1. CHÂN DUNG NHÀ VĂN
NGUYỄN PHAN HÁCH VÀ VĂN CHƯƠNG
Nguyễn Phan Hách được nhiều thầy cô cấp I biết nhờ có hai bài tả
cảnh đặc sắc: “Đường đi Sa Pa” và “Kỳ diệu rừng xanh” trong sách Giáo
khoa tiểu học, luôn được đem ra dậy mẫu.
Anh lại được các thiếu nữ mới lớn hay chép vào sổ tay bài thơ
“Hoa sữa” nói về tình đầu mong manh.
Đi đâu, với bài thơ “Làng quan họ quê tôi” được Nguyễn Trọng Tạo phổ
nhạc thành bài hát hay, anh thành gần gũi mọi người.
Kể ra, anh đã là người may mắn…
Vùng quê Nguyễn Phan Hách có thành cổ Luy Lâu 1000 năm, có
Quan họ, Đông Hồ. Ông nội anh là một nhà nho, thầy đồ có tiếng. Ông tự
sáng tác các bài thơ quốc ngữ dậy học trò: “…Thày rằng chức cả quyền
to/ Càng giàu sang lắm càng lo vào mình./ Ví rằng biết chân kinh đạo lý/
Sống cuộc đời thuần túy cao xa/ Sớm ngày đèn sách thiết tha/ Người
chăm đạo lý hóa ra thánh hiền…”.
Nguyễn Phan Hách biết “sáng tác” rất sớm. Học lớp 5 đã có một
“truyện ngắn” nho nhỏ đăng ở Báo Văn nghệ Trung ương, và nhuận bút
đủ để cậu học trò trường huyện nhếch nhác, áo nâu chân đất , ăn quà xôi
sáng cả tháng liền.
Những ngày ở Ty văn hóa Hà Bắc, N.P.H sẵn Thư viện tỉnh bên
cạnh, mỗi tuần đọc một cuốn sách, liền trong vòng mấy năm. Thời đó,
đâu phải ai cũng có sách để đọc. Vì thế anh rất biết ơn Ty Văn hóa. Ty đã
khuyến khích anh nghiên cứu về dân ca Quan họ, về tranh dân gian Đông
Hồ. Những sáng tác thơ, truyện đầu tay của anh thành công chính là viết
về đề tài này.
Xuất thân là giáo viên, N.P.H thích nếp nhà giáo. Anh thường
chừng mực, trung dung. Không một giọt rượu bia, không ham chơi la cà.
Cả đời cần mẫn nghiêm túc biên tập thơ văn. Anh viết nhiều thể loại. Về
tiểu thuyết có ba cuốn dày trang đều có bối cảnh nửa thế kỷ biến thiên
của đất nước. Anh quan niệm giá trị của tiểu thuyết ở chỗ là nó lưu giữ
hình ảnh đã qua, nghĩa là đời sau đọc nó thấy được hiện thực cuộc sống
đã diễn ra như thế nào. Mê cung xoay quanh cuộc đời và mối tình của
một nhân sĩ trí thức đi theo cách mạng. Người đàn bà buồn là chuyện một
tiểu thư con quan Nghè, nổi chìm trong những tháng năm biến động.
Cuồng phong chuyện xoay quanh một gia tộc bốn thế hệ từ thời các nhà
nho vận động Duy Tân đến ngày nay.
2. Các truyện của anh đều có chiều sâu thời gian, lịch sử. Anh thường
nói: Lịch sử hiện đại Việt Nam là một mỏ nguyên liệu vô tận cho tiểu
thuyết khai thác không bao giờ cạn.
Tiểu thuyết của N.P.H phảng phất cảm hứng sử thi. Anh dùng thủ
pháp “rọi đèn pha”, xâu chuỗi những khoảnh khắc điển hình nhất của lịch
sử, và các nhân vật hiện hình hoạt động trong không gian ấy.
N.P.H có một giọng văn đẹp, khúc chiết mạch lạc, khi trữ tình khi
“u mua”. Chuyện dữ dội mà viết “cứ như không”, rất thanh thoát, đọc
chạy trang, nhiều chi tiết câu chữ thường làm người đọc bật cười .
Tất nhiên, sự thành công văn xuôi của N.P.H còn phải chờ thời gian
thẩm định, xem nó được đến đâu, nhưng trước mắt thì thấy nó là thứ văn
không bị “hả hơi”, lạc hậu theo thời gian. Anh “nhất quyết” theo truyền
thống cổ điển, nhưng cũng học tập thủ pháp của điện ảnh là diễn biến
nhanh, dựng hình, nhiều chương đoạn của anh người và truyện hiện hình
lên như hội họa. Có người đã khen tính “hội họa” trong tiểu thuyết của
anh. Dày trang nhưng rất dễ đọc. Anh không dám mơ tưởng đến “tính
triết lý” trong tiểu thuyết của mình, chỉ mong “tính hiện thực”, và thường
nói đùa: mọi triết lý sẽ bị thời gian vượt qua, và tác phẩm lúc đó không
chịu được chiều dày của thời gian.
Đấy là quan niệm của riêng anh. Trên đời, mỗi nhà văn thường chỉ
làm được một thứ hợp với sở trường của mình.
Mảng truyện vừa, truyện ngắn của N.P.H khá nhiều màu sắc. Lưu ý
vài truyện “Sân tranh”, “Người hát ca trù”, “Ông đồ”, “Tản mạn truyện
làng”, “Đất đai”, “Cơn hồng thủy”,… Đặc biệt có truyện “Cô gái đầm
sen” lãng mạn, nếu không có tư duy thơ, không viết được như thế. Mạch
truyện mini, tản văn như những bài thơ văn xuôi long lanh. Truyện
“Hương ổi” đã từng được đưa vào đọc tham khảo trong chương trình Ngữ
văn lớp 11 chuyên ban xã hội. ..
Nhiều người tiếp cận N.P.H ở góc độ thơ.Anh là nhà thơ của
đồng quê, của tuổi trẻ tình yêu: “Cuộc tình mình như cơn bão/ Gió đã bay
mất rồi/ Cuộc khởi nghĩa của trái tim bé bỏng/ Giờ tan tác đôi nơi…”.
Thơ tình của anh có tứ cô đọng: “Đợi em trong quán trà/ Ngoài kia
trời sắp bão/ Lá vàng bay mù mịt trong đêm/ Giọt cà phê rơi tý tách/ Đợi
bão và đợi em/ Bão đến trước hay là em đến trước/ Ai có cản được em”.
Tình của nhà thơ rộng lớn: “Tôi có bao nhiêu yêu thương/ Mà
không có địa chỉ để gửi/ Biết gửi đại dương cho ai/ Ai đủ chỗ để tiếp
nhận biển cả/ Biết gửi bầu trời cho ai/ Để đựng bầu trời ai đủ chỗ”.
Cũng như các nhà thơ khác, anh là người cô đơn: “Giật mình tỉnh
giấc đêm sương lạnh/ Cô đơn sương khói phủ mịt mờ/ Chỉ vầng trăng
nhỏ bên song cửa/ Lẽo đẽo theo mình tự tuổi thơ”…
N.P.H là người chăm chỉ làm việc. Sáng tác nhiều nhưng anh vẫn
là một biên tập viên cần mẫn. Anh là người biên tập các truyện ngắn như
cánh én báo hiệu mùa xuân đổi mới của Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết
3. “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Bến không
chồng” của Dương Hướng, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh…
Trách nhiệm người xuất bản có khi là “trên đe dưới búa”. Mảng
sáng tác trong nước đã khó, mảng dịch nước ngoài cũng không dễ. Phải
có nghệ thuật” (mà điều này rất khó nói) Nhà Xuất bản Hội Nhà văn mới
cho ra đời được các bản dịch “Rừng Na uy”, “Biên niên sử chim vặn dây
cót”, “Cái trống thiếc” vv. Có người khuyên anh sao lại cứ phải “húc
đầu” vào các tảng đá. Nhưng lương tâm và trách nhiệm không cho phép
lẩn tránh.
Tại Nhà xuất bản Hội Nhà văn, anh cùng các nhà văn Nguyễn
Kiên, Nguyễn Khắc Trường, Ngô Văn Phú, Lê Minh Khuê, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Anh Thư đã biên soạn cho ra đời được các bộ tuyển tập rất quý.
Tuyển truyện ngắn từ thời có chữ Quốc ngữ đến nay, Tuyển tiểu thuyết
Việt Nam, tuyển tinh hoa thơ Việt, tuyển Nhà văn Việt Nam thế kỷ 20”…
Tổng cộng cả trăm cuốn.
Nghỉ hưu, rời Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, ngay lập tức anh lại về
làm ở Nhà Xuất bản Dân Trí cặm cụi với sách vở, văn chương…
Hình như N.P.H chưa chịu dừng lại. Mặc dù những ảo tưởng về
văn chương không còn nữa, nhưng loạt truyện ngắn lãng mạn, trữ tình
trong tập “Thị xã và anh lính” của anh mới ra gần đây, chứng tỏ anh còn
mộng mơ. Những truyện ngắn như những áng văn đẹp, trau chuốt. Có lẽ
nào bây giờ con người rời bỏ văn chương, nhưng một khi văn chương
chệch hướng, biến tướng, tự đánh mất mình, thì người ta xao lãng thật. Vì
thế các nhà văn phải giữ vững trận tuyến và sứ mệnh của mình.
Dinh Đặng