góp phần nâng cao hiệu quả công tác ngăn ngừa, xử lý vi phạm và bảo vệ môi trường ngày càng tốt hơn. Xuất phát từ tình hình nói trên, tác giả chọn đề tài “Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản- thực tiển tại tỉnh Cà Mau” làm chủ đề luận văn thạc sĩ luật học,
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản- thực tiển tại tỉnh Cà Mau
1. 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNGTRONG LĨNH VỰC
NUÔI TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN THỦY SẢN: THỰC TIỂN TẠI TỈNH
CÀ MAU
2. 2
Chuyên nghành: Luật Kinh Tế
Mã Số: (mã ngành không phải mã sinh viên)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
TP. Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2020
3. 3
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Hiện nay bảo vệ môi trường (BVNT) là mục tiêu hàng đầu của mỗi
quốc gia hướng đến.Một đất nước muốn phát triển bền vững thì yếu tố môi
trường phải được quan tâm đúng mức.Ô nhiễm môi trường đã và đang là vấn
đề mang tính toàn cầu, và Việt Nam không phải là ngoại lệ.Môi trường ảnh
hưởng rất lớn đến đời sống của con người, của sinh vật vàkinh tế, văn hoá, xã
hội của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Đặc biệt trong thời kỳ đất
nước ta đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nền kinh tế tri
thức thì bảo vệ môi trường càng trở nên cấp bách. Môi trường nói chung
không chỉ là vấn đề của hiện tại mà còn là của tương lai, chúng ta phải quan
tâm và chủ động giải quyết nhằm đảm bảo phát triển bền vững đất nước.
Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã giành được
nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
cùng với những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, vấn
đề môi trường đã và đang đặt ra những thách thức lớn. Bảo vệ môi trường
hiện nay là nghĩa vụ của tất cả các cá nhân, tổ chức ở nước ta và được pháp
luật ghi nhận và bảo vệ. Điều 50 Hiến pháp 2013 quy định:
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đạihóa đấtnước 1
1 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp,Nxb Sự thật,Hà Nội
4. 4
Hiến pháp 2013 ghi nhận ở Điều 63 như sau:
“Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu
quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa
dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí
hậu”2 .
Bên cạnh đó, Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41-NQ/TW ngày
15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước [6];Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
theo Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003; Quyết định số
153/2004/QĐ-TTgbanhành Địnhhướngchiến lượcpháttriển bền vững ở Việt
Nam (Chươngtrình nghị sự 21 của Việt Nam) do Chính phủ ban hành3[13],
chính là những tiền đề cơ bản khẳng định sự cần thiết của hoạt động BVMT ở
nước ta trong tiến trình hội nhập và phát triển. Ngoài ra, trong các văn bản
khác như LuậtBảovệ môi trường năm 2014 [47]; Bộ luật hình sự 2015, Luật
xử phạt vi phạm hành chính [45]; Bộ luật dân sự 2015 [49]và các Nghị định,
Thông tư hướng dẫn thi hành,… là tiền đề để nhà nước thống nhất quản lý
về công tác BVMT nói chung cũng như cũng như xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Phải nhìn nhận khách quan rằng từ khi Đảng và Nhà nước ta ban hành
chủ trương và pháp luật bảo vệ môi trường cho đến nay, chúng ta đã triển khai
thực hiện chủ trương và luật rộng khắp trong cả nước. Chính quyền các cấp,
các tổ chức đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội và cộng đồng ngày càng chú ý
hơn đến vấn đề bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong lĩnh vực nuôi trồng và
2 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp,Nxb Sự thật,Hà Nội
3 Chính phủ (2004), Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam(Định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam), Hà
Nội
5. 5
chế biến thủy sản. 4
Tại tỉnh Cà Mau, trên cơ sở đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về bảo vệ môi trường, chính quyền các cấp của tỉnh đã ban
hành các văn bản và triển khai thi hành pháp luật bảo vệ môi trường trong
lĩnh nuôi trồng và chế biến thủy sản. Nhìn chung, đã đạt được một số kết quả
nhất định, góp phần nâng cao trách nhiệm, ý thức của cộng đồng và xã hội
trong bảo vệ môi trường. Nhưng công tác thực hiện pháp luật bảo vệ môi
trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản còn bộc lộ nhiều hạn
chế, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền
vững. Chính vì vậy cần được tiếp tục nghiên cứu, đề ra các giải pháp hoàn
thiện chính sách, pháp luật về vấn đề BVMT nói chung và trong lĩnh vực nuôi
trồng và chế biến thủy sản nói riêng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác
ngăn ngừa, xử lý vi phạm và bảo vệ môi trường ngày càng tốt hơn. Xuất phát
từ tình hình nói trên, tác giả chọn đề tài “Thực thi pháp luật Bảo vệ môi
trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản- thực tiển tại tỉnh Cà
Mau” làm chủ đề luận văn thạc sĩ luật học, với mong muốn góp phần hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường trên
địa bàn tỉnh Cà Mau trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản trong giai
đoạn hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực thi pháp luật BVMT
trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản là một trong những nội dung
rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển bền vững ở nước ta.
Đồng thời nhằm đáp ứng công cuộc cải cách trong tình hình mới nên nghiên
4 Chính phủ (2004), Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam(Định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam), Hà
Nội
6. 6
cứu lĩnh vực thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến
thủy sản thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và chỉ đạo
thực tiễn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Lĩnh vực BVMT đã có
nhiều đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đã đề cập một cách trực
tiếp hoặc lồng ghép những nội dung liên quan. Các công trình Xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với doanh nghiệp trong khu
công nghiệp ở Việt Nam (Nguyễn Thị Bình, 2013, Luận văn thạc sĩ); Thực
hiện pháp luật môi trường ở tỉnh Nam Định (Nguyễn Thị Thu Hường, 2008,
Luận văn thạc sĩ) [23];Pháp luật về bảo vệ môi trường qua thực tiễn tại các
cơ sở sản xuất, kinh doanh ở tỉnh Cà Mau (Nguyễn Đức Đồng2018, luận văn
thạc sĩ luật học)Đinh Thị Mai Phương (2003), “Trách nhiệm dân sự trong lĩnh
vực môi trường của pháp luật Việt Nam”, bài viết trên Tạp chí nghiên cứu lập
pháp), Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường ở các làng nghề Việt
Nam (Lê Kim Nguyệt, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, năm
2012);Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (2020) NXB Kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh – các tác giả Hồ Viết Tiến – Từ Văn bình – Đặng Thị Mỹ Ngân;
Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do hoạt động của làng nghề gây
ra (Lê Kim Nguyệt, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2014); Tổng quan về Ô
nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam(Nhóm Ngân hàng thế giới, Báo cáo tóm tắt,
2017),Cơ sở pháp lý đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành ở
Việt Nam(Lê Kim Nguyệt, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng
10/2015);Một số vấn đề pháp lý đảm bảo quyền tiếp cận thông tin về môi
trường ở Việt Nam (Lê Kim Nguyệt, Tạp chí Thanh tra, số 01/2016); Trách
nhiệm của cơ quan nhà nước, cộng đồng dân cư trong kiểm soát ô nhiễm môi
trường làng nghề ở Việt Nam (Lê Kim Nguyệt, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
số chuyên đề tháng 01/2017);Kế hoạchsố: 60/KH-UBND Hành động phát
triển ngành tôm tỉnh cà mau đến năm 2025ngày 15/ 06/2018…là những công
7. 7
trình nghiên cứu, các bài viết trên ít nhiều đều đề cập đến vấn đề bảo vệ môi
trường ở nước ta dưới mọi góc nhìn của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
số lượng công trình nghiên cứu triển khai trực tiếp về nội dung thực thi pháp
luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản tại một địa phương
cụ thể còn khá khiêm tốn. Tác giả dự kiến nghiên cứu một cách toàn diện, có
hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề thực thi pháp luật BVMT trong
lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau giai đoạn
điều tra hiện nay. Do vậy, chưa tìm thấy bất kỳ một công trình khoa học nào
trùng lặp với đề tài luận văn mà tác giả lựa chọn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu chung
Những năm trở lại đây, vấn đềô nhiễm môi trường và bảo vệ môi
trường luôn được xã hội quan tâm. Chọn lĩnh vực thực thi pháp luật BVMT
trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản làm đối tượng nghiên cứu,
chúng ta có điều kiện đi sâu phân tích những quy định của pháp luật Việt
Nam và thực trạng thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế
biến thủy sản, khẳng định tính tất yếu khách quan của việc cần thiết nâng cao
hiệu quả xử lý các hành vi vi phạm pháp luật BVMT ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về thực thi pháp luật
BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản, tìm hiểu và đánh giá
đúng tình hình thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến
thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau trong những năm qua, Luận văn đề xuất
những phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến
thủy sản, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển bền vững kinh tế - xã hội tại
Cà Mau nói riêng và cả nước nói chung.
8. 8
3.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận
văn phải giải quyết các vấn đề sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận về thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh
vực nuôi trồng và chế biến thủy sản. Trong đó nêu lên khái niệm, giải thích vì
sao phải thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy
sản và trình bày yêu cầu và các yếu tố đảm bảo thực thi pháp luật BVMT
trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản.
Hai là,phântích,đánhgiá thực trạng thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh
vực nuôi trồngvà chếbiến thủy sản được quyđịnh trong hệ thống văn bản pháp
luật Việt Nam hiện hành.
Ba là, nêu và phân tích thực trạng thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh
vực nuôi trồng và chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau, trong đó chú
trọng các vi phạm đã xảy ra. Đánh giá thực trạng thực thi pháp luật BVMT
trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Tìm
hiểu các khiếm khuyết của pháp luật thực định về thực thi pháp luật BVMT
trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản, đồng thời tìm hiểu các nguyên
nhân của các khiếm khuyết đó. Từ đó, đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh vực
nuôi trồng và chế biến thủy sản trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận pháp luật chuyên sâu về thực thi
pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản ở Việt Nam
hiện nay và thực tiễn việc áp dụng các quy định của pháp luật thực thi pháp
luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh
9. 9
Cà Mau.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong các văn bản pháp luật về
BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản: Bộ Luật Hình sự, Bộ
luật dân sự, Luật bảo vệ môi trường và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn
thực hiện... Nội dung luận văn tác giả giới hạn trong vấn đề lý luận về thực thi
pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản được ghi
nhận tại pháp luật của Việt Nam. Phạm vi được giới hạn khảo sát của đề tài
luận văn là thực tiễn áp dụng pháp luật về thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh
vực nuôi trồng và chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau từ năm 2015
cho đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã
hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài.
Các phương pháp chủ yếu bao gồm: Phương pháp phân tích quy phạm để
đánh giá quy phạm, tính tích cực, bất cập, hướng sửa đổi hoàn thiện, tìm kiếm
ý tưởng của các nhà làm luật về hoàn thiện pháp luật; phương pháp phân tích
vụ việc để đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về BVMT trong lĩnh vực
nuôi trồng và chế biến thủy sản…; phương pháp phân loại pháp lý để nhận
dạng các loại vi phạm và hình thức xử lý vi phạm; phương pháp so sánh pháp
luật; phương pháp mô tả quy phạm và mô tả vụ việc nhằm so sánh pháp luật
Việt Nam với một số nước về pháp luật về bảo vệ môi trường trong nuôi
trồng và chế biến thủy sản; phương pháp mô hình hoá và điển hình hoá các
quan hệ xã hội nhằm giải quyết những vấn đề về thực thi pháp luật BVMT
trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản xuất phát từ yêu cầu của thực
tiễn, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
6. Tính mới và những thực tiễn đóng góp của đề tài
10. 10
Trên cơ sở kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu đã công
bố trong nước và quốc tế, luận văn đạt được những kết quả nghiên cứu có tính
mới như sau:
Phân tích, đưa ra các khái niệm tổng quát về pháp luật bảo vệ môi
trường và thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến
thủy sản như: Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết phải ban hành các quy định
về thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản ở
nước ta hiện nay.
Phân tích và luận giải một cách khoa học các nguyên tắc, căn cứ của
việc áp dụng các quy định của pháp luật về thực thi pháp luật BVMT trong
lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản; Đánh giá toàn diện tình hình thực thi
pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản trên địa bàn
tỉnh Cà Mau. Tìm ra các thiếu sót của hệ thống pháp luật về bảo vệ môi
trường và các nguyên nhân của các thiếu sót đó. Đề xuất một số phương
hướng, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản trong thời
gian tới.
7. Bố cục nội dung của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo
thì nội dung luận văn được chia thành ba chương, cụ thể là:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực thi pháp luật BVMT trong
lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản.
Chương 2: Thực trạng thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi
trồng và chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật BVMT trong
11. 11
lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC THI PHÁP LUẬT
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC NUÔI TRỒNG VÀ CHẾ
BIẾN THỦY SẢN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của môi trường và pháp luật bảo vệ môi
trường
12. 12
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của môi trường
Hiện nay khái niệm môi trường được nhìn nhận dưới các góc độ khác
nhau. Phần lớn các nhà nghiên cứu quan niệm rằng: Môi trường chính là tập
hợp các điều kiện và hiện tượng bên ngoài có ảnh hưởng tới sự sống. Tuy
nhiên một số nhà nghiên cứu cho rằng dùng thuật ngữ môi trường được hiểu
theo nghĩa như trên xét dưới góc độ nghiên cứu và pháp lý là không chính
xác.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về môi trường. Có thể kể đến một số
quan điểm như sau: Theo định nghĩa của S.V.Kalesnik (1959, 1970) môi
trường (được định nghĩa với môi trường địa lí) “chỉ là một bộ phận của trái
đất bao quanh con người, mà ở một thời điểm nhất định xã hội loài người có
quan hệ tương hỗ trực tiếp với nó, nghĩa là môi trường có quan hệ một cách
gần gũi nhất với đời sống và hoạt động sản xuất của con người” [70]. Trong
tài liệu “môi trường và tài nguyên Việt Nam đã đưa ra định nghĩa môi trường
là một nơi chốn trong số các nơi chốn, nhưng có thể là một nơi chốn đáng chú
ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kì hay một xã hội" [50]. Như vậy,
có thể nhận thấy khái niệm về môi trường xét theo nghĩa rộng là tất cả các
nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người,
như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan
hệ xã hội. Đối với nghĩa hẹp thì môi trường bao gồm các nhân tố tự nhiên và
xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống con người được nhận và
cần được bảo vệ.5
Xét dưới góc độ ngôn ngữ: Theo từ điển Tiếng Việt ghi nhận: Môi
trường là một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên ngoài của
5 Lê Kim Nguyệt (2014), “Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do hoạt động của làng nghề gây ra”,
Tạp chí dân chủ và pháp luật.
13. 13
một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng
và tình trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp, trong đó hệ
thống đang xem xét là một tập hợp con. Môi trường của một hệ thống đang
xem xét cần phải có tính tương tác với hệ thống đó. Hoặc môi trường là tập
hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới
con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: Không khí,
nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người… 6Môi trường là nơi xảy ra hiện
tượng hoặc diễn ra một quá trình, trong quan hệ với hiện tượng quá trình ấy
hoặc môi trường là toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó con
người hay một sinh vật tồn tại, phát triển, trong quan hệ với con người, với
sinh vật ấy. Nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật chất,
điều kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng
bao quanh khách thể này hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng
7[29, tr.790]. Những cách hiểu về môi trường như trên có đặc điểm chung là
xem xét môi trường là một hệ thống có sự tác động đến con người. Theo cách
hiểu thông thường, khái niệm về môi trường đa phần không quan tâm đến tác
động của nó là gì? Trên thực tế những tác động đó giữ vai trò như thế nào đối
với sự phát triển của xã hội hiện nay? Từ đó đưa ra một định nghĩa mang tính
chất tương đối về môi trường nói chung. Tuy nhiên, với định nghĩa của Từ
điển Tiếng Việt không chỉ quan tâm đến bản chất của môi trường gồm những
yếu tố nào mà còn quan tâm đến tác động của nó đến con người và xã hội.
Như vậy, dưới một góc độ nào đó, việc định hình một cách cơ bản khái niệm
về môi trường là điều hoàn toàn cần thiết, để từ đó, có thể áp dụng vào các
quy định của pháp luật nhằm thực hiện mục tiêu là quản lý một cách có hiệu
quả từ phía các cơ quan có thẩm quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6 Trung tâm từ điển học (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
7 Nhóm Ngân hàng thế giới (2017)“Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam”, Báo cáo tóm tắt.
14. 14
Dưới góc độ pháp lý, theo định nghĩa của UNESCO (1981) môi trường
của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con
người tạo ra (tập quán, niềm tin) trong đó con người sống và lao động, khai
thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình
[22]. Như vậy UNESCO đã lần đầu đưa ra một định nghĩa nhằm tạo nền tảng
cho việc hình thành một khái niệm cơ bản về môi trường của tổ chức giáo
dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc. Từ định nghĩa trên việc vận dụng
pháp điển hóa thành các quy định của mỗi quốc gia là khác nhau nhằm phù
hợp với sự nhìn nhận, văn hóa, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đó
nói chung.
Ở nước ta, Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định: Môi trường là hệ
thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại
và phát triển của con người và sinh vật8. Từ khái niệm trên, có thể đưa ra
những đặc điểm chung, cơ bản của khái niệm môi trường như sau:
Thứ nhất, môi trường được xem là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên
và nhân tạo. Đây là một đặc điểm mang tính đặc trưng của môi trường. Yếu tố
tự nhiên là yếu tố mang tính chất sẵn có, được hình thành và không chịu sự
tác động của con người. Yếu tố nhân tạo là có sự tác động của con người, hiểu
một cách cụ thể đó là do con người hình thành và phát triển. Các yếu tố tự
nhiên và nhân tạo có sự tác động qua lại, từ đó hình thành nên một hệ thống
có sự tác động vào các đối tượng ở bên trong nó.
Thứ hai, quá trình tác động vào sự tồn tại và phát triển của các đối
tượng. Việc các yếu tố tự nhiên và nhân tạo tác động vào sự tồn tại và phát
triển của những đối tượng bên trong nó là điều kiện cần thiết, thể hiện vai trò
8 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật bảo vệ môi trường, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
15. 15
quan trọng của yếu tố môi trường. Đồng thời, khẳng định tính tất yếu rằng tất
cả mọi sự vật hiện tượng luôn luôn chịu sự tác động của môi trường dù ít hay
nhiều hoặc dưới góc độ tự nhiên hoặc nhân tạo.
Thứ ba, chủ thể bị tác động đó là con người và sinh vật. Môi trường tác
động đến sự phát triển và tồn tại của con người và sinh vật. Tất cả các sinh vật
và con người luôn luôn chịu tác động của yếu tố môi trường và không có
trường hợp nào là ngoại lệ. Yếu tố môi trường tác động vào các chủ thể từ khi
hình thành và phát triển cũng như tồn tại của các chủ thể đó. Đây chính là đặc
trưng nổi bật của yếu tố môi trường so với các yếu tố khác trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của loài người.9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của một cá nhân mà là của
toàn xã hội. Hoạt động BVMT muốn đạt hiệu quả cao nhất thiết phải được
pháp điển hoá thành các quy phạm, các đạo luật. Mặc dù vậy, hiện nay khái
niệm pháp luật bảo vệ môi trường vẫn còn những cách hiểu khác nhau.
Trong những năm qua, đất nước ta đã và đang tiến hành công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, song song với phát triển kinh tế cũng cần ban hành
các quy định pháp luật trong lĩnh vực BVMT. Nhận thức rõ vai trò quan trọng
của hoạt động bảo vệ môi trường, các cơ quan NN có thẩm quyền đã hoạch
định, xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh. Có
thể nói rằng, phạm vi và đối tượng điều chỉnh cụ thể trong từng văn bản pháp
luật, các quan hệ về bảo vệ môi trường với luật chuyên ngành đã được xử lý
một cách hài hoà và ngày càng mang tính khả thi cao. Thông qua hoạt động
ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật chung và văn bản pháp luật
chuyên ngành khác có quy định về nghĩa vụ bảo vệ môi trường đã tạo nên nền
9 Nguyễn Ngọc Sinh (1984), Môi trường và tài nguyên Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật,Hà Nội
16. 16
tảng pháp lý cơ bản trong hoạt động BVMT, xây dựng và phát triển bền vững.
Dựa trên các phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm pháp luật bảo vệ môi
trường như sau: Pháp luật bảo vệ môi trường là tập hợp các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá
trình các chủ thể có hành vi khai thác, sử dụng hoặc tác động đến môi trường.
Đồng thời quy định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt
động bảo vệ môi trường. Pháp luật bảo vệ môi trường được cấu thành bởi hệ
thống quy phạm pháp luật được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp
luật khác nhau như: Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh cho đến những văn bản
hướng dẫn thi hành do Chính phủ, các Bộ, ban ngành hay chính quyền địa
phương ban hành.
1.1.3. Vai trò của pháp luật bảo vệ môi trường ở nước ta
Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong công
tác bảo vệ môi trường được thể chế hoá thành pháp luật bảo vệ môi trường –
trở thành công cụ hữu hiệu để quản lý và bảo vệ môi trường ở nước ta hiện
nay. Trên phương diện lý luận và thực tiễn, pháp luật bảo vệ môi trường có
các vai trò sau:
Một là, thông qua việc hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo vệ môi
trường sẽ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vấn đề này. Những quy
định của pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối
với lĩnh vực bảo vệ môi trường chính là cơ sở pháp lý cơ bản quy định về cơ
cấu, tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường. Việc hình thành hệ thống cơ quan quản lý môi trường nằm trong hệ
thống cơ quan nhà nước nói chung và được tổ chức thống nhất từ Trung ương
đến địa phương. Thông qua việc quy định chức năng của mình, các cơ quan
trên thực hiện hoạt động kiểm tra giám sát thường xuyên các chủ thể tham gia
17. 17
vào quan hệ pháp luật bảo vệ môi trường, kịp thời ngăn chặn, phát hiện và xử
lý những vi phạm đối với lĩnh vực mà mình quản lý.10
Hai là, vấn đề bảo vệ môi trường có vai trò to lớn, góp phần quan trọng
trong việc đảm bảo thực hiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia về bảo vệ
môi trường và là một trong những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước nói
chung. Bằng việc quy định cụ thể nội dung bảo vệ môi trường tại các văn bản
pháp lý hiện hành là tiền đề cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Hệ thống
văn bản pháp lý có vai trò không thể thay thế được trong việc đảm bảo thực
hiện các quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn về bảo vệ môi trường, đồng thời
đây cũng là cơ sở quy định chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước trong lĩnh vực BVMT.
Ba là, đối với xã hội, vấn đề bảo vệ môi trường có vai trò đặc biệt to lớn
trong xây dựng chiến lược phát triển bền vững của quốc gia. Môi trường được
bảo vệ tốt là yếu tố đảm bảo phát triển bền vững và ngược lại. Việc ban hành
các quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi
trường là cơ sở pháp lý cho việc cơ quan nhà nước thực hiện chức năng thanh
tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi
trường. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát được thực hiện thường xuyên, định
kỳ hoặc đột xuất dựa vào các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành, còn xử
lý vi phạm được áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có
những hành vi vô ý hoặc cố ý vi phạm các quy định của pháp luật bảo vệ môi
trường.
Bốn là, bảo vệ môi trường là lĩnh vực rộng lớn nên hoạt động QLNN về
bảo vệ môi trường tác động nhiều đến kinh tế và xã hội. Việt Nam hiện nay
10 Phạm Thị Ngọc Trầm (2006), Quản lý Nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền
vững dưới góc nhìn xã hội – nhân văn, Nxb Khoc học xã hội, Hà Nội.
18. 18
đang thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước nên cùng với quá
trình xây dựng thì việc bảo vệ môi trường ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý
nghĩa chính trị, xã hội rất quan trọng. Đặt hoạt động QLNN về bảo vệ môi
trường trong quá trình xây dựng và phát triển lên hàng đầu và trở thành nhiệm
vụ có ý nghĩa chiến lược, phù hợp với xu thế chung trên thế giới hiện nay.
Năm là, pháp luật bảo vệ môi trường có vai trò quan trọng trong việc
nâng cao nhận thức của xã hội trong lĩnh vực này. Những quy định về bảo vệ
môi trường có vai trò trong việc giáo dục, truyền thông để từ đó góp phần
nâng cao nhận thức của xã hội về vấn đề xây dựng và phát triển trong môi
trường lành mạnh, an toàn và trong sạch. Góp phần quan trọng trong việc phát
triển nền kinh tế - xã hội một cách bền vững ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Sáu là, pháp luật về BVMT có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho
con người được sống trong môi trường trong lành. Để tồn tại và phát triển con
người đã tác động nhiều vào thiên nhiên để phục vụ cho các nhu cầu của
mình. Các cuộc cách mạnh KHKT với nhiều thành quả quan trọng đã làm
cuộc sống con người có nhiều biến đổi. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
tích cực thì con người cũng đứng trước những thách thức to lớn như biến đổi
khí hậu, nước biển dâng, núi lửa phun trào, ÔNMT… ảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội
của quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, việc tập trung xây dựng và phát
triển nền kinh tế đã để lại những tác nhân ảnh hưởng trực tiếp lên môi trường
sống nói chung. Do đó, nhận thức được vai trò quan trọng của việc hình thành
và phát triển một môi trường xanh – sạch – đẹp không chỉ riêng ở nước ta mà
còn chung của thế giới chính là tiền đề bảo đảm thực hiện những nguyên tắc
19. 19
cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam, trong đó có nguyên tắc
“bảo đảm và ghi nhận quyền được sống trong môi trường trong lành của con
người” 11. Điều này là hoàn toàn phù hợp với Tuyên bố của Hội nghị Liên
Hợp Quốc về môi trường và con người (Hội nghị Stockhom năm 1972) nêu
rõ: “Con người có quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và được hưởng đầy đủ
các điều kiện sống trong một môi trường chất lượng cho phép cuộc sống có
phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm trong bảo vệ và cải thiện
cho các thế hệ hôm nay và mai sau” và trong một số Tuyên bố của các tổ chức
thế giới về vấn đề bảo vệ môi trường. Như vậy, thông qua việc ban hành và
hoàn thiện khung pháp lý cũng như quá trình thực hiện pháp luật bảo vệ môi
trường một cách chặt chẽ và có hiệu quả đã góp phần trong việc bảo đảm
quyền được sống trong một môi trường với chất lượng đạt tiêu chuẩn cho
phép, cuộc sống được bảo đảm lành mạnh, hữu ích và được hài hòa với môi
trường thiên nhiên của con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.12
1.2. Khái niệm, nội dung và vai trò của thực thi pháp luật BVMT
trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của việc vi phạm pháp luật bảo vệ môi
trường và thực thi pháp luật BVMT trong lĩnh vực nuôi trồng và chế
biến thủy sản
1.2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của một cá nhân mà của
toàn xã hội. BVMT là nội dung quan trọng trong xây dựng và phát triển đất
nước. Theo từ điển Luật học: Vi phạm pháp luật được xem xét dưới hai nghĩa:
11 Lê Văn Nãi (1999), Bảovệ môi trường trong xây dựng cơ bản, Nxb khoa học và kỹ thuật,Hà Nội
12 Chính phủ (2004), Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam(Định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam),
Hà Nội.
20. 20
“Nghĩa rộng: Là các việc làm sai trái pháp luật nói chung.
Nghĩa hẹp: Là các việc sai trái chưa cấu thành tội phạm và thường được
gọi là vi phạm hành chính”.
Khái niệm vi phạm pháp luật nói chung được coi là một trong các khái
niệm cơ bản và quan trọng của pháp luật Việt Nam. Hệ thống pháp luật nước
ta căn cứ vào mức độ hành vi vi phạm của từng ngành luật chuyên ngành mà
đưa ra những mức xử lý tùy vào mức độ của các hành vi trên. Ví dụ: Luật
hình sự xác định hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới
các khách thể được luật hình sự bảo vệ và quy định các hình thức xử lý với tư
cách là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất để áp dụng đối với người
phạm tội. Hoặc đối với Luật xử phạt vi phạm hành chính thì mức độ vi phạm
được đánh giá là nhẹ hơn sẽ được áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính
tương thích đối với các hành vi đó. Tuy rằng, đây là một khái niệm quan trọng
nhưng cho tới nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể để xác
định khái niệm về vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Khái niệm này chỉ
được nghiên cứu dưới góc độ là một khái niệm khoa học về lý luận pháp lý
nói chung của các nhà nghiên cứu.
Xuất phát từ đặc thù cũng như vai trò và sự cần thiết bảo vệ môi trường,
Luật môi trường 2014 và các văn bản pháp luật có liên quan đã quy định về
các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Song do các hành vi vi
phạm pháp luật bảo vệ môi trường là vô cùng đa dạng, được thể hiện dưới các
hình thức khác nhau nên việc đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường là chưa từng được đề cập. Mặc dù vậy, qua phân
tích nêu trên có thể đưa ra một khái niệm cơ bản về vấn đề này như sau: Vi
phạm pháp luật bảo vệ môi trường được hiểu là những hành vi vi phạm các
quy định của nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường do cá nhân, tổ chức
21. 21
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý và được các văn bản pháp luật quy định cụ
thể trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Theo khái niệm trên, vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường có những đặc điểm sau:
Mã tài liệu : 600470
Tải đầy đủ luận văn theo 2 cách :
- Link tải dưới bình luận .
- Nhắn tin zalo 0932091562