SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 92
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ
TIỂU THUYẾT
“HOA HẬU XỨ MƯỜNG”VÀ “VƯƠNG QUỐC ẢO ẢNH”
CỦA PHƯỢNG VŨ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MẠNH TIẾN
Hà Nội - năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của thầy giáo TS. Nguyễn Mạnh Tiến hướng dẫn.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học cũng như nội dung trích dẫn các
tài liệu Luận văn
Hà Nội, ngày 18 tháng 8 năm 2019
Học viên
Nguyễn Thị Ngọc Hà
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo trong
Học viện khoa học xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học
tập tại Học viện.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy, cô giáo trong khoa Văn học, cung cấp cho tôi
những kiến thức quý báu trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến thầy TS.
Nguyễn Mạnh Tiến, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo và luôn
động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Sự chỉ bảo tận tâm của thầy đã
mang lại cho tôi hệ thống các phương pháp, kiến thức cũng như kỹ năng hết sức quý
báu để hoàn thiện đề tài một cách tốt nhất.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn những người thân, gia đình và bạn bè,
cơ quan nơi tôi công tác đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi để tôi có thể học tập đạt kết
quả tốt và thực hiện thành công luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 8 năm 2019
Học viên
Nguyễn Thị Ngọc Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1 MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC – VĂN HÓA VÀ TÁC GIẢ
PHƯỢNG VŨ ............................................................................................................6
1.1. Hướng tiếp cận văn hóa .......................................................................................6
1.2. Khái lược sáng tác của Phượng Vũ....................................................................21
Chương 2 VĂN HÓA TỘC NGƯỜI TRONG HAI TIỂU THUYẾT CỦA
PHƯỢNG VŨ ..........................................................................................................29
2.1. Quan điểm, triết lí văn hóa của nhà văn Phượng Vũ .........................................29
2.2. Xứ Mường Hòa Bình .........................................................................................31
2.3. Không gian văn hóa Mường Hòa Bình ..............................................................34
2.4. Con người văn hóa .............................................................................................43
Chương 3 CÁC BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA VÀ NGÔN NGỮ TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA PHƯỢNG VŨ...............................................................................55
3.1. Các biểu tượng văn hóa......................................................................................55
3.2. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Phượng Vũ ......................................................67
3.3. Giọng điệu trong tiểu thuyết của Phượng Vũ ....................................................76
KẾT LUẬN..............................................................................................................81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học là một hiện tượng văn hóa, những tác phẩm văn học tiêu biểu cho
những giá trị văn hóa dân tộc, cốt tính dân tộc. Văn học có khả năng nhận thức, phản
ánh, truyền tải, lưu giữ, kiến tạo các giá trị văn hóa và nâng văn hóa lên tầm cao mới.
Mối quan hệ văn học - văn hóa là mối quan hệ gắn bó khăng khít và không thể tách rời
như trên với dưới, như trong với ngoài. Ở mỗi dân tộc, mỗi vùng đất trên thế giới đều
xây đắp cho mình bản sắc văn hóa riêng. Bản sắc văn hóa của dân tộc nào là chính
gương mặt của dân tộc đó và được thể hiện qua những tác phẩm văn học cụ thể.
Hướng tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa không phải là một hướng
tiếp cận mới, nói như Đỗ Lai Thúy “cũ như trái đất”. Nhưng, so với các hướng tiếp cận
khác thì đây vẫn là một hướng tiếp cận tác phẩm văn học ra đời muộn hơn ở nước ta.
Tuy nhiên, văn học từ góc nhìn văn hóa giúp chúng ta có khả năng khai thác sâu giá trị
nội tại của các tác phẩm, có cái nhìn vừa bao quát, sâu sắc toàn diện về đời sống văn
hóa của cả cộng đồng dân tộc. Vì thế, các nhà nghiên cứu thấy được tính khả dụng của
nó đã chọn cách tiếp cận này để hiểu sâu về văn hóa của các vùng, miền qua văn học.
Muốn tìm hiểu về người Mường, nhất là vùng Mường Hòa Bình tôi đã chọn
cách tiếp cận văn hóa qua tác phẩm văn học chính là một cách mở chìa khóa vào
nền văn hóa Việt – Mường có ảnh hưởng rất lớn với quốc gia Việt Nam đa tộc
người. Văn chương viết về xứ Mường, ở những tác phẩm đỉnh cao, đồ sộ có những
đóng góp không thể bỏ qua mà Phượng Vũ chính là một tiểu thuyết gia tiêu biểu nhất
đã thành công khi viết về người Mường và xứ Mường. Với hai tác phẩm lớn là Hoa
hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh, Phượng Vũ đã kể về những sự kiện và nhân
vật ở xứ Mường trước và sau những ngày Cách mạng tháng 8/1945, kéo dài đến
1954, thời khắc quan trọng khi giới lang đạo cai trị vùng Mường đã sụp đổ hoàn toàn.
Xứ Mường sau đó bước vào chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa. Tác giả đã xây
dựng được một bức tranh văn hóa Mường rộng lớn, với một số nhân vật sinh động có
nội tâm và tính cách riêng, nhất là về bản chất của giới quan lang, xã hội với những
luật lệ hà khắc đè nặng lên cuộc sống và tâm hồn người nông dân miền núi.
2
Tác phẩm thông qua phản ánh sự biến chuyển cách mạng trong các tầng lớp
quần chúng nông dân Mường trong và sau cách mạng tháng 8. Quá trình của những
cán bộ Việt Minh, cán bộ Đảng thâm nhập vào quần chúng nhân dân, những người
nông dân Mường đã trưởng thành, trở thành cốt cán của phong trào, có khả năng
đương đầu với bọn quan lang âm mưu khôi phục lại "uy quyền”của quan lang ở nơi
đây. Thông qua câu chuyện lịch sử đầy biến cố về xứ Mường,tiểu thuyết của
Phượng Vũ đã tái hiện lại sinh động địa lý phong tục vùng Mường Hòa Bình, một
bức tranh sinh hoạt thường ngày, tâm tình con người Mường… mà thông qua đó,
người đọc có được hiểu biết về xứ Mường. Tiểu thuyết của Phượng Vũ đã làm rất
tốt công việc của văn chương dân tộc chí.
Mặc dù với hàng ngàn trang viết sâu sắc về người Mường, xứ Mường được giới
dân tộc học đánh giá cao và coi như tư liệu tham khảo, nhưng tiểu thuyết của Phượng
Vũ lại chưa hề có một nghiên cứu chuyên sâu và công phu nào về ông và tác phẩm của
ông. Vì vậy, đề tài này tôi tiến hành nghiên cứu, nhằm ít nhiều đóng góp vào sự hiểu
biết về văn hóa Mường qua tác phẩm của Phượng Vũ, đóng góp vào nghiên cứu nền
văn chương dân tộc chí còn ít được để ý ở Việt Nam hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Nghiên cứu về văn học ở góc nhìn văn hóa đã được hình thành và phát
triển trên thế giới đã lâu, hướng nghiên cứu này nảy sinh từ những năm 50 ở
Anh,Đức,Pháp sau đó lan sang Úc, Mĩ, Canada,…Nghiên cứu trọng tâm hơn của
E.B. Tylor trong cuốn Văn hóa nguyên thủy xuất bản tại London năm 1871 đến
những nghiên cứu của Kroeber và C.Kluckhohn năm 1952, đưa ra những quan điểm
về văn hóa trong cuốn sách: Văn hóa – tổng luận phê phán các quan điểm và định
nghĩa. Đến nghiên cứu của M.Bakhtin về văn hóa văn học trong những công trình
tiêu biểu của ông như Sáng tác của François Rabelais và văn hóa dân gian thời
Trung cổ và Phục hưng (1965) đã khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa và
văn học. Phương pháp nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ngày càng nhận được
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa, văn học trên
thế giới.
2.2 Ở Việt Nam các tác giả như: GS. Đặng Thai Mai, GS. Đào Duy Anh,
GS. Nguyễn Văn Huyên, nhà phê bình văn học Hoài Thanh, GS. Phan Ngọc, GS.
3
Trần Đình Hượu, GS. Phạm Vĩnh Cư, GS. Trần Đình Sử, … đã đặt những nền móng
đầu tiên cho việc nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa khi xem tác phẩm như một
cấu trúc văn hóa, kí hiệu văn hóa, văn bản của văn hóa và đặt trong mối tương quan
so sánh với văn hóa. Hiện nay nhà nghiên cứu phê bình văn học Đỗ Lai Thúy cũng đi
theo hướng phê bình dưới góc độ văn hóa có phần sáng tạo và sinh động hơn làm tiền
đề cho những nghiên cứu trẻ sau này.
Nhờ có những công trình mở đường của các bậc tiền bối về văn học từ góc
nhìn văn hóa mà sau này có nhiều người nghiên cứu mạnh dạn áp dụng phương
pháp tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa cho các công trình nghiên cứu của mình
như: Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, PGS. TS Lê Nguyên Cẩn, Nxb
Thông tin và Truyền thông, 2011; Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hóa, Luận án
Tiến sĩ, Lương Minh Chung, Học viện Khoa học Xã hội, 2012; Văn chương Vũ
Bằng dưới góc nhìn văn hóa, Luận án Tiến sĩ, Đỗ Thị Ngọc Chi, Học viện Khoa
học Xã hội, 2013; Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa qua trường hợp tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh, luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Phùng Phương Nga, Học viện
Khoa học Xã hội, 2017.
2.3 Phượng Vũ (Nguyễn Phương Tú) từ một thầy giáo với niềm đam mê
sáng tác văn chương, ông đã đến với văn học và có nhiều đóng góp ở nhiều thể loại.
Tác phẩm đầu tay của ông là Người nữ trưởng ga đạt giải ba trong cuộc thi sáng tác
văn chương do Tạp chí Văn nghệ tổ chức. Sau này, ông sáng tác nhiều truyện ngắn
khác và thành tập có tên như: Người mẹ và những đứa con (NXB Hội nhà văn 1996).
Nếu như tác phẩm Người nữ trưởng ga kể về sự trưởng thành và quyết tâm tự khẳng
định mình của một cô gái miền Nam tập kết, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp
của mình thì bộ tiểu thuyết Đất Mường với hai quyển Hoa hậu xứ Mường và Vương
quốc ảo ảnh, Phượng Vũ cho người đọc những số phận người dân miền núi vượt lên
trên hoàn cảnh với những luật lệ hà khắc của chế độ lang đạo, thực dân để giải phóng
chính mình. Qua đó, ta thấy sự chuyển biến cách mạng trong tầng lớp quần chúng
trong và sau Cách mạng Tháng 8. Nhờ sự soi sáng của Đảng và cách mạng có những
người dân đã giác ngộ sớm và trở thành cốt cán của phong trào cách mạng của vùng
Mường Hòa Bình.
4
Phượng Vũ đã có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học nước nhà, là
người thúc đẩy nêu gương cho phong trào sáng tác, là người in dấu đậm nét cho nền
văn học viết về cuộc sống mới, con người mới đặc biệt vùng dân tộc Mường Hòa
Bình. Những trang viết của ông đã phản ánh được mặt xấu của xã hội từ truyện
ngắn đến tiểu thuyết đồng thời cũng có những ca ngợi những nhân vật có ý chí, nghị
lực vượt lên trên những khó khăn trước mắt, hòa mình trong nhưng không khí cách
mạng chung của dân tộc để giải phóng bản làng, đất nước.
Tuy có những đóng góp như thế nhưng những nghiên cứu, bài viết về sáng
tác Phượng Vũ còn hạn chế - mới chỉ một số bài bài báo nhỏ lẻ, chưa có những
nghiên cứu chuyên sâu, xứng tầm về sáng tác của ông. Với đề tài này tôi mong
muốn đóng góp chút công sức để hiểu sâu hơn về sáng tác của Phượng Vũ nhìn từ
góc độ văn hóa qua hai tiểu thuyết quan trọng Hoa hậu xứ Mườngvà Vương quốc ảo
ảnh.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài: Tiểu thuyết “Hoa hậu xứ Mường”và“Vương quốc ảo ảnh”của
Phượng Vũ nhìn từ góc độ văn hóa” được triển khai nhằm những mục đích chính sau:
- Giới thiệu khái quát về tiểu sử và con đường văn chương của tác giả
Phượng Vũ.
- Khẳng định mối quan hệ giữa văn hóa - văn học.
- Hiểu về văn hóa xứ Mường thông qua hai sáng tác của nhà văn.
- Khẳng định nét độc đáo các biểu tượng văn hóa và ngôn ngữ trong sáng tác
tiểu thuyết của Phượng Vũ.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Hai tiểu thuyết“Hoa hậu xứ Mường”và “Vương quốc ảo ảnh”của Phượng
Vũ.
- Con người và văn hóa Mường Hòa Bình
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng kết hợp các phương pháp chính sau:
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Nhìn từ văn hóa để tìm thấy những mối
quan hệ phức hợp giữa văn hóa và văn học, sử dụng tri thức văn hóa để minh giải
các nội dung phản ánh văn học, ở đây là hai tiểu thuyết của Phượng Vũ.
5
- Phương pháp thi pháp học: để nhìn thấy bản chất sáng tạo nghệ thuật, cách
xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Phượng Vũ.
- Phương pháp so sánh: So sánh dữ liệu văn hóa được phản ánh trong tiểu
thuyết với các tư liệu dân tộc học, sử học về xứ Mường Hòa Bình.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Để lí giải các hiện tượng văn học từ
văn hóa, luận văn tất yếu cần vận dụng kết hợp tri thức liên ngành như văn hóa học,
nhân học, ngôn ngữ học, xã hội học…
6. Đóng góp của luận văn
- Ý nghĩa lí luận: Tiếp tục phát triển và khẳng định tính khả dụng của hướng
nghiên cứu văn học nhìn từ góc độ văn hóa, nghiên cứu văn học như một sự kiện xã
hội tổng thể.
- Về thực tiễn:
+ Tìm hiểu về vùng đất, con người, văn hóa Mường và hai tiểu thuyết của
Phượng Vũ “Hoa hậu xứ Mường”và “Vương quốc ảo ảnh”.
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những
nhà nghiên cứu, nhà giáo hoặc sinh viên, học sinh cũng như các bậc phụ huynh quan
tâm tới sáng tác của Phượng Vũ và văn chương viết về tộc người thiểu số.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết thúc và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn
triển khai thành 3 chương như sau:
Chương 1: Mối quan hệ giữa văn học – văn hóa và tác giả Phượng Vũ
Chương 2: Văn hóa tộc người trong hai tiểu thuyết của Phượng Vũ
Chương 3: Các biểu tượng văn hóa và ngôn ngữ trong tiểu thuyết của
Phượng Vũ.
6
Chương 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC – VĂN HÓA VÀ TÁC GIẢ PHƯỢNG VŨ
1.1 Hướng tiếp cận văn hóa
1.1.1 Tiếp cận văn học từ văn hóa
Đã từ rất lâu, văn học đã từng tồn tại dưới dạng nguyên hợp, bất phân giữa
văn và tôn giáo, tín ngưỡng, triết học, sử hoc, trên nhữngbình diện tư tưởng và tình
cảm. Vì thế, văn học luôn tồn tại những yếu tố văn hóa. Như PGS.TS Đoàn Đức
Phương khẳng định trong chuyên luận Phương pháp nghiên cứu văn học, phương
pháp tiếp cận văn hóa học là vận dụng những tri thức về văn hóa để nhân diện và
giải mã các yếu tố thi pháp của tác phẩm. Còn Trần Nho Thìn viết trong cuốn
Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng dạy văn học như sau:
“Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa không đơn giản chỉ dừng lại ở việc giải
mã các nghĩa của biểu tượng mà chủ yếu phải phân tích đời sống của biểu tượng
trong xã hội, trong văn học, phân tích sự vận động của biểu tượng trong tiến trình
lịch sử. Đến lượt mình, biểu tượng không tồn tại độc lập mà thể hiện quan niệm về
nghĩa, về giá trị của mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi tầng lớp”[37, tr.29]. Như vậy,
nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa không chỉ tìm đến các biểu tượng để nhận
diện giải mã mà biểu tượng luôn tồn tại các quan niệm về nghĩa, về về giá trị của
thời đại dân tộc, tầng lớp nữa, từ đó chúng ta đặt ra nhiệm vụ đối chiếu so sánh truy
nguyên các quan niệm văn hóa ở các thời đại, ở những thời điểm lịch sử nơi mà sản
sinh ra tác phẩm và để tìm nguồn gốc của dạng thức quan niệm về con người, về
không gian, thời gian được thể hiện trong tác phẩm văn học. Vậy, khi nghiên cứu,
chúng ta xem xét, đánh giá một hiện tượng văn học, thì phương pháp tiếp cận văn
hóa học có những tiêu chí tương ứng về quan niệm, xã hội, các kiểu hình tượng xã
hội được thể hiện trong văn học. Bên cạnh quan niệm xã hội, và các kiểu hình tượng
xã hội thì không gian tồn tại của con người dưới góc độ văn hóa, quan hệ của con
người với thiên nhiên và các hình tượng thiên nhiên, quan niệm về con người gắn
với hoàn cảnh cụ thể cũng được nghiên cứu xem xét. Thế nên, văn học tồn tại
những yếu tố văn hóa là có từ rất lâu và việc nghiên cứu văn học dưới góc độ văn
hóa là rất cần, nó cũng xuất hiện từ lâu như Đỗ Lai Thúy viết trong cuốn phê bình
văn học Con vật lưỡng thê ấy trong mục Phê bình văn học từ hệ thống văn hóa ông
có viết: “Phê bình văn học từ văn hóa, tự thân nó, là một câu chuyện cũ”[5, tr.241].
7
Nhà nghiên cứu nói “cũ như trái đất” quả là rất đúng, bởi nghiên cứu và phê bình
văn học từ hệ thống văn hóa không phải là mới mà đây chính là làm mới một đề tài
cũ, và đây không phải là thay đổi bản thân vấn đề mà thay đổi cái nhìn về nó, về
văn học từ hệ thống văn hóa.
Văn hóa là sức sống nội tại của mỗi dân tộc. Một nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc là biểu hiện cao nhất của tinh thần độc lập tự chủ, là tiềm năng sáng tạo vô hạn
của dân tộc đó. Văn hóa Mường được thể hiện trong tác phẩm văn học Việt Nam cũng
vậy. Bởi qua những tác phẩm văn học, văn hóa Mường đã hiện lên làm phong phú cho
nền văn học dân tộc ở nhiều mảng khác nhau cả về tinh thần và vật chất.
Văn hóa (Trong tiếng Anh và tiếng Pháp là Culture) là khái niệm mang nội
hàm rộng có rất nhiều cách hiểu và cách lý giải khác nhau, liên quan đến mọi mặt
đời sống vật chất, tinh thần của con người. Người ta có thể hiểu văn hóa như một
hoạt động sáng tạo của con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hóa như là lối sống,
thái độ ứng xử, lại cũng có thể hiểu văn hóa như một trình độ học vấn.
Theo định nghĩa văn hóa của UNESCO: “Văn hóa là tổng thể những nét
riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một
xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống và giá
trị, tập tục và tín ngưỡng”[35, tr.10].
Khái niệm văn hóa được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, văn hóa đều
là đặc trưng của văn hóa tộc người. Theo nghĩa rộng, văn hóa là tổng thể các thành
tựu, những giá trị vật chất và tinh thần do các cộng đồng dân tộc sáng tạo ra trong
quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo tự nhiên và phát triển xã hội, nhằm đảm bảo
nhu cầu cuộc sống của con người.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu, theo chiều rộng, hoặc
theo không gian, hoặc theo thời gian…giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là
những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hóa như: ăn ở, tục lệ…Còn văn hóa
nghệ thuật như: múa hát, hội họa, …) còn giới hạn theo chiều rộng, văn hóa dùng để
chỉ trong từng lĩnh vực( văn hóa kinh doanh, văn hóa ứng xử, văn hóa đọc…). Giới
hạn theo không gian, văn hóa được dùng chỉ các đặc thùở các vùng, miền khác nhau
(miền Bắc, miền Trung, miền Nam hay vùng đồng bằng, vùng miền núi…). Giới
hạn theo thời gian như văn hóa Âu Lạc, Đông Sơn…
8
Ở nước ta, năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là là sự tổng hợp của các phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[28, tr.17].
Còn theo nghiên cứu của Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một thể
thống nhất các giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình
hoạt động thực tiễn thông qua các mối quan hệ tự nhiên và xã hội”[33, tr.27].
Như vậy, ta thấy văn hóa chính là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo
ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại
tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác thông qua quá
trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương
tác giữa xã hội và con người. Văn hóa đánh dấu trình độ phát triển của con người và
của xã hội, được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động
của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Còn văn học, là loại hình nghệ thuật ngôn từ, phản ánh thực tại và những vấn
đề của cuộc sống xã hội và con người. Văn học phản ánh tất cả các vấn đề văn hóa
như: xã hội, vận mệnh, tiền đồ…của dân tộc, tinh thần của dân tộc. Phương thức
truyền tải văn hóa trong văn học chính là bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ văn học
rồi hư cấu, xây dựng hình tượng, nội dung các đề tài được biểu hiện trong tác phẩm,
nội dung tác phẩm văn học chịu sư quy định của các quan niệm văn hóa. Trong văn
bản văn học có ba phương diện (đối tượng) của văn hóa.
Thứ nhất: Văn bản văn học phản ánh toàn bộ đời sống cộng đồng dân tộc,
trong đó văn hóa như phần hợp thành quan trọng, ta dễ thấy nhất là các hoạt động
văn hóa thể hiện trong văn học như: tập tục, lễ hội, lối sống của một cộng đồng, một
thời đại nào đó.
Thứ hai: Ngôn ngữ với tư cách là chất liệu tạo nên văn bản văn học, ví dụ
như lời ăn tiếng nói dân gian hay bác học của nhân vật, cả các hình thức thể loại,
các kiểu cốt truyện.
9
Thứ ba: Văn bản văn học khi được công chúng tiếp nhận đã ảnh hưởng, tác
động xã hội, đến tâm lí, sở thích cá nhân và cộng đồng, đôi khi tạo nên cả những
phong trào xã hội. Hoạt động của nó cũng là một hiện tượng văn hóa.
Trong thể loại văn học phản ánh gián tiếp quan điểm cá nhân, tất cả các yếu
tố của tác phẩm đều liên quan với nó như tính chất các xung đột, sự phát triển cốt
truyện, cả hệ thống hình tượng. Như M. Bakhtin cho rằng, thể loại là nhân vật chính
của văn học, sự ra đời và tồn tại của nó có cơ sở ở văn hóa thời đại. Mà văn hóa thời
cổ đại của những công xã thị tộc bộ lạc cho ra đời những thể loại thần thoại, với
những cuộc chiến tranh giữa chúng làm xuất hiện trong những anh hùng ca như
Illiat của Homer.
Văn học là một hình thái ý thức xã hội thẩm mĩ, nó bắt nguồn từ đời sống,
phản ánh đời sống, bày tỏ một quan điểm, lập trường của nhà văn đối với đời sống
xã hội. Nhưng văn học cũng phản ánh hiện thực nhưng là hiện thực trong ý nghĩa
khách quan, phổ quát của chủng loại mà nó quan tâm được kết tinh trong sự vật và
từ những sự vật đó làm người đọc hiểu theo một nghĩa khác. Ví dụ, nói đến mặt
trời, văn học nhiều khi không phản ánh nó giống như một hiện tượng của tự nhiên
để chiếu sáng cho con người mà nói đến nó là một hình tượng con người, đầy sự
yêu thương kính trọng... Có một mặt trời trong lăng rất đỏ/ Ngày ngày dòng người
đi trong thương nhớ (Viếng lăng Bác, Viễn Phương). Văn học nói đến trăng không
phải với tư cách là một vệ tinh tự nhiên của hệ mặt trời, mà trăng là hiện thân của cái
đẹp, là khuôn mặt đẹp, phúc hậu của con người: Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
(Truyện Kiều, Nguyễn Du). Trần Nho Thìn viết trong Phương pháp tiếp cận văn hóa
trong nghiên cứu giảng dạy văn học như sau: cùng một nghĩa, có thể có nhiều biểu
tượng khác nhau. Biểu tượng nhân cách nhà nho tài tử ngoài tùng còn cúc, trúc, mai.
Khảo sát ca dao, thơ Việt Nam, chúng tôi phân tích các biểu tượng diễn tả sự bị động
của người con trai trong tình yêu nam nữ và nhận thấy có những biểu tượng sau: bướm
(ong) – hoa, bến – thuyền (đò), sóng – bờ, trâu- cọc… Mặt khác, cùng một sự vật,
người ta có thể khai thác các nghĩa biểu tượng khác nhau [37, tr.22].
Như vậy, văn học là một hiện tượng văn hóa, những tác phẩm văn học lớn
tiêu biểu cho những giá trị văn hóa dân tộc, cốt tính dân tộc. Chúng ta đều thấy hiện
tượng những vị tổng thống Hoa Kì, khi đến Việt Nam trong các phát biểu thường
dẫn những câu thơ Kiều hoặc nhắc đến nhà thơ Hồ Xuân Hương, khi sang Nga họ
10
thường nhắc đến L. Tolstoi, M. Dostoevsky. Đó không phải là sự “ngẫu hứng”, đó
là sự tôn trọng rất cao đối với văn hóa nước chủ nhà và sự ứng xử lịch lãm, rất văn
hóa. Văn học như vậy là một hiện tượng văn hóa đặc biệt.
Vì vậy, luận văn này tôi chọn tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa để hiểu phần
nào đó về dân tộc của mình, một dân tộc có bề dày lịch sử và góp phần tạo nên những
đặc sắc đa dạng trong văn hóa người Việt nói chung và văn hóa người Mường nói riêng
qua hai tiểu thuyết của Phượng Vũ Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh.
1.1.2 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Văn học và văn hóa quan hệ với nhau như bộ phận và toàn thể, như cái hẹp
với cái rộng, cái “trên”với cái “dưới”. Văn hóa và văn học đều tồn tại như một hiện
tượng của ý thức xã hội và là sự biểu hiện của tinh thần. Nói cách khác chúng đều
có tính xã hội về hình thức và nội dung tinh thần, những hiện tượng không thuộc về
xã hội, không có ý nghĩa tư tưởng không phải là văn hóa. Văn hóa và văn học đều
thể hiện như hệ thống kí hiệu mang nội dung tâm lí, tư tưởng, trong đó kí hiệu của
văn học là ngôn ngữ- lời nói (ngôn lời) của con người.
Trong công trình Mĩ học sáng tạo ngôn từ, Nxb Nghệ thuật, Maxcova, 1989,
tr.329, M.Bakhtin xác định: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn
hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa của một
thời đại trong đó nó tồn tại”. Văn học được coi là sự “tựý thức văn hóa”[68, tr.2],
có nghĩa là trong văn học, luôn bộc lộ rõ nét bản chất của văn hóa một đất nước,
dân tộc và những tác phẩm văn học luôn mang trong mình những biểu hiện văn hóa
đặc trưng của một vùng, miền của một đất nước, mặc dù người viết có thể không ý
thức là phải truyền tải văn hóa vào sáng tác của mình, nhưng văn hóa cứ tồn tại như
một lẽ tự nhiên.
Theo Trần Lê Bảo, “Văn học chẳng những là một bộ phận của văn hóa, chịu
sự chi phối ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa mà còn là một trong những phương
tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa. Văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường
văn hóa thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, đồng thời thể
hiện cả nội hàm tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng dân tộc.
Cùng với hệ thống giá trị văn hóa là những mô thức văn hóa riêng của một cộng
đồng dân tộc, văn học đã tự giác tiếp nhận và thể hiện những giá trị và mô thức mà
cả cộng đồng tôn trọng và tuân thủ”[68. tr.5].
11
Còn Trần Đình Sử đã khẳng định: “Văn học là bộ phận quan trọng của văn
hoá, sự giàu có của nó về nội dung và hình thức trực tiếp làm giàu cho văn
hoá”[49, tr.1]. Cũng theo Trần Đình Sử, việc sáng tạo ra khúc ngâm, truyện Nôm,
hát nói, thơ mới, kịch nói, tiểu thuyết và truyện ngắn hiện đại phải được xem “là
những hiện tượng sáng tạo văn hoá lớn lao của dân tộc Việt Nam trong thế kỉ
XX”[49, tr.3]. Trong văn hóa, văn học có một vai trò rất quan trọng. Văn học vừa
giữ gìn, bảo tồn những giá trị văn hóa của dân tộc vừa sáng tạo thêm những giá trị
văn hóa mới cho nhân loại. Bởi văn học luôn được coi là tấm gương phản chiếu văn
hóa, nhà văn là “người thư ký trung thành của thời đại”(Balzac). Trần Nho Thìn có
viết : Văn học xét cho cùng phản ánh hiện thực, những mặt khác, sự phản ánh này
không đơn giản như việc cầm một tấm gương soi chiếu hiện thực đời sống mà nó
chịu sự quy định của tính chủ quan của chủ thể thẩm mĩ. Do tính chủ quan này,
giữa hình tượng nghệ thuật và hiện thực cuộc sống thường không có sự trùng
khít.Nghệ thuật không tự hạn chế mình chỉ trong việc tái hiện lại bộ mặt của hiện
thực và cũng không cố tình xem các sáng tạo của mình chỉ như cái giống thực [37,
tr.34]. Nhà văn tiếp nhận và tái hiện văn hóa thông qua những tác phẩm của mình.
Ở mỗi tác phẩm văn học Việt Nam, những nét văn hóa đặc trưng của mỗi một vùng,
miền đất nước lại được hiện rõ. Ta bắt gặp một bức tranh đồng quê đậm chất Bắc bộ
trong chùm Thơ thu của Nguyễn Khuyến, văn hóa dân gian đa dạng sắc màu
trongsáng tác thơ văn của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, thấy được vẻ đẹp của một thời
đã qua trong tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, hay cách nói năng, suy nghĩ
tiến bộ của người Hà Nội qua nhân vật cô Hiền trong tác phẩm Một người Hà Nội-
Nguyễn Khải, rồi những tín ngưỡng, phong tục trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn
của Nguyễn Xuân Khánh.“Văn hoá tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn
ở toàn bộ bầu khí quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt
động tiếp nhận của bạn đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật của mình là
một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng
được rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính
không gian văn hoá này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân
vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật... trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi
phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức... trong quá trình tiếp nhận. Một nền văn
hoá cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển. Vì vậy, có
12
thể nói văn học là thước đo, là “nhiệt kế”vừa lượng định, vừa kiểm nghiệm chất
lượng và trình độ văn hoá của một xã hội trong một thời điểm lịch sử nhất
định”[46, tr.20].
Theo Trần Nho Thìn, văn hoá là một hệ thống mở “nhân học văn hoá”. Văn
hoá Việt còn là sản phẩm của sự giao lưu ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, Ân Độ.
Bất kỳ một giá trị văn học nào cũng đều thoát thai từ một môi trường văn hoá, từ
một đời sống văn hoá nhất định. Những yếu tố văn hoá ảnh hưởng rất lớn đến sự
thành công của tác phẩm. Cách tiếp cận văn hoá học trong nghiên cứu tác phẩm văn
chương sẽ giúp chúng ta khám phá chân lý nghệ thuật một cách đúng hướng hơn.
“Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa bàn giao cho cái mới, văn học có thể là nơi hội
tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị chuyển tiếp thời đại. Còn về mặt không gian,
khi một địa bàn trở thành ngã ba đường của sự giao lưu văn hoá, thì văn học có thể
là nơi hoà giải của những xung đột tinh thần, nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung
sống giữa các nhóm người”[46, tr.23].
Như vậy văn hóa và văn học có sự tác động qua lại với nhau, gắn bó mật
thiết với nhau trong quá trình tồn tại và phát triển. Nếu văn hóa chi phối hoạt động
và sự phát triển của văn học thì văn học có xứ mệnh phản ánh lưu giữ những giá trị
của cuộc sống, hướng con người đến chân – thiện- mĩ. Văn hóa chính là nền tảng
của văn học còn văn học là bộ phận của văn hóa.
1.1.3 Hiểu về văn hóa người Mường
“Mường”là tộc người lâu đời của Việt Nam. Người Mường sống rải rác khắp
các vùng núi phía Bắc Việt Nam. Dân số người Mường, theo kết quả điều tra của
Tổng cục Thống kê công bố năm 1989, ởkhắp đất nước Việt Nam mới chỉ có
914.396 người nhưng 10 năm sau, tức năm 1999, vẫn theo kết quả Tổng điều tra
dân số của Tổng cục Thống kê công bố, thì người Mường đã tăng lên 1.137.515
người. Năm 2009 người Mường đã là 1.268.963 người (cũng theo kết quả điều tra
dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê).
Tuy người Mường sống rải rác theo các vùng núi phía Bắc nhưng lại tập
trung nhiều nhất là ở tỉnh Hòa Bình.
Ở Hòa Bình được xem là cái nôi của người Mường. Vì thế, số dân Mường
sống tại tỉnh Hòa Bình luôn là đông nhất. Theo điều tra nhân khẩu của Jeanne Cuisinier
từ năm 1936-1937 tỉnh Hòa Bình có 52.014 người Mường[10 tr.77]. Theo tổng cục
13
thống kê đến năm 1999, người Mường ở Hòa Bình (479.197 người, chiếm 63,3% dân số
của tỉnh). Người Mường, họ là chủ nhân lâu đời nhất của mảnh đất Hòa Bình, ngay từ
thời xa xưa, người Mường đã cư trú ở khắp các huyện thị trên địa bàn tỉnh, nhưng mức
độ phân bố không đồng đều cả về số lượng người dân và mật độ phân bố. Người
Mường tập trung ở những khu vực có địa hình thấp, độ cao trung bình là 300m, và
các trung tâm trù phú nhất của đất Mường như: Mường Bi, Mường Vang, Mường
Thàng, Mường Động. Đây, chính là vùng Mường lớn ở Hòa Bình mà do các dòng
lang lớn của người Mường cai quản như: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng, Hà. Giờ đây,
những huyện mà có người Mường tập trung đông nhất chính là: huyện Lạc Sơn,
huyện Kim Bôi, huyện Tân Lạc, huyện Mai Châu, Kì Sơn xong mới đến các huyện
khác.
Văn hóa Hòa Bình luôn mang một bản sắc đậm bản sắc dân tộc Mường xưa.
Người Mường luôn tự hào về văn hóa của mình, ngay tên gọi của họ đã thể hiện
điều đó. Trong cuốn “Văn hóa Mường”của Trần Từ, NXB Dân tộc, 1978 viết khái
niệm “Mường” (Mượng) vốn là một khái niệm chung cho cả Thái cổ truyền và xã
hội Mường cổ truyền. Trong cả hai trường hợp, nó đều chỉ một vùng (gồm nhiều
xóm) do một dòng họ quý tộc trực tiếp cai quản. Mường, với tư cách tên dân tộc, là
một cách gọi không chính xác: dân tộc chúng ta quen gọi là Mường, thực ra, tự
xưng là “MỌL”(nghĩa đen: người). Tuy nhiên vì mấy chữ “dân tộc Mường” đã trở
thành quen thuộc trong tiếng phổ thông, và dược dùng trong cả trong công văn giấy
tờ chính thức”(9,tr127). Theo Từ điển Mường- Việt, Nguyễn Văn Khang chủ biên,
NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội (2002) thì “MÕI” là “người Mường”. Ví dụ: “Nả là
Mõi” tức là “nó là người Mường” hay “Mõi ăn mày” tức là “Người ăn mày”. “Mõi
các cửa” tức là “Người gác cửa”. “Ẻng đỉ là mõi hay cảy Chỡ?” tức là “Anh ấy là
người Mường hay người Kinh?”. Hay, “Mõi chi mà ác mằn đỉ” có nghĩa là “người
gì mà ác thế). Người Mường ngoài tên gọi là Mõi, theo biến đổi phương ngữ còn
xưng là Mọi, Mol, Mual. [20, tr.309-310].
Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như
ngày nay. Và đương nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng danh từ này
làm tên gọi cho dân tộc mình. Theo Trần Từ (tức Nguyễn Đức Từ Chi hay Nguyễn
Từ Chi), Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của người Mường bao gồm
nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà Lang. Qua sự tiếp xúc
14
giao lưu giữa người Mường và người Kinh, người Kinh đã sử dụng từ Mường để
gọi dân tộc này.
Cho đến tận bây giờ, người Mường vẫn từ gọi mình là mol, moăn như ở Hoà
Bình, mon, mọi như ở Thanh Hoá. Còn ở Phú Thọ, đặc biệt là ở Thanh Sơn, nơi
người Mường tập trung đông đảo nhất, cũng như Người Mường ở huyện Yên Lập
và một số xã thuộc huyện Thanh Thuỷ, người Mường tự gọi mình là Mol, Monl.
Mặc dù những từ này có biến âm hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa phương nhưng đều
quan niệm giống nhau về mặt nghĩa. Tất cả những từ mà người Mường dùng để chỉ
dân tộc mình có nghĩa là người. Do đó, Mường đã trở thành tên gọi chính thức và
duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác. Tộc danh Mường đã
được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu và nhân dân dùng khi tìm hiểu,
nghiên cứu gọi dân tộc người Mường.
Cũng như các dân tộc khác, để lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình, dân
gian Mường ở Hòa Bình còn lưu giữ và truyền kể dân tộc mình bằng những huyền
thoại về sự xuất hiện dân tộc mình dưới dạng những áng Mo, truyền thuyết. Truyền
thuyết của người Mường kể rằng: xưa kia, khi con người còn chưa xuất hiện, trời
làm hạn hán, khô khan, cây cối khô mà chết, rồi trời lại mưa. Một trận mưa to chưa
từng thấy. Nước chảy thành suối thành sông. Đất lở bồi thành đồng bằng. Đá lăn
chất đầy thành gò thành đống, thành đồi thành núi. Có một cây mọc lên rất đẹp, gọi
là cây si. Cây si mọc lên từ núi đá, cây si lớn nhanh như thổi trở thành một cây cổ
thụ, cành lá che kín cả bầu trời, bị một cơn bão lớn làm đổ. Từ cây si bị đổ sinh ra
một đôi chim, gọi là chim Ây và chim Ứa. Chim Ây là đực, chim Ứa là cái. Đôi
chim Ây và Cái Ứa lại rủ nhau bay lên núi đá lấy cỏ làm thành tổ ở Hang Hao (nay
là hang Ma- Chứng- Điếng thuộc thôn Phú Nhiên, tổng Ngọc Hào, huyện Gia Viễn,
tỉnh Ninh Bình) [6, tr.16]. Cái Ứa đẻ ra trăm ngàn quả trứng. Trứng chim nở ra
thành muôn loài muôn vật. Còn lại một trăm cái trứng thì nở ra con người. Đó là
người Mường và người Kinh. Người Kinh xuống đồng bằng ở còn người Mường
sống trên miền núi. Người khởi đầu tiên của đất Mường là Lang Đá Cài, Lang Đá
Cần, nàng Dạ Kịt. Sau này Lang Đá Cần lên ngôi vua lấy em gái mình nhưng sinh
con không nuôi được, Lang Đá Cần lấy vợ khác sinh được nhiều con trai và con gái.
Con trai thứ nhất thay cha lên làm vua (chính là vua Dịt Dàng sau này) những người
con còn lại đã chia nhau thành bốn họ lớn của người Mường là: Đinh, Quách, Bạch,
15
Hoàng chính là tổ tiên của các quan lang xứ Mường. Còn các cô con gáilàm vợ các
quan lang ở các châu. Dịt Dàng kế tục cha lên ngôi, có nhiều vàng bạc châu báu,
lãnh đạo các quan Lang và dân Mường phát triển. Như vậy, để giải thích cho cho sự
ra đời của dân tộc mình người Mường đã dựa vào truyền thuyết với những câu
truyện li kì giống như Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Bên cạnh việc người Mường giải thích nguồn gốc của mình bằng Truyền thuyết
Ây và Ứa, thì người Mường xuất hiện cùng với tiếng nói để trao đổi thông tin, tạo ra
tiếng nói riêng cho mình. Người Mường không có chữ viết riêng, nhưng họ có tiếng
nói của dân tộc mình, tiếng nói mang bản sắc của dân tộc. Ngôn ngữ Mường
thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường trong ngữ chi Việt của ngữ hệ Nam Á. Tiếng
Mường rất gần với tiếng Việt. Theo Từ điển Mường-Việt, Nguyễn Văn Khang chủ
biên, NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội (2002), cách đọc và phát âm của tiếng Mường gần
giống tiếng việt, có một số từ có dấu ngã, dấu nặng…đọc chệch đi, ví dụ:
Những từ không dấu trong tiếng Việt thì giữ nguyên là thành tiếng Mường
như: Con, con chim, con voi, ăn, cho, tiêu pha= tiêu pha...một số từ khác phụ âm
đầu: tay = thay, đi= ti, đi, con dê= con tê...
Những từ có dấu hỏi trong tiếng Việt cũng giữ nguyên: của cải= của cải,
đểu= đểu, giả= giả...
Những từ có dấu ngã thì chuyển thành dấu hỏi như: đã= đả, những= nhửng.
Những từ có dấu nặng thì chuyển thành dấu sắc: nặng= nắng (phát âm lại ~
nặng= nắăng, tận= tấn (tấân)...
Những từ mà có âm "ặc, ịt, ặc, ục”thì giữ nguyên không chuyển dấu: đông
đặc= đông đặc.
Những từ có dấu huyền thì chuyển thành dấu sắc và ngược lại dấu sắc thì
thành dấu huyền: nắng= đằng ( trời nắng= trới đằng)
Một số từ không theo quy luật: cây tre= cân pheo, xưng hô(chú=ô, cháu=
xôn), nhìn (ngắm)= hẩu, trông thấy= hẩu kỉa, ở giữa= ở khừa.
Phát âm nhiều khi bị chệch hoặc thêm một số âm đệm vào. Ví dụ như phát âm
chệch như từ: Anh = Enh. “Anh có thấy cái còng vợt ở đâu không” (Enh ản đố cải còng
kha ớ no chăng). Hay ở = ớ, án mạng = ản mãng, anh tạo (một chức trong bản Mường)
= anh tão, áo choàng = ảo khoang… Phát âm thêm một số các âm đệm như: Bảy năm
16
mươi = páy năm mươl, bề trên = bậc tliênh “ông ấy là bề trên”(ông đỉ là bậc tliênh),
trong= tlong“trong buồng này ấm lắm”(tlong puồng nì ẩm lắm) [20, tr.25- 39].
Nói chung, ngôn ngữ của người Mường họ dùng rất hiệu quả trong tộc người
của mình. Hiện nay, nhà nước ta đã bảo tồn tiếng dân tộc Mường bằng nhiều cách
khác nhau để lưu giữ và bảo tồn ngôn ngữ này như: qua sáng tác văn chương, sách,
báo, rồi có đài phát thanh và truyền hình bằng tiếng Mường. Tiếng Mường mang bản
sắc văn hóa riêng, họ dùng để trao đổi thông tin, gọi nhau, nói chuyện, phân biệt vai vế,
các gọi đồ dùng… Phượng Vũ sử dụng ngôn ngữ của người Mường khá thành công
khi xưng hô, gọi tên… ví dụ: gọi mẹ =mế, bên ngoại =oại, người trông em = đọi ún, đi
ỉa = tị é, bố già = bố khà, thịt gà = thịt ca, người Kinh = người Đáo, vợ = cái, bông lúa,
hoa lúa = trái bông cơn, người giúp việc cho nhà lang = ậu, người đứng đầu trong các
ậu = ậu cả, túi vải có quai đeo = thông, hoa dâm bụt = hoa chu chiênh, thắt lưng = tênh,
cơm độn với củ nâu = cơm nâu, đi lấy nước= ti rác, nồi ninh = viêng, lúa = lọ, ruộng=
nà, để tang= để đem, nước mạch trong lòng đất phun lê = nước mó, dưới âm phủ = bên
ma, chim bồ câu rừng = chim gâu, hoa hồng bì = hoa vòng, chỗ lầy lội, lấm láp = rậm,
cỏ gianh = cỏ bái, bố = pộ, cửa chính vào nhà = cửa khoáng, chơi bời = nhởi, uống
rượu = oỏng ráo, bánh dày = bánh xếp, các lang đạo lấy vợ con nhà thường dân = vợ
nuôi, bồ đựng chăn = pồ ố…[29].
Về tổ chức xã hội của người Mường không giống như tộc người H’Mông, họ
có vùng tự trị riêng. Người Mường tuy dân số đông và có nguồn gốc lâu đời nhưng
họ chỉ tồn tại thành vùng Mường trong tổng thể dân tộc Việt Nam. Nhưng, về hình
thái xã hội của người Mường xưa kia là xã hội Mường cổ truyền chịu sự lãnh đạo
của chế độ quan lang.
Dưới chế độ quan lang, bản chất Lang cun Mường cũng có xấu, tốt. Giống
như quan lại vùng xuôi. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, dân Mường vẫn thích
chế độ lang đạo hơn và không chịu sự quản lý của người Kinh, nên người Mường có
chút cục bộ. Vì vậy, khi nhà Nguyễn thành lập phế bỏ chế độ Lang đạo, đưa quan lại
dưới xuôi lên cai quản vùng Mường liền xảy ra sự chống đối kịch liệt của nhân dân
vùng Mường, như khởi nghĩa Lê Duy Lương, khởi nghĩa ở Thạch Bị, Sơn Âm. Về
sau vua Minh Mạng lại khôi phục chức chế độ Lang đạo. Đặc biệt khi bắt được người
cầm đầu, nhà Nguyễn chỉ phủ dụ chứ không giết.
17
Ngày 23 tháng 6 năm 1892, toàn quyền Đông Dương ký nghị định tổ chức
bộ máy chính quyền ở Hoà bình. Theo nghị định này, công việc toàn tỉnh do một
hội đồng quan lang điều hành, gồm có 12 quan lang: sáu người do các lang cử ra,
sáu người do công sứ Hoà Bình chỉ định. Hội đồng mười hai quan lang do viên
công sứ Pháp làm chủ tịch. Hội đồng cử ra một chánh quan lang, một phó quan lang
và một viên đề đốc. Chánh quan lang trông nom các công việc chung của tỉnh, phó
quan lang có nhiệm vụ giúp việc chánh quan lang. Còn viên đề đốc thì giữ việc chỉ
huy lính dõng trong tỉnh.
Chế độ lang cun và tồn tại đến sau cách mạng tháng 8/ 1945. Đến khi đất
nước hoàn toàn giải phóng chế độ lang cun hoàn toàn chấm dứt.
Người Mường cũng có những món ăn ẩm thực đặc sắc, họ thích ăn các món
đồ, nướng như xôi đồ, rau đồ, cá đồ. Nướng như thịt cá nướng rất thơm và ngon.
Những thứ gia vị đắng, cay, chua, ví dụ như: họ thích ăn những rau rừng có vị đắng
như rau đắc đốm, lá chân chim, măng đắng…Vị chua như thịt muối chua, măng muối
chua, lá sắn muối chua…khi đã chua họ đem ra nướng hoặc nấu với thực phẩm khác
cùng các hương vị của hạt dổi, tiêu, ớt…, ăn rất ngon và hương vị đậm đà.
Người Mường Hòa bình còn có đặc sản rượu Cần nổi tiếng,bởi cách chế biến
và hương vị đậm đà của men được ủ cùng ngũ cốc như ngô, sắn, gạo nếp, gạo tẻ…ủ
trong một thời gian nhất định được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc
vui tập thể. Ở Hòa Bình những buổi sinh hoạt tập thể hoặc ngày lễ, tết không thể
thiếu rượu cần, uống rượu cần trong những ngày đó như một nét văn hóa.
Người Mường ở Hòa Bình, họ sống gần với người Kinh nên cách sống cũng
gần giống với người Kinh. Người Mường sống thành các bản làng (xóm, làng), có
những ngôi nhà sàn nằm sát ven đồi tựa lưng vào đồi núi, trước mặt trông ra những
cánh đồng xanh, tốt trông rất thơ mộng và lãng mạn. Xung quanh nhà của người
Mường trồng những cây ăn quả như mít, nhãn, vải, bưởi… hoặc trồng các cây hoa
quanh năm đơm hoa kết trái, tạo ra không khí trong lành.
Nhà ở của người Mường nói chung và người Mường Hòa Bình nói riêng là ở
nhà sàn, nhà sàn được dựng theo kiểu truyền thống của người Mường, như thần Rùa
dạy trong truyền thuyết: “Bốn chân tôi là bốn cột cái/Hai mai tôi là hai mái
nhà/Xương sống tôi là đòn nóc/Chặt cây lim làm cột/Lạt buộc bằng cây giang/Cỏ
gianh dùng để lợp”[30, tr.76]. Nhà kiểu bốn mái, cột nhà bằng gỗ quý, được bố trí
18
rất khéo léo, tiện lợi, cho việc ăn, ở sinh hoạt. Vật liệu làm nên ngôi nhà sàn của
người Mường làm bằng gỗ, tre, nứa, cỏ gianh hoặc lá cọ. Cột nhà chôn sâu xuống
đất từ 70cm- 1m hoặc kê trên đá. Vách ngăn và che xung quanh nhà họ dùng tấm
đan bằng tre, nứa hoặc gỗ tùy theo điều kiện của từng gia đình. Mái nhà sàn xưa lợp
bằng cỏ gianh, lá cọ nên có đặc điểm mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Nhà sàn của
người Mường có bậc cầu thang đi lên và thường được lấy số lẻ như: 5,7,9,11. Người
Mường lấy số lẻ làm số bậc cầu thang là dựa vào quan niệm theo quy luật: vào-ra-
vào, nên của cải sẽ vào nhà mà không ra đi làm cho nhà cửa trở nên giầu có, con cháu
khỏe mạnh, gia đình êm ấm, hoặc theo quy luật của đời người: sinh, lão, bệnh, tử để
mong cho con người sống trong gia đình đó luôn khỏe mạnh, sống lâu trăm tuổi. Nhà
sàn tùy theo diện tích nhà lớn hay nhỏ để mở số cửa sổ cho phù hợp, về cầu thang nhà
sàn người Mường có hai cầu thang, cầu thang chủ và cầu thang khách. Sàn nhà làm
bằng sàn gỗ tự nhiên, phía dưới sàn người Mường xưa kia họ nuôi trâu, bò, lợn, gà
(người Mường ngày nay đã bỏ làm chuồng nuôi ở dưới).
Điểm độc đáo ở nhà sàn Hòa Bình, trước khi bước lên nhà họ phải rửa chân
bằng nước để ở cái chum, vò, vại được để ngay dưới cầu thang với quan niệm rửa
sạch sẽ những bụi bẩn trước khi lên nhà.
Như vậy, nhà sàn của đồng bào Mường là một biểu hiện sinh động của văn
hóa vật chất. Trong cấu trúc truyền thống, nhà sàn Mường là một kiến trúc đa năng,
ngôi nhà thoả mãn nhiều nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của mỗi gia đình. Kiểu dáng
nhà sàn Mường cũng là một nét riêng làm phong phú thêm văn hoá nhà sàn của các
dân tộc Việt Nam.
Cưới xin, ma chay của người Mường đặc biệt người Mường ở Hòa Bình
cũng có những nét riêng biệt.
Tục cưới xin của người Mường gần giống như người Kinh (chạm ngõ, ăn
hỏi, xin cưới và đón dâu). Lễ vật của nhà trai đem đến cho nhà gái có trầu, cau,
rượu, lợn, gà…có ba lễ chính và những yêu cầu của nhà gái. Còn con gái đi lấy
chồng phải tự sắm sửa và dệt chăn, gối mang về nhà chồng, và cho bố mẹ chồng.
Còn ma chay cũng theo một tục lệ nhất định, khi người chết tắt thở được
thông báo cho con cháu họ hàng, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài
người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan
tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.
19
Tang lễ do thầy mo chủ trì. Hình thức chịu tang của con cái trong nhà không
khác so với người Kinh, tuy nhiên con dâu chịu tang cha mẹ còn có bộ trang phục
riêng, nhìn vào trang phục tang lễ người ta có thể nhận biết các thành viên trong gia
đình. Ví dụ: con trai con dâu, con gái chưa lấy chồng sẽ mặc áo và đội mũ, khăn
trắng bằng đồ xô gai, con gái đã đi lấy chồng và và con rể, cháu, họ hàng…mặc áo
và bịt khăn tang mầu trắng bằng vải màn. Khi người con trai trong gia đình ấy
chống gậy tre thì gia đình ấy có bố mất, nếu chống gậy gỗ thì gia đình có mẹ mất.
Sau khi chôn người chết, lấp đất kĩ họ lấy 4 viên đá to đẹp để dánh dấu phần
mồ của gia đình mình. Bốn viên đá này rất quan trọng để tránh mất mồ mả. Tìm
được 4 viên đá coi như tìm được mả. Ngày nay, ở Hòa Bình việc đánh dấu này đã
không còn tồn tại, thay vào đó là những tấm bia ghi tên người mất đặt ngay phần
đầu. Người Mường ở Kim Bôi sau khi chôn họ còn làm nhà ma. Người Mường ở
huyện Lạc Thủy xưa người chết cũng được chia của với quan niệm người sống có gì
người chết có đó, thứ mà họ chia của như nồi, xoong, bát, đĩa, quần áo…nên vào
những năm 80 của thế kỷ trước một số vùng bị khai thác đồ cổ do từ văn hóa chia
của cho người chết.
Người Mường Lạc Sơn Hòa bình: sau khi chôn người chết, 3 đêm đầu vẫn để
hương thờ, sau 3 đêm thì làm lễ cho đồ dùng…và đưa người chết về mồ về mả. Đến
49 ngày thì làm lễ "thay màu áo". Tức là nhuộm áo tang chấm dứt mặc áo tang.
Đám ma của người Mường Bi Hòa Bình, nếu tổ chức theo nghi lễ cổ truyền
là một chuỗi nghi lễ phức tạp và kéo dài đến 12 ngày đêm [30, tr117]. Nhà văn
Phượng Vũ nghiên cứu trong cuốn Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi
thì đám hiếu được tổ chức phức tạp và kéo dài với nhiều thủ tục như lễ nghĩa như
thủ tục trao quần áo cho người chết ở ngày thứ nhất, ngày thứ hai làm lễ lống trùng
để xua đuổi những hồn ma đang lẩn khuất bên người chết, những ngày sau đó làn lễ
tâng dây để cát đứt dây dưa bệnh tật, truyền nhiễm cho con cháu sau này, rồi làm lễ
nhập quan,lễ quạt mo, lễ nhương ăn, rồi đêm mo nhì họ ở ngày thứ 3, ngày thứ tư
đưa người chết ra mộ địa, sau đó cúng các lễ theo luật tục cho đến ngày thứ 12. Như
vậy, điểm qua một vài nét động đáo trong đám ma của người Mường Hòa Bình, ta
đã thấy nhiều nét khác biệt tạo nên văn hóa của vùng Mường.
Lễ hội, trang phục của người Mường cũng đáng để cho chúng ta phải quan
tâm. Người Mường có nhiều ngày hội quanh năm: Sắc bùa, hội xuống đồng (Khung
20
mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng 7, 8 âm lịch), lễ cơm mới... Còn
trang phục của người Mường cũng có nhiều nét độc đáo. Họ đã tạo hình và phong
cách thẩm mỹ trên trang phục của mình và có đặc trưng riêng. Đàn ông thường là
mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Quần của
của đàn ông thường có ống rộng và dùng khăn thắt giữa bụng .
Còn nữ giới, hằng ngày thường mặc áo pắn (áo ngắn). Đó là loại áo cánh
ngắn, xẻ ngực, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng, bên trong mặc áo yếm trắng.
Trên đầu người phụ nữ Mường họ thường đội khăn trắng, xanh. Váy, thường là loại
váy kín màu đen. Nét đặc sắc trên trang phục của người Mường chính là những
mảng hoa văn nổi lên giữa trang phục và cạp váy, ở phần thắt lưng. Hoa văn trên
cạp váy còn thể hiện đẳng cấp, con gái và bà nàng nhà lang sẽ mặc những váy có
cạp váy với văn hoa rồng phượng, còn đàn bà, con gái dân thường chỉ được mặc cạp
váy với hoa văn thường như kẻ vuông, hình quả trám... Mỗi hoa văn lại có một cái
co này để sau này để nhấc lên, rồi xuyên chỉ để nó có màu trắng, màu đen hoặc màu
đỏ để nó kết hợp hoặc làm nổi bật con rồng bay. Đây là nét hoa văn trên trang phục
của người Mường.
Người Mường có một kho tàng văn nghệ dân gian phong phú, đa dạng với
nhiều thể loại như: Truyền thuyết, sử thi, thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm,
tục ngữ… Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ
con chơi... Cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Mường, ngoài ra còn nhị,
sáo trống, khèn lù. Đặc sắc nhất trong các loại hình này chính là những làn điệu của
những bài dân ca Mường. Dân ca Mường gồm nhiều thể loại như: Thường đang (hát
mừng nhà mới), bọ mẹng (hát giao duyên), hay trường ca như Nàng Nga – Hai Mối,
Út Lót – Hồ Liêu. Những lời ca trong dân ca Mường thường có câu 6 và câu 8 xen
kẽ nhau như một câu thơ lục bát của người Việt cùng những thang âm luyến láy.
Trên đây khái quát sơ lược những văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc
Mường nói chung và người Mường ở Hòa Bình nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
thiếu xót, nhưng phần nào gợi mở chút hiểu biết về dân tộc Mường. Những đặc
trưng về văn hóa vật chất và tinh thần người Mường Hòa Bình đã thể hiện khá
nhiều trong hai tiểu thuyết của Phượng Vũ, ít nhiều giúp người đọc hình dung và
lưu nhớ về một dân tộc Mường. Qua đây, chúng ta cần bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa dân tộc Mường ở các huyện có đồng bào Mường sinh sống không chỉ góp
21
phần xây dựng, phát triển đời sống văn hóa tinh thần cho người dân mà còn góp
phần thúc đẩy văn hóa xã hội ngày càng phát triển.
1.2 Khái lược sáng tác của Phượng Vũ
1.2.1 Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp
Phượng Vũ (1937-2000), tên thật là Nguyễn Phương Tú, ngoài bút danh
Phượng Vũ ông còn có bút danh khác như Từ Vân, Phương Lê. Sinh ngày 23 tháng
7 năm 1937. Quê ở xã Vân Từ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc ngoại
thành Hà Nội). Xuất thân là một giáo viên cấp 2 dạy văn học, sau đó ông làm cán bộ
tại ty Văn hóa tỉnh Hà Đông, rồi làm Trưởng phòng sáng tác của Sở văn hóa tỉnh Hà
Sơn Bình (gồm Hà Tây, Hòa Bình, Sơn Tây).
Năm 1992 tái lập tỉnh Hà Tây, Nguyễn Phương Tú (Phượng Vũ) làm Giám
đốc Sở Văn hóa- Thông tin và thể thao Hà Tây. Khi thành lập Hội Văn học nghệ
thuật tỉnh Hà Tây ông làm chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật, Tổng biên tập tạp chí
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam.
Phượng Vũ với niềm đam mê văn chương và có có duyên với nghiệp văn nên
năm 21 tuổi ông tham gia cuộc thi sáng tác văn chương do tạp chí Văn nghệ tổ chức
và đạt giải ba với truyện ngắn Người nữ trưởng ga và được in trong tạp chí Văn
nghệ số 21 vào tháng 2 năm 1959. Từ đó, ông tạm biệt nghề dạy học và chuyển lên
ty Văn hóa Hà Đông (thuộc tỉnh Hà Sơn Bình cũ) làm công tác biên tập và sáng tác
văn học. Sau nhiều năm sáng tác ông đã có những đóng góp đáng kể vào kho tàng
văn học Việt Nam ở nhiều thể loại khác nhau.
Như vậy, Phượng Vũ đến với văn chương là một cái duyên và ông đã ghi dấu
những trang văn của mình vào làng văn, là người đầu tiên của vùng Hà Tây đóng góp
trong sáng tác văn chương trong thời kì mới, đúng như Đặng Hiển đã nhận xét “Phượng
Vũ cũng là người lãnh đạo, thúc đẩy và nêu gương cho cả phong trào sáng tác của một
vùng văn học. Phượng Vũ là cánh chim đầu đàn của vùng văn học ấy”[2, 169 ].
Có lẽ, Phượng Vũ đến với văn chương là không chủ định, nhưng nghiệp văn
đã gắn với cuộc đời ông. Phượng Vũ không chỉ sáng văn học mà còn nghiên cứu
văn hóa, lịch sử, địa chí. Hơn 40 năm sáng tác ông để lại cho đời một số lượng sáng
tác không nhỏ, dù là cương vị là một thầy giáo, trưởng phòng sáng tác hay Giám
đốc Sở Văn hóa thông tin Hà Tây. Phượng Vũ vẫn miệt mài, hăng say trong công
việc sáng tác văn học và nghiên cứu văn hóa lịch sử, địa chí về vùng đất Hà Tây,
22
Hòa Bình (trước đây là Hà Sơn Bình). Để thấy được đóng góp của Phượng Vũ, luận
văn đã thống kê sáng tác của nhà văn một cách sơ lược như sau:
TT Tên tác phẩm Thể loại Năm xb
Nhà
xuất bản
Số lượng
Lần
xuất bản
Ghi chú
1 Người nữ trưởng ga
( tác phẩm dự thi)
Truyện
ngắn
1959 Hội liên
hiệp văn
học nghệ
thuật
Việt
Nam
1 Tg Phượng Vũ
2 Người anh hùng
trên đồng cỏ
Truyện
vừa
1967 1 Tg Phượng Vũ
3 Núi chàng rể Tập
truyện
ngắn
1978 Ty Văn
hóa TT
Hà Sơn
Bình
1 Tg Phượng Vũ
4 Người mẹ và những
đứa con
Truyện
ngắn
1996 Hội nhà
văn
1 Tg Phượng Vũ
5 Hoa hậu xứ Mường Tiểu
thuyết
1984 Tác
phẩm
mới
1 Tg Phượng Vũ
Hoa hậu xứ Mường 1984
1986
Sở văn
hóa
thông tin
Hà Sơn
Bình.
Lần1
Hoa hậu xứ
Mường(T1)
Hội nhà
văn
Lần2
Nhiều
tập
Xuất bản nhiều
lần
Hoa hậu xứ Mường
(Tập 1,2)
1997 Văn học Lần3
Hoa hậu xứ Mường 2004 Hội nhà
văn
Lần 4
Hoa hậu xứ Mường 2007 Hội nhà
văn
Lần 5
6 Năm người bạn Tiểu
thuyết
1996 Văn học 1
7
Tiểu thuyết Phượng
Vũ
Tập tiểu
thuyết
1997 Văn học 1 Gồm nhiều tiểu
thuyết
23
8 Trước cửa thiền Tiểu
thuyết
1993 Hội nhà
văn
1 Tg Phượng Vũ
9 Vương quốc ảo ảnh Tiểu
thuyết
2001 Quân đội
nhân dân
Việt
Nam
1 Tg Phượng Vũ
10
Vùng đất có những
tên gọi mới
Tập bút
kí
1995 Hội văn
nghệ
1 Tg: Phượng Vũ
11
Địa chí Hà Tây Sách 1999 Sở
VHTT
Hà Tây
1 Tg Phượng Vũ
12 Hà Tây làng nghề-
làng văn( tập1)
Sách sưu
tầm,
khảo cứu
1992 Thể thao 1 Tg: Phượng Vũ
13
Lễ hội cổ truyền Hà
Tây
Sách sưu
tầm,
khảo cứu
1995 Hà Tây :
Sở văn
hóa
thông tin
1 Tác giả: Phượng
Vũ, Hồ Sĩ Vịnh
14 Lễ hội cổ truyền Hà
Tây
Sách
Sách sưu
tầm,
khảo cứu
1997 Hà Tây :
Sở văn
hóa
thông tin
2 Tác giả: Phượng
Vũ, Hồ Sĩ Vịnh
15
Lễ hội cổ truyền Hà
Tây
Sách sưu
tầm,
khảo cứu
2000 Hà Tây :
Sở văn
hóa
thông tin
3 Phượng Vũ và
nhiều tác giả
16
Quy ước làng văn
hóa Phú Xuyên…
Sách sưu
tầm,
khảo cứu
1995 Hà Tây:
Huyện
Phú
Xuyên
1 Tg Phượng Vũ
17
Thơ Hà Tây thế kỉ
XX
Sách sưu
tầm,
khảo cứu
1997 Hội văn
học nghệ
thuật Sở
văn hóa
Hà Tây
1 Tô Hoài và
Phượng Vũ chủ
biên
18
Văn học Hán Nôm
Hà Tây 10 thế kỉ
Sách sưu
tầm,
khảo cứu
1997 Hà Tây :
Sở văn
hóa
thông tin
1
19 Thơ Hà Tây thế kỉ Sách sưu 1997 Hội văn 1 Phượng Vũ và
24
XX tầm,
khảo cứu
học nghệ
thuật Sở
văn hóa
Hà Tây
Hồ Phương chủ
biên
20 Người Mường với
văn hóa cổ truyền
Mường Bi
Sách sưu
tầm,
khảo cứu
1998 NXB Hà
Sơn
Bình: Vă
hóa-
Thông
tin
1 Sách nhiều tác
giả, Phượng Vũ
chủ biên
1.2.2 Quan niệm văn chương của Phượng Vũ Phượng Vũ
Bảng thống kê sơ bộ trên cho thấy Phượng Vũ có số lượng trước tác khá
phong phú, trong cả tư cách nhà văn và nhà sưu tầm, khảo cứu.
Cũng giống như các nhà văn khác cùng thời, Phượng Vũ cũng có những
quan điểm sáng tác riêng, nhưng có lẽ những gì ông viết đều phản ánh cuộc sống
đời thực. Từ xã hội, con người, đến những nét văn hóa hiện lên như bức tranh cuộc
sống. Từ khen đến chê, từ tự hào đến nỗi xót xa đều dựa vào thực tế. Tóm lại văn
chương của Phượng Vũ là phản ánh hiện thực. Nhà thơ Đặng Hiển có nói: “những
nhân vật trong truyện của Phượng Vũ Thường lấy trong nguyên mẫu đời thường”,
ví dụ nhân vật Diễm trong truyện ngắn cùng tên của ông.
Phượng Vũ có hơn 40 năm nghề cầm bút và có nhiều đóng góp ở nhiều thể
loại khác nhau. Với những sáng tác truyện ngắn Phượng Vũ đã đánh dấu công lao
của mình với giải ba tác phẩm Người nữ trưởng ga( 1959) đã kể về sự trưởng thành
và quyết tâm của một cô gái xinh đẹp, giỏi giang Miền nam tập kết luôn có lí tưởng,
ý thức phấn đấu làm chủ cuộc đời. Còn trong tập truyện Người mẹ và những đứa
con với bút pháp hiện thực, ông dựng lên tượng đài người mẹ anh hùng đã dâng
hiến cho tổ quốc những đứa con thân yêu, coi các chiến sĩ cách mạng như con của
mình làm nổi bật sự hi sinh vĩ đại của người mẹ, khiến người đọc cảm thấy rất xúc
động. Và tác phẩm Diễm cho ta thấy một sự vượt lên sau những vấp ngã của của
cuộc đời. Còn truyện Tầm gửi, phản ánh những tồn tại của xã hội đương thời những
cán bộ bất tài nhưng luôn mưu lợi cho cá nhân.
Tác phẩm được coi là lớn và có giá trị hơn cả trong sáng tác của ông chính là
bộ tiểu thuyết Đất Mường gồm hai quyển có tên Hoa hậu xứ Mường và Vương
Quốc ảo ảnh hơn một nghìn trang viết, quyển Hoa hậu xứ Mường ra đời lần đầu
25
năm 1984 và được xuất bản nhiều lần, tác phẩm đã phản ánh được cuộc sống người
dân dưới chế độ lang đạo và thực dân, tác phẩm Hoa hậu xứ Mường cũng được
chuyển thể thành kịch do Doãn Hoàng Giang đạo diễn. Tác phẩm được nhà văn viết
về những biến cố lịch sử, con người ở vùng đất Mường Hòa Bình sau cách mạnh
tháng 8/ 1945.
Trong những trang viết của ông trong hai tiểu thuyết, người đọc không chỉ
thấy những biến cố lịch sử của vùng đất mà còn thấy sự phân hóa nội bộ của chế độ
quan lang, những số phận người dân Mường phải chịu cảnh bóc lột, đè nén lên cuộc
sống và tâm hồn của họ dưới sự cai tri của chế độ quan lang và thực dân Pháp. Tác
phẩm người đọc phần nào cũng thấy được cảnh đẹp của thiên nhiên núi rừng và
những phong tục tập quán của dân tộc Mường Hòa Bình.
Để có được bộ tiểu thuyết Đất Mường, Phượng Vũ đã dày công tìm hiểu về
vùng đất, con người, văn hóa nơi đây. Khi sáng tác bộ tiểu thuyết “Đất Mường”,
Phượng Vũ đang công tác tại Ty văn hóa Hà Sơn Bình. Ông đã nghiên cứu, tìm hiểu
sưu tập nhiều về văn hóa người Mường, ông đã đi đến những địa danh của cái nôi
văn hóa Mường như: Mường Vân, Bi, Vang, Thàng, Động…tìm hiểu, sưu tầm viết
lên bộ tiểu thuyết Đất Mường hơn 1000 trang. Sự hiểu biết của ông về người
Mường, đất Mường còn thể hiện ngay ở việc ông là chủ biên cho những nghiên cứu,
sưu khảo sâu về văn hóa Mường được giới nghiên cứu dân tộc học đánh giá cao, coi
như tư liệu gốc mà tiêu biểu nhất là Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường
Bi– Mường lớn và quan trọng nhất của xứ Mường Hòa Bình.
Bên cạnh những trang viết về truyên ngắn, tiểu thuyết Phượng Vũ còn có
nhiều đóng góp ở những thể loại khác nhau.
Về địa lí, lịch sử, văn hóa ông có tác phẩm Địa chí Hà Tây một quyển sách
viết về 9 vấn đề của: Điều kiện tự nhiên dân cư, dân số, đất đai và phần lịch sử Hà
Tây từ tiền sử đến nay. Kinh tế du lịch, danh lam thắng cảnh, y tế giáo dục, những
thành tựu văn hoá khoa học kỹ thuật, văn học, tôn giáo và và tập quán văn hoá, Hồ
Chủ Tịch với nhân dân Hà Tây..., Lễ hội cổ truyền, cuốn sách lựa chọn và giới thiệu
những lễ hội tiêu biểu của Hà Tây Hội Bối Khê, Hội Đền Và, Hội Chùa Hương, Hội
chùa Thầy, Hội làng Khê Thượng, lễ hội Vân Sa v.v… Nội dung sách tập trung
miêu tả diễn biến của các lễ hội đi sâu vào những trò diễn, lễ thức đặc sắc có giá trị
văn hóa trên địa bàn của tỉnh Hà Tây (cũ). Hà Tây Làng nghề- làng văn, giới thiệu
26
những đặc điểm về môi trường địa lý, sắc thái văn hóa riêng biệt của các làng quê
nổi danh của tỉnh Hà Tây. Truyền thống hiếu học, đôi nét về các danh nhân, các di
tích lịch sử văn hóa của mỗi làng. Tập bút kí Vùng đất có tên gọi mới. Đặc biệt cuốn
sách nghiên cứu về người Mường Bi Hòa Bình có nhan đề Người Mường với văn
hóa cổ truyền Mường Bi, đây là cuốn sách nghiên cứu của nhiều tác giả mà Phượng
Vũ là chủ biên viết về nền văn hóa cổ truyền Mường Bi, đã kết đọng vốn liếng vật
chất, tinh thần của nhiều thời đại lịch sử đã đi qua về văn hóa cổ truyền, dân ca, tục
ngữ, truyện cổ.
Với những đóng góp của Phượng Vũ ở nhiều lĩnh vực đã có nhiều tác giả nổi
tiếng đã có bài viết nói đến công lao của Phượng Vũ như nhà thơ Đặng Hiển có bài :
Phượng Vũ – cánh chim đầu đàn của văn học xứ Đoài (Tiểu luận của Đặng Hiển).
Trong cuốn Nhà văn Việt nam hiện đại (NXB Hội nhà văn, 2010), đã khái quát cuộc
đời và những tác phẩm tiêu biểu của Phượng Vũ. Nhà thơ Nông Quốc Trấn, Tô Đông
Hải có những bài viết về Phượng Vũ như Folklore trong tiểu thuyết “Hoa hậu xứ
Mường” của nhà văn Phượng Vũ. Tác giả giới thiệu qua về tiểu thuyết Hoa hậu xứ
Mường, phân tích và trích dẫn một số đoạn để chứng minh rằng phônclo có mặt trong
tiểu thuyết này và là một bộ phận hữu cơ của đời sống các nhân vật trong tiểu thuyết.
Tuy Phượng Vũ có nhiều đóng góp trong sáng tác, nhưng trên thực tế vẫn
chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, hay luận văn, luận án nào viết về Phượng
Vũ. Đơn cử như luận án tiến sĩ của Bế Thị Thu Huyền với tiêu đề Tiểu thuyến của
các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sau 1986 từ góc nhìn văn hóa cũng
nhắc nhiều đến các nhà văn viết về người miền núi cả cử dân tộc đa số nhưng không
nhắc đến tên nhà văn Phượng Vũ. Vì vậy, luận văn này tôi muốn có một chút đóng
góp nho nhỏ để nghiên cứu công lao, thành tựu của nhà văn Phượng Vũ trong hai tiểu
thuyết Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh nhìn ở góc độ văn hóa.
1.2.3 Tác giả Phượng Vũ trong dòng văn học viết về miền núi
Hơn nửa thế kỉ qua, dòng văn học viết về đề tài miền núi đã có những đóng góp
đáng kể cho sự nghiệp phát triển văn học Việt nam. Với những đóng góp của các nhà
văn tên tuổi như Tô Hoài với “Vợ chồng A Phủ”; Thu Bồn với “Bài ca chim Chơ rao”,
Ma Văn Kháng với “Xa Phủ”, “Đồng bạc trắng hoa xòe”, Cao Duy Sơn với “Đàn
trời”, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với “Những ngọn gió Hua Tát”…Thì mảnh đất Hà
Tây (cũ) có nhà văn Phượng Vũ cũng có nhiều đóng góp cho văn chương hiện đại nói
27
chung và đặc biệt văn chương miền núi, nhất là người Mường Hòa Bình với tiểu thuyết
Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh và một số nghiên cứu khác.
Ông nổi tiếng với bộ tiểu thuyết Đất Mường sau đổi là Hoa hậu xứ Mường và
Vương quốc ảo ảnh được ra đời vào năm 1984. Sau cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc văn chương nhanh chóng tìm được nguồn cảm hứng mới, hướng thể hiện mới đó là
cuộc hồi sinh kì diệu, như Hoài Thanh nói “cuộc tái sinh mầu nhiệm”của đất nước và
con người. Nhà văn Phượng Vũ cũng bắt nguồn từ cảm hứng đó đã tìm đến văn học
miền núi để dồn tâm huyết cho việc tái sinh lại những sự kiện tại đất Mường sau cách
mạng tháng 8 năm 1945, hai thuyết là sự hiện thực hóa các vấn đề mà nhà văn còn trăn
trở. Với sự thay đổi của đất nước ảnh hưởng đến đồng bào miền núi, đặc biệt dân tộc
Mường Hòa Bình. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống phong phú, sự hiểu biết sâu
rộng về vùng đất, dân tộc Mường. Ông đã thể hiện được một cách chân thật, sinh động
những nỗi đau thương, khổ nhục của người dân dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù
thực dân phong kiến. Phượng Vũ đã xây dưng được một số nhân vật sinh động đại diện
cho cả hai mặt, phản ánh đúng tính chất, đặc điểm tính vùng miền. Điểm đáng chú ý
nhất trong các tiểu thuyết này của ông là hàng loạt những chi tiết đầy giá trị về mặt dân
tộc học, văn hóa Mường Hòa Bình ở mọi mặt đời sống, tâm tình đã được tái hiện, sinh
động và chân thực. Chính kho dữ liệu đồ sộ này về văn hóa Mường trong tiểu thuyết
của ông có một giá trị đặc biệt trong việc hiểu con người văn hóa Mường Hòa Bình.
Bên cạnh hai tiểu thuyết Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh,
Phượng Vũ còn có đóng góp vào văn chương miền núi với nghiên cứu Người
Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi. Đây là cuốn sách, là một công trình
nghiên cứu của nhiều tác giả, mà Phượng Vũ là chủ biên. Cuốn sách nghiên cứu
nền văn hoá cổ Mường Bi, kết đọng vốn liếng vật chất, tinh thần của nhiều thời
đại lịch sử đã đi qua: Văn hoá cổ truyền, dân ca tục ngữ, truyện cổ. Ngoài ra, ông
cũng có nhiều bài đăng báo thể hiện sự quan tâm, nghiên cứu về đề tài miền núi
như Cuộc vận động viết về vùng dân tộc miền núi.
Người ta nói: “Dao có mài mới sắc”, với sự cần mẫn, bền bỉ, dẻo dai, không
ngừng học hỏi và sự tích lũy, tự vượt mình để sáng tạo đó chính là điều làm nên bản
lĩnh và tài năng nghệ thuật của Phượng Vũ. Với những thành tựu to lớn đã đạt được
sau gần nửa thế kỉ sáng tạo nghệ thuật, Phượng Vũ xứng đáng là một trong những
cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, là tấm gương lao động nghệ
28
thuật cho văn nghệ sĩ. Mong sao người đọc hiện nay và mai sau có lẽ sẽ biết đến tên
tuổi và những đóng góp to lớn của Phượng Vũ đối với nền văn chương dân tộc, đặc
biệt văn chương viết về miền núi qua những sáng tác của ông.
Tiểu kết chương 1
Nghiên cứu bản sắc dân tộc trong văn học là làm rõ bản sắc của những cái
thuộc về căn tính tự nhiên, ít thay đổi. Còn nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa
là lấy góc nhìn văn hóa làm điểm tựa để soi chiếu tác phẩm văn học. Chương một,
luận văn đã làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa văn học đồng thời tìm hiểu khái quát
con người và những đóng góp to lớn của nhà văn Phượng Vũ vào sự nghiệp phát
triển văn hóa, văn học.
Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa luôn có mối quan hệ khăng khít. Vì
vậy, văn học không chỉ là bộ phận của văn hóa, chịu sự chi phối trực tiếp của văn
hóa mà còn là một phương tiện để lưu giữ và truyền tải văn hóa. Trong hai tiểu
thuyết của Phượng Vũ, văn hóa Mường hiện lên gắn với một không gian truyền
thống đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngoài làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, luận văn còn sử dụng
phương pháp thống kê những sáng tác của Phượng Vũ để có cái nhìn sơ lược về
những đóng góp của Phượng Vũ ở các thời kì, từ đó người đọc thấy được công lao
to lớn của Phượng Vũ cả về văn hóa và văn học đặc biệt văn hóa dân tộc Mường
Hòa Bình.
29
Chương 2
VĂN HÓA TỘC NGƯỜI TRONG HAI TIỂU THUYẾT CỦA PHƯỢNG VŨ
2.1 Quan điểm, triết lí văn hóa của nhà văn Phượng Vũ.
Từ xưa đến nay có rất nhiều các quan niệm văn hóa khác nhau. Trần Nho
Thìn viết trong Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu, giảng dạy văn học
[37], đã thống kê rất nhiều quan niệm văn hóa của các nhà nghiên cứu như:
Năm 1959, Leslie Alvin White cho rằng văn hóa là biểu tượng, các sự vật,
hiện tượng hay hành động có gắn với năng lực tạo ra biểu tượng của con người.
“Trong nhiều lớp sự vật, hiện tượng mà khoa học hiện đại nghiên cứu có một lớp
chưa có tên gọi. Đó là lớp hiện tượng gắn liền với năng lực cấp cho tư tưởng, hành
động, các sự vật ý nghĩa tượng trưng và năng lực tiếp nhận các biểu tượng vốn là
năng lực chỉ con người mới có. Chúng tôi đề nghị gọi lớp sự vật, hiện tượng gắn liền
với sự biểu tượng hóa là lớp các biểu tượng”[37, tr16]. Với quan niệm này, Leslie
Alvin White coi văn hóa chính là hệ biểu tượng. Dựa vào quan niệm này, ta thấy nhà
văn Phượng Vũ đã dựa vào biểu tượng mà cung cấp cho người đọc về các sự vật,
hiện tượng gắn liền với văn hóa của người Mường Hòa Bình. Những thông điệp về
văn hóa mang chiều sâu của quá khứ tộc người, vùng đất thông qua những hệ thống
hình ảnh phái sinh của biểu tượng trong hai tiểu thuyết của mình. Vậy, biểu tượng
trong thế giới tiểu thuyết của Phượng Vũ ở đây là gì? Chính là các yếu tố vật chất và
tinh thần tạo nên văn hóa của người Mường Hòa Bình như: trống đồng, xanh đồng,
cồng chiêng, thổ cẩm…, còn biểu tượng tinh thần được thể hiện qua các truyền
thuyết, văn học dân gian, các lễ hội như vua Dịt Dàng, cây si…Tất cả các biểu tượng
này đều chứa các hiện tượng văn hóa do con người tạo nên để ghi dấu những nét
riêng biệt của người Mường Hòa Bình trong hai tiểu thuyết của ông.
Hofstede lấy hình ảnh các lớp của vỏ của củ hành để hình dung các thành tố
của văn hóa. Lớp vỏ ngoài cùng là biểu tượng (symbol), lớp tiếp theo nữa là các
nhân vật tiêu biểu (heroes), lớp vỏ thứ ba là nghi lễ (ritual) và lớp nữa thuộc về
quan niệm về giá trị (value) [27, tr 17]. Có lẽ quan niệm này rất đồng quan điểm về
văn hóa của Phượng Vũ, vì thế, hình ảnh các lớp củ hành đã lần lượt hiện ra ở hai
tiểu thuyết Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh. Đầu tiên ta đọc Hoa hậu xứ
Mường, ta cảm nhận được văn hóa Mường hiện lên trong văn hóa sinh hoạt của nhà
30
lang đạo, rồi từ đó mở ra những nét văn hóa khác nhau trong các biểu tượng, như
cảnh quan nhà lang, như văn hoa cạp váy, như ăn uống, tín ngưỡng, lễ hội, cồng
chiêng… của người Mường. Với Phượng Vũ, biểu tượng văn hóa vừa mang biểu
hiện của sự vật có tính vật chất như trống đồng, xanh đồng, cồng chiêng, nhà sàn
thể hiện quyền lực, giầu có… của nhà lang, thì biểu tượng văn hóa còn mang chức
năng biểu hiện một tư tưởng, một ý nghĩa trừu tượng đó là những cái không có tính
vật chất như lễ hội, lễ cụng mùa, lễ kéo si, hát …và từ biểu tượng văn hóa vật chất
và tinh thần ta cảm nhận được những giá trị văn hóa của người Mường thông qua
biểu tượng đó. Đúng như Trần Nho Thìn đã nhận xét: Một biểu tượng có thể chứa
đựng nhiều nghĩa và một nghĩa có thể được diễn tả bằng nhiều biểu tượng [37,
tr18]. Mỗi một biểu tượng là một tự sự về văn hóa, có cả một lịch sử đứng sau nó và
từ lịch sử đó chúng ta hiểu về sự việc, con người, xã hội, dân tộc. Hình ảnh xanh
đồng được nhà văn Phượng Vũ giới thiệu khi miêu tả về quyền thế của nhà lang.
Xanh đồng đặt trên trụ nằm giữa trung tâm của khu nhà lang, xanh đồng rất to, về
sự vật con người ta có thể nhìn thấy và có thể dùng như một vật dụng của cuộc sống
mà như nhà văn nói: có thể luộc ba con trâu một lúc. Ngoài ra, hình ảnh xanh đồng
này còn biểu tượng cho quyền lực, giầu có, quyền thế của nhà lang. Hay, hình ảnh
cồng chiêng cũng biểu tượng trong văn hóa Hòa Bình, cũng được Phượng Vũ giới
thiệu trong tiểu thuyết của mình với tư cách là vật dụng biểu tượng quyền uy của
các nhà lang trong những ngày lễ, tết…Trong đời sống xã hội Mường, cồng chiêng
đảm nhiệm một vai trò rất quan trọng và có tác dụng về nhiều mặt như: để gây
không khí rộn rã, tưng bừng, náo nhiệt trong hội hè, xắc bùa, cưới xin, đón rước…,
trang nghiêm trong cúng bái, buồn thảm trong tang lễ. Cồng chiêng còn thay mệnh
lệnh, như chiêng triệu tập, hiệu lệnh. Cồng chiêng còn tăng uy thế, khích lệ lòng
dũng cảm, gây hào hứng động viên trong các cuộc đi săn, kéo gỗ…Cồng chiêng còn
tượng trưng cho quyền lực như chiêng nhà lang, chiêng nhà thờ, chiêng mo. Hay
những tri thức dân gian được từ đời này sang đời khác cũng được Phượng Vũ góp
nhặt và đưa vào trong tiểu thuyết của mình, chẳng hạn như biểu tượng cây si. Bởi
lẽ, cây si xuất hiện trong truyền thuyết lí giải nguồn gốc người Mường, cây si có vị
trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người Mường nên cây si là biểu tượng
cho sự may mắn, nên hẹn hò yêu nhau cũng ở gốc si, muốn khỏi ốm thì cúng si,
muốn thoát cảnh nghèo đói cũng cúng si. Cây si là vật biểu tượng cho yếu tố tinh
31
thần, là cây bản mệnh cho dân tộc Mường mà Phượng Vũ đã nắm bắt đưa vào tiểu
thuyết làm biểu tượng cho văn hóa Mường Hòa Bình ở phương diện tinh thần.
Như vậy, với quan niệm và triết lí văn hóa của Phượng Vũ có lẽ là lấy cái
biểu hiện chính là biểu tượng chứa đựng văn hóa Hòa Bình để biểu hiện những quy
ước của một cộng đồng văn hóa. Vì vậy, văn hóa Mường Hòa Bình hiện lên trong
tiểu thuyết của Phượng Vũ một cách tự nhiên chứa đựng nhiều ý nghĩa.
2.2 Xứ Mường Hòa Bình
Hòa Bình từ lâu đời được coi là vùng đất cổ người Mường, ở đây có các
Mường lớn như Bi, Vang, Thàng, Động và nhiều Mường nhỏ châu tuần. Xứ Mường
Hòa Bình xa xưa được biết đến một chỉnh thể địa lý tộc người mang đậm bản sắc
văn hóa Mường. Người ta biết đến tỉnh Hòa Bình với hình ảnh con sông Đà hung
dữ và trữ tình trong áng văn của Nguyễn Tuân, họ còn biết đến Hòa Bình với công
trình thủy điện được bắc trên con sông hung bạo và trữ tình đó để cung cấp cho cả
nước dòng điện thắp sáng và còn biết Hòa Bình là cái nôi của văn hóa Đông Sơn.
Xứ Mường Hòa Bình được hình thành từ rất lâu: “từ buổi Chi Quyên Chạp và
Chi Quyên Chò cầu xin Lang Đá Cần lên làm lang các xứ Mường và làm vua vùng
xuôi, dân chúng cư xử chân thành đối với lang. Lang coi dân như con. Cho nên, dân
làng luôn luôn giữ kỉ niệm về những việc làm tốt do viên lang đầu tiên đã đem lại cho
họ”[6, tr.29]. Theo P. Grossin viết trong quyển Tỉnh Mường Hòa Bình thì Lang Đá
Cần là người đầu tiên dạy dân, ông sống vào thời Hùng Vương, ông có công khai phá
vùng Mường, dạy cho dân Mường biết kiếm cái ăn để sống, biết dùng lửa để giữ ấm và
nấu ăn. Thổ lang cũng đã hình thành và phát triển tại đây, trên đất Mường Hòa Bình.
Khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua (năm 968) thì trong nghiệp bá vương của
ông, Đinh Tiên Hoàng được các thổ lang giúp đỡ, nên khi lên ngôi vua, nhà vua đã
chiếu cho các quan lang ở xứ Mường được cha truyền con nối, các lang phải nộp
thuế ba tháng một lần, các quan lang còn thay nhau vào chầu vua, mỗi người chầu
ba tháng một lần [6, tr.30].
Đến Thời vua Lê Đại Hành, quan lang nộp thuế cho vua bằng cống vật, vua
cũng ban tước hiệu cho quan lang như các triều đại trước, con trai trưởng được làm
lang cun, con trai thứ được làm thổ đạo.
Dưới thời Lý Thánh Tông, các thổ lang giúp vua đánh giặc, quan lang cũng
được thưởng nhiều tước hiệu như: công, hầu, bá, chỉ huy sứ, kinh lược sứ, phụng
32
ngự sử, phò mã…vua còn sai thợ đúc nhiều trống đồng để cho các thổ lang, thế nên
chiếc trống đồng cũng được coi là biểu tượng của các nhà lang, sự sở hữu trống
đồng chứng tỏ chủ của nó là thổ lang.
Dưới thời Hồ Quý Ly, thì bắt tất cả các thổ lang, thổ ty, phụ đạo, đàn bà con
gái, của cải về chầu vua.
Thời Mạc Đăng Dung, có sắc chỉ ban tước hiệu và đặc quyền cho các lang,
có quan lang theo giúp đỡ vua được ban chức “Cẩm thị vệ”
Thời Lê- Trịnh, các thổ lang chỉ khi nào có lệnh mới phải về chầu vua.
Khi nhà Tây Sơn lên ngôi thì các thổ lang, thổ thổ ty, phụ đạo phải đích thân
vào lạy và mừng nhà vua. Các tước hiệu, thưởng vật cũng được hưởng như thời Lê
[6, tr. 32].
Dưới thời Thế tổ Cao Hoàng Đế, các thổ lang, thổ ty và phụ đạo ở khắp nước
vào mừng nhà vua, vua ban thưởng chức tước và đặc ân như thời Lê.
Năm thứ 14 dưới triều vua Minh Mạng, tả quân Lê Văn Duyệt đã xúi các thổ
lang làm loạn. Thổ lang làng Sơn Âm, làng Yên Lương thuộc tổng Chiêm Hóa, châu
Lạc Thủy là Quách Tất Công xúi dục các thổ lang Lạc Sơn, Quảng Tô, … chống lại
chính phủ Nam Triều, tái lập nhà Lê cho một người con cháu nhà hậu Lê, đó là Lê Duy
Lương đang ẩn náu vùng Lạc Sơn. Triều đình đã cử Hà Duy Phiên làm chánh khâm sai
và Tạ Quang Cự làm phó khâm sai, đi bắt Quách Tất Công và các thổ lang ở Mường Bi
và đưa người đứng đầu cuộc nổi loạn về triều đình quy thuận chứ không giết. [6, tr.33]
Sau cuộc nổi loạn này, nhà vua đã tước bỏ mọi đặc quyền của các thổ lang và
phụ đạo, song dân chúng vẫn yêu thương, trung thành, đùm bọc và che chở còn giấu
các quan lang vào rừng.
Triều đình Minh Mạng năm thứ 18, châu Lạc Sơn gồm 24 làng, nhưng các
xóm của các làng nơi đây lại lớn nên bị chia nhỏ thành 50 làng. Làng Sơn Âm, nơi
mà các thổ lang nổi loan chống lại triều đình dân đều bị đuổi đi hết, mãi sau này
mới được trở về làng cũ.
Khi Tự Đức lên ngôi mới phục hồi các quyền và đặc ân cho các thổ lang và
được ban thưởng các chức lãnh binh.
Sau này, người Mường cùng nhân dân cả nước tham gia bảo vệ và lao động
xây dựng đất nước. Đến thời kì Pháp thuộc, người Pháp vẫn trọng dụng họ đặc biệt
các quan lang vẫn cho họ được giữ các chức vụ và đặc quyền.
33
Tỉnh Mường Hòa Bình được thành lập vào năm 1884, nhưng lúc bấy giờ
chưa có cuộc sống riêng biệt, đến ngày 27/ 1/ năm 1886 bãi bỏ tình trang phong tỏa
xứ Bắc Kì, và quyết định ngày 24/5/ 1886 của quan toàn quyền Paul Bert tạm chấp
thuận cho riêng xứ Mường được quyền tự quyết định về mặt quân sự [6, tr.35].
Ngày 22/6/1886 tỉnh Mường ra đời nhằm duy trì xứ Mường ở vùng núi phía
Tây đồng bằng, và các tỉnh phía tây nam xứ Bắc kì, có một chế độ tự trị rõ ràng,
tỉnh Mường bao gồm các vùng đất Mường thuộc các tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây, Hà
Nội, Ninh Bình. Các quan của tỉnh được lựa chọn trong các gia đình quyền quý của
xứ Mường, giữ các chức như án sát, bố chánh, lãnh binh hay đề đốc. Lỵ sở là Chợ
Bờ (Hòa Bình) là nơi đóng dinh của quan tuần phủ Mường và các nhà chức trách
của tỉnh. Ngày 29/11/1886 tòa phó sứ quyết định chuyển li sở từ Chợ Bờ về Phương
Lâm (nay là trung tâm thành phố Hòa Bình), lúc này ông Paul Bert chết đột ngột ở
Hà Nội vào ngày 11/11/1886,nên ngày 29/11/1886 ông Moulié phó sứ hạng hai
được chỉ định nắm quyền chỉ đạo tỉnh này[6, tr.36,37].
Ngày 29/11/1896, tỉnh lỵ tỉnh Mường chính thức được chuyển về đóng tại
Phương Lâm Hòa Bình, phía bờ trái sông Đà, đối diện với Phương Lâm. Từ đó, tỉnh
Mường được gọi là tỉnh Hòa Bình với 4 châu: Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn và Mai
Đà (Huyện Lạc Thủy lúc này thuộc châu Lạc Sơn).
Năm 1908 chuyển về tỉnh Hà Nam. Từ đó, địa giới hành chính cơ bản ổn định.
Đến tháng 5/1953, huyện Lạc Thủy cùng một số xã thuộc Nho Quan, Ninh
Bình chuyển về tỉnh Hòa Bình.
Từ năm 1950, các châu được đổi thành huyện và các đơn vị hành chính
huyện của tỉnh Hòa Bình.
Ngày 27/12/1975, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa V đã ra nghị quyết hợp nhất
tỉnh Hòa Bình với tỉnh Hà Tây thành tỉnh Hà Sơn Bình. Và theo Nghị quyết của Quốc
hội khóa VIII kỳ họp thứ 9, ngày 12/8/1991, tỉnh Hà Sơn Bình tách ra thành 2 tỉnh Hòa
Bình và Hà Tây. Khi đó, tỉnh Hòa Bình có diện tích 4.697 km với dân số 670.000
người gồm 10 đơn vị hành chính: 1 thị xã Hòa Bình và 9 huyện: Đà Bắc, Mai Châu,
Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thủy, Kim Bôi, Tân Lạc, Yên Thủy.
Như vậy, trên đây đã khái quát một cách sơ lược về một vùng Mường, tỉnh
Mường Hòa Bình. Nhìn một cách tổng thể, người Mường không có một nền hành
chính tự trị, cũng không có biên giới tự nhiên. Và họ lựa chọn các cao nguyên và
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 nataliej4
 
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Garment Space Blog0
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC nataliej4
 
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐlongvanhien
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơlongvanhien
 
Người phụ nữ Thái trong truyện thơ của dân tộc Thái ở Tây bắc
Người phụ nữ Thái trong truyện thơ của dân tộc Thái ở Tây bắcNgười phụ nữ Thái trong truyện thơ của dân tộc Thái ở Tây bắc
Người phụ nữ Thái trong truyện thơ của dân tộc Thái ở Tây bắclongvanhien
 
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...nataliej4
 
đặC sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của nguyễn tuân (1)
đặC sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của nguyễn tuân (1)đặC sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của nguyễn tuân (1)
đặC sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của nguyễn tuân (1)https://www.facebook.com/garmentspace
 
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...jackjohn45
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồnghttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuTh s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuhttps://www.facebook.com/garmentspace
 

Mais procurados (17)

Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
 
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
 
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
 
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAYLuận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
 
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh NiêLuận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
 
Luận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAY
Luận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAYLuận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAY
Luận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAY
 
Người phụ nữ Thái trong truyện thơ của dân tộc Thái ở Tây bắc
Người phụ nữ Thái trong truyện thơ của dân tộc Thái ở Tây bắcNgười phụ nữ Thái trong truyện thơ của dân tộc Thái ở Tây bắc
Người phụ nữ Thái trong truyện thơ của dân tộc Thái ở Tây bắc
 
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...
 
đặC sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của nguyễn tuân (1)
đặC sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của nguyễn tuân (1)đặC sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của nguyễn tuân (1)
đặC sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của nguyễn tuân (1)
 
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuTh s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
 

Semelhante a Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ

KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...NuioKila
 
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gianSkkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân giannataliej4
 
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ nataliej4
 
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdfGiáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdfNguynNgcMai33
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.ssuser499fca
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.ssuser499fca
 
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdfThi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdfNuioKila
 

Semelhante a Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ (20)

KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
 
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đạiLuận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
 
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gianSkkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
 
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
 
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdfGiáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và InrasaraLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAYLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
 
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơiNghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
 
Quan Niệm Nghệ Thuật Về Con Người Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Bình Phương Nhìn T...
Quan Niệm Nghệ Thuật Về Con Người Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Bình Phương Nhìn T...Quan Niệm Nghệ Thuật Về Con Người Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Bình Phương Nhìn T...
Quan Niệm Nghệ Thuật Về Con Người Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Bình Phương Nhìn T...
 
Khóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAY
Khóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAYKhóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAY
Khóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAY
 
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdfThi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
 
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
 
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quêLuận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
 
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
 
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh MaiLuận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
 
Đặc Điểm Văn Xuôi Tự Sự Trung Đại Việt Nam (Thế Kỷ Xv - Xvii).doc
Đặc Điểm Văn Xuôi Tự Sự Trung Đại Việt Nam (Thế Kỷ Xv - Xvii).docĐặc Điểm Văn Xuôi Tự Sự Trung Đại Việt Nam (Thế Kỷ Xv - Xvii).doc
Đặc Điểm Văn Xuôi Tự Sự Trung Đại Việt Nam (Thế Kỷ Xv - Xvii).doc
 

Mais de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Mais de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Último

powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 

Último (20)

powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 

Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ TIỂU THUYẾT “HOA HẬU XỨ MƯỜNG”VÀ “VƯƠNG QUỐC ẢO ẢNH” CỦA PHƯỢNG VŨ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MẠNH TIẾN Hà Nội - năm 2019
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy giáo TS. Nguyễn Mạnh Tiến hướng dẫn. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học cũng như nội dung trích dẫn các tài liệu Luận văn Hà Nội, ngày 18 tháng 8 năm 2019 Học viên Nguyễn Thị Ngọc Hà
  • 3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo trong Học viện khoa học xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập tại Học viện. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy, cô giáo trong khoa Văn học, cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến thầy TS. Nguyễn Mạnh Tiến, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo và luôn động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Sự chỉ bảo tận tâm của thầy đã mang lại cho tôi hệ thống các phương pháp, kiến thức cũng như kỹ năng hết sức quý báu để hoàn thiện đề tài một cách tốt nhất. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn những người thân, gia đình và bạn bè, cơ quan nơi tôi công tác đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi để tôi có thể học tập đạt kết quả tốt và thực hiện thành công luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 18 tháng 8 năm 2019 Học viên Nguyễn Thị Ngọc Hà
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1 MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC – VĂN HÓA VÀ TÁC GIẢ PHƯỢNG VŨ ............................................................................................................6 1.1. Hướng tiếp cận văn hóa .......................................................................................6 1.2. Khái lược sáng tác của Phượng Vũ....................................................................21 Chương 2 VĂN HÓA TỘC NGƯỜI TRONG HAI TIỂU THUYẾT CỦA PHƯỢNG VŨ ..........................................................................................................29 2.1. Quan điểm, triết lí văn hóa của nhà văn Phượng Vũ .........................................29 2.2. Xứ Mường Hòa Bình .........................................................................................31 2.3. Không gian văn hóa Mường Hòa Bình ..............................................................34 2.4. Con người văn hóa .............................................................................................43 Chương 3 CÁC BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA VÀ NGÔN NGỮ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA PHƯỢNG VŨ...............................................................................55 3.1. Các biểu tượng văn hóa......................................................................................55 3.2. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Phượng Vũ ......................................................67 3.3. Giọng điệu trong tiểu thuyết của Phượng Vũ ....................................................76 KẾT LUẬN..............................................................................................................81 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học là một hiện tượng văn hóa, những tác phẩm văn học tiêu biểu cho những giá trị văn hóa dân tộc, cốt tính dân tộc. Văn học có khả năng nhận thức, phản ánh, truyền tải, lưu giữ, kiến tạo các giá trị văn hóa và nâng văn hóa lên tầm cao mới. Mối quan hệ văn học - văn hóa là mối quan hệ gắn bó khăng khít và không thể tách rời như trên với dưới, như trong với ngoài. Ở mỗi dân tộc, mỗi vùng đất trên thế giới đều xây đắp cho mình bản sắc văn hóa riêng. Bản sắc văn hóa của dân tộc nào là chính gương mặt của dân tộc đó và được thể hiện qua những tác phẩm văn học cụ thể. Hướng tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa không phải là một hướng tiếp cận mới, nói như Đỗ Lai Thúy “cũ như trái đất”. Nhưng, so với các hướng tiếp cận khác thì đây vẫn là một hướng tiếp cận tác phẩm văn học ra đời muộn hơn ở nước ta. Tuy nhiên, văn học từ góc nhìn văn hóa giúp chúng ta có khả năng khai thác sâu giá trị nội tại của các tác phẩm, có cái nhìn vừa bao quát, sâu sắc toàn diện về đời sống văn hóa của cả cộng đồng dân tộc. Vì thế, các nhà nghiên cứu thấy được tính khả dụng của nó đã chọn cách tiếp cận này để hiểu sâu về văn hóa của các vùng, miền qua văn học. Muốn tìm hiểu về người Mường, nhất là vùng Mường Hòa Bình tôi đã chọn cách tiếp cận văn hóa qua tác phẩm văn học chính là một cách mở chìa khóa vào nền văn hóa Việt – Mường có ảnh hưởng rất lớn với quốc gia Việt Nam đa tộc người. Văn chương viết về xứ Mường, ở những tác phẩm đỉnh cao, đồ sộ có những đóng góp không thể bỏ qua mà Phượng Vũ chính là một tiểu thuyết gia tiêu biểu nhất đã thành công khi viết về người Mường và xứ Mường. Với hai tác phẩm lớn là Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh, Phượng Vũ đã kể về những sự kiện và nhân vật ở xứ Mường trước và sau những ngày Cách mạng tháng 8/1945, kéo dài đến 1954, thời khắc quan trọng khi giới lang đạo cai trị vùng Mường đã sụp đổ hoàn toàn. Xứ Mường sau đó bước vào chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa. Tác giả đã xây dựng được một bức tranh văn hóa Mường rộng lớn, với một số nhân vật sinh động có nội tâm và tính cách riêng, nhất là về bản chất của giới quan lang, xã hội với những luật lệ hà khắc đè nặng lên cuộc sống và tâm hồn người nông dân miền núi.
  • 6. 2 Tác phẩm thông qua phản ánh sự biến chuyển cách mạng trong các tầng lớp quần chúng nông dân Mường trong và sau cách mạng tháng 8. Quá trình của những cán bộ Việt Minh, cán bộ Đảng thâm nhập vào quần chúng nhân dân, những người nông dân Mường đã trưởng thành, trở thành cốt cán của phong trào, có khả năng đương đầu với bọn quan lang âm mưu khôi phục lại "uy quyền”của quan lang ở nơi đây. Thông qua câu chuyện lịch sử đầy biến cố về xứ Mường,tiểu thuyết của Phượng Vũ đã tái hiện lại sinh động địa lý phong tục vùng Mường Hòa Bình, một bức tranh sinh hoạt thường ngày, tâm tình con người Mường… mà thông qua đó, người đọc có được hiểu biết về xứ Mường. Tiểu thuyết của Phượng Vũ đã làm rất tốt công việc của văn chương dân tộc chí. Mặc dù với hàng ngàn trang viết sâu sắc về người Mường, xứ Mường được giới dân tộc học đánh giá cao và coi như tư liệu tham khảo, nhưng tiểu thuyết của Phượng Vũ lại chưa hề có một nghiên cứu chuyên sâu và công phu nào về ông và tác phẩm của ông. Vì vậy, đề tài này tôi tiến hành nghiên cứu, nhằm ít nhiều đóng góp vào sự hiểu biết về văn hóa Mường qua tác phẩm của Phượng Vũ, đóng góp vào nghiên cứu nền văn chương dân tộc chí còn ít được để ý ở Việt Nam hiện nay. 2. Lịch sử vấn đề 2.1 Nghiên cứu về văn học ở góc nhìn văn hóa đã được hình thành và phát triển trên thế giới đã lâu, hướng nghiên cứu này nảy sinh từ những năm 50 ở Anh,Đức,Pháp sau đó lan sang Úc, Mĩ, Canada,…Nghiên cứu trọng tâm hơn của E.B. Tylor trong cuốn Văn hóa nguyên thủy xuất bản tại London năm 1871 đến những nghiên cứu của Kroeber và C.Kluckhohn năm 1952, đưa ra những quan điểm về văn hóa trong cuốn sách: Văn hóa – tổng luận phê phán các quan điểm và định nghĩa. Đến nghiên cứu của M.Bakhtin về văn hóa văn học trong những công trình tiêu biểu của ông như Sáng tác của François Rabelais và văn hóa dân gian thời Trung cổ và Phục hưng (1965) đã khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa và văn học. Phương pháp nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ngày càng nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa, văn học trên thế giới. 2.2 Ở Việt Nam các tác giả như: GS. Đặng Thai Mai, GS. Đào Duy Anh, GS. Nguyễn Văn Huyên, nhà phê bình văn học Hoài Thanh, GS. Phan Ngọc, GS.
  • 7. 3 Trần Đình Hượu, GS. Phạm Vĩnh Cư, GS. Trần Đình Sử, … đã đặt những nền móng đầu tiên cho việc nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa khi xem tác phẩm như một cấu trúc văn hóa, kí hiệu văn hóa, văn bản của văn hóa và đặt trong mối tương quan so sánh với văn hóa. Hiện nay nhà nghiên cứu phê bình văn học Đỗ Lai Thúy cũng đi theo hướng phê bình dưới góc độ văn hóa có phần sáng tạo và sinh động hơn làm tiền đề cho những nghiên cứu trẻ sau này. Nhờ có những công trình mở đường của các bậc tiền bối về văn học từ góc nhìn văn hóa mà sau này có nhiều người nghiên cứu mạnh dạn áp dụng phương pháp tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa cho các công trình nghiên cứu của mình như: Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, PGS. TS Lê Nguyên Cẩn, Nxb Thông tin và Truyền thông, 2011; Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hóa, Luận án Tiến sĩ, Lương Minh Chung, Học viện Khoa học Xã hội, 2012; Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa, Luận án Tiến sĩ, Đỗ Thị Ngọc Chi, Học viện Khoa học Xã hội, 2013; Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa qua trường hợp tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Phùng Phương Nga, Học viện Khoa học Xã hội, 2017. 2.3 Phượng Vũ (Nguyễn Phương Tú) từ một thầy giáo với niềm đam mê sáng tác văn chương, ông đã đến với văn học và có nhiều đóng góp ở nhiều thể loại. Tác phẩm đầu tay của ông là Người nữ trưởng ga đạt giải ba trong cuộc thi sáng tác văn chương do Tạp chí Văn nghệ tổ chức. Sau này, ông sáng tác nhiều truyện ngắn khác và thành tập có tên như: Người mẹ và những đứa con (NXB Hội nhà văn 1996). Nếu như tác phẩm Người nữ trưởng ga kể về sự trưởng thành và quyết tâm tự khẳng định mình của một cô gái miền Nam tập kết, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp của mình thì bộ tiểu thuyết Đất Mường với hai quyển Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh, Phượng Vũ cho người đọc những số phận người dân miền núi vượt lên trên hoàn cảnh với những luật lệ hà khắc của chế độ lang đạo, thực dân để giải phóng chính mình. Qua đó, ta thấy sự chuyển biến cách mạng trong tầng lớp quần chúng trong và sau Cách mạng Tháng 8. Nhờ sự soi sáng của Đảng và cách mạng có những người dân đã giác ngộ sớm và trở thành cốt cán của phong trào cách mạng của vùng Mường Hòa Bình.
  • 8. 4 Phượng Vũ đã có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học nước nhà, là người thúc đẩy nêu gương cho phong trào sáng tác, là người in dấu đậm nét cho nền văn học viết về cuộc sống mới, con người mới đặc biệt vùng dân tộc Mường Hòa Bình. Những trang viết của ông đã phản ánh được mặt xấu của xã hội từ truyện ngắn đến tiểu thuyết đồng thời cũng có những ca ngợi những nhân vật có ý chí, nghị lực vượt lên trên những khó khăn trước mắt, hòa mình trong nhưng không khí cách mạng chung của dân tộc để giải phóng bản làng, đất nước. Tuy có những đóng góp như thế nhưng những nghiên cứu, bài viết về sáng tác Phượng Vũ còn hạn chế - mới chỉ một số bài bài báo nhỏ lẻ, chưa có những nghiên cứu chuyên sâu, xứng tầm về sáng tác của ông. Với đề tài này tôi mong muốn đóng góp chút công sức để hiểu sâu hơn về sáng tác của Phượng Vũ nhìn từ góc độ văn hóa qua hai tiểu thuyết quan trọng Hoa hậu xứ Mườngvà Vương quốc ảo ảnh. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài: Tiểu thuyết “Hoa hậu xứ Mường”và“Vương quốc ảo ảnh”của Phượng Vũ nhìn từ góc độ văn hóa” được triển khai nhằm những mục đích chính sau: - Giới thiệu khái quát về tiểu sử và con đường văn chương của tác giả Phượng Vũ. - Khẳng định mối quan hệ giữa văn hóa - văn học. - Hiểu về văn hóa xứ Mường thông qua hai sáng tác của nhà văn. - Khẳng định nét độc đáo các biểu tượng văn hóa và ngôn ngữ trong sáng tác tiểu thuyết của Phượng Vũ. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Hai tiểu thuyết“Hoa hậu xứ Mường”và “Vương quốc ảo ảnh”của Phượng Vũ. - Con người và văn hóa Mường Hòa Bình 5. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng kết hợp các phương pháp chính sau: - Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Nhìn từ văn hóa để tìm thấy những mối quan hệ phức hợp giữa văn hóa và văn học, sử dụng tri thức văn hóa để minh giải các nội dung phản ánh văn học, ở đây là hai tiểu thuyết của Phượng Vũ.
  • 9. 5 - Phương pháp thi pháp học: để nhìn thấy bản chất sáng tạo nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Phượng Vũ. - Phương pháp so sánh: So sánh dữ liệu văn hóa được phản ánh trong tiểu thuyết với các tư liệu dân tộc học, sử học về xứ Mường Hòa Bình. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Để lí giải các hiện tượng văn học từ văn hóa, luận văn tất yếu cần vận dụng kết hợp tri thức liên ngành như văn hóa học, nhân học, ngôn ngữ học, xã hội học… 6. Đóng góp của luận văn - Ý nghĩa lí luận: Tiếp tục phát triển và khẳng định tính khả dụng của hướng nghiên cứu văn học nhìn từ góc độ văn hóa, nghiên cứu văn học như một sự kiện xã hội tổng thể. - Về thực tiễn: + Tìm hiểu về vùng đất, con người, văn hóa Mường và hai tiểu thuyết của Phượng Vũ “Hoa hậu xứ Mường”và “Vương quốc ảo ảnh”. + Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những nhà nghiên cứu, nhà giáo hoặc sinh viên, học sinh cũng như các bậc phụ huynh quan tâm tới sáng tác của Phượng Vũ và văn chương viết về tộc người thiểu số. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết thúc và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn triển khai thành 3 chương như sau: Chương 1: Mối quan hệ giữa văn học – văn hóa và tác giả Phượng Vũ Chương 2: Văn hóa tộc người trong hai tiểu thuyết của Phượng Vũ Chương 3: Các biểu tượng văn hóa và ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Phượng Vũ.
  • 10. 6 Chương 1 MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC – VĂN HÓA VÀ TÁC GIẢ PHƯỢNG VŨ 1.1 Hướng tiếp cận văn hóa 1.1.1 Tiếp cận văn học từ văn hóa Đã từ rất lâu, văn học đã từng tồn tại dưới dạng nguyên hợp, bất phân giữa văn và tôn giáo, tín ngưỡng, triết học, sử hoc, trên nhữngbình diện tư tưởng và tình cảm. Vì thế, văn học luôn tồn tại những yếu tố văn hóa. Như PGS.TS Đoàn Đức Phương khẳng định trong chuyên luận Phương pháp nghiên cứu văn học, phương pháp tiếp cận văn hóa học là vận dụng những tri thức về văn hóa để nhân diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác phẩm. Còn Trần Nho Thìn viết trong cuốn Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng dạy văn học như sau: “Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa không đơn giản chỉ dừng lại ở việc giải mã các nghĩa của biểu tượng mà chủ yếu phải phân tích đời sống của biểu tượng trong xã hội, trong văn học, phân tích sự vận động của biểu tượng trong tiến trình lịch sử. Đến lượt mình, biểu tượng không tồn tại độc lập mà thể hiện quan niệm về nghĩa, về giá trị của mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi tầng lớp”[37, tr.29]. Như vậy, nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa không chỉ tìm đến các biểu tượng để nhận diện giải mã mà biểu tượng luôn tồn tại các quan niệm về nghĩa, về về giá trị của thời đại dân tộc, tầng lớp nữa, từ đó chúng ta đặt ra nhiệm vụ đối chiếu so sánh truy nguyên các quan niệm văn hóa ở các thời đại, ở những thời điểm lịch sử nơi mà sản sinh ra tác phẩm và để tìm nguồn gốc của dạng thức quan niệm về con người, về không gian, thời gian được thể hiện trong tác phẩm văn học. Vậy, khi nghiên cứu, chúng ta xem xét, đánh giá một hiện tượng văn học, thì phương pháp tiếp cận văn hóa học có những tiêu chí tương ứng về quan niệm, xã hội, các kiểu hình tượng xã hội được thể hiện trong văn học. Bên cạnh quan niệm xã hội, và các kiểu hình tượng xã hội thì không gian tồn tại của con người dưới góc độ văn hóa, quan hệ của con người với thiên nhiên và các hình tượng thiên nhiên, quan niệm về con người gắn với hoàn cảnh cụ thể cũng được nghiên cứu xem xét. Thế nên, văn học tồn tại những yếu tố văn hóa là có từ rất lâu và việc nghiên cứu văn học dưới góc độ văn hóa là rất cần, nó cũng xuất hiện từ lâu như Đỗ Lai Thúy viết trong cuốn phê bình văn học Con vật lưỡng thê ấy trong mục Phê bình văn học từ hệ thống văn hóa ông có viết: “Phê bình văn học từ văn hóa, tự thân nó, là một câu chuyện cũ”[5, tr.241].
  • 11. 7 Nhà nghiên cứu nói “cũ như trái đất” quả là rất đúng, bởi nghiên cứu và phê bình văn học từ hệ thống văn hóa không phải là mới mà đây chính là làm mới một đề tài cũ, và đây không phải là thay đổi bản thân vấn đề mà thay đổi cái nhìn về nó, về văn học từ hệ thống văn hóa. Văn hóa là sức sống nội tại của mỗi dân tộc. Một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là biểu hiện cao nhất của tinh thần độc lập tự chủ, là tiềm năng sáng tạo vô hạn của dân tộc đó. Văn hóa Mường được thể hiện trong tác phẩm văn học Việt Nam cũng vậy. Bởi qua những tác phẩm văn học, văn hóa Mường đã hiện lên làm phong phú cho nền văn học dân tộc ở nhiều mảng khác nhau cả về tinh thần và vật chất. Văn hóa (Trong tiếng Anh và tiếng Pháp là Culture) là khái niệm mang nội hàm rộng có rất nhiều cách hiểu và cách lý giải khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần của con người. Người ta có thể hiểu văn hóa như một hoạt động sáng tạo của con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hóa như là lối sống, thái độ ứng xử, lại cũng có thể hiểu văn hóa như một trình độ học vấn. Theo định nghĩa văn hóa của UNESCO: “Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống và giá trị, tập tục và tín ngưỡng”[35, tr.10]. Khái niệm văn hóa được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, văn hóa đều là đặc trưng của văn hóa tộc người. Theo nghĩa rộng, văn hóa là tổng thể các thành tựu, những giá trị vật chất và tinh thần do các cộng đồng dân tộc sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo tự nhiên và phát triển xã hội, nhằm đảm bảo nhu cầu cuộc sống của con người. Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu, theo chiều rộng, hoặc theo không gian, hoặc theo thời gian…giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hóa như: ăn ở, tục lệ…Còn văn hóa nghệ thuật như: múa hát, hội họa, …) còn giới hạn theo chiều rộng, văn hóa dùng để chỉ trong từng lĩnh vực( văn hóa kinh doanh, văn hóa ứng xử, văn hóa đọc…). Giới hạn theo không gian, văn hóa được dùng chỉ các đặc thùở các vùng, miền khác nhau (miền Bắc, miền Trung, miền Nam hay vùng đồng bằng, vùng miền núi…). Giới hạn theo thời gian như văn hóa Âu Lạc, Đông Sơn…
  • 12. 8 Ở nước ta, năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là là sự tổng hợp của các phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[28, tr.17]. Còn theo nghiên cứu của Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một thể thống nhất các giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn thông qua các mối quan hệ tự nhiên và xã hội”[33, tr.27]. Như vậy, ta thấy văn hóa chính là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác giữa xã hội và con người. Văn hóa đánh dấu trình độ phát triển của con người và của xã hội, được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. Còn văn học, là loại hình nghệ thuật ngôn từ, phản ánh thực tại và những vấn đề của cuộc sống xã hội và con người. Văn học phản ánh tất cả các vấn đề văn hóa như: xã hội, vận mệnh, tiền đồ…của dân tộc, tinh thần của dân tộc. Phương thức truyền tải văn hóa trong văn học chính là bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ văn học rồi hư cấu, xây dựng hình tượng, nội dung các đề tài được biểu hiện trong tác phẩm, nội dung tác phẩm văn học chịu sư quy định của các quan niệm văn hóa. Trong văn bản văn học có ba phương diện (đối tượng) của văn hóa. Thứ nhất: Văn bản văn học phản ánh toàn bộ đời sống cộng đồng dân tộc, trong đó văn hóa như phần hợp thành quan trọng, ta dễ thấy nhất là các hoạt động văn hóa thể hiện trong văn học như: tập tục, lễ hội, lối sống của một cộng đồng, một thời đại nào đó. Thứ hai: Ngôn ngữ với tư cách là chất liệu tạo nên văn bản văn học, ví dụ như lời ăn tiếng nói dân gian hay bác học của nhân vật, cả các hình thức thể loại, các kiểu cốt truyện.
  • 13. 9 Thứ ba: Văn bản văn học khi được công chúng tiếp nhận đã ảnh hưởng, tác động xã hội, đến tâm lí, sở thích cá nhân và cộng đồng, đôi khi tạo nên cả những phong trào xã hội. Hoạt động của nó cũng là một hiện tượng văn hóa. Trong thể loại văn học phản ánh gián tiếp quan điểm cá nhân, tất cả các yếu tố của tác phẩm đều liên quan với nó như tính chất các xung đột, sự phát triển cốt truyện, cả hệ thống hình tượng. Như M. Bakhtin cho rằng, thể loại là nhân vật chính của văn học, sự ra đời và tồn tại của nó có cơ sở ở văn hóa thời đại. Mà văn hóa thời cổ đại của những công xã thị tộc bộ lạc cho ra đời những thể loại thần thoại, với những cuộc chiến tranh giữa chúng làm xuất hiện trong những anh hùng ca như Illiat của Homer. Văn học là một hình thái ý thức xã hội thẩm mĩ, nó bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ một quan điểm, lập trường của nhà văn đối với đời sống xã hội. Nhưng văn học cũng phản ánh hiện thực nhưng là hiện thực trong ý nghĩa khách quan, phổ quát của chủng loại mà nó quan tâm được kết tinh trong sự vật và từ những sự vật đó làm người đọc hiểu theo một nghĩa khác. Ví dụ, nói đến mặt trời, văn học nhiều khi không phản ánh nó giống như một hiện tượng của tự nhiên để chiếu sáng cho con người mà nói đến nó là một hình tượng con người, đầy sự yêu thương kính trọng... Có một mặt trời trong lăng rất đỏ/ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ (Viếng lăng Bác, Viễn Phương). Văn học nói đến trăng không phải với tư cách là một vệ tinh tự nhiên của hệ mặt trời, mà trăng là hiện thân của cái đẹp, là khuôn mặt đẹp, phúc hậu của con người: Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang (Truyện Kiều, Nguyễn Du). Trần Nho Thìn viết trong Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng dạy văn học như sau: cùng một nghĩa, có thể có nhiều biểu tượng khác nhau. Biểu tượng nhân cách nhà nho tài tử ngoài tùng còn cúc, trúc, mai. Khảo sát ca dao, thơ Việt Nam, chúng tôi phân tích các biểu tượng diễn tả sự bị động của người con trai trong tình yêu nam nữ và nhận thấy có những biểu tượng sau: bướm (ong) – hoa, bến – thuyền (đò), sóng – bờ, trâu- cọc… Mặt khác, cùng một sự vật, người ta có thể khai thác các nghĩa biểu tượng khác nhau [37, tr.22]. Như vậy, văn học là một hiện tượng văn hóa, những tác phẩm văn học lớn tiêu biểu cho những giá trị văn hóa dân tộc, cốt tính dân tộc. Chúng ta đều thấy hiện tượng những vị tổng thống Hoa Kì, khi đến Việt Nam trong các phát biểu thường dẫn những câu thơ Kiều hoặc nhắc đến nhà thơ Hồ Xuân Hương, khi sang Nga họ
  • 14. 10 thường nhắc đến L. Tolstoi, M. Dostoevsky. Đó không phải là sự “ngẫu hứng”, đó là sự tôn trọng rất cao đối với văn hóa nước chủ nhà và sự ứng xử lịch lãm, rất văn hóa. Văn học như vậy là một hiện tượng văn hóa đặc biệt. Vì vậy, luận văn này tôi chọn tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa để hiểu phần nào đó về dân tộc của mình, một dân tộc có bề dày lịch sử và góp phần tạo nên những đặc sắc đa dạng trong văn hóa người Việt nói chung và văn hóa người Mường nói riêng qua hai tiểu thuyết của Phượng Vũ Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh. 1.1.2 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học Văn học và văn hóa quan hệ với nhau như bộ phận và toàn thể, như cái hẹp với cái rộng, cái “trên”với cái “dưới”. Văn hóa và văn học đều tồn tại như một hiện tượng của ý thức xã hội và là sự biểu hiện của tinh thần. Nói cách khác chúng đều có tính xã hội về hình thức và nội dung tinh thần, những hiện tượng không thuộc về xã hội, không có ý nghĩa tư tưởng không phải là văn hóa. Văn hóa và văn học đều thể hiện như hệ thống kí hiệu mang nội dung tâm lí, tư tưởng, trong đó kí hiệu của văn học là ngôn ngữ- lời nói (ngôn lời) của con người. Trong công trình Mĩ học sáng tạo ngôn từ, Nxb Nghệ thuật, Maxcova, 1989, tr.329, M.Bakhtin xác định: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa của một thời đại trong đó nó tồn tại”. Văn học được coi là sự “tựý thức văn hóa”[68, tr.2], có nghĩa là trong văn học, luôn bộc lộ rõ nét bản chất của văn hóa một đất nước, dân tộc và những tác phẩm văn học luôn mang trong mình những biểu hiện văn hóa đặc trưng của một vùng, miền của một đất nước, mặc dù người viết có thể không ý thức là phải truyền tải văn hóa vào sáng tác của mình, nhưng văn hóa cứ tồn tại như một lẽ tự nhiên. Theo Trần Lê Bảo, “Văn học chẳng những là một bộ phận của văn hóa, chịu sự chi phối ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa mà còn là một trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa. Văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường văn hóa thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng dân tộc. Cùng với hệ thống giá trị văn hóa là những mô thức văn hóa riêng của một cộng đồng dân tộc, văn học đã tự giác tiếp nhận và thể hiện những giá trị và mô thức mà cả cộng đồng tôn trọng và tuân thủ”[68. tr.5].
  • 15. 11 Còn Trần Đình Sử đã khẳng định: “Văn học là bộ phận quan trọng của văn hoá, sự giàu có của nó về nội dung và hình thức trực tiếp làm giàu cho văn hoá”[49, tr.1]. Cũng theo Trần Đình Sử, việc sáng tạo ra khúc ngâm, truyện Nôm, hát nói, thơ mới, kịch nói, tiểu thuyết và truyện ngắn hiện đại phải được xem “là những hiện tượng sáng tạo văn hoá lớn lao của dân tộc Việt Nam trong thế kỉ XX”[49, tr.3]. Trong văn hóa, văn học có một vai trò rất quan trọng. Văn học vừa giữ gìn, bảo tồn những giá trị văn hóa của dân tộc vừa sáng tạo thêm những giá trị văn hóa mới cho nhân loại. Bởi văn học luôn được coi là tấm gương phản chiếu văn hóa, nhà văn là “người thư ký trung thành của thời đại”(Balzac). Trần Nho Thìn có viết : Văn học xét cho cùng phản ánh hiện thực, những mặt khác, sự phản ánh này không đơn giản như việc cầm một tấm gương soi chiếu hiện thực đời sống mà nó chịu sự quy định của tính chủ quan của chủ thể thẩm mĩ. Do tính chủ quan này, giữa hình tượng nghệ thuật và hiện thực cuộc sống thường không có sự trùng khít.Nghệ thuật không tự hạn chế mình chỉ trong việc tái hiện lại bộ mặt của hiện thực và cũng không cố tình xem các sáng tạo của mình chỉ như cái giống thực [37, tr.34]. Nhà văn tiếp nhận và tái hiện văn hóa thông qua những tác phẩm của mình. Ở mỗi tác phẩm văn học Việt Nam, những nét văn hóa đặc trưng của mỗi một vùng, miền đất nước lại được hiện rõ. Ta bắt gặp một bức tranh đồng quê đậm chất Bắc bộ trong chùm Thơ thu của Nguyễn Khuyến, văn hóa dân gian đa dạng sắc màu trongsáng tác thơ văn của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, thấy được vẻ đẹp của một thời đã qua trong tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, hay cách nói năng, suy nghĩ tiến bộ của người Hà Nội qua nhân vật cô Hiền trong tác phẩm Một người Hà Nội- Nguyễn Khải, rồi những tín ngưỡng, phong tục trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh.“Văn hoá tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ bầu khí quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của bạn đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật của mình là một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không gian văn hoá này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật... trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức... trong quá trình tiếp nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển. Vì vậy, có
  • 16. 12 thể nói văn học là thước đo, là “nhiệt kế”vừa lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hoá của một xã hội trong một thời điểm lịch sử nhất định”[46, tr.20]. Theo Trần Nho Thìn, văn hoá là một hệ thống mở “nhân học văn hoá”. Văn hoá Việt còn là sản phẩm của sự giao lưu ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, Ân Độ. Bất kỳ một giá trị văn học nào cũng đều thoát thai từ một môi trường văn hoá, từ một đời sống văn hoá nhất định. Những yếu tố văn hoá ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của tác phẩm. Cách tiếp cận văn hoá học trong nghiên cứu tác phẩm văn chương sẽ giúp chúng ta khám phá chân lý nghệ thuật một cách đúng hướng hơn. “Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa bàn giao cho cái mới, văn học có thể là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị chuyển tiếp thời đại. Còn về mặt không gian, khi một địa bàn trở thành ngã ba đường của sự giao lưu văn hoá, thì văn học có thể là nơi hoà giải của những xung đột tinh thần, nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người”[46, tr.23]. Như vậy văn hóa và văn học có sự tác động qua lại với nhau, gắn bó mật thiết với nhau trong quá trình tồn tại và phát triển. Nếu văn hóa chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học thì văn học có xứ mệnh phản ánh lưu giữ những giá trị của cuộc sống, hướng con người đến chân – thiện- mĩ. Văn hóa chính là nền tảng của văn học còn văn học là bộ phận của văn hóa. 1.1.3 Hiểu về văn hóa người Mường “Mường”là tộc người lâu đời của Việt Nam. Người Mường sống rải rác khắp các vùng núi phía Bắc Việt Nam. Dân số người Mường, theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê công bố năm 1989, ởkhắp đất nước Việt Nam mới chỉ có 914.396 người nhưng 10 năm sau, tức năm 1999, vẫn theo kết quả Tổng điều tra dân số của Tổng cục Thống kê công bố, thì người Mường đã tăng lên 1.137.515 người. Năm 2009 người Mường đã là 1.268.963 người (cũng theo kết quả điều tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê). Tuy người Mường sống rải rác theo các vùng núi phía Bắc nhưng lại tập trung nhiều nhất là ở tỉnh Hòa Bình. Ở Hòa Bình được xem là cái nôi của người Mường. Vì thế, số dân Mường sống tại tỉnh Hòa Bình luôn là đông nhất. Theo điều tra nhân khẩu của Jeanne Cuisinier từ năm 1936-1937 tỉnh Hòa Bình có 52.014 người Mường[10 tr.77]. Theo tổng cục
  • 17. 13 thống kê đến năm 1999, người Mường ở Hòa Bình (479.197 người, chiếm 63,3% dân số của tỉnh). Người Mường, họ là chủ nhân lâu đời nhất của mảnh đất Hòa Bình, ngay từ thời xa xưa, người Mường đã cư trú ở khắp các huyện thị trên địa bàn tỉnh, nhưng mức độ phân bố không đồng đều cả về số lượng người dân và mật độ phân bố. Người Mường tập trung ở những khu vực có địa hình thấp, độ cao trung bình là 300m, và các trung tâm trù phú nhất của đất Mường như: Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường Động. Đây, chính là vùng Mường lớn ở Hòa Bình mà do các dòng lang lớn của người Mường cai quản như: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng, Hà. Giờ đây, những huyện mà có người Mường tập trung đông nhất chính là: huyện Lạc Sơn, huyện Kim Bôi, huyện Tân Lạc, huyện Mai Châu, Kì Sơn xong mới đến các huyện khác. Văn hóa Hòa Bình luôn mang một bản sắc đậm bản sắc dân tộc Mường xưa. Người Mường luôn tự hào về văn hóa của mình, ngay tên gọi của họ đã thể hiện điều đó. Trong cuốn “Văn hóa Mường”của Trần Từ, NXB Dân tộc, 1978 viết khái niệm “Mường” (Mượng) vốn là một khái niệm chung cho cả Thái cổ truyền và xã hội Mường cổ truyền. Trong cả hai trường hợp, nó đều chỉ một vùng (gồm nhiều xóm) do một dòng họ quý tộc trực tiếp cai quản. Mường, với tư cách tên dân tộc, là một cách gọi không chính xác: dân tộc chúng ta quen gọi là Mường, thực ra, tự xưng là “MỌL”(nghĩa đen: người). Tuy nhiên vì mấy chữ “dân tộc Mường” đã trở thành quen thuộc trong tiếng phổ thông, và dược dùng trong cả trong công văn giấy tờ chính thức”(9,tr127). Theo Từ điển Mường- Việt, Nguyễn Văn Khang chủ biên, NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội (2002) thì “MÕI” là “người Mường”. Ví dụ: “Nả là Mõi” tức là “nó là người Mường” hay “Mõi ăn mày” tức là “Người ăn mày”. “Mõi các cửa” tức là “Người gác cửa”. “Ẻng đỉ là mõi hay cảy Chỡ?” tức là “Anh ấy là người Mường hay người Kinh?”. Hay, “Mõi chi mà ác mằn đỉ” có nghĩa là “người gì mà ác thế). Người Mường ngoài tên gọi là Mõi, theo biến đổi phương ngữ còn xưng là Mọi, Mol, Mual. [20, tr.309-310]. Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như ngày nay. Và đương nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng danh từ này làm tên gọi cho dân tộc mình. Theo Trần Từ (tức Nguyễn Đức Từ Chi hay Nguyễn Từ Chi), Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của người Mường bao gồm nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà Lang. Qua sự tiếp xúc
  • 18. 14 giao lưu giữa người Mường và người Kinh, người Kinh đã sử dụng từ Mường để gọi dân tộc này. Cho đến tận bây giờ, người Mường vẫn từ gọi mình là mol, moăn như ở Hoà Bình, mon, mọi như ở Thanh Hoá. Còn ở Phú Thọ, đặc biệt là ở Thanh Sơn, nơi người Mường tập trung đông đảo nhất, cũng như Người Mường ở huyện Yên Lập và một số xã thuộc huyện Thanh Thuỷ, người Mường tự gọi mình là Mol, Monl. Mặc dù những từ này có biến âm hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa phương nhưng đều quan niệm giống nhau về mặt nghĩa. Tất cả những từ mà người Mường dùng để chỉ dân tộc mình có nghĩa là người. Do đó, Mường đã trở thành tên gọi chính thức và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác. Tộc danh Mường đã được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu và nhân dân dùng khi tìm hiểu, nghiên cứu gọi dân tộc người Mường. Cũng như các dân tộc khác, để lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình, dân gian Mường ở Hòa Bình còn lưu giữ và truyền kể dân tộc mình bằng những huyền thoại về sự xuất hiện dân tộc mình dưới dạng những áng Mo, truyền thuyết. Truyền thuyết của người Mường kể rằng: xưa kia, khi con người còn chưa xuất hiện, trời làm hạn hán, khô khan, cây cối khô mà chết, rồi trời lại mưa. Một trận mưa to chưa từng thấy. Nước chảy thành suối thành sông. Đất lở bồi thành đồng bằng. Đá lăn chất đầy thành gò thành đống, thành đồi thành núi. Có một cây mọc lên rất đẹp, gọi là cây si. Cây si mọc lên từ núi đá, cây si lớn nhanh như thổi trở thành một cây cổ thụ, cành lá che kín cả bầu trời, bị một cơn bão lớn làm đổ. Từ cây si bị đổ sinh ra một đôi chim, gọi là chim Ây và chim Ứa. Chim Ây là đực, chim Ứa là cái. Đôi chim Ây và Cái Ứa lại rủ nhau bay lên núi đá lấy cỏ làm thành tổ ở Hang Hao (nay là hang Ma- Chứng- Điếng thuộc thôn Phú Nhiên, tổng Ngọc Hào, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) [6, tr.16]. Cái Ứa đẻ ra trăm ngàn quả trứng. Trứng chim nở ra thành muôn loài muôn vật. Còn lại một trăm cái trứng thì nở ra con người. Đó là người Mường và người Kinh. Người Kinh xuống đồng bằng ở còn người Mường sống trên miền núi. Người khởi đầu tiên của đất Mường là Lang Đá Cài, Lang Đá Cần, nàng Dạ Kịt. Sau này Lang Đá Cần lên ngôi vua lấy em gái mình nhưng sinh con không nuôi được, Lang Đá Cần lấy vợ khác sinh được nhiều con trai và con gái. Con trai thứ nhất thay cha lên làm vua (chính là vua Dịt Dàng sau này) những người con còn lại đã chia nhau thành bốn họ lớn của người Mường là: Đinh, Quách, Bạch,
  • 19. 15 Hoàng chính là tổ tiên của các quan lang xứ Mường. Còn các cô con gáilàm vợ các quan lang ở các châu. Dịt Dàng kế tục cha lên ngôi, có nhiều vàng bạc châu báu, lãnh đạo các quan Lang và dân Mường phát triển. Như vậy, để giải thích cho cho sự ra đời của dân tộc mình người Mường đã dựa vào truyền thuyết với những câu truyện li kì giống như Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Bên cạnh việc người Mường giải thích nguồn gốc của mình bằng Truyền thuyết Ây và Ứa, thì người Mường xuất hiện cùng với tiếng nói để trao đổi thông tin, tạo ra tiếng nói riêng cho mình. Người Mường không có chữ viết riêng, nhưng họ có tiếng nói của dân tộc mình, tiếng nói mang bản sắc của dân tộc. Ngôn ngữ Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường trong ngữ chi Việt của ngữ hệ Nam Á. Tiếng Mường rất gần với tiếng Việt. Theo Từ điển Mường-Việt, Nguyễn Văn Khang chủ biên, NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội (2002), cách đọc và phát âm của tiếng Mường gần giống tiếng việt, có một số từ có dấu ngã, dấu nặng…đọc chệch đi, ví dụ: Những từ không dấu trong tiếng Việt thì giữ nguyên là thành tiếng Mường như: Con, con chim, con voi, ăn, cho, tiêu pha= tiêu pha...một số từ khác phụ âm đầu: tay = thay, đi= ti, đi, con dê= con tê... Những từ có dấu hỏi trong tiếng Việt cũng giữ nguyên: của cải= của cải, đểu= đểu, giả= giả... Những từ có dấu ngã thì chuyển thành dấu hỏi như: đã= đả, những= nhửng. Những từ có dấu nặng thì chuyển thành dấu sắc: nặng= nắng (phát âm lại ~ nặng= nắăng, tận= tấn (tấân)... Những từ mà có âm "ặc, ịt, ặc, ục”thì giữ nguyên không chuyển dấu: đông đặc= đông đặc. Những từ có dấu huyền thì chuyển thành dấu sắc và ngược lại dấu sắc thì thành dấu huyền: nắng= đằng ( trời nắng= trới đằng) Một số từ không theo quy luật: cây tre= cân pheo, xưng hô(chú=ô, cháu= xôn), nhìn (ngắm)= hẩu, trông thấy= hẩu kỉa, ở giữa= ở khừa. Phát âm nhiều khi bị chệch hoặc thêm một số âm đệm vào. Ví dụ như phát âm chệch như từ: Anh = Enh. “Anh có thấy cái còng vợt ở đâu không” (Enh ản đố cải còng kha ớ no chăng). Hay ở = ớ, án mạng = ản mãng, anh tạo (một chức trong bản Mường) = anh tão, áo choàng = ảo khoang… Phát âm thêm một số các âm đệm như: Bảy năm
  • 20. 16 mươi = páy năm mươl, bề trên = bậc tliênh “ông ấy là bề trên”(ông đỉ là bậc tliênh), trong= tlong“trong buồng này ấm lắm”(tlong puồng nì ẩm lắm) [20, tr.25- 39]. Nói chung, ngôn ngữ của người Mường họ dùng rất hiệu quả trong tộc người của mình. Hiện nay, nhà nước ta đã bảo tồn tiếng dân tộc Mường bằng nhiều cách khác nhau để lưu giữ và bảo tồn ngôn ngữ này như: qua sáng tác văn chương, sách, báo, rồi có đài phát thanh và truyền hình bằng tiếng Mường. Tiếng Mường mang bản sắc văn hóa riêng, họ dùng để trao đổi thông tin, gọi nhau, nói chuyện, phân biệt vai vế, các gọi đồ dùng… Phượng Vũ sử dụng ngôn ngữ của người Mường khá thành công khi xưng hô, gọi tên… ví dụ: gọi mẹ =mế, bên ngoại =oại, người trông em = đọi ún, đi ỉa = tị é, bố già = bố khà, thịt gà = thịt ca, người Kinh = người Đáo, vợ = cái, bông lúa, hoa lúa = trái bông cơn, người giúp việc cho nhà lang = ậu, người đứng đầu trong các ậu = ậu cả, túi vải có quai đeo = thông, hoa dâm bụt = hoa chu chiênh, thắt lưng = tênh, cơm độn với củ nâu = cơm nâu, đi lấy nước= ti rác, nồi ninh = viêng, lúa = lọ, ruộng= nà, để tang= để đem, nước mạch trong lòng đất phun lê = nước mó, dưới âm phủ = bên ma, chim bồ câu rừng = chim gâu, hoa hồng bì = hoa vòng, chỗ lầy lội, lấm láp = rậm, cỏ gianh = cỏ bái, bố = pộ, cửa chính vào nhà = cửa khoáng, chơi bời = nhởi, uống rượu = oỏng ráo, bánh dày = bánh xếp, các lang đạo lấy vợ con nhà thường dân = vợ nuôi, bồ đựng chăn = pồ ố…[29]. Về tổ chức xã hội của người Mường không giống như tộc người H’Mông, họ có vùng tự trị riêng. Người Mường tuy dân số đông và có nguồn gốc lâu đời nhưng họ chỉ tồn tại thành vùng Mường trong tổng thể dân tộc Việt Nam. Nhưng, về hình thái xã hội của người Mường xưa kia là xã hội Mường cổ truyền chịu sự lãnh đạo của chế độ quan lang. Dưới chế độ quan lang, bản chất Lang cun Mường cũng có xấu, tốt. Giống như quan lại vùng xuôi. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, dân Mường vẫn thích chế độ lang đạo hơn và không chịu sự quản lý của người Kinh, nên người Mường có chút cục bộ. Vì vậy, khi nhà Nguyễn thành lập phế bỏ chế độ Lang đạo, đưa quan lại dưới xuôi lên cai quản vùng Mường liền xảy ra sự chống đối kịch liệt của nhân dân vùng Mường, như khởi nghĩa Lê Duy Lương, khởi nghĩa ở Thạch Bị, Sơn Âm. Về sau vua Minh Mạng lại khôi phục chức chế độ Lang đạo. Đặc biệt khi bắt được người cầm đầu, nhà Nguyễn chỉ phủ dụ chứ không giết.
  • 21. 17 Ngày 23 tháng 6 năm 1892, toàn quyền Đông Dương ký nghị định tổ chức bộ máy chính quyền ở Hoà bình. Theo nghị định này, công việc toàn tỉnh do một hội đồng quan lang điều hành, gồm có 12 quan lang: sáu người do các lang cử ra, sáu người do công sứ Hoà Bình chỉ định. Hội đồng mười hai quan lang do viên công sứ Pháp làm chủ tịch. Hội đồng cử ra một chánh quan lang, một phó quan lang và một viên đề đốc. Chánh quan lang trông nom các công việc chung của tỉnh, phó quan lang có nhiệm vụ giúp việc chánh quan lang. Còn viên đề đốc thì giữ việc chỉ huy lính dõng trong tỉnh. Chế độ lang cun và tồn tại đến sau cách mạng tháng 8/ 1945. Đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng chế độ lang cun hoàn toàn chấm dứt. Người Mường cũng có những món ăn ẩm thực đặc sắc, họ thích ăn các món đồ, nướng như xôi đồ, rau đồ, cá đồ. Nướng như thịt cá nướng rất thơm và ngon. Những thứ gia vị đắng, cay, chua, ví dụ như: họ thích ăn những rau rừng có vị đắng như rau đắc đốm, lá chân chim, măng đắng…Vị chua như thịt muối chua, măng muối chua, lá sắn muối chua…khi đã chua họ đem ra nướng hoặc nấu với thực phẩm khác cùng các hương vị của hạt dổi, tiêu, ớt…, ăn rất ngon và hương vị đậm đà. Người Mường Hòa bình còn có đặc sản rượu Cần nổi tiếng,bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men được ủ cùng ngũ cốc như ngô, sắn, gạo nếp, gạo tẻ…ủ trong một thời gian nhất định được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể. Ở Hòa Bình những buổi sinh hoạt tập thể hoặc ngày lễ, tết không thể thiếu rượu cần, uống rượu cần trong những ngày đó như một nét văn hóa. Người Mường ở Hòa Bình, họ sống gần với người Kinh nên cách sống cũng gần giống với người Kinh. Người Mường sống thành các bản làng (xóm, làng), có những ngôi nhà sàn nằm sát ven đồi tựa lưng vào đồi núi, trước mặt trông ra những cánh đồng xanh, tốt trông rất thơ mộng và lãng mạn. Xung quanh nhà của người Mường trồng những cây ăn quả như mít, nhãn, vải, bưởi… hoặc trồng các cây hoa quanh năm đơm hoa kết trái, tạo ra không khí trong lành. Nhà ở của người Mường nói chung và người Mường Hòa Bình nói riêng là ở nhà sàn, nhà sàn được dựng theo kiểu truyền thống của người Mường, như thần Rùa dạy trong truyền thuyết: “Bốn chân tôi là bốn cột cái/Hai mai tôi là hai mái nhà/Xương sống tôi là đòn nóc/Chặt cây lim làm cột/Lạt buộc bằng cây giang/Cỏ gianh dùng để lợp”[30, tr.76]. Nhà kiểu bốn mái, cột nhà bằng gỗ quý, được bố trí
  • 22. 18 rất khéo léo, tiện lợi, cho việc ăn, ở sinh hoạt. Vật liệu làm nên ngôi nhà sàn của người Mường làm bằng gỗ, tre, nứa, cỏ gianh hoặc lá cọ. Cột nhà chôn sâu xuống đất từ 70cm- 1m hoặc kê trên đá. Vách ngăn và che xung quanh nhà họ dùng tấm đan bằng tre, nứa hoặc gỗ tùy theo điều kiện của từng gia đình. Mái nhà sàn xưa lợp bằng cỏ gianh, lá cọ nên có đặc điểm mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Nhà sàn của người Mường có bậc cầu thang đi lên và thường được lấy số lẻ như: 5,7,9,11. Người Mường lấy số lẻ làm số bậc cầu thang là dựa vào quan niệm theo quy luật: vào-ra- vào, nên của cải sẽ vào nhà mà không ra đi làm cho nhà cửa trở nên giầu có, con cháu khỏe mạnh, gia đình êm ấm, hoặc theo quy luật của đời người: sinh, lão, bệnh, tử để mong cho con người sống trong gia đình đó luôn khỏe mạnh, sống lâu trăm tuổi. Nhà sàn tùy theo diện tích nhà lớn hay nhỏ để mở số cửa sổ cho phù hợp, về cầu thang nhà sàn người Mường có hai cầu thang, cầu thang chủ và cầu thang khách. Sàn nhà làm bằng sàn gỗ tự nhiên, phía dưới sàn người Mường xưa kia họ nuôi trâu, bò, lợn, gà (người Mường ngày nay đã bỏ làm chuồng nuôi ở dưới). Điểm độc đáo ở nhà sàn Hòa Bình, trước khi bước lên nhà họ phải rửa chân bằng nước để ở cái chum, vò, vại được để ngay dưới cầu thang với quan niệm rửa sạch sẽ những bụi bẩn trước khi lên nhà. Như vậy, nhà sàn của đồng bào Mường là một biểu hiện sinh động của văn hóa vật chất. Trong cấu trúc truyền thống, nhà sàn Mường là một kiến trúc đa năng, ngôi nhà thoả mãn nhiều nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của mỗi gia đình. Kiểu dáng nhà sàn Mường cũng là một nét riêng làm phong phú thêm văn hoá nhà sàn của các dân tộc Việt Nam. Cưới xin, ma chay của người Mường đặc biệt người Mường ở Hòa Bình cũng có những nét riêng biệt. Tục cưới xin của người Mường gần giống như người Kinh (chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới và đón dâu). Lễ vật của nhà trai đem đến cho nhà gái có trầu, cau, rượu, lợn, gà…có ba lễ chính và những yêu cầu của nhà gái. Còn con gái đi lấy chồng phải tự sắm sửa và dệt chăn, gối mang về nhà chồng, và cho bố mẹ chồng. Còn ma chay cũng theo một tục lệ nhất định, khi người chết tắt thở được thông báo cho con cháu họ hàng, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.
  • 23. 19 Tang lễ do thầy mo chủ trì. Hình thức chịu tang của con cái trong nhà không khác so với người Kinh, tuy nhiên con dâu chịu tang cha mẹ còn có bộ trang phục riêng, nhìn vào trang phục tang lễ người ta có thể nhận biết các thành viên trong gia đình. Ví dụ: con trai con dâu, con gái chưa lấy chồng sẽ mặc áo và đội mũ, khăn trắng bằng đồ xô gai, con gái đã đi lấy chồng và và con rể, cháu, họ hàng…mặc áo và bịt khăn tang mầu trắng bằng vải màn. Khi người con trai trong gia đình ấy chống gậy tre thì gia đình ấy có bố mất, nếu chống gậy gỗ thì gia đình có mẹ mất. Sau khi chôn người chết, lấp đất kĩ họ lấy 4 viên đá to đẹp để dánh dấu phần mồ của gia đình mình. Bốn viên đá này rất quan trọng để tránh mất mồ mả. Tìm được 4 viên đá coi như tìm được mả. Ngày nay, ở Hòa Bình việc đánh dấu này đã không còn tồn tại, thay vào đó là những tấm bia ghi tên người mất đặt ngay phần đầu. Người Mường ở Kim Bôi sau khi chôn họ còn làm nhà ma. Người Mường ở huyện Lạc Thủy xưa người chết cũng được chia của với quan niệm người sống có gì người chết có đó, thứ mà họ chia của như nồi, xoong, bát, đĩa, quần áo…nên vào những năm 80 của thế kỷ trước một số vùng bị khai thác đồ cổ do từ văn hóa chia của cho người chết. Người Mường Lạc Sơn Hòa bình: sau khi chôn người chết, 3 đêm đầu vẫn để hương thờ, sau 3 đêm thì làm lễ cho đồ dùng…và đưa người chết về mồ về mả. Đến 49 ngày thì làm lễ "thay màu áo". Tức là nhuộm áo tang chấm dứt mặc áo tang. Đám ma của người Mường Bi Hòa Bình, nếu tổ chức theo nghi lễ cổ truyền là một chuỗi nghi lễ phức tạp và kéo dài đến 12 ngày đêm [30, tr117]. Nhà văn Phượng Vũ nghiên cứu trong cuốn Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi thì đám hiếu được tổ chức phức tạp và kéo dài với nhiều thủ tục như lễ nghĩa như thủ tục trao quần áo cho người chết ở ngày thứ nhất, ngày thứ hai làm lễ lống trùng để xua đuổi những hồn ma đang lẩn khuất bên người chết, những ngày sau đó làn lễ tâng dây để cát đứt dây dưa bệnh tật, truyền nhiễm cho con cháu sau này, rồi làm lễ nhập quan,lễ quạt mo, lễ nhương ăn, rồi đêm mo nhì họ ở ngày thứ 3, ngày thứ tư đưa người chết ra mộ địa, sau đó cúng các lễ theo luật tục cho đến ngày thứ 12. Như vậy, điểm qua một vài nét động đáo trong đám ma của người Mường Hòa Bình, ta đã thấy nhiều nét khác biệt tạo nên văn hóa của vùng Mường. Lễ hội, trang phục của người Mường cũng đáng để cho chúng ta phải quan tâm. Người Mường có nhiều ngày hội quanh năm: Sắc bùa, hội xuống đồng (Khung
  • 24. 20 mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng 7, 8 âm lịch), lễ cơm mới... Còn trang phục của người Mường cũng có nhiều nét độc đáo. Họ đã tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục của mình và có đặc trưng riêng. Đàn ông thường là mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Quần của của đàn ông thường có ống rộng và dùng khăn thắt giữa bụng . Còn nữ giới, hằng ngày thường mặc áo pắn (áo ngắn). Đó là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng, bên trong mặc áo yếm trắng. Trên đầu người phụ nữ Mường họ thường đội khăn trắng, xanh. Váy, thường là loại váy kín màu đen. Nét đặc sắc trên trang phục của người Mường chính là những mảng hoa văn nổi lên giữa trang phục và cạp váy, ở phần thắt lưng. Hoa văn trên cạp váy còn thể hiện đẳng cấp, con gái và bà nàng nhà lang sẽ mặc những váy có cạp váy với văn hoa rồng phượng, còn đàn bà, con gái dân thường chỉ được mặc cạp váy với hoa văn thường như kẻ vuông, hình quả trám... Mỗi hoa văn lại có một cái co này để sau này để nhấc lên, rồi xuyên chỉ để nó có màu trắng, màu đen hoặc màu đỏ để nó kết hợp hoặc làm nổi bật con rồng bay. Đây là nét hoa văn trên trang phục của người Mường. Người Mường có một kho tàng văn nghệ dân gian phong phú, đa dạng với nhiều thể loại như: Truyền thuyết, sử thi, thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ… Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi... Cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Mường, ngoài ra còn nhị, sáo trống, khèn lù. Đặc sắc nhất trong các loại hình này chính là những làn điệu của những bài dân ca Mường. Dân ca Mường gồm nhiều thể loại như: Thường đang (hát mừng nhà mới), bọ mẹng (hát giao duyên), hay trường ca như Nàng Nga – Hai Mối, Út Lót – Hồ Liêu. Những lời ca trong dân ca Mường thường có câu 6 và câu 8 xen kẽ nhau như một câu thơ lục bát của người Việt cùng những thang âm luyến láy. Trên đây khái quát sơ lược những văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc Mường nói chung và người Mường ở Hòa Bình nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thiếu xót, nhưng phần nào gợi mở chút hiểu biết về dân tộc Mường. Những đặc trưng về văn hóa vật chất và tinh thần người Mường Hòa Bình đã thể hiện khá nhiều trong hai tiểu thuyết của Phượng Vũ, ít nhiều giúp người đọc hình dung và lưu nhớ về một dân tộc Mường. Qua đây, chúng ta cần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mường ở các huyện có đồng bào Mường sinh sống không chỉ góp
  • 25. 21 phần xây dựng, phát triển đời sống văn hóa tinh thần cho người dân mà còn góp phần thúc đẩy văn hóa xã hội ngày càng phát triển. 1.2 Khái lược sáng tác của Phượng Vũ 1.2.1 Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp Phượng Vũ (1937-2000), tên thật là Nguyễn Phương Tú, ngoài bút danh Phượng Vũ ông còn có bút danh khác như Từ Vân, Phương Lê. Sinh ngày 23 tháng 7 năm 1937. Quê ở xã Vân Từ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Xuất thân là một giáo viên cấp 2 dạy văn học, sau đó ông làm cán bộ tại ty Văn hóa tỉnh Hà Đông, rồi làm Trưởng phòng sáng tác của Sở văn hóa tỉnh Hà Sơn Bình (gồm Hà Tây, Hòa Bình, Sơn Tây). Năm 1992 tái lập tỉnh Hà Tây, Nguyễn Phương Tú (Phượng Vũ) làm Giám đốc Sở Văn hóa- Thông tin và thể thao Hà Tây. Khi thành lập Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hà Tây ông làm chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật, Tổng biên tập tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam. Phượng Vũ với niềm đam mê văn chương và có có duyên với nghiệp văn nên năm 21 tuổi ông tham gia cuộc thi sáng tác văn chương do tạp chí Văn nghệ tổ chức và đạt giải ba với truyện ngắn Người nữ trưởng ga và được in trong tạp chí Văn nghệ số 21 vào tháng 2 năm 1959. Từ đó, ông tạm biệt nghề dạy học và chuyển lên ty Văn hóa Hà Đông (thuộc tỉnh Hà Sơn Bình cũ) làm công tác biên tập và sáng tác văn học. Sau nhiều năm sáng tác ông đã có những đóng góp đáng kể vào kho tàng văn học Việt Nam ở nhiều thể loại khác nhau. Như vậy, Phượng Vũ đến với văn chương là một cái duyên và ông đã ghi dấu những trang văn của mình vào làng văn, là người đầu tiên của vùng Hà Tây đóng góp trong sáng tác văn chương trong thời kì mới, đúng như Đặng Hiển đã nhận xét “Phượng Vũ cũng là người lãnh đạo, thúc đẩy và nêu gương cho cả phong trào sáng tác của một vùng văn học. Phượng Vũ là cánh chim đầu đàn của vùng văn học ấy”[2, 169 ]. Có lẽ, Phượng Vũ đến với văn chương là không chủ định, nhưng nghiệp văn đã gắn với cuộc đời ông. Phượng Vũ không chỉ sáng văn học mà còn nghiên cứu văn hóa, lịch sử, địa chí. Hơn 40 năm sáng tác ông để lại cho đời một số lượng sáng tác không nhỏ, dù là cương vị là một thầy giáo, trưởng phòng sáng tác hay Giám đốc Sở Văn hóa thông tin Hà Tây. Phượng Vũ vẫn miệt mài, hăng say trong công việc sáng tác văn học và nghiên cứu văn hóa lịch sử, địa chí về vùng đất Hà Tây,
  • 26. 22 Hòa Bình (trước đây là Hà Sơn Bình). Để thấy được đóng góp của Phượng Vũ, luận văn đã thống kê sáng tác của nhà văn một cách sơ lược như sau: TT Tên tác phẩm Thể loại Năm xb Nhà xuất bản Số lượng Lần xuất bản Ghi chú 1 Người nữ trưởng ga ( tác phẩm dự thi) Truyện ngắn 1959 Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam 1 Tg Phượng Vũ 2 Người anh hùng trên đồng cỏ Truyện vừa 1967 1 Tg Phượng Vũ 3 Núi chàng rể Tập truyện ngắn 1978 Ty Văn hóa TT Hà Sơn Bình 1 Tg Phượng Vũ 4 Người mẹ và những đứa con Truyện ngắn 1996 Hội nhà văn 1 Tg Phượng Vũ 5 Hoa hậu xứ Mường Tiểu thuyết 1984 Tác phẩm mới 1 Tg Phượng Vũ Hoa hậu xứ Mường 1984 1986 Sở văn hóa thông tin Hà Sơn Bình. Lần1 Hoa hậu xứ Mường(T1) Hội nhà văn Lần2 Nhiều tập Xuất bản nhiều lần Hoa hậu xứ Mường (Tập 1,2) 1997 Văn học Lần3 Hoa hậu xứ Mường 2004 Hội nhà văn Lần 4 Hoa hậu xứ Mường 2007 Hội nhà văn Lần 5 6 Năm người bạn Tiểu thuyết 1996 Văn học 1 7 Tiểu thuyết Phượng Vũ Tập tiểu thuyết 1997 Văn học 1 Gồm nhiều tiểu thuyết
  • 27. 23 8 Trước cửa thiền Tiểu thuyết 1993 Hội nhà văn 1 Tg Phượng Vũ 9 Vương quốc ảo ảnh Tiểu thuyết 2001 Quân đội nhân dân Việt Nam 1 Tg Phượng Vũ 10 Vùng đất có những tên gọi mới Tập bút kí 1995 Hội văn nghệ 1 Tg: Phượng Vũ 11 Địa chí Hà Tây Sách 1999 Sở VHTT Hà Tây 1 Tg Phượng Vũ 12 Hà Tây làng nghề- làng văn( tập1) Sách sưu tầm, khảo cứu 1992 Thể thao 1 Tg: Phượng Vũ 13 Lễ hội cổ truyền Hà Tây Sách sưu tầm, khảo cứu 1995 Hà Tây : Sở văn hóa thông tin 1 Tác giả: Phượng Vũ, Hồ Sĩ Vịnh 14 Lễ hội cổ truyền Hà Tây Sách Sách sưu tầm, khảo cứu 1997 Hà Tây : Sở văn hóa thông tin 2 Tác giả: Phượng Vũ, Hồ Sĩ Vịnh 15 Lễ hội cổ truyền Hà Tây Sách sưu tầm, khảo cứu 2000 Hà Tây : Sở văn hóa thông tin 3 Phượng Vũ và nhiều tác giả 16 Quy ước làng văn hóa Phú Xuyên… Sách sưu tầm, khảo cứu 1995 Hà Tây: Huyện Phú Xuyên 1 Tg Phượng Vũ 17 Thơ Hà Tây thế kỉ XX Sách sưu tầm, khảo cứu 1997 Hội văn học nghệ thuật Sở văn hóa Hà Tây 1 Tô Hoài và Phượng Vũ chủ biên 18 Văn học Hán Nôm Hà Tây 10 thế kỉ Sách sưu tầm, khảo cứu 1997 Hà Tây : Sở văn hóa thông tin 1 19 Thơ Hà Tây thế kỉ Sách sưu 1997 Hội văn 1 Phượng Vũ và
  • 28. 24 XX tầm, khảo cứu học nghệ thuật Sở văn hóa Hà Tây Hồ Phương chủ biên 20 Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi Sách sưu tầm, khảo cứu 1998 NXB Hà Sơn Bình: Vă hóa- Thông tin 1 Sách nhiều tác giả, Phượng Vũ chủ biên 1.2.2 Quan niệm văn chương của Phượng Vũ Phượng Vũ Bảng thống kê sơ bộ trên cho thấy Phượng Vũ có số lượng trước tác khá phong phú, trong cả tư cách nhà văn và nhà sưu tầm, khảo cứu. Cũng giống như các nhà văn khác cùng thời, Phượng Vũ cũng có những quan điểm sáng tác riêng, nhưng có lẽ những gì ông viết đều phản ánh cuộc sống đời thực. Từ xã hội, con người, đến những nét văn hóa hiện lên như bức tranh cuộc sống. Từ khen đến chê, từ tự hào đến nỗi xót xa đều dựa vào thực tế. Tóm lại văn chương của Phượng Vũ là phản ánh hiện thực. Nhà thơ Đặng Hiển có nói: “những nhân vật trong truyện của Phượng Vũ Thường lấy trong nguyên mẫu đời thường”, ví dụ nhân vật Diễm trong truyện ngắn cùng tên của ông. Phượng Vũ có hơn 40 năm nghề cầm bút và có nhiều đóng góp ở nhiều thể loại khác nhau. Với những sáng tác truyện ngắn Phượng Vũ đã đánh dấu công lao của mình với giải ba tác phẩm Người nữ trưởng ga( 1959) đã kể về sự trưởng thành và quyết tâm của một cô gái xinh đẹp, giỏi giang Miền nam tập kết luôn có lí tưởng, ý thức phấn đấu làm chủ cuộc đời. Còn trong tập truyện Người mẹ và những đứa con với bút pháp hiện thực, ông dựng lên tượng đài người mẹ anh hùng đã dâng hiến cho tổ quốc những đứa con thân yêu, coi các chiến sĩ cách mạng như con của mình làm nổi bật sự hi sinh vĩ đại của người mẹ, khiến người đọc cảm thấy rất xúc động. Và tác phẩm Diễm cho ta thấy một sự vượt lên sau những vấp ngã của của cuộc đời. Còn truyện Tầm gửi, phản ánh những tồn tại của xã hội đương thời những cán bộ bất tài nhưng luôn mưu lợi cho cá nhân. Tác phẩm được coi là lớn và có giá trị hơn cả trong sáng tác của ông chính là bộ tiểu thuyết Đất Mường gồm hai quyển có tên Hoa hậu xứ Mường và Vương Quốc ảo ảnh hơn một nghìn trang viết, quyển Hoa hậu xứ Mường ra đời lần đầu
  • 29. 25 năm 1984 và được xuất bản nhiều lần, tác phẩm đã phản ánh được cuộc sống người dân dưới chế độ lang đạo và thực dân, tác phẩm Hoa hậu xứ Mường cũng được chuyển thể thành kịch do Doãn Hoàng Giang đạo diễn. Tác phẩm được nhà văn viết về những biến cố lịch sử, con người ở vùng đất Mường Hòa Bình sau cách mạnh tháng 8/ 1945. Trong những trang viết của ông trong hai tiểu thuyết, người đọc không chỉ thấy những biến cố lịch sử của vùng đất mà còn thấy sự phân hóa nội bộ của chế độ quan lang, những số phận người dân Mường phải chịu cảnh bóc lột, đè nén lên cuộc sống và tâm hồn của họ dưới sự cai tri của chế độ quan lang và thực dân Pháp. Tác phẩm người đọc phần nào cũng thấy được cảnh đẹp của thiên nhiên núi rừng và những phong tục tập quán của dân tộc Mường Hòa Bình. Để có được bộ tiểu thuyết Đất Mường, Phượng Vũ đã dày công tìm hiểu về vùng đất, con người, văn hóa nơi đây. Khi sáng tác bộ tiểu thuyết “Đất Mường”, Phượng Vũ đang công tác tại Ty văn hóa Hà Sơn Bình. Ông đã nghiên cứu, tìm hiểu sưu tập nhiều về văn hóa người Mường, ông đã đi đến những địa danh của cái nôi văn hóa Mường như: Mường Vân, Bi, Vang, Thàng, Động…tìm hiểu, sưu tầm viết lên bộ tiểu thuyết Đất Mường hơn 1000 trang. Sự hiểu biết của ông về người Mường, đất Mường còn thể hiện ngay ở việc ông là chủ biên cho những nghiên cứu, sưu khảo sâu về văn hóa Mường được giới nghiên cứu dân tộc học đánh giá cao, coi như tư liệu gốc mà tiêu biểu nhất là Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi– Mường lớn và quan trọng nhất của xứ Mường Hòa Bình. Bên cạnh những trang viết về truyên ngắn, tiểu thuyết Phượng Vũ còn có nhiều đóng góp ở những thể loại khác nhau. Về địa lí, lịch sử, văn hóa ông có tác phẩm Địa chí Hà Tây một quyển sách viết về 9 vấn đề của: Điều kiện tự nhiên dân cư, dân số, đất đai và phần lịch sử Hà Tây từ tiền sử đến nay. Kinh tế du lịch, danh lam thắng cảnh, y tế giáo dục, những thành tựu văn hoá khoa học kỹ thuật, văn học, tôn giáo và và tập quán văn hoá, Hồ Chủ Tịch với nhân dân Hà Tây..., Lễ hội cổ truyền, cuốn sách lựa chọn và giới thiệu những lễ hội tiêu biểu của Hà Tây Hội Bối Khê, Hội Đền Và, Hội Chùa Hương, Hội chùa Thầy, Hội làng Khê Thượng, lễ hội Vân Sa v.v… Nội dung sách tập trung miêu tả diễn biến của các lễ hội đi sâu vào những trò diễn, lễ thức đặc sắc có giá trị văn hóa trên địa bàn của tỉnh Hà Tây (cũ). Hà Tây Làng nghề- làng văn, giới thiệu
  • 30. 26 những đặc điểm về môi trường địa lý, sắc thái văn hóa riêng biệt của các làng quê nổi danh của tỉnh Hà Tây. Truyền thống hiếu học, đôi nét về các danh nhân, các di tích lịch sử văn hóa của mỗi làng. Tập bút kí Vùng đất có tên gọi mới. Đặc biệt cuốn sách nghiên cứu về người Mường Bi Hòa Bình có nhan đề Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi, đây là cuốn sách nghiên cứu của nhiều tác giả mà Phượng Vũ là chủ biên viết về nền văn hóa cổ truyền Mường Bi, đã kết đọng vốn liếng vật chất, tinh thần của nhiều thời đại lịch sử đã đi qua về văn hóa cổ truyền, dân ca, tục ngữ, truyện cổ. Với những đóng góp của Phượng Vũ ở nhiều lĩnh vực đã có nhiều tác giả nổi tiếng đã có bài viết nói đến công lao của Phượng Vũ như nhà thơ Đặng Hiển có bài : Phượng Vũ – cánh chim đầu đàn của văn học xứ Đoài (Tiểu luận của Đặng Hiển). Trong cuốn Nhà văn Việt nam hiện đại (NXB Hội nhà văn, 2010), đã khái quát cuộc đời và những tác phẩm tiêu biểu của Phượng Vũ. Nhà thơ Nông Quốc Trấn, Tô Đông Hải có những bài viết về Phượng Vũ như Folklore trong tiểu thuyết “Hoa hậu xứ Mường” của nhà văn Phượng Vũ. Tác giả giới thiệu qua về tiểu thuyết Hoa hậu xứ Mường, phân tích và trích dẫn một số đoạn để chứng minh rằng phônclo có mặt trong tiểu thuyết này và là một bộ phận hữu cơ của đời sống các nhân vật trong tiểu thuyết. Tuy Phượng Vũ có nhiều đóng góp trong sáng tác, nhưng trên thực tế vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, hay luận văn, luận án nào viết về Phượng Vũ. Đơn cử như luận án tiến sĩ của Bế Thị Thu Huyền với tiêu đề Tiểu thuyến của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sau 1986 từ góc nhìn văn hóa cũng nhắc nhiều đến các nhà văn viết về người miền núi cả cử dân tộc đa số nhưng không nhắc đến tên nhà văn Phượng Vũ. Vì vậy, luận văn này tôi muốn có một chút đóng góp nho nhỏ để nghiên cứu công lao, thành tựu của nhà văn Phượng Vũ trong hai tiểu thuyết Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh nhìn ở góc độ văn hóa. 1.2.3 Tác giả Phượng Vũ trong dòng văn học viết về miền núi Hơn nửa thế kỉ qua, dòng văn học viết về đề tài miền núi đã có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển văn học Việt nam. Với những đóng góp của các nhà văn tên tuổi như Tô Hoài với “Vợ chồng A Phủ”; Thu Bồn với “Bài ca chim Chơ rao”, Ma Văn Kháng với “Xa Phủ”, “Đồng bạc trắng hoa xòe”, Cao Duy Sơn với “Đàn trời”, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với “Những ngọn gió Hua Tát”…Thì mảnh đất Hà Tây (cũ) có nhà văn Phượng Vũ cũng có nhiều đóng góp cho văn chương hiện đại nói
  • 31. 27 chung và đặc biệt văn chương miền núi, nhất là người Mường Hòa Bình với tiểu thuyết Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh và một số nghiên cứu khác. Ông nổi tiếng với bộ tiểu thuyết Đất Mường sau đổi là Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh được ra đời vào năm 1984. Sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc văn chương nhanh chóng tìm được nguồn cảm hứng mới, hướng thể hiện mới đó là cuộc hồi sinh kì diệu, như Hoài Thanh nói “cuộc tái sinh mầu nhiệm”của đất nước và con người. Nhà văn Phượng Vũ cũng bắt nguồn từ cảm hứng đó đã tìm đến văn học miền núi để dồn tâm huyết cho việc tái sinh lại những sự kiện tại đất Mường sau cách mạng tháng 8 năm 1945, hai thuyết là sự hiện thực hóa các vấn đề mà nhà văn còn trăn trở. Với sự thay đổi của đất nước ảnh hưởng đến đồng bào miền núi, đặc biệt dân tộc Mường Hòa Bình. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống phong phú, sự hiểu biết sâu rộng về vùng đất, dân tộc Mường. Ông đã thể hiện được một cách chân thật, sinh động những nỗi đau thương, khổ nhục của người dân dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù thực dân phong kiến. Phượng Vũ đã xây dưng được một số nhân vật sinh động đại diện cho cả hai mặt, phản ánh đúng tính chất, đặc điểm tính vùng miền. Điểm đáng chú ý nhất trong các tiểu thuyết này của ông là hàng loạt những chi tiết đầy giá trị về mặt dân tộc học, văn hóa Mường Hòa Bình ở mọi mặt đời sống, tâm tình đã được tái hiện, sinh động và chân thực. Chính kho dữ liệu đồ sộ này về văn hóa Mường trong tiểu thuyết của ông có một giá trị đặc biệt trong việc hiểu con người văn hóa Mường Hòa Bình. Bên cạnh hai tiểu thuyết Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh, Phượng Vũ còn có đóng góp vào văn chương miền núi với nghiên cứu Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi. Đây là cuốn sách, là một công trình nghiên cứu của nhiều tác giả, mà Phượng Vũ là chủ biên. Cuốn sách nghiên cứu nền văn hoá cổ Mường Bi, kết đọng vốn liếng vật chất, tinh thần của nhiều thời đại lịch sử đã đi qua: Văn hoá cổ truyền, dân ca tục ngữ, truyện cổ. Ngoài ra, ông cũng có nhiều bài đăng báo thể hiện sự quan tâm, nghiên cứu về đề tài miền núi như Cuộc vận động viết về vùng dân tộc miền núi. Người ta nói: “Dao có mài mới sắc”, với sự cần mẫn, bền bỉ, dẻo dai, không ngừng học hỏi và sự tích lũy, tự vượt mình để sáng tạo đó chính là điều làm nên bản lĩnh và tài năng nghệ thuật của Phượng Vũ. Với những thành tựu to lớn đã đạt được sau gần nửa thế kỉ sáng tạo nghệ thuật, Phượng Vũ xứng đáng là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, là tấm gương lao động nghệ
  • 32. 28 thuật cho văn nghệ sĩ. Mong sao người đọc hiện nay và mai sau có lẽ sẽ biết đến tên tuổi và những đóng góp to lớn của Phượng Vũ đối với nền văn chương dân tộc, đặc biệt văn chương viết về miền núi qua những sáng tác của ông. Tiểu kết chương 1 Nghiên cứu bản sắc dân tộc trong văn học là làm rõ bản sắc của những cái thuộc về căn tính tự nhiên, ít thay đổi. Còn nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là lấy góc nhìn văn hóa làm điểm tựa để soi chiếu tác phẩm văn học. Chương một, luận văn đã làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa văn học đồng thời tìm hiểu khái quát con người và những đóng góp to lớn của nhà văn Phượng Vũ vào sự nghiệp phát triển văn hóa, văn học. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa luôn có mối quan hệ khăng khít. Vì vậy, văn học không chỉ là bộ phận của văn hóa, chịu sự chi phối trực tiếp của văn hóa mà còn là một phương tiện để lưu giữ và truyền tải văn hóa. Trong hai tiểu thuyết của Phượng Vũ, văn hóa Mường hiện lên gắn với một không gian truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê những sáng tác của Phượng Vũ để có cái nhìn sơ lược về những đóng góp của Phượng Vũ ở các thời kì, từ đó người đọc thấy được công lao to lớn của Phượng Vũ cả về văn hóa và văn học đặc biệt văn hóa dân tộc Mường Hòa Bình.
  • 33. 29 Chương 2 VĂN HÓA TỘC NGƯỜI TRONG HAI TIỂU THUYẾT CỦA PHƯỢNG VŨ 2.1 Quan điểm, triết lí văn hóa của nhà văn Phượng Vũ. Từ xưa đến nay có rất nhiều các quan niệm văn hóa khác nhau. Trần Nho Thìn viết trong Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu, giảng dạy văn học [37], đã thống kê rất nhiều quan niệm văn hóa của các nhà nghiên cứu như: Năm 1959, Leslie Alvin White cho rằng văn hóa là biểu tượng, các sự vật, hiện tượng hay hành động có gắn với năng lực tạo ra biểu tượng của con người. “Trong nhiều lớp sự vật, hiện tượng mà khoa học hiện đại nghiên cứu có một lớp chưa có tên gọi. Đó là lớp hiện tượng gắn liền với năng lực cấp cho tư tưởng, hành động, các sự vật ý nghĩa tượng trưng và năng lực tiếp nhận các biểu tượng vốn là năng lực chỉ con người mới có. Chúng tôi đề nghị gọi lớp sự vật, hiện tượng gắn liền với sự biểu tượng hóa là lớp các biểu tượng”[37, tr16]. Với quan niệm này, Leslie Alvin White coi văn hóa chính là hệ biểu tượng. Dựa vào quan niệm này, ta thấy nhà văn Phượng Vũ đã dựa vào biểu tượng mà cung cấp cho người đọc về các sự vật, hiện tượng gắn liền với văn hóa của người Mường Hòa Bình. Những thông điệp về văn hóa mang chiều sâu của quá khứ tộc người, vùng đất thông qua những hệ thống hình ảnh phái sinh của biểu tượng trong hai tiểu thuyết của mình. Vậy, biểu tượng trong thế giới tiểu thuyết của Phượng Vũ ở đây là gì? Chính là các yếu tố vật chất và tinh thần tạo nên văn hóa của người Mường Hòa Bình như: trống đồng, xanh đồng, cồng chiêng, thổ cẩm…, còn biểu tượng tinh thần được thể hiện qua các truyền thuyết, văn học dân gian, các lễ hội như vua Dịt Dàng, cây si…Tất cả các biểu tượng này đều chứa các hiện tượng văn hóa do con người tạo nên để ghi dấu những nét riêng biệt của người Mường Hòa Bình trong hai tiểu thuyết của ông. Hofstede lấy hình ảnh các lớp của vỏ của củ hành để hình dung các thành tố của văn hóa. Lớp vỏ ngoài cùng là biểu tượng (symbol), lớp tiếp theo nữa là các nhân vật tiêu biểu (heroes), lớp vỏ thứ ba là nghi lễ (ritual) và lớp nữa thuộc về quan niệm về giá trị (value) [27, tr 17]. Có lẽ quan niệm này rất đồng quan điểm về văn hóa của Phượng Vũ, vì thế, hình ảnh các lớp củ hành đã lần lượt hiện ra ở hai tiểu thuyết Hoa hậu xứ Mường và Vương quốc ảo ảnh. Đầu tiên ta đọc Hoa hậu xứ Mường, ta cảm nhận được văn hóa Mường hiện lên trong văn hóa sinh hoạt của nhà
  • 34. 30 lang đạo, rồi từ đó mở ra những nét văn hóa khác nhau trong các biểu tượng, như cảnh quan nhà lang, như văn hoa cạp váy, như ăn uống, tín ngưỡng, lễ hội, cồng chiêng… của người Mường. Với Phượng Vũ, biểu tượng văn hóa vừa mang biểu hiện của sự vật có tính vật chất như trống đồng, xanh đồng, cồng chiêng, nhà sàn thể hiện quyền lực, giầu có… của nhà lang, thì biểu tượng văn hóa còn mang chức năng biểu hiện một tư tưởng, một ý nghĩa trừu tượng đó là những cái không có tính vật chất như lễ hội, lễ cụng mùa, lễ kéo si, hát …và từ biểu tượng văn hóa vật chất và tinh thần ta cảm nhận được những giá trị văn hóa của người Mường thông qua biểu tượng đó. Đúng như Trần Nho Thìn đã nhận xét: Một biểu tượng có thể chứa đựng nhiều nghĩa và một nghĩa có thể được diễn tả bằng nhiều biểu tượng [37, tr18]. Mỗi một biểu tượng là một tự sự về văn hóa, có cả một lịch sử đứng sau nó và từ lịch sử đó chúng ta hiểu về sự việc, con người, xã hội, dân tộc. Hình ảnh xanh đồng được nhà văn Phượng Vũ giới thiệu khi miêu tả về quyền thế của nhà lang. Xanh đồng đặt trên trụ nằm giữa trung tâm của khu nhà lang, xanh đồng rất to, về sự vật con người ta có thể nhìn thấy và có thể dùng như một vật dụng của cuộc sống mà như nhà văn nói: có thể luộc ba con trâu một lúc. Ngoài ra, hình ảnh xanh đồng này còn biểu tượng cho quyền lực, giầu có, quyền thế của nhà lang. Hay, hình ảnh cồng chiêng cũng biểu tượng trong văn hóa Hòa Bình, cũng được Phượng Vũ giới thiệu trong tiểu thuyết của mình với tư cách là vật dụng biểu tượng quyền uy của các nhà lang trong những ngày lễ, tết…Trong đời sống xã hội Mường, cồng chiêng đảm nhiệm một vai trò rất quan trọng và có tác dụng về nhiều mặt như: để gây không khí rộn rã, tưng bừng, náo nhiệt trong hội hè, xắc bùa, cưới xin, đón rước…, trang nghiêm trong cúng bái, buồn thảm trong tang lễ. Cồng chiêng còn thay mệnh lệnh, như chiêng triệu tập, hiệu lệnh. Cồng chiêng còn tăng uy thế, khích lệ lòng dũng cảm, gây hào hứng động viên trong các cuộc đi săn, kéo gỗ…Cồng chiêng còn tượng trưng cho quyền lực như chiêng nhà lang, chiêng nhà thờ, chiêng mo. Hay những tri thức dân gian được từ đời này sang đời khác cũng được Phượng Vũ góp nhặt và đưa vào trong tiểu thuyết của mình, chẳng hạn như biểu tượng cây si. Bởi lẽ, cây si xuất hiện trong truyền thuyết lí giải nguồn gốc người Mường, cây si có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người Mường nên cây si là biểu tượng cho sự may mắn, nên hẹn hò yêu nhau cũng ở gốc si, muốn khỏi ốm thì cúng si, muốn thoát cảnh nghèo đói cũng cúng si. Cây si là vật biểu tượng cho yếu tố tinh
  • 35. 31 thần, là cây bản mệnh cho dân tộc Mường mà Phượng Vũ đã nắm bắt đưa vào tiểu thuyết làm biểu tượng cho văn hóa Mường Hòa Bình ở phương diện tinh thần. Như vậy, với quan niệm và triết lí văn hóa của Phượng Vũ có lẽ là lấy cái biểu hiện chính là biểu tượng chứa đựng văn hóa Hòa Bình để biểu hiện những quy ước của một cộng đồng văn hóa. Vì vậy, văn hóa Mường Hòa Bình hiện lên trong tiểu thuyết của Phượng Vũ một cách tự nhiên chứa đựng nhiều ý nghĩa. 2.2 Xứ Mường Hòa Bình Hòa Bình từ lâu đời được coi là vùng đất cổ người Mường, ở đây có các Mường lớn như Bi, Vang, Thàng, Động và nhiều Mường nhỏ châu tuần. Xứ Mường Hòa Bình xa xưa được biết đến một chỉnh thể địa lý tộc người mang đậm bản sắc văn hóa Mường. Người ta biết đến tỉnh Hòa Bình với hình ảnh con sông Đà hung dữ và trữ tình trong áng văn của Nguyễn Tuân, họ còn biết đến Hòa Bình với công trình thủy điện được bắc trên con sông hung bạo và trữ tình đó để cung cấp cho cả nước dòng điện thắp sáng và còn biết Hòa Bình là cái nôi của văn hóa Đông Sơn. Xứ Mường Hòa Bình được hình thành từ rất lâu: “từ buổi Chi Quyên Chạp và Chi Quyên Chò cầu xin Lang Đá Cần lên làm lang các xứ Mường và làm vua vùng xuôi, dân chúng cư xử chân thành đối với lang. Lang coi dân như con. Cho nên, dân làng luôn luôn giữ kỉ niệm về những việc làm tốt do viên lang đầu tiên đã đem lại cho họ”[6, tr.29]. Theo P. Grossin viết trong quyển Tỉnh Mường Hòa Bình thì Lang Đá Cần là người đầu tiên dạy dân, ông sống vào thời Hùng Vương, ông có công khai phá vùng Mường, dạy cho dân Mường biết kiếm cái ăn để sống, biết dùng lửa để giữ ấm và nấu ăn. Thổ lang cũng đã hình thành và phát triển tại đây, trên đất Mường Hòa Bình. Khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua (năm 968) thì trong nghiệp bá vương của ông, Đinh Tiên Hoàng được các thổ lang giúp đỡ, nên khi lên ngôi vua, nhà vua đã chiếu cho các quan lang ở xứ Mường được cha truyền con nối, các lang phải nộp thuế ba tháng một lần, các quan lang còn thay nhau vào chầu vua, mỗi người chầu ba tháng một lần [6, tr.30]. Đến Thời vua Lê Đại Hành, quan lang nộp thuế cho vua bằng cống vật, vua cũng ban tước hiệu cho quan lang như các triều đại trước, con trai trưởng được làm lang cun, con trai thứ được làm thổ đạo. Dưới thời Lý Thánh Tông, các thổ lang giúp vua đánh giặc, quan lang cũng được thưởng nhiều tước hiệu như: công, hầu, bá, chỉ huy sứ, kinh lược sứ, phụng
  • 36. 32 ngự sử, phò mã…vua còn sai thợ đúc nhiều trống đồng để cho các thổ lang, thế nên chiếc trống đồng cũng được coi là biểu tượng của các nhà lang, sự sở hữu trống đồng chứng tỏ chủ của nó là thổ lang. Dưới thời Hồ Quý Ly, thì bắt tất cả các thổ lang, thổ ty, phụ đạo, đàn bà con gái, của cải về chầu vua. Thời Mạc Đăng Dung, có sắc chỉ ban tước hiệu và đặc quyền cho các lang, có quan lang theo giúp đỡ vua được ban chức “Cẩm thị vệ” Thời Lê- Trịnh, các thổ lang chỉ khi nào có lệnh mới phải về chầu vua. Khi nhà Tây Sơn lên ngôi thì các thổ lang, thổ thổ ty, phụ đạo phải đích thân vào lạy và mừng nhà vua. Các tước hiệu, thưởng vật cũng được hưởng như thời Lê [6, tr. 32]. Dưới thời Thế tổ Cao Hoàng Đế, các thổ lang, thổ ty và phụ đạo ở khắp nước vào mừng nhà vua, vua ban thưởng chức tước và đặc ân như thời Lê. Năm thứ 14 dưới triều vua Minh Mạng, tả quân Lê Văn Duyệt đã xúi các thổ lang làm loạn. Thổ lang làng Sơn Âm, làng Yên Lương thuộc tổng Chiêm Hóa, châu Lạc Thủy là Quách Tất Công xúi dục các thổ lang Lạc Sơn, Quảng Tô, … chống lại chính phủ Nam Triều, tái lập nhà Lê cho một người con cháu nhà hậu Lê, đó là Lê Duy Lương đang ẩn náu vùng Lạc Sơn. Triều đình đã cử Hà Duy Phiên làm chánh khâm sai và Tạ Quang Cự làm phó khâm sai, đi bắt Quách Tất Công và các thổ lang ở Mường Bi và đưa người đứng đầu cuộc nổi loạn về triều đình quy thuận chứ không giết. [6, tr.33] Sau cuộc nổi loạn này, nhà vua đã tước bỏ mọi đặc quyền của các thổ lang và phụ đạo, song dân chúng vẫn yêu thương, trung thành, đùm bọc và che chở còn giấu các quan lang vào rừng. Triều đình Minh Mạng năm thứ 18, châu Lạc Sơn gồm 24 làng, nhưng các xóm của các làng nơi đây lại lớn nên bị chia nhỏ thành 50 làng. Làng Sơn Âm, nơi mà các thổ lang nổi loan chống lại triều đình dân đều bị đuổi đi hết, mãi sau này mới được trở về làng cũ. Khi Tự Đức lên ngôi mới phục hồi các quyền và đặc ân cho các thổ lang và được ban thưởng các chức lãnh binh. Sau này, người Mường cùng nhân dân cả nước tham gia bảo vệ và lao động xây dựng đất nước. Đến thời kì Pháp thuộc, người Pháp vẫn trọng dụng họ đặc biệt các quan lang vẫn cho họ được giữ các chức vụ và đặc quyền.
  • 37. 33 Tỉnh Mường Hòa Bình được thành lập vào năm 1884, nhưng lúc bấy giờ chưa có cuộc sống riêng biệt, đến ngày 27/ 1/ năm 1886 bãi bỏ tình trang phong tỏa xứ Bắc Kì, và quyết định ngày 24/5/ 1886 của quan toàn quyền Paul Bert tạm chấp thuận cho riêng xứ Mường được quyền tự quyết định về mặt quân sự [6, tr.35]. Ngày 22/6/1886 tỉnh Mường ra đời nhằm duy trì xứ Mường ở vùng núi phía Tây đồng bằng, và các tỉnh phía tây nam xứ Bắc kì, có một chế độ tự trị rõ ràng, tỉnh Mường bao gồm các vùng đất Mường thuộc các tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây, Hà Nội, Ninh Bình. Các quan của tỉnh được lựa chọn trong các gia đình quyền quý của xứ Mường, giữ các chức như án sát, bố chánh, lãnh binh hay đề đốc. Lỵ sở là Chợ Bờ (Hòa Bình) là nơi đóng dinh của quan tuần phủ Mường và các nhà chức trách của tỉnh. Ngày 29/11/1886 tòa phó sứ quyết định chuyển li sở từ Chợ Bờ về Phương Lâm (nay là trung tâm thành phố Hòa Bình), lúc này ông Paul Bert chết đột ngột ở Hà Nội vào ngày 11/11/1886,nên ngày 29/11/1886 ông Moulié phó sứ hạng hai được chỉ định nắm quyền chỉ đạo tỉnh này[6, tr.36,37]. Ngày 29/11/1896, tỉnh lỵ tỉnh Mường chính thức được chuyển về đóng tại Phương Lâm Hòa Bình, phía bờ trái sông Đà, đối diện với Phương Lâm. Từ đó, tỉnh Mường được gọi là tỉnh Hòa Bình với 4 châu: Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn và Mai Đà (Huyện Lạc Thủy lúc này thuộc châu Lạc Sơn). Năm 1908 chuyển về tỉnh Hà Nam. Từ đó, địa giới hành chính cơ bản ổn định. Đến tháng 5/1953, huyện Lạc Thủy cùng một số xã thuộc Nho Quan, Ninh Bình chuyển về tỉnh Hòa Bình. Từ năm 1950, các châu được đổi thành huyện và các đơn vị hành chính huyện của tỉnh Hòa Bình. Ngày 27/12/1975, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa V đã ra nghị quyết hợp nhất tỉnh Hòa Bình với tỉnh Hà Tây thành tỉnh Hà Sơn Bình. Và theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 9, ngày 12/8/1991, tỉnh Hà Sơn Bình tách ra thành 2 tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Khi đó, tỉnh Hòa Bình có diện tích 4.697 km với dân số 670.000 người gồm 10 đơn vị hành chính: 1 thị xã Hòa Bình và 9 huyện: Đà Bắc, Mai Châu, Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thủy, Kim Bôi, Tân Lạc, Yên Thủy. Như vậy, trên đây đã khái quát một cách sơ lược về một vùng Mường, tỉnh Mường Hòa Bình. Nhìn một cách tổng thể, người Mường không có một nền hành chính tự trị, cũng không có biên giới tự nhiên. Và họ lựa chọn các cao nguyên và