ hội chọi tr...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Garment Space Blog0
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi Mnông.pdf
So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi Mnông.pdfSo sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi Mnông.pdf
So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi Mnông.pdfTieuNgocLy
 
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...jackjohn45
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533jackjohn45
 
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdf
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdfTiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdf
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdfhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnOnTimeVitThu
 

Semelhante a Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443 (20)

Nhận diện lễ hội văn hóa truyền thống của người Việt thông qua lễ hội chọi tr...
Nhận diện lễ hội văn hóa truyền thống của người Việt thông qua lễ hội chọi tr...Nhận diện lễ hội văn hóa truyền thống của người Việt thông qua lễ hội chọi tr...
Nhận diện lễ hội văn hóa truyền thống của người Việt thông qua lễ hội chọi tr...
 
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
 
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca TàyẢnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
 
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều nhà Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều nhà Nguyễn ở Huế (1802-1945)Luận án: Các đàn miếu đại tự triều nhà Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều nhà Nguyễn ở Huế (1802-1945)
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
 
Luận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAY
Luận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAYLuận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAY
Luận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAY
 
Đề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đĐề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đ
 
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
 
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
 
Luận án: Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nay
Luận án: Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nayLuận án: Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nay
Luận án: Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nay
 
Luận văn: Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Văn Học Dân Gian Bến Tre, 9 ĐIỂM
Luận văn: Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Văn Học Dân Gian Bến Tre, 9 ĐIỂMLuận văn: Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Văn Học Dân Gian Bến Tre, 9 ĐIỂM
Luận văn: Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Văn Học Dân Gian Bến Tre, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAYLuận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
 
So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi Mnông.pdf
So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi Mnông.pdfSo sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi Mnông.pdf
So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi Mnông.pdf
 
Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAY
Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAYÂm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAY
Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAY
 
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
 
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đLuận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
 
Hội nhập văn hóa qua một số văn bia Hán Nôm công giáo, 9đ
Hội nhập văn hóa qua một số văn bia Hán Nôm công giáo, 9đHội nhập văn hóa qua một số văn bia Hán Nôm công giáo, 9đ
Hội nhập văn hóa qua một số văn bia Hán Nôm công giáo, 9đ
 
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdf
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdfTiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdf
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdf
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
 

Mais de jackjohn45

ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfjackjohn45
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfjackjohn45
 
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdfSử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdfjackjohn45
 
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...jackjohn45
 
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...jackjohn45
 
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...jackjohn45
 
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdfBÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdfjackjohn45
 
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdfPHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdfjackjohn45
 
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdfHiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdfjackjohn45
 
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...jackjohn45
 
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...jackjohn45
 
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...jackjohn45
 
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdfjackjohn45
 
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdfTHỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdfjackjohn45
 
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdfBài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdfjackjohn45
 
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdfCHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdfjackjohn45
 
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...jackjohn45
 
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...jackjohn45
 
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...jackjohn45
 
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...jackjohn45
 

Mais de jackjohn45 (20)

ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdfSử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
 
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
 
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
 
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
 
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdfBÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
 
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdfPHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
 
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdfHiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
 
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
 
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
 
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
 
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
 
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdfTHỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
 
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdfBài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
 
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdfCHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
 
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
 
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
 
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
 
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
 

Último

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietNguyễn Quang Huy
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf4pdx29gsr9
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docxasdnguyendinhdang
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Último (20)

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hóa 6609443

  • 1. BỘGIÁODỤCVÀĐÀOTẠO BỘVĂNHÓA,THỂTHAOVÀDULỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM ----------*---------- Ngô Thị Hồng Giang TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội - 2019
  • 2. BỘGIÁODỤCVÀĐÀOTẠO BỘVĂNHÓA,THỂTHAOVÀDULỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM ----------*---------- Ngô Thị Hồng Giang TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 9229040 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Kiều Thu Hoạch Hà Nội - 2019
  • 3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Truyền thuyết Thánh Gióng – Đặc điểm và giá trị văn hóa là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của GS.TS Kiều Thu Hoạch. Luận án dựa trên kết quả của quá trình thực hiện nghiêm túc, khách quan và chƣa từng đƣợc công bố. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận án Ngô Thị Hồng Giang
  • 4. ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... iii MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN..............8 1.1. Tổng quan tình hình sƣu tầm và nghiên cứu truyền thuyết Thánh Gióng........8 1.2. Các lý thuyết nghiên cứu và quan điểm tiếp cận truyền thuyết Thánh Gióng19 Tiểu kết ..................................................................................................................36 Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG ....................37 2.1. Truyền thuyết Thánh Gióng theo thời gian và không gian lƣu truyền...........37 2.2. Truyền thuyết Thánh Gióng về nội dung và kết cấu ......................................43 2.3. Truyền thuyết Thánh Gióng trong mối quan hệ với các thành tố văn hóa.....53 Tiểu kết ..................................................................................................................81 Chƣơng 3: GIÁ TRỊ CỦA TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG .........................83 3.1. Giá trị lịch sử ..................................................................................................83 3.2. Giá trị văn hóa sinh thái..................................................................................94 3.3. Giá trị biểu tƣợng..........................................................................................100 3.4. Giá trị giáo dục đạo đức và triết lý sống.......................................................113 Tiểu kết ................................................................................................................121 Chƣơng 4: TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG VÀ VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRONG XÃ HỘI ĐƢƠNG ĐẠI...................................................123 4.1. Truyền thuyết Thánh Gióng và sinh hoạt văn hóa hiện nay.........................123 4.2. Thực trạng và vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị của Truyền thuyết Thánh Gióng trong xã hội hiện nay.............................................................................................137 Tiểu kết ................................................................................................................153 KẾT LUẬN.............................................................................................................156 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ........................159 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................160 PHỤ LỤC................................................................................................................176
  • 5. iii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BQL: Ban quản lý cb: Chủ biên DSVH: Di sản văn hóa DSVHPVT: Di sản văn hóa phi vật thể H: Hà Nội HGOĐPĐVĐS: Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc KHXH: Khoa học xã hội LHTG: Lễ hội Thánh Gióng NCS: Nghiên cứu sinh Nxb: Nhà xuất bản Sđd: Sách đã dẫn Tp: Thành phố Tp HCM: Thành phố Hồ Chí Minh Tr: Trang TTTG: Truyền thuyết Thánh Gióng TTVHDGNV: Tổng tập văn học dân gian ngƣời Việt Ub: Ủy ban UBND: Uỷ ban nhân dân UNESCO: United Nation Education, Scientific & Cultural Oganization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc)
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong hệ thống truyền thuyết Việt Nam thì Truyền thuyết Thánh Gióng (TTTG) đƣợc xếp vào một trong 5 truyện cổ thuộc hạng đứng đầu trong hệ thống truyện kể dân gian ngƣời Việt [40]. Từ khi đƣợc chính thức ghi chép trong sử sách đến nay đã gần một nghìn năm TTTG liên tục sống động trong lòng dân gắn liền với các di tích, sinh hoạt tín ngƣỡng, lễ hội. Không chỉ trong tâm thức nhân dân, có thể nói TTTG tồn tại về mặt văn bản ghi chép nhƣ một phần của lịch sử ở các phƣơng diện lịch sử, địa lý, văn học, văn hóa ... Trong quá trình tồn tại, TTTG luôn đƣợc sáng tạo, và có nhiều dị bản ở các không gian, thời gian khác nhau. TTTG cũng đã đƣợc nhiều học giả trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu với những phƣơng pháp tiếp cận khác nhau nhƣ Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Văn Huyên, Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Cao Huy Đỉnh, G.Dumoutier, E. Sombthay... 1.2. Theo tài liệu của giới nghiên cứu khoa học xã hội, hiện nay ở Việt Nam có hơn 60 làng thờ Thánh Gióng [118, tr.6] và hầu nhƣ các làng đều có ít nhiều những câu chuyện truyền thuyết khác nhau, nơi thì gắn với vết chân ngựa sắt, nơi thì gắn với roi, áo sắt, nơi gắn với chỗ nghỉ chân... Những câu chuyện tƣởng nhƣ đơn giản nhƣng lại có sức sống mạnh mẽ, linh thiêng trong lòng dân chúng và nó thôi thúc sự tái diễn thƣờng niên ở vùng châu thổ Bắc Bộ suốt hàng ngàn năm. Không chỉ đƣợc nhân dân các địa phƣơng một lòng tôn thờ, Thánh Gióng và truyền thuyết về Thánh Gióng còn đƣợc các nhà chép sử ở các triều đại khác nhau dành cho những vị trí nhất định. Gắn với những nơi thờ là những bản thần tích, những bản sắc phong và hình tƣợng Thánh Gióng luôn là hiện thân của Thần, Thánh, Vƣơng, Anh hùng dân tộc từ các triều đại phong kiến đến thời đại Hồ Chí Minh. 1.3. Thánh Gióng là một trong “Tứ bất tử” của ngƣời Việt, lâu nay đã có nhiều tác giả viết về Thánh Gióng từ những góc nhìn khác nhau nhƣ trên
  • 7. 2 vừa nói. Trong các bài viết, các công trình nghiên cứu trên thì không có tác giả nào chỉ viết về Thánh Gióng mà không viết về lễ hội Gióng, cũng nhƣ vậy, không có tác giả nào viết về lễ hội Gióng mà không viết về sự tích, TTTG. Đó là một qui luật của văn hóa tín ngƣỡng, văn hóa lễ hội mà folklore học thế giới đã tổng kết. Năm 2010, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc đã đƣợc UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại theo Công ƣớc về bảo vệ các di sản văn hóa phi vật thể đƣợc Đại hội đồng UNESCO thông qua năm 2003, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của di sản đối với đa dạng văn hóa và là một bảo đảm cho sự phát triển bền vững đối với từng quốc gia cũng nhƣ toàn thế giới, trong đó Hội Gióng ở Việt Nam. 1.4. Nhƣ NCS đã trình bày, TTTG dƣờng nhƣ đứng hàng đầu về các bản kể, cả diễn ngôn dân gian lẫn các văn bản ghi chép nên không tránh khỏi có khá nhiều dị bản tạo thành một hệ thống truyền thuyết. Hệ thống TTTG dù đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu song nhìn từ góc độ văn hóa học với hệ thống truyền thuyết này vẫn là một khoảng trống, ngay cả với Người anh hùng làng Dóng [30], một công trình nghiên cứu nổi tiếng của Cao Huy Đỉnh (1969), thì tác giả của nó cũng chỉ coi truyện Ông Dóng là thuộc thể loại văn học dân gian (Lời nói đầu). Trƣớc thực trạng trên, NCS nhận thấy TTTG cần đƣợc nghiên cứu tổng hợp nhƣ một tác phẩm văn hóa, một hiện tƣợng văn hóa tín ngƣỡng, một thực hành văn hóa mà không đơn thuần chỉ là sáng tác văn học dân gian Việt Nam.Với những lí do nhƣ đã trình bày, NCS đã lựa chọn đề tài: Truyền thuyết Thánh Gióng - Đặc điểm và giá trị văn hóa làm đề tài luận án của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ sức sống của TTTG, phân tích các đặc điểm và giá trị của TTTG nhƣ một hiện tƣợng văn hóa góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị của TTTG trong bối cảnh xã hội Việt Nam đƣơng đại.
  • 8. 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, tìm hiểu các đặc điểm của TTTG trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam qua các văn bản và diễn ngôn dân gian. - Xem xét TTTG nhƣ một hiện tƣợng văn hóa trong tổng thể nguyên hợp của văn hóa dân gian, trong mối quan hệ với các sinh hoạt văn hóa hiện nay. - Xác định một số giá trị của TTTG trong đời sống văn hóa xã hội của ngƣời dân Việt Nam trong bối cảnh xã hội Việt Nam đƣơng đại. Tìm ra ý nghĩa của thực hành văn hóa qua sự tồn tại của TTTG từ xƣa tới nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu các đặc điểm và giá trị văn hóa của TTTG – một di sản văn hóa phi vật thể của ngƣời Việt. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về tài liệu nghiên cứu, NCS nghiên cứu TTTG và các thành tố văn hóa liên quan khác qua các nguồn tài liệu do các tác giả đi trƣớc viết với những kiến thức đa dạng, sâu rộng cả về không gian và thời gian. Trong đó, về phạm vi không gian tập trung chủ yếu là châu thổ Bắc Bộ, các khu vực Gia Lâm, Sóc Sơn, Hà Nội. Về thời gian, NCS nghiên cứu từ các ghi chép sớm nhất về TTTG đến những sƣu tầm và những ghi chép đánh giá đƣơng đại hiện nay nhƣ một tổng thể của một hiện tƣợng văn hóa. Về danh xƣng Thánh Gióng, ngoài danh xƣng Phù Đổng Thiên Vƣơng, tên ngƣời anh hùng làng Phù Đổng đã từng đƣợc ghi bằng hai cách khác nhau: Dóng và Gióng. Qua quá trình nghiên cứu, NCS dùng Gi để viết tên ngƣời anh hùng làng Phù Đổng cũng nhƣ tên truyền thuyết là Thánh Gióng. 4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu 4.1. Câu hỏi nghiên cứu (1) Bản chất TTTG là gì? Vì sao Thánh Gióng – nhân vật huyền thoại trở thành ngƣời anh hùng dân tộc, Thánh – Thần – Vƣơng, đƣợc nhân dân tôn
  • 9. 4 thờ và mở hội hàng năm để ghi nhớ công ơn trên một không gian rộng lớn, suốt từ thời dựng nƣớc cho đến tận ngày nay? (2) TTTG có những đặc điểm gì và trong xã hội đƣơng đại nó đƣợc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa nhƣ thế nào? 4.2. Giả thuyết nghiên cứu - TTTG có những đặc điểm và giá trị văn hóa sâu sắc trong đời sống xã hội từ khi tồn tại đến nay. - TTTG hiện nay vẫn đang tồn tại, biến thiên và sáng tạo liên tục, đóng góp vào lịch sử văn hóa Việt ở nhiều khía cạnh tạo nên diện mạo riêng trong văn hóa truyền thống Việt Nam. 5. Phƣơng pháp tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp tiếp cận của đề tài Luận án vận dụng phƣơng pháp tiếp cận của văn hóa học là phƣơng pháp nghiên cứu tập hợp nhiều phƣơng thức, thao tác và biện pháp đƣợc sử dụng để phân tích hiện tƣợng văn hóa. Cụ thể là sử dụng phƣơng pháp tiếp cận liên ngành, trong đó sử dụng phối hợp các phƣơng pháp nghiên cứu của các khoa học khác nhƣ Văn hóa dân gian, Nhân học văn hóa, Lịch sử, Văn học. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể - Phƣơng pháp nghiên cứu tổng thể: Nhận thức TTTG nhƣ một bức tranh toàn cảnh từ các diễn ngôn dân gian đến các văn bản thời trung đại bao gồm truyện kể, thơ văn đến các bản thần tích, thần sắc, các di tích tôn thờ Thánh Gióng ở các địa phƣơng tiêu biểu còn tồn tại đến nay trong vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ. - Phƣơng pháp so sánh văn bản: Truyền thuyết Thánh Gióng đã đƣợc ghi chép trong các sách Hán Nôm và hiện đã có nhiều bản dịch đã xuất bản, đồng thời TTTG cũng tồn tại ở các diễn ngôn dân gian ở những vùng miền mà truyền thuyết Thánh Gióng đã lƣu hành. NCS sử dụng phƣơng pháp so
  • 10. 5 sánh văn bản kết hợp với kết quả nghiên cứu, sƣu tầm của những ngƣời đi trƣớc và kết quả khảo sát điền dã của NCS nhằm thấy đƣợc chiều kích lịch đại và đồng đại của huyền tích Thánh Gióng để tạo cơ sở cho việc khám phá ý nghĩa các đặc điểm và giá trị của một hiện tƣợng văn hóa, của TTTG. - Phƣơng pháp quan sát tham dự: Hiện tƣợng văn hóa tín ngƣỡng và thực hành văn hóa về Thánh Gióng tồn tại ở các sinh hoạt thƣờng kỳ ở các di tích, lễ hội, tập tục, kỵ hèm… Để thấy đƣợc các đặc điểm và giá trị của TTTG đòi hỏi phải có sự quan sát và tham dự nhằm thấy rõ vai trò của TTTG trong bối cảnh đƣơng đại. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa khoa học - Diễn giải về mặt lý thuyết để thấy rõ một số hƣớng tiếp cận đối với truyền thuyết ở trong và ngoài nƣớc. Khẳng định rõ hơn: truyền thuyết không đơn thuần chỉ là văn học dân gian mà truyền thuyết còn là một tác phẩm văn hóa đa nghĩa luôn gắn kết với tín ngƣỡng và lễ hội nói riêng, với văn hóa Việt Nam nói chung. - Đóng góp vào quá trình tìm hiểu các giá trị của hệ thống truyền thuyết về các nhân vật anh hùng huyền thoại đƣợc tôn vinh trong lịch sử và vấn đề lịch sử hóa ngƣời anh hùng trong truyền thuyết. - Đƣa ra những phân tích, lý giải các đặc trƣng của TTTG và mối quan hệ của nó với các thành tố văn hóa truyền thống khác. - Hệ thống hóa những giá trị văn hóa, ý nghĩa về TTTG nhƣ một biểu tƣợng của tinh thần yêu nƣớc và chủ nghĩa anh hùng chống xâm lƣợc của mọi thời đại trong lịch sử Việt Nam. - Cung cấp cơ sở lý luận trong quá trình sáng tạo ra chân dung ngƣời anh hùng và cách thức lịch sử hóa các nhân vật huyền thoại trong lịch sử văn hóa dân tộc.
  • 11. 6 6.2. Về mặt thực tiễn Luận án tổng hợp các ghi chép, nghiên cứu về TTTG làm cho ngƣời đọc có cái nhìn đa chiều và toàn diện về TTTG góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa văn hóa của truyền thuyết Thánh Gióng phù hợp với chuyên ngành Văn hóa học của luận án. Đồng thời, nghiên cứu TTTG kết hợp với nghiên cứu tín ngƣỡng, thực hành nghi lễ, lễ hội nhất là từ khi Hội Gióng đƣợc UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2010 với những hƣớng tiếp cận mới là vấn đề cần thiết để thấy đƣợc các giá trị của TTTG trong đời sống xã hội. Luận án áp dụng một số lý thuyết mới để nghiên cứu TTTG nhƣ các lý thuyết về giá trị, lý thuyết chức năng, lý thuyết bối cảnh diễn xƣớng góp phần gìn giữ và phát huy tốt hơn di sản văn hóa lễ hội Thánh Gióng và TTTG trong xã hội Việt Nam đƣơng đại. - Luận án làm tăng thêm hàm lƣợng tri thức góp phần giáo dục, nâng cao nhận thức của ngƣời dân nói chung và ngƣời dân ở các khu vực có lƣu truyền và thờ tự Thánh Gióng nói riêng. - Qua hình tƣợng anh hùng Gióng, nêu cao ý nghĩa, tinh thần xây dựng đất nƣớc và chống kẻ thù xâm lƣợc cho thế hệ thanh thiếu nhi Việt Nam hiện nay. Đồng thời nêu cao đạo lý uống nƣớc nhớ nguồn của cha ông ta. Đóng góp mới của luận án: - Hệ thống hóa các loại hình tƣ liệu về TTTG. - Khám phá những đặc điểm về giá trị của TTTG qua các phạm trù văn hóa nghệ thuật và lịch sử theo các lát cắt lịch đại và đồng đại. - Nghiên cứu TTTG nhƣ một di sản văn hóa cổ truyền từ truyền thống đến đƣơng đại theo hƣớng bảo tồn và phát triển.
  • 12. 7 7. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu (7 trang), kết luận (3 trang), tài liệu tham khảo (15 trang), phụ lục (32 trang) luận án đƣợc kết cấu thành 4 chƣơng: Chƣơng 1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu và cơ sở lý luận (29 trang). Chƣơng 2. Đặc điểm của truyền thuyết Thánh Gióng (44 trang). Chƣơng 3. Giá trị của truyền thuyết Thánh Gióng (39 trang). Chƣơng 4. Truyền thuyết Thánh Gióng và việc bảo tồn, phát huy giá trị trong xã hội đƣơng đại (32 trang).
  • 13. 8 Chƣơng 1 TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan tình hình sƣu tầm và nghiên cứu truyền thuyết Thánh Gióng 1.1.1. Những sưu tầm, truyện kể về Thánh Gióng Xét theo tiến trình thời gian, trong khoảng thời gian dài, (khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII) các ghi chép về Thánh Gióng chủ yếu tồn tại dƣới dạng là các mẩu truyện kể dân gian chƣa xác định chính xác về thể loại, và gần nhƣ không có nhận định chính xác nào về thời điểm xuất hiện truyền thuyết này. Nhìn chung những bản ghi chép sƣu tập truyện dân gian thời trung đại chƣa có tên gọi về thể loại. Tuy nhiên, qua bài Tựa sách Lĩnh Nam chích quái chẳng hạn, cũng có thể giúp chúng ta thấy rõ nhiều nhận thức của ngƣời xƣa về nguồn gốc, xuất xứ của các truyện đƣợc sƣu tập: “Những chuyện chép ở đây, là sử ở trong truyện chăng, lai lịch ra sao, có từ thời nào, tên họ ngƣời hoàn thành đều không thấy ghi rõ. Viết ra đầu tiên (chỉ những chuyện trong Lĩnh Nam chích quái) là những bậc tài cao học rộng ở đời Lý - Trần, còn những ngƣời nhuận sắc là các bậc quân tử bác nhã hiếu cổ ngày nay” [123]. Nhƣ vậy, qua bài Tựa sách Lĩnh Nam chích quái, ít ra chúng ta cũng đƣợc biết các truyện trong đó đã đƣợc sƣu tập từ thời Lý – Trần, và đến thời Lê Thánh Tông thì đƣợc bổ sung, hoàn chỉnh thêm. Các ghi chép trong các tài liệu nhƣ An Nam chí lược (thế kỷ XIII), Thiền uyển tập anh ngữ lục (thế kỷ XIV), Việt điện u linh (Lý Tế Xuyên, thế kỷ XIV), Dư địa chí (Nguyễn Trãi thế kỷ XV), Lĩnh Nam chích quái (Vũ Quỳnh, Kiều Phú, thế kỷ XIV-XV). Thế kỷ XVI có chép về truyện Thánh Gióng, chủ yếu ở các dạng thần tích nhƣ: thần tích Phù Đổng Thiên Vƣơng, thần tích Sóc thiên vương thực lục thần tích ở đền Thanh Nhàn (xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn) và Ngọc phả ghi chép về vị tôn thần thời Hùng vƣơng ở xã Ân Phú, Giới Tế (huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) [xem phụ lục 1, tr.178]. Năm 1606, trong Hiển linh từ thạch bi ở đền Phù
  • 14. 9 Đổng, ngƣời dân trong vùng có ghi lại huyền thoại này, không có gì khác biệt với huyền thoại từ trƣớc đền khi ấy [11]. Khoảng cuối thế kỷ XVII, TTTG đƣợc ghi chép trong Thiên Nam ngữ lục (tác phẩm viết bằng thơ Nôm, diễn ca lịch sử đầy tự hào từ thời mở nƣớc của dân tộc) và Đại Việt sử ký toàn thư (1697), bộ quốc sử Việt Nam xƣa nhất còn tồn tại đến này nay. Thế kỷ XIX, ghi chép trong Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú), trong Đại Nam quốc sử diễn ca, trong Sử Nam chí dị, trong Bắc Ninh phong thổ tạp ký, Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí, Bắc Ninh địa dư chí [11]... Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là các ghi chép trong: Các truyền thuyết lịch sử của Trung Kỳ và Bắc Kỳ - tiếng Pháp (1887- G.Dumoutier (1850-1904), Ba mươi truyền thuyết và cổ tích Bắc Kỳ - tiếng Pháp (Truyện Đền Phù Đổng- E. Sombthay (1893). G.Dumoutier (1893) trong Nghiên cứu lịch sử và khảo cổ về Cổ Loa, đô thành của vương quốc Âu Lạc (nước Thục và nước Văn Lang hợp lại) 255-207 TCN trang 46-50 của công trình này, ông có công bố huyền thoại về Thánh Gióng với nhan đề “Đứa trẻ thần kỳ, ngƣời giải phóng vƣơng quốc” [11]. 1.1.2. Những nghiên cứu về truyền thuyết Thánh Gióng Qua những ghi chép nhƣ trên, có thể nói đến những năm cuối thế kỷ XIX, và thế kỷ XX bắt đầu có xu hƣớng nghiên cứu về Thánh Gióng nói chung và hội Gióng nói riêng song song với các ghi chép về thần tích và truyền thuyết Thánh Gióng. Trong đó có những hƣớng tiếp cận nghiên cứu về TTTG nhƣ: 1.1.2.1. Tiếp cận truyền thuyết Thánh Gióng nhìn từ những ghi chép về lễ hội và diễn xướng dân gian Đỗ Trọng Vĩ (khoảng 1882-1885), với công trình Bắc Ninh địa dư chí, tác giả đã ghi chép về hội Phù Đổng ở huyện Tiên Du và hội đền Phù Đổng thiên vƣơng núi Vệ Linh và hội Gióng ở tổng Phù Lỗ. Phạm Xuân Lộc
  • 15. 10 (1920), trong Bắc Ninh tỉnh khảo dị đã có những trang ghi chép khá chi tiết và chân thực về hội Gióng ở đền Phù Đổng trong mục Dân tục thần tích xã Phù Đổng huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh [11, tr.22]. Lê Ta (tức nhà thơ Thế Lữ 1934), viết bài “Giới thiệu về hội Gióng ở đền Phù Đổng” trên Phong hóa tuần báo. Toan Ánh (1969) trong Nếp cũ hội hè đình đám đã viết về Lễ hội làng Phù Đổng bằng ký ức và tƣ liệu sẵn có trong thƣ tịch bằng phƣơng pháp miêu thuật của các nhà dân tộc học [7]. Và nhiều tác giả khác với những công trình và bài viết nhƣ: Trần Việt Ngữ (1979), Hội trận đền Gióng [95]; Nguyễn Khắc Đạm (1981), Một số vấn đề về hội Gióng [28]; Trần Bá Chí (1986), Hội Dóng đền Sóc [21]. Ngoài ra còn có những công trình ghi chép, nghiên cứu về riêng hội Gióng hoặc chung với các lễ hội khác trong cả nƣớc hoặc những nhận định tản mạn có đề cập đến hội Gióng của các tác giả nhƣ: Thu Linh và Đặng Văn Lung (1984), Lễ hội truyền thống và hiện đại, Lê Hồng Lý (2010), Tìm hiểu lễ hội Hà Nội, Bùi Thiết (1993), Từ điển hội lễ Việt Nam... Đặc biệt là một loạt công trình, bài viết về lễ hội Thánh Gióng nói riêng và lễ hội cổ truyền nói chung của tác giả Lê Trung Vũ nhƣ: “Thử giải mã nội dung của hội Gióng xã Phù Đổng Gia Lâm” (1993), “Hội Gióng đền Sóc Xuân Đỉnh (2005), Hội Gióng Sóc Sơn” (2005), “Hội Phù Gióng Chi Nam” (2005), “Hội Thánh Gióng Phù Đổng” (2005), “Hội làng Hà Nội” (2006), “Lễ hội cổ truyền” (1992), “Lễ hội Thăng Long” (1998), “Lễ hội Việt Nam” (2005) [11, tr. 638]. Trong số các công trình nghiên cứu, sƣu tầm về hội Gióng, có thể nói công trình của Nguyễn Văn Huyên là một trong những công trình sƣu tầm sớm và công phu, đƣợc nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao. Năm 1938, Nguyễn Văn Huyên công bố công trình Hội Phù Đổng, một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam, bằng tiếng Pháp và năm 1941, ông công bố công trình Hát và múa Ải Lao ở hội Phù Đổng (Bắc Ninh) cũng bằng tiếng
  • 16. 11 Pháp. Năm 1996, cả hai công trình này đã đƣợc ra mắt bạn đọc bằng tiếng Việt [42]. Với công trình thứ nhất, Nguyễn Văn Huyên đã miêu thuật từ truyền thuyết, đến việc tổ chức lễ hội và diễn trình của lễ hội một cách cụ thể và chi tiết. Trong công trình Hát và múa Ải Lao ở hội Phù Đổng (Bắc Ninh), ông bổ sung thêm vào ba ca khúc mới do Tri huyện Tiên Du sai trợ tá của mình là một nho sĩ sáng tác ra để cho đoàn ca múa Ải Lao trình diễn vào năm 1941. Đây là những công trình mẫu mực, ghi chép, nhận định về hội Gióng ở làng Phù Đổng một cách chân xác khoa học theo hƣớng tiếp cận từ quan điểm dân tộc học và khảo cứu. Không chỉ dừng lại ở những ghi chép về hội Gióng, nửa sau thế kỷ XX đã xuất hiện những hƣớng tiếp cận mới về Thánh Gióng nhƣ cách tiếp cận ở phƣơng diện diễn xƣớng nhƣ: Năm 1977, Nguyễn Huy Hồng nghiên cứu ở phƣơng diện diễn xƣớng của hội Gióng [62], để khẳng định đây là một bản diễn xƣớng anh hùng ca. Tác giả miêu thuật tƣơng đối chi tiết về Hội Gióng (nhƣ miêu thuật của Nguyễn Văn Huyên) từ khâu tổ chức, chuẩn bị đến các trò diễn trong lễ hội nhƣ múa rối nƣớc, săn hổ, xuất quân. Và đi đến kết luận: Hội Gióng đã “tập trung tất cả những khả năng nghệ thuật của nhân dân thời cổ để diễn tả uy lực của ngƣời anh hùng làng Gióng” và “đây là một màn hoạt kịch và là một hình thức sân khấu cổ của chúng ta, đồng thời là một diễn xƣớng lịch sử lớn, toàn diện, chứa đựng nội dung tƣ tƣởng sâu sắc” [62, tr.136]. Năm 1978, tác giả Chu Hà khi nghiên cứu diễn xƣớng dân gian đã khẳng định: Hát cửa đình, hội trận đền Gióng là hình thức diễn xƣớng dân gian có qui mô lớn và từ lâu đời [62]. 1.1.2.2. Xu hướng tiếp cận Truyền thuyết Thánh Gióng nhìn từ khía cạnh lịch sử Với những tìm hiểu và suy luận của mình, Tạ Chí Đại Trƣờng (1996), trong bài viết “Lịch sử một thần tích: Phù Đổng Thiên vƣơng” [154] đã xuất
  • 17. 12 phát từ “bề thế của một hội lễ” để truy tìm tông tích của thần tích Phù Đổng Thiên Vƣơng và thấy rằng: “Sử và thần tích Phù Đổng quyện lại làm một đang chờ sự xét đoán dƣới một quan điểm lịch đại để vẽ lại lịch sử của thần” [154, tr.231]. Cũng dƣới cái nhìn và cách viết theo lịch đại và ghi chép lịch sử có nhiều công trình đã ghi lại TTTG nhƣ một dấu mốc lịch sử văn hóa của các tác giả nhƣ: Nguyễn Thế Long (1998), Đình và đền Hà Nội; Doãn Đoan Trinh (2000), Hà Nội, di tích lịch sử văn hóa và danh thắng; Nhiều tác giả (2000) Di tích lịch sử văn hóa Hà Nội [11]... 1.1.2.3. Xu hướng tiếp cận Truyền thuyết Thánh Gióng trên phương diện loại hình truyền thuyết, thần tích và tư tưởng tôn giáo tín ngưỡng Nhìn chung xu hƣớng tiếp cận TTTG dƣới cái nhìn là truyện kể dân gian và thần tích là nhiều hơn cả, đó là các công trình ghi chép về địa chí, thần tích của các vùng miền nhƣ: Phạm Văn Thụ (1921), “Viết lại sự tích về Thánh Gióng” trong Sóc Sơn từ phả. Nguyễn Khánh Trƣờng (1938), Truyền thuyết những vị thần chính được thờ ở tỉnh Phúc Yên (Bắc Kỳ) [11]. Các bài viết trong công trình nghiên cứu văn học nhƣ: Nguyễn Đổng Chi (1956) Lược khảo thần thoại Việt Nam [19]; Nguyễn Đổng Chi (1975), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tái bản năm 1993 [20], tập IV; Vũ Ngọc Phan (1957), Truyện cổ Việt Nam; Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1962), Văn học dân gian Việt Nam; Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi và Vũ Ngọc Phan (1957), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (quyển I); Trần Văn Giàu (1967), Tư tưởng chủ yếu của người Việt cổ qua những truyện đứng đầu trong thần thoại và truyền thuyết [40]; Vũ Tuân Sán (1968), Truyền thuyết về Thánh Gióng [125]; Vũ Ngọc Phan (1968), Phù Đổng (tức Thánh Gióng) là hình tượng văn học đẹp đẽ và hùng mạnh của nhân dân ta từ xưa đến nay; Đỗ Bình Trị (1970), Lịch sử văn học Việt Nam (tập 1); Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên
  • 18. 13 (1962), Văn học dân gian Việt Nam, tái bản năm 1997 [70]; Trần Quốc Vƣợng, Vũ Tuân Sán (2004), Hà Nội nghìn xưa; Bùi Văn Nguyên (1978), Để hiểu thêm ý nghĩa cảnh giác, chống ngoại xâm của truyền thuyết Thánh Gióng [91]; Hoàng Tiến Tựu (1979), Sự phát triển của truyền thuyết về đề tài chống giặc ngoại xâm từ truyền thuyết về Thánh Gióng đến An Dương Vương [158]... Keith Weller Taylor (1983), The birth of Viet Nam (Sự hình thành của nước Việt Nam, Hoa Kỳ) đã đề cập đến truyền thuyết Thánh Gióng, ông khẳng định: “truyền thuyết này đƣợc nhân dân Việt Nam ghi nhớ bởi lẽ chúng thể hiện bản sắc sớm nhất của họ với tƣ cách là một dân tộc” [11, tr.21]... Nhìn TTTG từ khía cạnh xem xét về tƣ tƣởng, tôn giáo tín ngƣỡng có thể kể đến các tác giả với những công trình nhƣ: Ngô Đức Thịnh và Vũ Ngọc Khánh (1990), Tứ bất tử [72]. Trong công trình này các tác giả đã xem xét nhân vật Thánh Gióng nhƣ một trong bốn vị thánh bất tử (bao gồm Đức Thánh Tản, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng, Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh) luôn đƣợc phụng thờ. Và trong tâm thức dân gian Việt Nam, đó là các biểu tƣợng của sự trƣờng tồn, bất diệt của dân tộc kể từ thuở khai thiên lập địa đến ngày nay. Nhƣ lời Nxb nhận xét “Ở đây không chỉ liên quan đến tín ngƣỡng, mà cả các mặt triết học, sử học, dân tộc học”. Ở phần viết về Đức Thánh Gióng, các tác giả đã chia làm ba phần trong đó phần 1 là ghi chép những sự tích và huyền thoại về Thánh Gióng; từ những ghi chép trong sử sách đến sự phát triển của huyền thoại, truyện kể ở “vùng ông Gióng”. Phần 2 là đề cập đến những Sinh hoạt văn hóa chung quanh đề tài Thánh Gióng nhƣ tín ngƣỡng về Đức Thánh Gióng, hội Gióng, văn hóa nghệ thuật xung quanh đề tài Thánh Gióng (nhƣ thơ ca, truyện, bài hát, phong trào thể dục thể thao – hội khỏe Phù Đổng lấy biểu tƣợng Thánh Gióng làm trung tâm). Phần ba là một số tƣ liệu về Thánh Gióng nhƣ các dị bản qua các sách thần tích, qua các chi tiết ở trong lễ hội.
  • 19. 14 Đề cập đến mối quan hệ của Thánh Gióng nói riêng và TTTG nói chung trong mối quan hệ với Phật giáo, tác giả Nhƣ Hạnh (1996) đã có những phân tích sắc sảo qua bài viết “Từ Tỳ Sa Môn Thiên Vƣơng (Vaisravana), qua Sóc Thiên vƣơng đến Phù Đổng Thiên vƣơng”. Ông đã đi đến kết luận rằng qua câu chuyện về giấc mơ của Khuông Việt trong Thiền uyển tập anh cho chúng ta “một ví dụ điển hình về những nỗ lực đầu tiên của giới lãnh đạo Phật giáo trong việc thiết lập nguồn gốc của quốc gia Việt Nam trong Phật giáo” và cũng là “sự nỗ lực tạo dựng huyền thoại”. Song giấc mơ của Khuông Việt “đã không đƣợc các thế hệ Phật giáo kế tiếp chịu mơ chung, thành ra cuối cùng chỉ là một giấc mơ nhỏ bé bị quên lãng vùi lấp dƣới những ảo tƣởng Tổ sƣ Thiền” [106, tr.154]. Ngoài ra còn có các công trình khác đề cập đến Văn hóa tâm linh nói chung có đề cập đến TTTG nhƣ: Văn Quảng (2009), Văn hóa tâm linh Thăng Long Hà Nội; Cung Khắc Lƣợc, Lƣơng Văn Kế (1998), Bản dịch thần tích ở đền Bộ Đầu, xã Thống Nhất, huyện Thường Tín [11]; và các ghi chép, nhận định về các thần tích nói chung trong đó có thần tích về Thánh Gióng.Gần đây tác giả Tạ Đức trong công trình Nguồn gốc người Việt – người Mường [34] cũng có đề cập đến việc lý giải biểu tƣợng và tên gọi Thánh Gióng. Năm 2017 với chuyên đề Nguồn gốc và sự phát triển của trống đồng Đông Sơn [35], Tạ Đức đã khẳng định Thánh Gióng là Thần trống đồng nƣớc Xích Quỉ. 1.1.2.4. Xu hướng tiếp cận liên ngành về truyền thuyết Thánh Gióng Trong số các công trình nghiên cứu mang tính chất tiếp cận liên ngành có thể kể đến chuyên luận Người anh hùng làng Dóng của Cao Huy Đỉnh. Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá, công trình này của Cao Huy Đỉnh là một chuyên luận qui mô về truyền thuyết và lễ hội Thánh Gióng. Nguyễn Xuân Kính đã nhận xét: “Ở những năm 60, khi mà không ít ngƣời nghiên cứu văn học dân gian vẫn còn nhìn folklore ngôn từ bằng con mắt văn học, từ giác độ
  • 20. 15 văn hóa, Cao Huy Đỉnh đã kiên trì một phƣơng pháp làm việc: đặt tác phẩm văn học dân gian vào môi trƣờng nảy sinh ra nó mà khảo sát” [106, tr.783] và Nguyễn Xuân Kính cũng khẳng định ở đây, Cao Huy Đỉnh đã dùng phƣơng pháp nghiên cứu tổng hợp. Mặc dù, tác giả đã tự xếp loại là công trình văn học dân gian, nhƣng thực chất tác giả đã tiếp cận từ nhiều góc độ: văn hóa dân gian, dân tộc học lịch sử và văn học nói chung (cả dân gian và cổ cận đại, đƣơng đại). Nhƣ vậy, Cao Huy Đỉnh đã dùng phƣơng pháp nghiên cứu tổng hợp, liên ngành mặc dù, tác giả đã tự xếp loại là công trình văn học dân gian, nhƣng thực chất tác giả đã tiếp cận từ nhiều góc độ: văn hóa dân gian, dân tộc học lịch sử và văn học nói chung. Tác phẩm gồm 6 chƣơng: Chƣơng 1: Đất nƣớc vùng Trung châu kể chuyện ông Dóng; Chƣơng 2: Từ truyện ngƣời anh hùng bộ lạc đến truyện ngƣời anh hùng dân tộc; Chƣơng 3: Hội Dóng và nghệ thuật diễn xƣớng anh hùng ca; Chƣơng 4: Truyện ông Dóng trong văn học thời phong kiến và thuộc Pháp; Chƣơng 5: Các tác giả ngày nay bàn về truyện ông Dóng; Chƣơng 6: Dóng là hình tƣợng anh hùng ca Việt Nam rất cổ mà rất mới. Để thực hiện công trình này, tác giả đã có sự khảo sát tƣờng tận vùng Phù Đổng là nơi có đền thờ Thánh Gióng đƣợc sinh ra và các dấu tích của cuộc hoài thai và sinh nở vẫn còn (dấu chân ông Khổng lồ, vƣờn cà, liềm đá, chõng đá, thống đá) và các làng, các ngọn núi, dòng sông, đầm hồ, rặng tre... ở Bắc Ninh, Gia Lâm, Hà Nội. Công trình này có ý nghĩa phƣơng pháp quan trọng đó là đã nghiên cứu một truyền thuyết từ cách tiếp cận tổng thể folklore: điều tra điền dã các di tích, những nơi hình thành truyền thuyết, những ngƣời kể, lƣu truyền và diễn xƣớng truyền thuyết, thông qua đó, công trình gợi mở các vấn đề của thể loại nhƣ quá trình hình thành và lƣu truyền truyền thuyết, vấn đề trung tâm và lan tỏa, mối quan hệ giữa truyền thuyết và lịch sử. So với công trình Hội Phù Đổng (một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam) của Nguyễn Văn Huyên tập trung miêu tả lễ hội Phù Đổng, công trình
  • 21. 16 của Cao Huy Đỉnh đã mở rộng các giới hạn mà truyền thuyết liên quan, từ đó cho thấy đời sống phong phú, sinh động của một truyền thuyết và nhu cầu tinh thần của ngƣời dân về việc sáng tạo ra các biểu tƣợng của lịch sử dân tộc, sống với các biểu tƣợng đó trong các thời đại [4, tr.26]. Có thể nói Trần Quốc Vƣợng (1934-2005) cũng là ngƣời đã sớm sử dụng phƣơng pháp này trong các bài viết “Căn bản triết lý ngƣời anh hùng Phù Đổng và hội Gióng” [106, tr.435] và “Truyền thuyết về ông Gióng – trong sách vở và ở ngoài đời” [106, tr.283]. Bài “Căn bản triết lý ngƣời anh hùng Phù Đổng và hội Gióng” là bài viết có nhiều phát hiện, đồng thời bƣớc đầu đã gợi mở về những mô típ, những mã văn hóa cần đƣợc giải ảo về mặt biểu tƣợng. Trong đó tác giả đã đề cập đến các triết lý xã hội sâu sắc về ngƣời anh hùng Phù Đổng. Ông đã phát hiện hình thái cấu trúc trong TTTG đó là cấu trúc đối ứng với những nhân tố, chi tiết tƣơng phản để tôn cao, nổi bật lẫn nhau nhƣ mẹ Đất – cha Trời; mẹ thực – cha ảo; tuổi nhỏ - chí lớn... Và ông cũng khẳng định “Phù Đổng là biểu tƣợng của tuổi trẻ anh hùng Việt Nam, biểu tƣợng của chính Việt Nam... một hằng số Phù Đổng của lịch sử Việt Nam” [106, tr.435]. Ông đã tiến hành lý giải các mô típ tạo thành chủ đề câu chuyện, đồng thời lý giải các “hiện thực lịch sử Việt Nam đƣợc xạ ảnh trong huyền thoại Gióng”. Ông đã đi từ hội Gióng, huyền thoại Gióng đến không gian phân bố các di tích có liên quan đến huyền tích Thánh Gióng để lý giải các biểu tƣợng trong TTTG từ đó tìm hiểu đƣợc Tâm thức dân gian Việt Nam “tìm hiểu đƣợc mối bận tâm hằng xuyên của Đại Việt – Việt Nam, từ triều đình đến thôn quê: Đó là làm ăn – đánh giặc – giao phối – vui chơi” [106, tr.447]. Tìm ra đƣợc qui luật vận hành của huyền thoại đó là quá trình thời sự hóa (evhémérisé) và lịch sử hóa (historisé). Anh hùng thần thoại trở thành anh hùng trong tôn giáo, trong đạo giáo. Bài “Truyền thuyết về ông Gióng – trong sách vở và ở ngoài đời”, đúng nhƣ tên gọi của bài viết tác giả đã đi từ những lý luận chung đến đi sâu
  • 22. 17 phân tích từng khía cạnh nhƣ từ sự phân tích chữ nghĩa đến thƣ tịch để vạch ra một diễn trình lịch sử của Thần từ buổi ban đầu đến ngày nay. Ngoài ra có thể kể đến các tác giả và tác phẩm đã sử dụng xu hƣớng liên ngành khác nhau để nghiên cứu TTTG nhƣ: Đinh Gia Khánh và Trần Tiến (cb, 1991), Địa chí văn hóa dân gian Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội; Lê Văn Kỳ (1995), Mối quan hệ giữa truyền thuyết của người Việt và hội lễ về các anh hùng [74]; Nhiều tác giả (2008), Bách khoa thư Hà Nội [101]; Nhiều tác giả (2009), Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long (Nxb Văn hóa Thông tin, H); Nguyễn Thụy Loan (2009), Một tuyên ngôn giữ nước bằng lễ hội ở đầu đời Lý; Kiều Thu Hoạch, Nguyễn Chí Bền (2010), Gióng hay Dóng lý giải từ góc nhìn ngữ âm học lịch sử tiếng Việt và từ cộng đồng [107]; Đinh Hồng Hải (2015), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam, tập 2, Các vị thần [47]... Gần đây có thể kể đến công trình Lễ hội Thánh Gióng [106] là công trình sƣu tập các di tích và huyền thoại về Thánh Gióng cùng các bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về di tích, truyền thuyết và lễ hội Thánh Gióng từ trƣớc tới 2009. Công trình Hội Gióng ở đền phù Đổng và đền Sóc [11] đã trình bày một tiến trình nghiên cứu về di sản Thánh Gióng khá đầy đủ và tổng hợp. Tác giả đã tiếp cận hiện tƣợng văn hóa tín ngƣỡng này ở dạng tổng thể của một di sản văn hóa phi vật thể, nhằm miêu thuật hiện tƣợng văn hóa – tín ngƣỡng liên quan đến ngƣời anh hùng làng Phù Đổng, giải mã các giá trị của hội Gióng, trên các phƣơng diện lịch sử, văn hóa, tín ngƣỡng... đặt vấn đề bảo tồn và phát huy hội Gióng trong xã hội đƣơng đại. Tiếp nối những công trình này là công trình Hội Gióng di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại [13] giúp ngƣời đọc có cái nhìn đầy đủ hơn kể từ khi Hội Gióng đƣợc công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại đến nay.
  • 23. 18 Về mặt văn bản, hiện nay trong công trình Lễ hội Thánh Gióng [106] ở phần I – Di tích và huyền thoại đã có 27 bản dịch và tổng hợp các ghi chép về truyền thuyết Thánh Gióng, ở Tổng tập Văn học dân gian người Việt [59], tập 4, truyền thuyết dân gian ngƣời Việt có 8 chuyện về Thánh Gióng đƣợc sƣu tập từ các ghi chép; tập 5 có truyện Thánh Gióng ở xã Bộ Đầu. Không chỉ là đề tài của nhiều công trình nghiên cứu, các chuyên luận, hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc năm 2010 còn đƣợc UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Nhƣ vậy, với đầy đủ tính chất của một di sản văn hóa, Thánh Gióng và hội Gióng nói chung mà cốt lõi là TTTG đã đƣợc giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc thừa nhận là một sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, đƣợc lƣu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, đƣợc lƣu truyền bằng truyền miệng, và các hình thức lƣu truyền khác. Cùng với nó, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu tổ chức thành các cuộc hội thảo khoa học, tập trung nhiều bài viết, nhiều tranh luận mang tính khoa học thời sự về Thánh Gióng. Năm 2010, Hội thảo khoa học quốc tế: Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại (trường hợp hội Gióng) [107], do UBND thành phố Hà Nội và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức đã có hàng trăm nhà khoa học trong và ngoài nƣớc tham gia. Trong đó có nhiều bài viết đề cập trực tiếp đến hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc. Các nhà nghiên cứu nhƣ: Hoàng Lƣơng, Trần Lê Bảo, Nguyễn Tri Nguyên, Nguyễn Bích Hà, Bùi Quang Thanh, Lê Thị Hoài Phƣơng, Nguyễn Văn Phong, Đỗ Lan Phƣơng, Đoàn Minh Châu, Vũ Anh Tú, Lê Thị Minh Lý, Từ Thị Loan, Phạm Nam Thanh, Hoàng Đức Cƣờng... đã có nhiều bài viết tiếp cận từ các góc nhìn khác nhau. Nhƣ vậy, cùng với những công trình có đóng góp to lớn nhƣ các công trình của G. Dumoutier, Nguyễn Văn Huyên, Trần Quốc Vƣợng, Nguyễn Tự Cƣờng (tức Nhƣ Hạnh), Cao Huy Đỉnh, Tạ Chí Đại Trƣờng... cách tiếp cận liên ngành đã
  • 24. 19 khiến cho các kết quả nghiên cứu về TTTG có nhiều thành tựu từ nhiều góc nhìn khác nhau. 1.2. Các lý thuyết nghiên cứu và quan điểm tiếp cận truyền thuyết Thánh Gióng 1.2.1. Một số khái niệm cơ bản *Truyện theo Từ điển tiếng Việt [173, tr.328] thì truyện là tác phẩm văn học kể chuyện bằng hình tƣợng, bằng hƣ cấu nghệ thuật. Theo Từ điển thuật ngữ Văn học thì truyện là phƣơng thức tự sự tái hiện đời sống bên cạnh hai phƣơng thức khác là trữ tình và kịch đƣợc dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học. Là phƣơng thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con ngƣời làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện, gắn liền với cốt truyện là một hệ thống nhân vật đƣợc khắc họa nhờ các thủ pháp nghệ thuật đa dạng.Về phƣợng diện thể loại văn học, trên cơ sở phƣơng thức phản ánh tự sự đã hình thành loại hình tự sự. Có thể dựa vào tiêu chí nội dung hoặc tiêu chí hình thức để phân chia các tác phẩm tự sự thành các thể loại nhỏ hơn. Chia theo nội dung thể loại ta sẽ có: tác phẩm mang chủ đề lịch sử dân tộc, thế sự, đạo đức, đời tƣ. Chia theo hình thức ta sẽ có các thể loại cơ bản: anh hùng ca, truyện, tiểu thuyết, truyện ngắn, ngụ ngôn… Trong nhiều bài viết khác thƣờng nói Truyện Ông Gióng, Truyện Thánh Gióng và đôi khi trong luận án NCS cũng sử dụng cách nói này để chỉ truyền thuyết Thánh Gióng bởi đó là cách gọi quen thuộc khi thể loại truyền thuyết chƣa đƣợc xác định rõ ràng về mặt thể loại. Mặt khác, trƣớc khi xác định là thuộc thể loại truyền thuyết, TTTG đƣợc xếp vào truyện kể dân gian nói chung, có khi là truyện thần quái, truyện cổ tích, anh hùng ca… *Truyện kể dân gian: Là các chuyện kể của nhân dân các thời đại đƣợc sáng tác và lƣu truyền bằng miệng từ khi chƣa có chữ viết, sau này đƣợc sƣu tầm
  • 25. 20 và ghi chép lại gồm các thể loại nhƣ: thần thoại, truyền thuyết, truyện cƣời, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn… Vào thời trung đại, các nho sĩ khi sƣu tập và ghi chép các loại thần thoại, truyền thuyết, cổ tích thƣờng chỉ dùng chung một từ là “truyện”, vì thời đó chƣa có sự phân loại các thể loại rạch ròi nhƣ ngày nay (NCS đã sơ bộ nói về vấn đề này ở 1.1.1). * Truyền thuyết Trên thế giới, khoa học về truyền thuyết dân gian hay còn gọi là truyền thuyết học, vốn là một thuật ngữ đƣợc dịch từ tiếng Đức: Volksagen kunde. Volk có nghĩa là dân gian, sagen có nghĩa là truyền thuyết, kunde có nghĩa là môn khoa học. Đây là một thuật ngữ đã khá thông dụng trong folklore học quốc tế thời cận đại. Tƣơng đƣơng với từ sage trong tiếng Đức, tiếng Anh có legend và tiếng Pháp có légende. Nói chung, theo folklore học thế giới thì truyền thuyết là một thuật ngữ chỉ một bộ phận ngôn từ đặc biệt và sớm được chú ý với tư cách là một thể loại. Truyền thuyết ngay từ đầu đã là một trong ba thể loại chính của tự sự dân gian: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích (Quan niệm này sớm định hình trong bộ sƣu tập của anh em Grim trong Thần thoại Đức (1835). Cách phân biệt này đã đƣợc các nhà nghiên cứu ngữ văn dân gian coi nhƣ có tính chất hƣớng đạo trong một thời gian dài). Ở Việt Nam, có lẽ Đào Duy Anh là ngƣời sớm sử dụng từ truyền thuyết khi ông viết về vấn đề “Những truyền thuyết thời thƣợng cổ nƣớc ta” trong Tạp chí Tri tân (số 30 năm 1942): “Sách xƣa của ngƣời Trung Quốc không chép việc Triệu Đà đánh An Dƣơng Vƣơng để chiếm Tƣợng quận, nhƣng cứ truyền thuyết ấy, nếu ta bỏ đi những yếu tố hoang đƣờng thì cũng còn lại cái kỷ niệm của một cuộc chiến tranh hẳn có” [59, tr.22]. Đến những năm 50 của thế kỷ XX, một loạt công trình nghiên cứu liên tiếp ra đời nhƣ: Lược khảo về thần thoại Việt Nam [19], Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam [95], Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam [96]... thuật ngữ truyền
  • 26. 21 thuyết đã đƣợc sử dụng nhiều hơn và đƣợc bàn đến ở những mức độ khác nhau. Nhóm Lê Quí Đôn khi viết văn học sử đã bƣớc đầu định nghĩa truyền thuyết: Truyền thuyết là tất cả những chuyện lƣu hành trong dân gian, có thật xảy ra hay không thì không có gì đảm bảo. Nhƣ vậy có những truyền thuyết lịch sử, mà cũng có những truyền thuyết khác, hoặc dính dáng về một đặc điểm địa lý, hoặc kể lại gốc tích một sự vật gì, hoặc giải thích những phong tục tập quán, hoặc nói về sự tích các nghề nghiệp và tất cả những chuyện kỳ lạ khác [95, tr.60]. Nguyễn Đổng Chi lại sơ bộ nhận xét về sự xuất hiện của truyền thuyết nhƣ sau: “Truyền thuyết là những truyện lịch sử chỉ có thể có khi con ngƣời có ý thức về lịch sử của mình, về xứ sở và đất đai của mình” [96, tr.81]. Khoảng những năm 1970, công trình Truyền thống anh hùng trong loại hình tự sự dân gian [60], đã tập hợp đƣợc nhiều bài viết có giá trị về truyền thuyết, lúc này, việc nghiên cứu truyền thuyết về mặt thể loại mới bắt đầu đƣợc quan tâm. Trong đó, đặc biệt phải kể đến chuyên khảo Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến, dày 60 trang in của Kiều Thu Hoạch đƣợc dƣ luận đồng tình và coi nhƣ cái mốc đầu tiên trong nghiên cứu truyền thuyết nhƣ một thể loại của folklore (văn hóa dân gian). Tại chuyên khảo này Kiều Thu Hoạch đã định nghĩa về truyền thuyết nhƣ sau: Truyền thuyết là một thể loại truyện kể truyền miệng, nằm trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phƣơng theo quan điểm của nhân dân. Biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trƣơng, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hƣ ảo, thần kỳ nhƣ cổ tích và thần thoại; nó khác cổ tích ở chỗ không phản ánh xung đột gia đình, sinh hoạt xã hội và số phận cá nhân mà thƣờng phản ánh những vấn đề thuộc phạm vi quốc
  • 27. 22 gia, dân tộc rộng lớn; nó khác thần thoại ở chỗ nhào nặn tự nhiên và xã hội trên cơ sở sự thật lịch sử cụ thể chứ không phải hoàn toàn trong trí tƣởng tƣợng và bằng trí tƣởng tƣợng [60, tr.24]. Từ năm những 1960 đến 1990, thể loại truyền thuyết đã đƣợc nhiều tác giả quan tâm viết trong giáo trình đại học, hoặc viết báo, tạp chí với các tác giả nhƣ Nguyễn Đổng Chi, Trần Văn Giàu (Tầm Vu), Bùi Văn Nguyên, Đỗ Bình Trị, Đinh Gia khánh, Chu Xuân Diên, Hoàng Tiến Tựu, Phan Kế Hoành - Trần Quốc Vƣợng (Phan Trần), Kiều Thu Hoạch, Bùi Quang Thanh... Năm 1990, trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam do Lê Chí Quế chủ biên, tái bản năm 2004 [122], ở mục viết về thể loại truyền thuyết có nhận xét: Trong khoa nghiên cứu văn học dân gian ở nhiều nƣớc trên thế giới việc coi truyền thuyết là một thể loại riêng biệt đã trở thành truyền thống không phải bàn luận nhiều. Nếu có chăng là ở sự tranh luận về nội hàm, ngoại diên của khái niệm và đặc trƣng thi pháp của nó mà thôi. Nhƣng ở nƣớc ta vấn đề này cần phải biện giải thêm [122]. Trong đó các nhà khoa học Việt Nam khi nghiên cứu truyền thuyết bao giờ cũng đặt nó trong mối quan hệ với thần thoại và cổ tích. Tuy cách sắp xếp truyền thuyết trong hệ thống các thể loại văn học dân gian có khác nhau, nhƣng xác định bản chất thể loại của truyền thuyết thì có thể tìm thấy tiếng nói tƣơng đồng giữa các nhà khoa học. Điểm qua ý kiến của các nhà nghiên cứu chuyên hoặc không chuyên về văn học dân gian, tác giả một mặt đánh giá cao chuyên khảo về truyền thuyết của Kiều Thu Hoạch, mặt khác đã tổng kết các nét chính về bản chất thể loại của truyền thuyết nhƣ sau: - Truyền thuyết ra đời sau thần thoại nhƣng vẫn có những yếu tố song trùng với thần thoại. - Truyền thuyết và cổ tích có những nét gần gũi.
  • 28. 23 - Nét riêng biệt của truyền thuyết là bên trong cái vỏ thần kỳ hàm chứa những yếu tố gắn với lịch sử dân tộc thời kỳ dựng nƣớc và giữ nƣớc. Năm 2014, Trần Thị An với công trình Đặc trưng thể loại truyền thuyết và quá trình văn bản hóa truyền thuyết dân gian Việt Nam [4] đã có những đóng góp đáng kể trong nghiên cứu truyền thuyết về mặt thể loại. Trong đó tác giả cũng nhận xét ở Lời nói đầu về thể loại truyền thuyết đó là do cảm hứng đặc biệt của ngƣời kể chuyện nên những câu chuyện thƣờng gắn với tín ngƣỡng, gắn với diễn xƣớng nhiều hơn là đọc hoặc kể; do tính tự sự của các câu chuyện đƣợc kể không thật đa dạng; do truyền thuyết dân gian sớm đƣợc biên soạn theo các công thức của thần tích hay đƣợc ghi chép và trở thành một bộ phận của văn xuôi và các thƣ tịch khác thời trung đại. Thể loại truyền thuyết nằm trong sự giao thoa khó tách bạch với thần thoại và truyện cổ tích. Có một đặc điểm quan trọng là, hơn bất cứ một thể loại văn học dân gian nào khác, truyền thuyết có sự gắn bó chặt chẽ với văn hóa dân gian; và nhƣ vậy, nghiên cứu truyền thuyết không thể không nghiên cứu văn hóa dân gian, hay nói cách khác, nghiên cứu tín ngƣỡng, lễ hội dân gian, không thể không đề cập tới phƣơng diện ngôn từ của niềm tin, đó là truyền thuyết [4, tr.9]. Nhƣ vậy cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu về truyền thuyết từ các đặc điểm về hình thức, nội dung và ý nghĩa thể loại cũng nhƣ sự khu biệt nó với các thể loại văn học dân gian khác. Nói một cách ngắn gọn thì: Truyền thuyết là một thể loại truyện dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải các nhân vật và sự kiện lịch sử có ảnh hưởng quan trọng đối với một thời kỳ, một bộ tộc, một địa phương hay một quốc gia trong quá trình tồn tại và phát triển. Truyền thuyết Thánh Gióng TTTG là một trong những truyện kể dân gian đƣợc lƣu truyền, ghi chép từ thời Hùng Vƣơng dựng nƣớc và phát triển liên tục theo thời gian bằng
  • 29. 24 nhiều hình thức nghệ thuật ngôn từ khác nhau nhƣ thần tích, thần phả, sự tích, huyền thoại, truyện thơ... Song đến nay về cơ bản truyện về ông Gióng đều đƣợc các nhà nghiên cứu xem xét chủ yếu là thuộc thể loại truyền thuyết. Với cốt truyện cơ bản là kể về sự sinh ra, lớn lên và đánh giặc một cách thần kỳ của một cậu bé ở làng Phù Đổng. Cậu bé lên ba mà chƣa biết nói chƣa biết cƣời, đặt đâu nằm đấy thế mà nghe tiếng sứ giả rao có quân giặc đến là biết nói chuyện với sứ giả và xung phong ra trận, lớn nhanh nhƣ thổi, có sức mạnh phi thƣờng, đánh thắng giặc rồi bay lên trời. Cho đến nay, TTTG tồn tại ở nhiều hình thức văn bản cũng nhƣ thực hành văn hóa, đã trở thành một hiện tƣợng văn hóa độc đáo đƣợc nhiều cá nhân và tổ chức nghiên cứu công phu và công nhận sự tồn tại cần đƣợc bảo tồn. Trong đó nhân vật trung tâm của TTTG là Thánh Gióng (còn gọi là Phù Đổng Thiên Vƣơng, Sóc Thiên Vƣơng, Anh hùng làng Gióng) một trong bốn vị Thánh bất tử trong tín ngƣỡng dân gian Việt Nam. Ông Gióng đƣợc xem là tƣợng trƣng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ Việt Nam. Từ thời Lý đến các triều đại phong kiến ở Việt Nam đều ghi nhận Thánh Gióng là vị Thần - Thánh – Vƣơng, anh hùng chống giặc ngoại xâm, vị Phúc Thần bảo hộ, che chở, cứu giúp nhân dân đƣợc đời đời thờ cúng thể hiện ở các sắc phong, thần tích đƣợc lƣu giữ trong các di tích lịch sử của địa phƣơng và đất nƣớc. Sau này trong thời kỳ xây dựng đất nƣớc Xã hội chủ nghĩa, thời đại Hồ Chí Minh, Thánh Gióng biểu tƣợng cho sức mạnh của tuổi trẻ trong việc tiên phong dẫn đầu trong việc xây dựng con ngƣời mới lớn khỏe cả về thể chất và trí tuệ để xây dựng đất nƣớc. Trong tín ngƣỡng và văn hóa của ngƣời Việt hiện nay, Thánh Gióng vẫn giữ vai trò quan trọng là biểu tƣợng tiên phong của sức mạnh, trí tuệ và sự bảo vệ che chở đƣợc tuyệt đối tin tƣởng. Đến nay vẫn tồn tại nhiều di tích, lễ hội, tín ngƣỡng, tục hèm và diễn xƣớng liên quan đến Thánh Gióng, trong đó đậm đặc nhất là khu vực Gia Lâm và Sóc Sơn nằm ở phía Bắc sông Hồng.
  • 30. 25 Trong đó, xã Phù Đổng là nơi sinh ra, lớn lên, rèn đúc vũ khí, tập hợp quân sĩ và điểm ra trận của Thánh Gióng. Tại đây hàng năm vẫn tổ chức lễ hội để tƣởng nhớ Thánh Gióng thuộc các di tích nhƣ đền Phù Đổng (xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội) – nơi đƣợc công nhận là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt. Lễ hội Gióng ở đền Phù Đổng đƣợc đánh giá là lễ hội chiến trận độc đáo nhất của lịch sử văn hóa Việt Nam. Đồng thời đây cũng là một trong hai trung tâm diễn ra Lễ hội Thánh Gióng đã đƣợc UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Thứ hai là trung tâm huyện Sóc Sơn, tƣơng truyền là nơi Thánh Gióng thắng trận và cƣỡi ngựa bay lên trời tại núi Vệ Linh, thôn Vệ Linh, huyện Sóc Sơn hiện nay. Ngoài ra lễ hội và các di tích về Thánh Gióng còn ở các làng xã lân cận khác nhƣ làng Cán, xã Nguyên Khê (huyện Đông Anh), làng Sen Hồ, xã Lệ Chi (huyện Gia Lâm). Vùng lan tỏa của hội Gióng nằm ở phía Nam sông Hồng nhƣ hội đền Sóc ở xã Xuân Đỉnh (nay là phƣờng Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội), đền Bộ Đầu, xã Thống Nhất (huyện Thƣờng Tín, Hà Nội)… [xem thêm phụ lục 1, tr.178]. * Đặc điểm: Là nét riêng biệt, nét làm nên diện mạo của ngƣời, sự vật, hiện tƣợng nào đó. Nói đến đặc điểm của truyền thuyết Thánh Gióng là muốn nói đến những nét cơ bản làm nên diện mạo riêng biệt của truyền thuyết Thánh Gióng, hay nói cách khác trong phạm vi luận án NCS muốn phác họa diện mạo của một hiện tƣợng văn hóa để tìm ra những ý nghĩa, bài học, đặc điểm và giá trị của nó trong đời sống văn hóa dân tộc. Một mặt NCS trực tiếp tìm hiểu về nội dung, các nhân vật, trong TTTG với tƣ cách là một huyền tích tổng hợp, phức hợp nhiều tình tiết của các truyền thuyết địa phƣơng. Đồng thời, tìm hiểu về các hình thức tồn tại, các dị bản và các hình thức khác nhƣ kể miệng, diễn xƣớng, nghệ thuật tạo hình… các hình thức thể hiện lƣu đƣợc dấu ấn sâu sắc trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Mặt khác NCS cũng nghiên cứu TTTG trên những bình diện không
  • 31. 26 gian, thời gian cụ thể và nhìn nhận nó trong mối quan hệ với các thành tố văn hóa khác trong đời sống theo tiến trình lịch sử. Sự thể hiện của TTTG qua các sinh hoạt văn hóa, các mô típ, sự nổi bật của các hiện tƣợng, sự kiện, sự giao lƣu, các nguồn ảnh hƣởng, các di tích đều góp phần nhận thức đúng diện mạo của nó trong tổng thể folklore Việt Nam. * Giá trị: Là khái niệm phức tạp và đƣợc sử dụng nhiều trong các khoa học khác nhau. Tác giả Trần Ngọc Thêm trong công trình Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường hướng tới tương lai có nhận xét là từ khi giá trị học nhƣ một khoa học về giá trị ra đời thì các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam vẫn không ngừng thảo luận về vấn đề này [136, tr.29]. Sau khi tổng kết các xu hƣớng quan niệm về giá trị khác nhau, các tác giả trong công trình nêu trên cho rằng một quan niệm hợp lý về giá trị phải là sự kết hợp cả ba cách tiếp cận, từ khách thể, chủ thể và các mối quan hệ mà chúng tham gia và đi đến định nghĩa: “Giá trị là tính chất của khách thể đƣợc chủ thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh với các khách thể khác cùng loại trong một bối cảnh không gian - thời gian cụ thể” [136, tr.39]. Tham khảo thêm nhiều tài liệu khác, NCS cho rằng giá trị là tính chất của một vật thể, một hiện tƣợng xã hội nào đó, nhằm thỏa mãn một nhu cầu, một mong muốn, một lợi ích của chủ thể xã hội. Khái niệm giá trị thể hiện ý nghĩa của một vật thể hoặc một hiện tƣợng thực tiễn nào đó đối với cá nhân hay xã hội. Giá trị văn hóa: Theo nghĩa rộng, là hệ thống những đối tƣợng, trạng thái, nhu cầu, mục đích thiết thân đối với con ngƣời và xã hội, trên cơ sở những thứ đó cuộc sống con ngƣời cũng nhƣ mối quan hệ giữa con ngƣời với thế giới xung quanh đƣợc điều hòa… Trên bình diện giá trị học văn hóa (axiologique de la culture), văn hóa đƣợc ngƣời ta coi là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần của bao nhiêu thế hệ con ngƣời sáng tạo nên, các giá trị này chính là sức mạnh bản chất của con ngƣời đƣợc “vật thể hóa” [2,
  • 32. 27 tr.166]. Xem xét giá trị và giá trị văn hóa của TTTG cũng là tìm hiểu ý nghĩa của một hiện tƣợng văn hóa tín ngƣỡng đối với lịch sử - xã hội Việt Nam trong quá khứ và hiện tại. Đồng thời cũng là xem xét một tác phẩm văn hóa có ý nghĩa, đáp ứng nhu cầu, mục đích của ngƣời Việt trong quá trình tồn tại từ buổi đầu dựng nƣớc đến nay. 1.2.2. Các lý thuyết nghiên cứu 1.2.2.1. Tiếp cận lý thuyết chức năng Lý thuyết chức năng là một trong những lý thuyết đƣợc vận dụng trong triết học, xã hội học với tên tuổi của Herbert Spencer(1820-1903), Emile Durkheim (1858-1917, nhà Xã hội học ngƣời Pháp), sau đó đến nhân loại học cận hiện đại với hai đại diện là Alfred Radliffe – Brown (1881-1955, nhà nhân loại học ngƣời Anh) và Bronislaw Malinowski (1884-1942, nhà nhân loại học Anh, gốc Ba Lan). Ngƣời đƣợc coi nhƣ cha đẻ của học thuyết này là Emile Durkheim, nhƣng trƣớc đó Herbert Spencer (1820-1903) đã sử dụng nó trong các nghiên cứu của ông về khoa học xã hội. Tƣ tƣởng cơ bản của chức năng luận là: Bất kỳ một hệ thống ổn định nào cũng bao gồm những bộ phận khác nhau nhƣng liên hệ với nhau, chúng cùng nhau vận hành để tạo nên cái toàn bộ, tạo nên sự ổn định hệ thống. Có thể xem là hiểu đƣợc một bộ phận trong hệ thống khi hiểu đƣợc cái cách mà nó đóng góp vào sự vận hành của hệ thống. Sự đóng góp vào việc vận hành ổn định của hệ thống đƣợc gọi là chức năng. Các bộ phận có tầm quan trọng chức năng khác nhau đối với hệ thống. Các lý thuyết về chức năng luận của Durkheim đƣợc tiếp nối bởi Alfred Radxliffe- Brown (1881-1955), Bronislaw Malinowski (1884-1942) và Talcott Parsons (1902-1979)... Trong đó, cả 3 tác giả Radxliffe-Brown, Bronislaw Malinowski và Talcott Parsons dù có những điểm không giống nhau hoàn toàn song đều thống nhất với nhau ở chỗ coi quan điểm chức năng – cấu trúc nhƣ là một công cụ quan trọng trong việc tiếp cận nghiên cứu văn
  • 33. 28 hóa xã hội. Theo cách nhìn này thì mỗi hiện tƣợng văn hóa hay xã hội đều đƣợc cấu thành bởi những bộ phận hay yếu tố nhất định, trong đó mỗi bộ phận hay yếu tố đều phải đảm bảo một hay nhiều chức năng. Khi các chức năng này bị rối loạn sẽ dẫn tới sự bất ổn định của cấu trúc tổng thể, thậm chí có thể phá vỡ cấu trúc tổng thể. Ý nghĩa của thuyết chức năng đối với văn hóa học thể hiện ở chỗ, bất cứ văn hóa nào cũng đƣợc nhà khoa học nghiên cứu dƣới cái nhìn thực hiện các chức năng khác nhau của nó. Về phía mình, khái niệm văn hóa thƣờng đồng nhất với tổng thể các chức năng của nó đƣợc thực hiện. Sự phân xuất ra các chức năng của văn hóa nhƣ một cơ chế toàn vẹn xác định các chiều hƣớng trong nghiên cứu văn hóa, nó tạo ra một cấu trúc đẳng cấp, bao gồm các tiểu hệ thống chức năng ấy trở thành đối tƣợng của sự phân tích khoa học gồm: Chức năng thực thể còn gọi là chức năng duy trì, bảo đảm sự nối dài cuộc sống cho cộng đồng. Chức năng thích nghi hoặc thích ứng, nhằm duy trì ít hay nhiều các quan hệ hài hòa giữa môi trƣờng tự nhiên và cộng đồng văn hóa tộc ngƣời. Chức năng bảo tồn và tái sản sinh ra các truyền thống, các tín ngƣỡng tôn giáo, các nghi thức, cũng nhƣ lịch sử dân tộc. Chức năng ký hiệu – tƣợng trƣng của văn hóa, thể hiện trong sự sáng tạo và tái sản sinh ra những giá trị văn hóa. Chức năng vận thông của văn hóa, hƣớng tới việc đảm bảo sự giao tiếp, truyền đạt thông tin, hiểu các nền văn hóa khác. Chức năng điều tiết – chuẩn mực của văn hóa, thể hiện trong việc duy trì trạng thái cân bằng trong cộng đồng, nó chứa đựng những hình thái thiết chế, cho phép giải quyết các xung đột. Chức năng điều hòa văn hóa, ý nghĩa cơ bản của nó là giải tỏa những căng thẳng về thể chất [dẫn theo 46, tr.85]. Khi nghiên cứu TTTG chúng tôi nhận thấy rằng TTTG tồn tại trong suốt thơi gian dài, liên tục đƣợc bồi đắp, sáng tạo, điều này cho thấy rằng TTTG đã tồn tại nhƣ một thành tố trong hệ thống văn hóa và nó luôn đáp ứng
  • 34. 29 các nhu cầu tinh thần nhất định của nhân dân để thực hành các chức năng thực thể, thích nghi, bảo tồn và tái sản sinh ra các truyền thống, tín ngƣỡng và đảm bảo sự nối dài của lịch sử. 1.2.2.2. Tiếp cận lý thuyết giá trị Giá trị là khái niệm đƣợc nghiên cứu và sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau nhƣ Tâm lý học, Triết học, Nhân chủng học, Xã hội học, và Văn hóa học.Đồng thời nó cũng là một khái niệm khá phức tạp với nhiều cách nhìn và quan điểm khác nhau. Ngô Đức Thịnh (2010), trong công trình Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập [142] cũng đã đƣa ra kết luận: Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con ngƣời về bất cứ một hiện tƣợng tự nhiên, xã hội và tƣ duy theo hƣớng những cái đó là cần, là tốt, là hay, là đẹp... Một khi những nhận thức giá trị ấy đã hình thành và định hình thì nó chi phối cách suy nghĩ, niềm tin, hành vi, tình cảm của con ngƣời [142, tr.22]. Trong đó ông cũng cho rằng: Các giá trị văn hóa còn đƣợc thể hiện thông qua “cái vỏ” là ngôn ngữ và hình tƣợng, đó là các biểu trƣng, biểu tƣợng của văn hóa với mối quan hệ tổng thể. Giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, nó đƣợc sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tƣơng ứng với môi trƣờng tự nhiên và xã hội nhất định. Giá trị văn hóa hƣớng đến thỏa mãn những nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân thiện mỹ), từ đó bồi đắp và nâng cao bản chất Ngƣời. Giá trị văn hóa luôn ẩn tàng trong bản sắc văn hóa, biểu tƣợng, chuẩn mực văn hóa. Chính vì vậy mà thông qua hệ giá trị của nó góp phần điều tiết sự phát triển xã hội [142, tr.22]. Cũng ở công trình này khi đề cập đến vấn đề phân loại giá trị, tác giả cũng đã chỉ ra các cách phân loại của các tác giả đi trƣớc nhƣ Đoàn Văn
  • 35. 30 Chúc, Hoàng Vinh, Trần Văn Giàu... từ đó sắp xếp hệ giá trị văn hóa Việt Nam là sự phân hợp từ hai dạng: hệ giá trị tổng quát và những hệ giá trị bộ phận. Trong đó, hệ giá trị tổng quát bao gồm những giá trị chung nhất mang tính phổ quát, có vai trò định hƣớng với tƣ duy, hành động của cả cộng đồng. Ví dụ nhƣ yêu nƣớc, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thƣơng ngƣời, vì nghĩa [142, tr.25]. Hệ giá trị bộ phận là phân theo một số lĩnh vực chính trong hoạt động của con ngƣời nhƣ trong sinh hoạt, ứng xử, giáo dục... Trên cơ sở tổng kết và nghiên cứu về lịch sử nghiên cứu giá trị và các xu hƣớng định nghĩa, các tiêu chí nhận diện và các đặc trƣng của giá trị, Trần Ngọc Thêm trong công trình Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai [136] đã kết luận: “Giá trị là tính chất của khách thể, đƣợc chủ thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh với các khách thể khác cùng loại, trong một bối cảnh không gian, thời gian cụ thể” [136, tr.39]. Trên cơ sở định nghĩa trên Trần Ngọc Thêm cũng đồng thời chỉ ra 4 tiêu chí để nhận diện giá trị đó là: (1) Là tính chất của khách thể (sự vật, hiện tƣợng, trạng thái, hoạt động), tức là những khách thể này cũng không phải là đối tƣợng đánh giá toàn diện, đối tƣợng đánh giá thực sự chỉ là một (một số) tính chất nào đó của khách thể mà thôi; (2) Đƣợc chủ thể (con ngƣời) đánh giá là tích cực; (3) Xét trong quan hệ so sánh với các khách thể cùng loại; (4) Đƣợc định vị trong một bối cảnh không gian, thời gian cụ thể. Trong đó khi xác định cấu trúc và loại hình giá trị văn hóa ông đã chỉ ra nhiều cấu trúc và loại hình khi xem xét ở các khía cạnh khác nhau nhƣ xét theo không gian, theo bản chất, theo các thành tố văn hóa, theo tầm quan trọng… Và xét theo chủ thể thì cấu trúc giá trị văn hóa điển hình đƣợc xác định theo bộ ba chân thiện mỹ. Chúng có thể coi là những giá trị đơn lẻ và cũng có thể xem nhƣ tên gọi chung cho ba nhóm giá trị: nhận thức – đạo đức – thẩm mỹ.
  • 36. 31 Nhƣ vậy khi nghiên cứu TTTG – đặc điểm và giá trị ta không thể không xem xét đến lý thuyết về giá trị, giá trị văn hóa trong mối liên hệ tổng thể với các thành tố văn hóa khác trong hệ thống văn hóa. Theo đó khái niệm giá trị nhƣ là một khái niệm, một lý thuyết then chốt để nghiên cứu, tìm hiểu về TTTG với tƣ cách là một tác phẩm văn hóa. Với nhiệm vụ và mục đích tìm hiểu các giá trị của TTTG, NCS thấy việc sử dụng lý thuyết và cách nhận diện giá trị của các tác giả trên là cần thiết. Dựa trên các tiêu chí nhận diện giá trị của Trần Ngọc Thêm có thể thấy rằng TTTG cần đƣợc đánh giá ở một số tính chất nhƣ có sức sống mạnh mẽ và ảnh hƣởng đến nhiều thành tố văn hóa khác, tác động của nó đến sinh hoạt văn hóa tinh thần thƣờng kỳ của dân chúng tại vùng lƣu truyền truyền thuyết và các vùng lan tỏa khác. Đồng thời TTTG đƣợc đánh giá tích cực ở các mặt nhƣ Thánh Gióng đã trở thành biểu tƣợng của tinh thần chống giặc ngoại xâm, tinh thần lớn mạnh thần kỳ trong xây dựng đất nƣớc, giáo dục truyền thống đoàn kết toàn dân toàn diện trên nhiều lĩnh vực, đồng thời là biểu tƣợng cho sức mạnh bảo vệ che chở cho nhân dân trƣớc mọi hiểm nguy và tai họa của thiên nhiên và xã hội. TTTG đƣợc định vị trong không gian, thời gian cụ thể là nó đã tồn tại và phát triển liên tục trên vùng văn hóa khá rộng lớn – vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, trung tâm là văn hóa xứ Bắc, là vùng văn hóa trung tâm vƣợt trội và lan tỏa của cả nƣớc. Thậm chí còn lan tỏa sang cả vùng văn hóa khác nhƣ vùng văn hóa xứ Thanh nơi cũng lƣu truyền các truyền thuyết và di tích về Thánh Gióng. Thậm chí không chỉ đề cập đến các giá trị, TTTG còn có thể đƣợc đánh giá nhƣ một khách thể văn hóa chứa đựng hệ giá trị bởi TTTG là một hệ thống truyền thuyết có mối quan hệ nhiều mặt với các thành tố văn hóa khác nên đã hình thành đƣợc hệ giá trị về mặt tinh thần trong ngôn từ, tín ngƣỡng, lễ hội và diễn xƣớng. Trong đó, hệ giá trị là “toàn bộ các giá trị của
  • 37. 32 một khách thể trong một bối cảnh không gian – thời gian xác định cùng với mạng lƣới các mối quan hệ của chúng” [136, tr.51]. 1.2.2.3. Tiếp cận lý thuyết bối cảnh và diễn xướng Bối cảnh theo Từ điển tiếng Việt là hoàn cảnh, tình hình, điều kiện gắn liền với sự kiện, sự việc. Nói đến lý thuyết bối cảnh và diễn xƣớng là nói đến một trào lƣu nghiên cứu đánh dấu sự thay đổi trong nghiên cứu folklore bắt đầu vào những năm 1960 ở Hoa Kỳ và các nƣớc phƣơng Tây. Đó là một định hƣớng nghiên cứu chứa đựng trong đó nhiều lý thuyết, nhiều phƣơng pháp từ các ngành khoa học khác nhau. Ở Việt Nam, hƣớng tiếp cận này bắt đầu đƣợc biết đến vào cuối thế kỷ XX với các bài viết của Nguyễn Thị Hiền nhƣ “Quan niệm mới về folklore và quá trình văn bản hóa folklore ở Hoa Kỳ” [52] và “Một số phƣơng pháp nghiên cứu folklore phƣơng Tây” [51]. Trong đó tác giả đã chỉ ra sự thay đổi cơ bản trong nghiên cứu folklore ở Hoa Kỳ là định hƣớng từ folklore tƣ liệu (folklore- as-materials) sang folklore giao tiếp (folklore – as - communication), từ cách tiếp cận lấy văn bản làm trung tâm (text-centered) đến lấy bối cảnh làm trung tâm (context – centered). Những thay đổi đó đã dẫn đến những cách hiểu mới về văn học dân gian so với truyền thống nhƣ là: nghệ thuật ngôn từ (verbal art), hành vi ngôn ngữ (verbal behaviour), cách thức nói (the way of speaking) và nghệ thuật ngôn từ nhƣ là sự diễn xƣớng (verbal art as performance) [52]. Đặc biệt là với công trình Folklore thế giới – Một số công trình nghiên cứu cơ bản [140] và Folklore – một số thuật ngữ đương đại [147] do Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan chủ biên đã cung cấp cho ngƣời đọc Việt Nam các bài viết về nghiên cứu folklore trên thế giới một cách phong phú. Trong đó các nhà biên soạn đã giới thiệu nhiều công trình có giá trị lý thuyết quan trọng cho hƣớng tiếp cận theo bối cảnh và diễn xƣớng của các tác giả nhƣ Roman Jakobson, Bronislaw Malinowski, Wlliam Bascom, Richard Bauman… Các tác giả đã tìm hiểu
  • 38. 33 folklore trong mối quan hệ với nhiều khoa học khác nhƣ với ngôn ngữ học họ cho rằng: ngôn ngữ mà folklore sử dụng là ngôn ngữ giao tiếp mang tính nghệ thuật, là diễn ngôn trong đời sống, tức là nó có quan hệ mật thiết với các giá trị văn hóa của cộng đồng mà nói nhƣ Roman Jakobson thì “sự tồn tại của một sản phẩm folklore chỉ thực sự bắt đầu khi nó đƣợc cộng đồng nhất định chấp nhận, chỉ tồn tại ở nó những gì mà cộng đồng này thu nhận” [140, tr.29]. Folklore trong mối quan hệ với nhân học qua các công trình của Bronislaw Malinowski và Wlliam Bascom, trong đó nhấn mạnh đến các khái niệm bối cảnh tình huống và bối cảnh văn hóa khi định nghĩa về folklore, họ cho rằng: “Bối cảnh xã hội, thái độ văn hóa, tình huống hùng biện và năng lực cá nhân là những biến số tạo ra sự khác biệt rõ rệt trong cấu trúc, văn bản và kết cấu của sản phẩm ngôn từ, …” [140, tr.211]. Và theo Alan Dundes thì nhà nghiên cứu folklore cần căn cứ trên ba cấp phân tích là kết cấu, văn bản và bối cảnh, trong đó “bối cảnh có thể cắt nghĩa cho những biến đổi trong văn bản và kết cấu” [140, tr.512]. Vận dụng lý thuyết bối cảnh và diễn xƣớng trong nghiên cứu về TTTG là một cách nhìn cập nhật với xu hƣớng nghiên cứu mới của folklore trong và ngoài nƣớc. Mặt khác TTTG là một sản phẩm văn hóa thực sự thể hiện đƣợc đa dạng các chiều cạnh của bối cảnh và diễn xƣớng xét theo thời gian, không gian và cách thức tồn tại. Với mỗi không gian và thời gian khác nhau TTTG tồn tại trong những bối cảnh văn hóa khác nhau. Những giá trị văn hóa nhƣ đƣợc ghi dấu trong truyền thuyết này một cách súc tích và cô đọng nhƣ những mã, những biểu tƣợng mà phải tìm đến bối cảnh văn hóa cụ thể mới hiểu thấu hết đƣợc. Những không gian văn hóa khác nhau lại khiến cho TTTG bổ sung và chỉnh sửa những nội dung phù hợp nhƣng vẫn giữ nội dung cốt lõi cho thấy sự chấp nhận và sáng tạo của cộng đồng với những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp truyền từ đời này sang đời khác.
  • 39. 34 TTTG từ trƣớc tới nay tồn tại không chỉ là những văn bản khô khan, mà nó tồn tại thông qua sự giao tiếp thƣờng xuyên giữa đời sống thực tiễn và thực hành diễn xƣớng cùng nhiều hình thức khác nhau. Thông qua lễ hội, các trò diễn, tín ngƣỡng của nhân dân vùng châu thổ Bắc Bộ và một số vùng lan tỏa khác mà TTTG ngày càng có sức sống và là lý do của sự tồn tại hàng ngàn năm nay. Thông qua truyền thuyết, truyền thuyết là kích bản cho diễn xƣớng, nó tác động sâu sắc đến ngƣời nghe, ngƣời kể và ngƣời diễn nhƣ những tác động tâm lý đến các thế hệ ngƣời Việt. Thực chất đây cũng là một đặc điểm vốn chứa đựng trong những tác phẩm văn học dân gian trong đó có TTTG. Đó là tính chất nguyên hợp, là sản phẩm chứa đựng tổng hợp các hình thức sinh hoạt văn hóa mà trong các tài liệu về phƣơng pháp nghiên cứu văn hóa dân gian của Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên [70], Nguyễn Đổng Chi [20] và một số học giả khác đã chỉ ra trong các công trình nghiên cứu của mình. Do vậy khi nghiên cứu TTTG thì đồng thời cần nghiên cứu cả các đặc trƣng của một thể loại văn học dân gian và các đặc trƣng của một hiện tƣợng folklore (văn hóa, truyền thống dân gian) mới thấy hết đƣợc các đặc điểm và giá trị của nó. 1.2.3. Quan điểm tiếp cận truyền thuyết Thánh Gióng Từ trƣớc tới nay đã có khá nhiều tác giả viết về huyền tích Thánh Gióng với những góc nhìn khác nhau nhƣ phần 1.1.2 NCS đã đề cập, song nhƣ nhận xét của Nguyễn Chí Bền: về hiện tƣợng văn hóa, tín ngƣỡng Thánh Gióng, đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận bằng các phƣơng pháp khác nhau với những mặt mạnh, yếu khác nhau. Tuy nhiên nhìn lại việc nghiên cứu ấy không chỉ thấy tiến trình, kết quả của việc nghiên cứu, mà còn thấy đƣợc việc vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của các tác giả để chúng ta tiếp cận tốt hơn các hiện tƣợng văn hóa dân gian [11]. Có thể thấy rằng nghiên cứu truyền thuyết Thánh Gióng cũng tức là nghiên cứu tổng thể một hiện
  • 40. 35 tƣợng văn hóa tín ngƣỡng trong văn hóa Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án NCS nghiên cứu truyền thuyết Thánh Gióng nhƣ một hiện tƣợng văn hóa tổng thể không chỉ nghiên cứu đơn thuần về mặt văn học, nghệ thuật ngôn từ, mà NCS tìm hiểu, nghiên cứu các đặc điểm và giá trị của nó trong hệ thống văn hóa với tƣ cách là một tác phẩm văn hóa nhƣ nhà văn hóa Phạm Văn Đồng đã không chỉ coi truyền thuyết là một thể loại văn học, mà là thuộc phạm trù văn hóa – là “những tác phẩm văn hóa mà đời đời con ngƣời ƣa thích” [59]. Và nhƣ một nhà nghiên cứu folklore phƣơng Tây cũng tiếp cận truyền thuyết từ góc nhìn văn hóa, coi truyền thuyết là tác phẩm văn hóa khi đƣa ra nhận xét: Bao quát một phạm trù rộng lớn các tác phẩm, truyền thuyết anh hùng/truyền thuyết sử thi (legende héroique/ lesgende épique) đƣợc nhận diện là một trƣờng ca sử thi bao gồm các mô típ truyền thống đƣợc trình bày bằng miệng, thành bài hát có nhạc cụ đệm. Truyền thuyết anh hùng kể về một vị anh hùng nam hoặc nữ nổi tiếng hay hƣ cấu lịch sử (từ các vị anh hùng Hy Lạp). Bởi vì có những nguồn gốc huyền bí và những mối quan hệ siêu nhiên, các nhân vật chính đó đƣợc phú cho những quyền lực và tri thức siêu nhiên… Có một số loại truyền thuyết anh hùng đƣợc biết đến trên toàn thế giới, nó kết hợp những sự kiện lịch sử với các yếu tố huyền thoại và truyện cổ tích theo nhiều cách khác nhau, thích ứng với môi trƣờng văn hóa nhất định. Không dễ phân biệt nội dung của nó với các huyền thoại và truyện cổ tích tƣơng đƣơng. Truyền thuyết dân gian có chung các yếu tố truyền thống với truyền thuyết tôn giáo và anh hùng đƣợc các nhà văn hóa dân gian học xác định là một thể loại văn hóa dân gian [147, tr.315]. TTTG trƣớc hết là một truyện kể dân gian và tồn tại dƣới nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau, do đó, nếu tiếp cận TTTG theo phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành, từ văn hóa học, sử học, nhân loại học… thì rõ ràng truyền thuyết trƣớc mắt chúng ta không chỉ là những văn bản thần tích chữ
  • 41. 36 Hán theo công thức khô cứng. Với cách tiếp cận liên ngành chúng ta thấy đƣợc trong TTTG chứa đựng những tín ngƣỡng, phong tục, những kỵ hèm dân dã, những lễ hội với những trò chơi, trò diễn, những diễn xƣớng dân gian, lễ rƣớc cùng những buổi chèo sân đình, các liên hoan ca múa nhạc sôi động có sức thu hút đông đảo công chúng các vùng miền đến tham dự. Đó là những lớp nghĩa văn hóa mà các diễn ngôn văn học đơn thuần của truyền thuyết không thể biểu hiện đƣợc, đây cũng là kỳ vọng của NCS khi nghiên cứu tìm hiểu các đặc điểm và giá trị văn hóa trong TTTG. Tiểu kết Tình hình nghiên cứu, sƣu tầm về TTTG cho thấy: TTTG đã đƣợc nghiên cứu và sƣu tầm khá phong phú trong cùng một hệ thống tổng hợp với lễ hội, tín ngƣỡng và các diễn xƣớng văn hóa dân gian khác. Mặt khác nhƣ các nhà nghiên cứu trƣớc đó đã đánh giá: chủ yếu TTTG đã đƣợc nghiên cứu trao đổi và bàn luận ở các khía cạnh là cơ sở xã hội và tƣ tƣởng chủ đề của truyền thuyết này với tƣ cách là một tác phẩm văn học dân gian. Quá trình sƣu tầm các TTTG và liên quan đến Thánh Gióng còn khiêm tốn và vẫn còn nằm nhiều ở các mẩu chuyện truyền miệng dân gian. Do đó, ở đây, NCS kỳ vọng luận án sẽ cung cấp cho ngƣời đọc cái nhìn tổng thể về TTTG với các đặc điểm của một tác phẩm văn hóa sống động mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa. Các lý thuyết nghiên cứu về truyền thuyết đặc điểm và giá trị văn hóa, đề tài dựa trên các lý thuyết chuyên ngành liên quan. Hƣớng nghiên cứu dựa trên các lý thuyết này chú trọng xem xét các giá trị của một hiện tƣợng văn hóa đối với lịch sử văn hóa – xã hội ngƣời Việt. Sử dụng lý thuyết bối cảnh và diễn xƣớng nhƣ một xu thế tất yếu trong nghiên cứu folklore ở Việt Nam và thế giới nhằm nhìn tác phẩm folklore ở trạng thái sinh động trong các hình thức thể hiện, những thực hành văn hóa ở các không gian và thời gian khác nhau của một hiện tƣợng văn hóa.
  • 42. 37 Chƣơng 2 ĐẶC ĐIỂM CỦA TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG 2.1. Truyền thuyết Thánh Gióng theo thời gian và không gian lƣu truyền 2.1.1. Truyền thuyết Thánh Gióng theo thời gian tồn tại Xét theo tiến trình thời gian, trong khoảng thời gian dài (khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII) các ghi chép về Thánh Gióng chủ yếu tồn tại dƣới dạng là các mẩu truyện kể dân gian (chƣa xác định chính xác về thể loại), thần tích, truyện thơ, câu đối, hoành phi... Trong đó, các nhà nghiên cứu về văn bản TTTG đều công nhận tác phẩm An Nam chí lược của Lê Trắc là cuốn sách ghi chép về huyền thoại Thánh Gióng sớm nhất với nội dung đơn giản theo mô típ: trong nƣớc có loạn, có một ngƣời đứng lên, dân đi theo đánh giặc, đánh giặc xong, ngƣời ấy bay về trời, dân chúng lập đền thờ: “Tại làng Phù Đổng, hồi xƣa trong nƣớc rối loạn, chợt thấy một ngƣời có uy có đức, dân đều theo về, ngƣời ấy bèn cầm quân dẹp loạn, rồi bay lên trời đi mất, hiệu là Xung Thiên vƣơng, dân lập đền miếu để thờ” [11, tr.112]. Tài liệu thành văn sớm nhất tƣơng đối hoàn chỉnh về Thánh Gióng là ghi chép của Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư (1475 - Bộ sử này đƣợc khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm 1697 triều vua Lê Hy Tông, là bộ chính sử Việt Nam xƣa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn [xem phụ lục 1.3, tr.182]. Đầu thế kỷ XIV, trong Viện điện u linh, Lý Tế Xuyên có ghi truyện về Xung thiên dũng liệt chiêu ứng uy tín đại vƣơng. Cũng sách này trong phần lời ngƣời sao lục lại ghi: “Vua Lý Thái Tổ truy phong ngài là Xung Thiên thần vƣơng, lập miếu thờ ở chùa Kiến Sơ” [11, tr.14].
  • 43. 38 Thế kỷ XV, Nguyễn Văn Chất có sách Tục Việt điện u linh, nghĩa là phần tục biên, trong bản thảo này mới xuất hiện Sự tích Sóc Thiên Vương và ngƣời viết đã hòa trộn truyện Tỳ Sa Môn thiên vương vào truyện Thánh Gióng. Mô típ của truyện có phần đơn giản hơn, nhƣng đã xuất hiện chi tiết thanh gƣơm, ngựa sắt.Bản kể của Vũ Quỳnh và Kiều Phú trong Lĩnh Nam chích quái có thể nói đã là một huyền thoại hoàn chỉnh về ngƣời anh hùng. Câu chuyện đã có mở đầu với việc Hùng Vƣơng lập đàn cầu đảo Long vƣơng, rồi lai lịch ngƣời anh hùng làng Phù Đổng: sinh vào ngày 7 tháng giêng, cậu bé nhờ mẹ gọi sứ giả của vua Hùng Vƣơng, yêu cầu rèn ngựa sắt, kiếm sắt, roi sắt và nón sắt để đi đánh giặc, hàng xóm cùng chăm lo cho cậu bé, trận đánh diễn ra ở núi Trâu Sơn huyện Vũ Ninh, nơi bay về trời của ngƣời anh hùng là Sóc Sơn, huyện Kim Hoa, ngày hóa là 9 tháng 4, Hùng Vƣơng tôn là Phù Đổng Thiên Vƣơng “lập miếu thờ cũ ở trong làng… Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên thần vƣơng, lập miếu thờ ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc tƣợng ở núi Vệ Linh”. Trong bản kể, những chi tiết mà theo cảm quan của các nhà nho là “hoang đƣờng”, “không đáng tin” liên quan đến ông Đổng, vết chân ông Đổng, bà mẹ giẫm vào vết chân lạ kỳ về thụ thai đã bị lƣợc bỏ. Thế kỷ XVI, thần tích Phù Đổng Thiên Vƣơng và Sóc Thiên Vƣơng thực lục đã ghi lại huyền thoại một cách đầy đủ các chi tiết về sinh nở, chiến công, giấc mơ của Khuông Việt, phù trợ cho Lý Thái Tổ thay nhà Lê, phù hộ cho Lê Lợi đánh tan giặc Minh…. Vào cuối thế kỷ XVII, trong Thiên Nam ngữ lục một tác phẩm diễn ca lịch sử viết theo thể truyện thơ Nôm đồ sộ gồm hơn 8000 câu thơ lục bát, tác giả đã kể TTTG bằng những ngôn ngữ mang đậm chất anh hùng ca; trong Đại Nam Quốc sử diễn ca ở thời Nguyễn, Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái cũng đã diễn nôm sự tích Thánh Gióng bằng thơ nôm lục bát.
  • 44. 39 Thế kỷ XIX, Phan Huy Chú soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí, chép về “Đền Phù Đổng ở huyện Tiên Du”, Trần Gia Du viết Sử Nam chí dị bằng chữ nôm cũng chép về Sự tích Thánh Đổng với huyền tích về Thánh Gióng không khác các bản ghi chép ở các thế kỷ trƣớc đó. Trong các bộ sƣu tầm nhƣ Các truyền thuyết lịch sử của Trung Kỳ và Bắc Kỳ (G.Dumoutier) và Ba mươi truyền thuyết và cổ tích Bắc Kỳ (E. Sombthay) cũng có ghi về TTTG qua các lời kể dân gian. Đến những năm 60 của thế kỷ XX Cao Huy Đỉnh đã có công trình nghiên cứu sâu sắc về truyền thuyết Thánh Gióng với tên gọi Người anh hùng langd Dóng [30], ông đặc biệt chú ý đến việc tìm hiểu các truyền thuyết khác nhau về Thánh Gióng và tình hình lƣu truyền nó trong nhân dân. Ông đã dựa trên cả hai tài liệu thành văn và truyền miệng để tìm hiểu truyền thuyết này và đã đƣa ra kết luận: Truyện tiền thân của truyện Ông Dóng là truyền thuyết dân gian về ngƣời anh hùng trẻ nhỏ không rõ là ở đời nào và làng nào, đã diệt đƣợc giặc (truyền thuyết cũng không nói là giặc nào) và hóa ở núi Vệ Linh, đƣợc nhân dân lập đền thờ ở đó. Đến nhà Lý mới dời đền về hồ Tây. Ngoài ra Cao Huy Đỉnh đã sƣu tầm nghiên cứu và giới thiệu nhiều bản kể về Thánh Gióng trong Người anh hùng làng Dóng nhƣ về Ông tổ nghề thợ rào (thợ rèn) ở làng Y Na, Mai Cƣơng (Bắc Ninh), Thạch tướng quân ở Việt Trì, về ông Lân Hổ ở Sơn Tây (Hà Nội)… 2.1.2. Truyền thuyết Thánh Gióng theo không gian lưu truyền Cao Huy Đỉnh đã có kết luận về những địa điểm liên quan đến truyện Ông Gióng: Những địa điểm liên quan đến truyện ông Gióng vẽ ra một vùng lớn của đất Trung Châu từ đuôi Tam Đảo (Sóc Sơn) mở xòe ra giữa ba sông: sông Cầu, sông Đuống và sông Hồng. Đông – Tây từ Phả Lại đến Phúc Yên. Bắc – Nam từ Thị Cầu đến bến Bồ Đề sang làng Cáo cạnh hồ Tây. Ông thống kê địa điểm, có bốn loại (với khoảng 40 địa danh) gồm: 1. Nơi sinh ra anh
  • 45. 40 hùng Dóng; 2. Địa điểm rèn vũ khí sắt; 3. Những nơi có ngƣời theo ông Dóng đi đánh giặc; 4. Những nơi đánh dấu con đƣờng Dóng ra trận và trở về hóa. Đó là con đƣờng ông Dóng phóng ngựa sắt, đuổi giặc Ân rồi trở về và hóa ở núi Sóc với tất cả những dấu ấn của ông đã để lại trên con ngƣời, thiên nhiên, đất nƣớc và sản vật vùng Trung châu [31]. Theo nhà sử học Trần Quốc Vƣợng: “Không gian truyện Phù Đổng cứ mở rộng dần, tích hợp dần các truyền thuyết “nhỏ” ở các địa phƣơng để cuối cùng thành một tuyến hệ thống có vẻ hoàn chỉnh trong cái “tam giác châu” Trung Châu mà ba đỉnh là Phù Đổng (nơi xuất xứ) – núi Trâu (Vũ Ninh sơn) (nơi đánh giặc) – núi Sóc (nơi bay lên trời): Lịch trình Phù Đổng sẽ là: từ Nam qua Đông rồi lên Tây (Bắc). Ngoài không gian trung châu Bắc Bộ, truyện Phù Đổng còn lan tỏa vào quê hƣơng chúa Trịnh (từ thế kỷ XVI)là làng Sóc Sơn bên bờ sông Mã (nay thuộc huyện Thiệu Yên, Thanh Hóa). Ở đây có tên núi trùng tên với núi Vệ Linh, núi Sóc Sơn. Thần núi Sóc Sơn Thanh Hóa đƣợc đồng hóa với thần núi Sóc Bắc Bộ rồi cuối cùng cũng đƣợc đồng hóa với Đổng Thiên Vƣơng, sự lan truyền folklore có mặt do sự di động của dân cƣ [107, tr.320]. Núi Sóc Núi Trâu B B Đ T N Phù Đổng Không gian truyện Thánh Gióng theo quan điểm của Trần Quốc Vượng: Tam giác châu [107, tr.320]