*Việt Nam đã và đang tham gia 16 FTA (Theo báo cáo của Chính phủ do Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh ký gửi Thường vụ Quốc hội ngày 21-12-2016).
Tính đến nay Việt Nam đã ký kết và thực thi 10 FTA, kết thúc đàm phán 2 FTA, và đang đang đàm phán 4 FTA khác.
Trong 10 FTA đã ký kết và thực thi có 6 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN (gồm AFTA- Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, 5 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc (ACFTA), Hàn Quốc (AKFTA), Ấn Độ (AIFTA), Nhật Bản (AJCEP), Úc và New Zealand (AANZFTA)), 4 FTA ký kết với tư cách là một bên độc lập : FTA Việt Nam-Chile VCFTA, Việt Nam-Nhật Bản VJFTA, Việt Nam- Hàn Quốc VKFTA, Việt Nam-Liên minh kinh tế Á-Âu VN-EAEU FTA.
Hai FTA đã kết thúc đàm phán là FTA với Liên minh châu Âu EVFTA, và Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Bốn FTA còn lại đang được đàm phán bao gồm: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA ASEAN- Hồng Kông, FTA với Israel và FTA
Beginners Guide to TikTok for Search - Rachel Pearson - We are Tilt __ Bright...
Bt chương 5.3. fta và vải nhập khẩu
1. Bài tập 5.3. (nguồn tham khảo: http://www.trungtamwto.vn)
1. Các liên kết kinh tế và FTA Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán:
*Việt Nam đã và đang tham gia 16 FTA (Theo báo cáo của Chính phủ do Bộ
trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh ký gửi Thường vụ Quốc hội ngày 21-12-
2016).
Tính đến nay Việt Nam đã ký kết và thực thi 10 FTA, kết thúc đàm phán 2
FTA, và đang đang đàm phán 4 FTA khác.
Trong 10 FTA đã ký kết và thực thi có 6 FTA ký kết với tư cách là thành viên
ASEAN (gồm AFTA- Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, 5 FTA giữa ASEAN với
các đối tác Trung Quốc (ACFTA), Hàn Quốc (AKFTA), Ấn Độ (AIFTA), Nhật Bản
(AJCEP), Úc và New Zealand (AANZFTA)), 4 FTA ký kết với tư cách là một bên
độc lập : FTA Việt Nam-Chile VCFTA, Việt Nam-Nhật Bản VJFTA, Việt Nam-
Hàn Quốc VKFTA, Việt Nam-Liên minh kinh tế Á-Âu VN-EAEU FTA.
Hai FTA đã kết thúc đàm phán là FTA với Liên minh châu Âu EVFTA, và Hiệp
định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Bốn FTA còn lại đang được đàm phán bao gồm: Hiệp định đối tác kinh tế toàn
diện khu vực (RCEP), FTA ASEAN- Hồng Kông, FTA với Israel và FTA với Khối
thương mại tự do châu Âu (EFTA).
*Các liên kết kinh tế Việt Nam tham gia (tính từ 1986 đến nay)
+ 7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN;
+ 1/1/1996, Việt Nam tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN- AFTA;
+ 3/1996, Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á-Âu ASEM (Asian-
Europe Meeting);
+ 1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái
Bình Dương APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation);
+ 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương
mại thế giới WTO (World Trade Organization);
+ 31/12/2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN AEC (ASEAN Economic
Community) chính thức được thành lập;
2. 2. Nếu bạn là doanh nghiệp cần nhập khẩu vải để làm hàng xuất khẩu sang
Hàn Quốc, Bạn xem xét lựa chọn thị trường như thế nào? (dựa trên yếu
tố nào?)
Việt Nam và Hàn Quốc hôm 5-5-2015 chính thức ký VKFTA, hai nước đã triển
khai thủ tục phê duyệt nội bộ tại mỗi nước. Hôm 16-1, Bộ Ngoại giao Việt Nam và
Hàn Quốc đã trao đổi công hàm về ngày hiệu lực của Hiệp định VKFTA, và thống
nhất chọn ngày 20-12-2015. Theo nội dung cam kết, hầu hết các mặt hàng dệt, may
từ Việt Nam vào Hàn Quốc được đưa thuế suất về 0% ngay khi hiệp định có hiệu
lực, thay vì từ 8-13% như hiện nay. Tuy nhiên, do nguồn vải nguyên liệu trong
nước còn khan hiếm, đa phần các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may trong nước
đang sử dụng phần lớn nguồn vải nhập từ nước ngoài. Trong VKFTA cũng có quy
định về xuất xứ hàng hóa (Chương 3 VKFTA), như vậy để được hưởng lợi từ
VKFTA, các doanh nghiệp sản xuất hang dệt may cần cân nhắc rất kĩ trong việc lựa
chọn thị trường cung cấp vải nguyên liệu. Việc xem xét này là cả một quá trình và
dựa trên nhiều yếu tố khác nhau, dưới đây chúng tôi xin dẫn ra một số yếu tố điển
hình mà đa phần các nhà sản xuất cần phải xem xét:
Thứ nhất là vấn đề nguồn gốc, xuất xứ của vải nguyên liệu như thế nào thì phù
hợp? Khi đánh đồng các tiêu chí về chất lượng, giá xuất khẩu; vải nhập khẩu từ Hàn
Quốc sẽ có giá thấp hơn so với các nước khác nhờ ưu đãi thuế quan, có thể xem đây
là một giải pháp lâu dài. Thế trường hợp giá nhập khẩu từ Hàn Quốc cao hơn nước
khác (như Trung Quốc) đồng thời nếu nhận thấy nếu áp mức thuế cũ vẫn có lợi hơn
nhập từ HQ thì đây cũng là một hướng khả thi. Bên cạnh VKFTA, chúng ta còn có
AKFTA (FTA ASEAN-Hàn Quốc) cũng có nhiều ưu đãi về thuế quan đối với hang
dệt may, khi này doanh nghiệp nên xem xét nếu dùng nguyên liệu nhập từ các nước
thành viên ASEAN để sản xuất và xuất sang HQ hưởng ưu đãi theo AKFTA có lợi
hơn không so với VKFTA.
Thứ hai là hướng chủ động nguồn nguyên liệu trong nước liệu có khả thi hơn
không? Nói đến câu hỏi này, chúng tôi lại nhớ đến câu chuyện “xuất thô, nhập tinh”
của nền kinh tế Việt Nam, nguyên liệu dệt may cũng coi như một ví dụ điển hình,
nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất sợi, dệt vải, chúng ta cũng xem như có thể
chủ động được (bông, tơ tằm,…) tuy nhiên nền công nghiệp hỗ trợ trong nước vẫn
chưa có cơ hội để phát triển, nguồn nguyên liệu thô đành ngậm ngùi “vượt biên”
đến nước bạn, nhờ vào nền công nghiệp tiên tiến của họ, những “cha, mẹ gốc Việt”
đã sản sinh ra những “đứa con Made in nước ngoài” rồi thì chúng trở lại quê hương
để góp sức mình xây dựng và phát triển đất nước, tiếp đến những đứa cháu được ra
đời bị thế giới cho là “con lai”, chúng không được công nhận là “công dân” Việt
Nam thuần túy. Trên đây là câu chuyện thường thấy. Ở đây chúng tôi đặt ra câu hỏi
là liệu doanh nghiệp có mạnh dạn đầu tư phát triển các nhà máy sản xuất sợi, vải
nguyên liệu để chủ động nguồn nguyên liệu không? Câu trả lời thường nghe là
chúng tôi đang cân nhắc, chúng tôi đang gặp khó khăn về tài chính,… Chúng tôi
cho rằng, không những doanh nghiệp mà Chính phủ cũng cần xem xét đến khía
cạnh này. Mặc dù biện pháp này trong ngắn hạn nhiều khả năng vừa không mang lại
3. lợi nhuận mà còn đội chi phí của doanh nghiệp lên cao rất cao, nhưng nếu có tầm
nhìn trong dài hạn, giả pháp này vừa mang lại sự phát triển chủ động bền vững lâu
dài cho nền dệt may nói riêng, nền công nghiệp và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Đó là một minh chứng hữu hiệu cho cái mác “Made in Vietnam” đúng nghĩa.
Thứ ba là bên cạnh các yếu tố về nguồn gốc, xuất xứ hay vấn đề tự chủ nguồn
vải nguyên liệu, các nhà sản xuất hang dệt may xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc
cũng cần cân nhắc kĩ lưỡng các yếu tố khác như: chất lượng nguồn vải nguyên liệu,
thuế quan xuất- nhập khẩu đối với mặt hàng nào đó từ một thị trường, mức độ than
thiết giữa hai nền kinh tế, có hiệp định thương mại hay cam kết nào cho sản phẩm
đó không, chi phí vận chuyển như thế nào thì phù hợp,…