SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 117
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA
QUẢN TRỊ KINH DOANH CHUYÊN NGÀNH
LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
-------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP BÁN LẺ TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT
NAM SAU KHI VIỆT NAM MỞ CỬA THỊ
TRƯỜNG DỊCH VỤ BÁN LẺ
VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
LUANVANTRITHUC.COM
ZALO: 0936.885.877
TẢI TÀI LIỆU NHANH QUA ZALO
Hà Nội, tháng 05/2009
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ
chức Thương mại thế giới WTO, thể hiện sự hội nhập mạnh mẽ và toàn diện với thế
giới thông qua các cam kết cụ thể cả trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương
mại dịch vụ. Trong đó, các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối của
Việt Nam được đánh giá là khá mạnh mẽ. Vì vậy ngành dịch vụ bán lẻ của Việt
Nam sẽ chịu nhiều tác động từ quá trình mở cửa thị trường trong lộ trình thực hiện
các cam kết này.
Ở thời điểm hiện tại, theo như lộ trình cam kết, Việt Nam đã chính thức mở
cửa thị trường bán lẻ bằng việc cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài hoạt động trong lĩnh vực phân phối kể từ ngày 1/1/2009. Một số tập đoàn bán
lẻ nước ngoài đã có những bước đi đầu tiên khá vững chắc tại thị trường Việt Nam;
một số khác đang chuẩn bị cho những kế hoạch lớn, dài hơi với mục tiêu chiếm lĩnh
thị trường bán lẻ hấp dẫn số một này – như họ đã làm và từng thành công tại nhiều
quốc gia khác. Đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ các “người khổng lồ”
trên thị trường bán lẻ thế giới, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam rất dễ bị tổn
thương trong điều kiện còn yếu kém về nhiều mặt. Để trụ vững trên chính sân nhà,
dù năng lực cạnh tranh còn yếu, nhưng nếu có sự hỗ trợ thích hợp từ Nhà nước
thông qua các công cụ quản lý Nhà nước hợp lý, hiệu quả, chắc chắn các doanh
nghiệp sẽ thêm lớn mạnh.
Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
có nhiều ý kiến lo ngại rằng vẫn còn nhiều vướng mắc trong công tác quản lý Nhà
nước như hệ thống các định chế pháp lý chưa đầy đủ, đồng bộ, thiếu các cơ chế
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển…Vì vậy việc nghiên cứu tìm hiểu tác
động của các công cụ quản lý Nhà nước hiện nay đối với thị trường dịch vụ bán lẻ
và tìm kiếm giải pháp để một mặt nâng cao hiệu quả quản lý nhằm phát triển thị
trường đang phát triển sôi động này, một mặt tuân thủ các cam kết của WTO là cần
thiết. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề trên, người viết xin lựa chọn nghiên cứu
1
đề tài khóa luận tốt nghiệp “Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ
trên thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ bán lẻ”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích khái quát thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ trên thị
trường Việt Nam, thực trạng các công cụ quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch
vụ bán lẻ, đồng thời làm rõ các cam kết của Việt Nam trong WTO về mở cửa thị
trường dịch vụ phân phối, khóa luận đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ nhằm phù hợp với tình hình phát
triển thị trường và tuân thủ các cam kết WTO.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp bán lẻ, quản lý Nhà nước đối với
doanh nghiệp bán lẻ.
+ Tìm hiểu kinh nghiệm thành công của một số quốc gia trong công tác quản lý
Nhà nước với thị trường dịch vụ bán lẻ
+ Phân tích, đánh giá thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
và tác động của các cam kết WTO đối với thị trường bán lẻ.
+ Phân tích các công cụ quản lý Nhà nước hiện nay đối với các doanh nghiệp trên
thị trường bán lẻ Việt Nam.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với doanh
nghiệp bán lẻ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là công tác quản lý Nhà nước đối với các
doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc phân tích các công cụ quản lý
Nhà nước, trong đó tập trung vào công cụ hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động
của các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam.
2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để hoàn thiện khóa luận, người viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp: hệ
thống hóa, thống kê, phân tích, lý luận logic, so sánh.
5. Kết cấu khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
chia làm 3 chương:
Chương I: Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ
Chương II: Thực trạng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị
trường Việt Nam
Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước nhằm phát triển
doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Thị Thu Thủy, khoa Quản
trị kinh doanh, cùng các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương đã cho em
những kinh nghiệm bổ ích trong nghiên cứu khoa học cũng như đã dành thời gian
quý báu, chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp
này. Trong quá trình nghiên cứu do còn hạn chế về trình độ nghiên cứu, thông tin,
tài liệu tham khảo nên không thể tránh khỏi thiếu sót. Người viết mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và bạn đọc.
Hà Nội, tháng 5 năm
2009.
Sinh viên
Phạm Thị Kim Ngân
3
CHƢƠNG I: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP BÁN LẺ
1.1 Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp bán lẻ
1.1.1 Khái niệm bán lẻ và doanh nghiệp bán lẻ
Có nhiều định nghĩa khác nhau về bán lẻ, trong đó có một số định nghĩa tiêu biểu
sau đây:
Theo định nghĩa của Philip Kotler:
Bán lẻ là mọi hoạt động nhằm bán hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu
dùng cuối cùng để họ sử dụng cho cá nhân, không mang tính thương mại1
Bất kỳ một tổ chức nào làm công việc này cũng là một tổ chức bán lẻ, bất kể hàng
hóa hay dịch vụ đó được bán như thế nào (bán trực tiếp, qua bưu điện, qua điện
thoại, hay qua máy bán hàng tự động) và ở đâu (trong cửa hàng, trên đường phố hay
tại nhà người tiêu dùng).
Theo khoản 8, điều 3, Nghị định 23/2007/NĐ-CP ban hành ngày 12/2/2007
của Chính phủ Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa
và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: Bán lẻ là hoạt động bán hàng hóa trực
tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.
Trong văn bản giải thích của mình đối với Danh sách phân loại sản phẩm
trung tâm CPC, Ban Thống kê của Liên Hợp Quốc đưa ra định nghĩa các dịch vụ
bán lẻ là “bán hàng hóa cho người tiêu dùng cá nhân hay hộ gia đình bao gồm các
dịch vụ kèm theo việc bán các hàng hóa đó (các dịch vụ bán lẻ)”2
Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra định nghĩa: Bán lẻ bao
gồm việc bán hàng hóa cho cá nhân hoặc hộ gia đình để họ tiêu dùng, tại một địa
điểm cố định, hoặc không tại một địa điểm cố định mà qua các dịch vụ liên quan3
.
1
Philip Kotler (2007), Marketing căn bản, NXB Lao động – xã hội, trang 314
2
http://unstats.un.org/unsd/cr/registry/regcs.asp?Cl=9&Lg=1&Co=6
3
http://en.wikipedia.org/wiki/Retail
4
Để hiểu được thế nào là doanh nghiêp bán lẻ, trước tiên ta phải hiểu thế nào
là doanh nghiệp. Khoản 1, điều 4, Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa doanh nghiệp
như sau: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Như vậy bất kỳ doanh nghiệp nào thực hiện hoạt động kinh doanh bán lẻ thì
cũng được gọi là doanh nghiệp bán lẻ.
Các doanh nghiệp bán lẻ hay các nhà bán lẻ có đủ loại quy mô và hình thức,
và luôn luôn xuất hiện thêm những kiểu bán lẻ mới. Dù bán hàng cho một trong
những giai tầng xã hội hay cho thị trường đại chúng, qua năm tháng những người
bán lẻ đều có chung một ý nghĩ là họ phải làm việc trong những điều kiện của một
môi trường biến đổi cực kỳ nhanh. Những công thức bán lẻ của ngày hôm qua có
thể không còn phù hợp trong ngày hôm nay và chắc chắn không phù hợp cho ngày
mai nữa. Các chức năng phân phối do các nhà bán lẻ thực hiện có thể phối hợp theo
nhiều cách khác nhau để tạo ra các dạng mới của bán lẻ. Có thể phân loại những nhà
bán lẻ theo một số các tiêu thức sau đây4
:
A. Theo quyền sở hữu:
1. Cửa hàng độc lập
2. Các tổ chức bán lẻ nhiều cửa hàng (cửa hàng chuỗi, chi nhánh)
3. Các cửa hàng bán lẻ của nhà sản xuất
4. Các cửa hàng bán lẻ của người tiêu dùng
5. Các cửa hàng bán lẻ của nông dân
6. Các cửa hàng bán lẻ do Nhà nước quản lý
7. Cửa hàng của các công ty phúc lợi công cộng
B. Theo loại hình kinh doanh
1. Cửa hàng bách hóa tổng hợp
2. Cửa hàng kinh doanh theo nhóm hàng
3. Cửa hàng chuyên doanh
4
Trương Đình Chiến – GS.PTS Nguyễn Văn Thường (1999), Quản trị hệ thống phân phối sản phẩm, NXB
Thống kê, Trang 50-52.
5
C. Theo mức độ liên kết dọc
1. Không có quan hệ liên kết (Chỉ có chức năng bán lẻ)
2. Liên kết với chức năng bán buôn
3. Liên kết với chức năng sản xuất
D. Theo hình thức pháp lý của tổ chức
1. Cùng một chủ sở hữu
2. Quan hệ thành viên
3. Quan hệ hợp tác
E. Theo phương thức tiếp xúc với khách hàng
1. Cửa hàng bình thường
2. Bán hàng qua thư
3. Bán hàng trực tiếp tại nhà
F. Theo địa điểm
1. Cửa hàng ở thành phố lớn
- Cửa hàng ở trung tâm
- Cửa hàng ở ngoại ô
2. Cửa hàng ở thành phố nhỏ
3. Cửa hàng ở vùng nông thôn
4. Điểm bán hàng cạnh đường
H. Theo mức độ cung cấp dịch vụ cho khách hàng
1. Bán lẻ dịch vụ đầy đủ
2. Bán lẻ dịch vụ hạn chế
3. Tự phục vụ
Ngoài ra, trong khu vực bán lẻ còn có nhiều cửa hàng “gia đình” rất nhỏ: Những
doanh nghiệp của người bán lẻ nhỏ giữ một vai trò quan trọng vì một số nguyên
nhân sau:
- Ở đó thường xuất hiện những hình thức bán lẻ mới mà sau đó được các cửa
hàng lớn áp dụng.
6
- Các cửa hàng này rất thuận tiện cho người tiêu dùng vì nó có mặt ở khắp mọi
nơi
- Thường nó có đặc điểm là có khả năng thích ứng cao và dành cho người tiêu
dùng những dịch vụ rất đặc biệt
- Họ tạo cho người mua cảm thấy mình là chủ
1.1.2. Vị trí, chức năng của doanh nghiệp bán lẻ:
1.1.2.1. Vị trí của dịch vụ bán lẻ trong dịch vụ thương mại
Dịch vụ bán lẻ là một bộ phận nằm trong lĩnh vực dịch vụ phân phối của
ngành dịch vụ thương mại.
Theo cách hiểu của WTO, họ không đưa ra khái niệm, định nghĩa về dịch vụ,
dịch vụ thương mại và thương mại dịch vụ. Thay vì đưa ra các khái niệm này, WTO
dành sự quan tâm cho những quy định về các phương thức cung ứng dịch vụ thương
mại giữa các nước thành viên. Vì dịch vụ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong
thương mại quốc tế, tại vòng đàm phán Urugoay, các nước thành viên GATT đã
đồng ý đưa dịch vụ vào nội dung đàm phán. Và cũng vì dịch vụ là lĩnh vực nhạy
cảm so với hàng hóa hữu hình, cho nên, để điều chỉnh các hoạt động thương mại
dịch vụ, kết thúc vòng đàm phán Urugoay, các nước thành viên đã ký một hiệp định
đa biên dành riêng cho thương mại dịch vụ, đó là Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ (Tiếng Anh là General Agreement on Trade Services, viết tắt là GATS). Để
cụ thể hóa hơn nữa các loại hình dịch vụ mà Hiệp định GATS điều chỉnh, WTO đưa
ra danh mục phân loại các dịch vụ theo ngành (Services Sectorial Classification List
– GNS/W/120). Về cơ bản, phân loại dịch vụ của WTO dựa theo CPC (Danh mục
phân loại các sản phẩm chủ yếu - Central Products Classification). WTO phân loại
dịch vụ dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế. Toàn bộ lĩnh vực dịch vụ được chia ra 12
ngành. Mỗi ngành dịch vụ lại được chia ra các phân ngành, trong các phân ngành có
liệt lê các hoạt động dịch vụ cụ thể. Việc phân loại dịch vụ theo WTO rất thích hợp
cho việc xúc tiến đàm phán về mở của thị trường dịch vụ quốc tế. GATS điều chỉnh
dịch vụ bán lẻ là một trong các lĩnh vực của dịch vụ phân phối - bao gồm các dịch
7
vụ đại lý ăn hoa hồng, các dịch vụ thương mại bán buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ cấp
quyền kinh doanh, các dịch vụ phân phối khác.
1.1.2.2. Vị trí của doanh nghiệp bán lẻ trong hệ thống phân phối
Phân phối là quá trình lưu thông hàng hóa từ nhà chế tạo/sản xuất hay nhập
khẩu tới các nhà phân phối trực tiếp/các đại lý bán hàng; hay các công ty thương
mại, các đối tác thu mua tới tay người tiêu dùng/các khách hàng kinh doanh, nhà
chuyên môn (các trung gian phân phối). Dù hoạt động phân phối có thể do chính
người sản xuất thực hiện hay do các trung gian đảm nhiệm theo yêu cầu của người
sản xuất, nó luôn được coi là chiếc cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Đối với người tiêu dùng, hoạt động phân phối được thể hiện chủ yếu tại các cửa
hàng bán lẻ. Vậy nhà bán lẻ là mắt xích cuối cùng của quá trình biến đổi, vận
chuyển, dự trữ và đưa hàng hóa, dịch vụ đến tay người tiêu dùng. Vị trí đó được thể
hiện trong sơ đồ các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu thụ
cuối cùng sau đây:
Sơ đồ 1: Các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất cho tới ngƣời tiêu thụ
cuối cùng
5
5
Bộ Công thương. Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (2008), WTO và hệ thống phân phối Việt
Nam, NXB Lao động, trang 6
8
1.1.2.3. Chức năng của doanh nghiệp bán lẻ:
Nhà bán lẻ là một trung gian trong hệ thống phân phối, do đó nhà bán lẻ
mang đầy đủ chức năng của một thành viên trong kênh phân phối6
:
- Thứ nhất, nghiên cứu, thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo
thuận lợi cho việc trao đổi
- Thứ hai, kích thích tiêu thụ - soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng
hóa
- Thứ ba, thiết lập các mối liên hệ - tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những
người mua tiềm ẩn.
- Thứ tư, hoàn thiện hàng hóa – làm cho hàng hóa đáp ứng được yêu cầu của
người mua.
- Thứ năm, tiến hành thương lượng – những việc thỏa thuận về giá cả và
những điều kiện khác để thực hiện bước tiếp theo là chuyển giao quyền sở
hữu hay quyền sử dụng
- Thứ sáu, tổ chức lưu thông hàng hóa – vận chuyển và bảo quản, dự trữ hàng
hóa
- Thứ bảy, đảm bảo kinh phí – tìm kiếm và sử dụng nguồn vốn để bù đắp các
chi phí hoạt động
- Chấp nhận rủi ro – gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của kênh.
Việc thực hiện năm chức năng đầu hỗ trợ cho nhà bán lẻ ký kết các hợp đồng, còn
việc thực hiện ba chức năng còn lại thì hỗ trợ cho việc hoàn tất thương vụ đã ký kết.
1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp bán lẻ:
Để làm rõ hơn cách phân loại các nhà bán lẻ đã được đề cập ở phần 1 về khái
niệm bán lẻ và doanh nghiệp bán lẻ, người viết xin phân tích cụ thể hơn các phương
thức phân loại cửa hàng bán lẻ và đặc điểm của các loại hình bán lẻ đó:
1.1.3.1. Phân loại theo mức độ cung cấp dịch vụ
6
Philip Kotler (2007), Marketing căn bản, NXB Lao động – xã hội, trang 289
9
Theo số lượng dịch vụ nhà bán lẻ cung cấp, người ta chia thành 4 loại: những
cửa hàng bán lẻ tự phục vụ, những cửa hàng bán lẻ tự do lựa chọn hàng hóa có
người bán hàng để giúp đỡ, cửa hàng bán lẻ phục vụ hạn chế, cửa hàng bán lẻ phục
vụ đầy đủ
Bảng 1: Phân loại loại hình bán lẻ theo chỉ tiêu khối lƣợng dịch vụ cho ngƣời
tiêu dùng
Tự phục vụ Tự do lựa chọn Phục vụ hạn chế Phục vụ đầy đủ
Đặc - Số dịch vụ tối - Số dịch vụ hạn - Có nhiều dạng - Có rất nhiều
điểm thiểu: Người tiêu chế: Có người bán dịch vụ: Mức độ dạng dịch vụ:
nổi bật dùng sẵn sàng tự hàng giúp đỡ giúp đỡ cao hơn từ Dịch vụ chăm
tìm, so sánh và lựa - Giá cả hấp dẫn phía nhân viên, sóc khách hàng
chọn hàng hóa - Bán những mặt người tiêu dùng tốt
- Giá cả hấp dẫn hàng chủ yếu được hưởng dịch - Bán hàng thời
- Bán những mặt thường dùng vụ bán trả góp thượng
hàng chủ yếu, - Bán những mặt hoặc trả lại hàng - Bán những mặt
thường dùng hàng thường ngày đã mua hàng cho nhu cầu
- Bán những mặt đặc biệt
hàng cần lựa chọn
trước
Ví dụ - Cửa hàng kem Cửa hàng hạ giá, Bán hàng lưu Cửa hàng chuyên
bán lẻ, cửa hàng cửa hàng tạp hóa, động, cửa hàng doanh, cửa hàng
thực phẩm, cửa cửa hàng bán qua bách hóa, cửa bách hóa tổng
hàng hạ giá, cửa bưu điện hàng bán qua điện hợp
hàng bán qua bưu thoại, cửa hàng tạp
điện, máy bán hóa
hàng tự động
1.1.3.2. Phân loại theo chủng loại hàng hóa được bán
Theo nghĩa rộng ra có thể nói về chiều rộng và mức độ phong phú của chủng
loại hàng hóa và dựa vào những đặc điểm đó để phân ra những kiểu cửa hàng chủ
10
yếu: cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hóa tổng hợp, cửa hàng bán hàng tiêu
dùng thường ngày, phức hợp thương mại.
- Cửa hàng chuyên doanh: bán một số chủng loại hàng hóa thuộc dòng sản phẩm
hẹp và chuyên sâu, nhưng rất phong phú.Ví dụ cửa hàng quần áo, cửa hàng chỉ bán
giày thể thao, cửa hàng chỉ bán máy tính.
- Cửa hàng bách hóa tổng hợp: bán một số nhóm chủng loại hàng, mỗi nhóm chủng
loại do một bộ phận cửa hàng chuyên trách. Đứng đầu các bộ phận này là người thu
mua hay người bán.
- Các siêu thị: Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ
suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ
nhu cầu của người tiêu dùng.
- Cửa hàng phục vụ nhu cầu thường ngày: Thường là các cửa hàng thực phẩm có
quy mô tương đối nhỏ và nằm ở gần các khu dân cư, mở cửa tất cả các ngày trong
tuần và đến khuya, bán một số chủng loại hàng thông dụng thường ngày với tốc độ
quay vòng cao. Các cửa hàng này làm việc kéo dài và chủ yếu phục vụ người tiêu
dùng trong trường hợp “chữa cháy” nên thường bán với giá tương đối cao hơn.
Nhưng chúng đáp ứng được một trong những nhu cầu tiêu dùng quan trọng và
người ta sẵn sàng trả giá cho những sự thuận tiện đã tạo ra cho họ. Hiện nay mô
hình cửa hàng này ở Việt Nam còn được biết đến với tên gọi cửa hàng tiện ích, cửa
hàng tiện dụng. Ngoài ra trong lĩnh vực bán lẻ hàng tiêu dùng còn xuất hiện mô
hình “cây xăng – cửa hàng”. Các cửa hàng bán lẻ này nằm kế bên trạm xăng, và
người mua xăng có thể kết hợp mua rất nhiều mặt hàng tiêu dùng thường ngày như
bánh mì, sữa, thuốc lá, bánh ngọt, cà phê…
- Siêu thị liên hợp, siêu thị bách hóa và các tổ hợp thương mại: kiểu cửa hàng vượt
hơn hẳn siêu thị thông thường về quy mô. Siêu thị liên hợp là dạng siêu thị với
chủng loại hàng được mở rộng do có bán cả thuốc không cần toa và thuốc theo toa.
Siêu thị bách hóa có quy mô diện tích lớn hơn siêu thị thông thường , cố gắng thỏa
mãn đầy đủ các nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm cũng như về hàng hóa
không phải thực phẩm thường dùng. Ở các siêu thị bách hóa chính vì chủng loại mặt
11
hàng rộng nên giá cả thường cao hơn so với giá ở các siêu thị thông thường. Tổ hợp
thương mại vượt cả những siêu thị bách hóa về quy mô và diện tích, bao gồm siêu
thị, cửa hàng hạ giá và kho – cửa hàng bán lẻ. Chủng loại mặt hàng vượt ra ngoài
phạm vi những hàng hóa thông thường, bao gồm cả đồ gỗ, đồ điện gia dụng lớn và
nhỏ, quần áo và rất nhiều các mặt hàng khác. So với mức giá thông thường của các
siêu thị bách hóa, các tổ hợp thương mại áp dụng giá có chiết khấu.
1.1.3.3. Phân loại theo sự quan tâm tương đối về giá cả:
Có thể phân loại các cửa hàng bán lẻ trên cơ sở hình thành giá cả của chúng.
Phần lớn các cửa hàng đều bán hàng theo giá trung bình và mức dịch vụ bình
thường cho người tiêu dùng. Một số cửa hàng bán hàng hóa và dịch vụ chất lượng
cao và theo giá cao hơn. Ta sẽ xem xét các cửa hàng hạ giá, các mô hình sinh ra từ
chúng dưới dạng kho – cửa hàng và cửa hàng giới thiệu sản phẩm bán theo catalog:
- Cửa hàng hạ giá: bán những hàng hóa tiêu chuẩn theo giá thấp hơn bằng cách
giảm định mức lợi nhuận và tăng khối lượng tiêu thụ. Cửa hàng hạ giá thực sự có 5
đặc điểm sau: 1. nó luôn bán hàng theo giá thấp hơn giá thịnh hành ở các cửa hàng
có phụ giá cao và tốc độ quay vòng hàng dự trữ chậm; 2. nó coi trọng hàng hóa có
nhãn hiệu phổ biến trong toàn quốc nên giá thấp hoàn toàn không phải do chất
lượng hàng kém; 3. nó hoạt động theo phương pháp tự phục vụ với những tiện nghi
tối thiểu; 4. Nó thường nằm ở khu vực có mức tiền thuê nhà thấp và thu hút người
mua từ những nơi tương đối xa; 5. ở đó chỉ lắp đặt thiết bị thương mại đơn giản.
- Các kho – cửa hàng: Kho - cửa hàng là một doanh nghiệp thương mại hạ giá với
khối lượng dịch vụ hạn chế và bỏ mọi thứ rườm rà với mục đích là bán một khối
lượng lớn hàng theo giá hạ, thậm chí trưng bày hàng ngay trong thùng chứa. Đối
tượng phục vụ là những người mua phẩm cấp trung bình, quan tâm đến giá hạ và
khả năng nhận được hàng ngay.
- Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm bán theo catalog: kết hợp các nguyên tắc bán
hàng theo catalog và những nguyên tắc bán hàng hạ giá để tiêu thụ nhiều chủng loại
hàng hóa có nhãn hiệu bán chạy, thường là với phụ giá cao. Các cửa hàng này xuất
bản những cuốn catalog nhiều màu sắc và có thể lấy ở phòng trưng bày. Trong
12
catalog ghi rõ giá quy định chính thức của từng mặt hàng và giá có chiết khấu của
nó. Khách hàng có thể đặt hàng qua điện thoại hay đến gian trưng bày trực tiếp xem
sản phẩm và mua những thứ có sẵn.
1.1.3.4. Phân loại theo tính chất của gian hàng:
- Bán lẻ theo đơn đặt hàng qua bưu điện hay điện thoại: có các loại hình bán theo
đơn đặt hàng căn cứ vào catalog, marketing trực tiếp hoặc gửi thư trực tiếp, bán
hàng qua điện thoại. Ngày càng có nhiều phụ nữ đi làm nên đây là các hình thức
giúp họ tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại.
- Các máy bán hàng tự động: Các máy bán hàng tự động ngày nay đã vượt xa các
thế hệ tiền bối của nó với kết cấu thể hiện những thành tựu của kỹ thuật vũ trụ và
máy tính. Chúng có thể nhận tiền xu hay tiền giấy và trả lại tiền dư. Máy được đặt ở
mặt bằng thuận lợi như các nhà máy, cơ quan, cửa hàng lớn, trạm tiếp xăng và cả
trên toa ăn của đường sắt. Đây là một kênh phân phối tương đối đắt và chi phí của
người bán khá cao do các máy nằm rải rác khắp nơi trên một địa bàn rộng, cần
thường xuyên bổ sung hàng, hay hỏng hóc và một số khu vực còn bị mất cắp vặt.
Người tiêu dùng đôi khi khó chịu vì máy hư, không bổ sung hàng kịp thời và không
thể trả hàng lại được.
- Phục vụ đơn hàng có chiết khấu: hỗ trợ nhóm khách hàng đặc biệt, thường là công
nhân viên của những tổ chức lớn như trường học, bệnh viện, đoàn thể, cơ quan nhà
nước, mua hàng theo giá có chiết khấu của một số người bán lẻ nhất định.
- Bán hàng lưu động: hoạt động theo nguyên tắc đến từng nhà, từng cơ quan hay
theo nguyên tắc bố trí những cuộc hẹn mua bán tại nhà. Ví dụ công ty Avon có một
ý tưởng độc đáo, xây dựng đội ngũ nhân viên nữ vừa là bạn, vừa là cố vấn cho các
bà nội trợ về mỹ phẩm, chào hàng rải khắp thế giới và biến công ty Avon thành
công ty mỹ phẩm lớn nhất thế giới và công ty bán hàng lưu động lớn nhất thế giới.
1.1.3.5. Phân loại theo loại hình sở hữu cửa hàng:
- Mạng lưới công ty: Là một trong những hiện tượng quan trọng và đáng kể nhất
ngành thương nghiệp bán lẻ trong thế kỷ 20. Mạng lưới cửa hàng là hai hay nhiều
doanh nghiệp thương mại chung một quyền sở hữu và kiểm soát, bán những chủng
13
loại hàng tương tự nhau, có chung một bộ phận thu mua và tiêu thụ và cũng có thể
có hình thức kiến trúc như nhau.
- Các hợp tác xã tiêu thụ: Là công ty bán lẻ thuộc quyền của chính người tiêu dùng,
khi dân cư của một cộng đồng nào đó chung tiền mở cửa hàng riêng của mình, cùng
xác định những nguyên tắc hoạt động cho cửa hàng và bầu các thành viên của ban
quản trị.
- Tổ chức của những người có quyền ưu đãi: là sự liên kết theo hợp đồng giữa
những người chủ sở hữu quyền ưu đãi (nhà sản xuất, người bán sỉ hay tổ chức dịch
vụ) và những người được hưởng quyền ưu đãi (những nhà kinh doanh độc lập, mua
quyền sở hữu một hay một số điểm của hệ thống hoạt động trên cơ sở quyền ưu đãi
đó). Điểm khác biệt cơ bản của tổ chức này so với các liên kết theo hợp đồng khác
(mạng lưới tự nguyện, hợp tác xã bán lẻ) là thường bán một mặt hàng độc đáo, dịch
vụ độc đáo, một phương pháp hoạt động kinh doanh, tên thương mại, uy tín hay
giấy phép của chủ sở hữu quyền ưu đãi.
- Các tập đoàn bán lẻ: hợp nhất một số doanh nghiệp thuộc các hướng khác nhau và
hình thức bán lẻ khác nhau vào một mối với sự nhất thể hóa một phần các chức
năng phân phối và quản lý.
1.1.3.6. Phân loại theo mức độ tập trung cửa hàng:
Nguyên tắc cuối cùng để phân loại các doanh nghiệp bán lẻ là số lượng cửa
hàng. Ngày nay phần lớn các cửa hàng tập trung ở những khu thương mại do quy
định của các cơ quan chính quyền địa phương phân vùng các hoạt động cũng như vì
ý muốn tạo cho người tiêu dùng nhiều khả năng mua sắm tất cả những thứ cần thiết
trong một lần đi. Những cửa hàng tập trung vào một chỗ cũng giải quyết nhiệm vụ
như các siêu thị và các cửa hàng bách hóa tổng hợp, tiết kiệm thời gian và công sức
của người tiêu dùng khi tìm kiếm hàng hóa cần thiết cho mình. Có 4 kiểu tập trung
cơ bản:
- Khu vực kinh doanh trung tâm
- Các trung tâm thương mại khu vực
- Các trung tâm thương mại quận, huyện.
14
- Các trung tâm thương mại phường, xã.
1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp bán lẻ
1.2.1. Khái niệm quản lý Nhà nƣớc về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có chủ đích của nhà nước đối với
toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của nhà nước, thông qua pháp luật,
chính sách, công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính, trên tất cả các lĩnh
vực và các thành phần kinh tế.7
Quản lý nhà nước về kinh tế là một tất yếu khách quan của mọi quốc gia,
không kể chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước bao
giờ cũng có nguồn gốc từ kinh tế, và ngược lại bất kỳ một hoạt động nào của nhà
nước cũng, hoặc là thúc đẩy, hoặc là kìm hãm sự phát triển kinh tế. Ngày nay sự
cạnh tranh giữa các quốc gia cơ bản là về tiềm lực kinh tế. Tiềm lực kinh tế đã trở
thành thước đo về vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo
vệ và duy trì sức mạnh của mỗi quốc gia. Vấn đề quan trọng là mỗi nhà nước phải
xác định được phạm vi, mức độ, vai trò của mình trong quản lý kinh tế sao cho phù
hợp với bản chất và định hướng chính trị, đồng thời có tri thức và kỹ năng để thực
hiện thành công, có hiệu quả vai trò của mình trong thực tế.
1.2.2. Chức năng của quản lý Nhà nƣớc về kinh tế
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng
và giai đoạn tác động có chủ đích của nhà nước, là tập hợp những nhiệm vụ khác
nhau mà nhà nước phải tiến hành trong quá trình quản lý kinh tế đất nước
Thực chất chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhà nước tạo ra và thực
hiện một cơ chế hay phương thức quản lý nền kinh tế quốc dân, đảm bảo sự phát
triển nhanh và bền vững
Phân tích chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhằm hiểu được nhà
nước phải làm những công việc gì để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển.
7
PGS.TS. Nguyễn Cúc (Chủ biên) (2008), Tập bài giảng Quản lý nhà nước về kinh tế, NXB Đại học Kinh tế
quốc dân, trang 31
15
Nhận thức rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là cơ sở khách quan để tổ chức
bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, từ chức năng mà sắp xếp bộ máy và bố trí biên
chế về con người. Mặt khác chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là những nhiệm
vụ tổng quát mà nhà nước phải thực hiện trong từng thời gian nhất định, do yêu cầu
của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và do tình hình, điều kiện cụ thể của từng giai
đoạn lịch sử quy định. Do đó, nhận thức về chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế
cũng không cố định mà luôn biến động và phát triển. Tuy nhiên các chức năng cơ
bản, chủ yếu thường ít thay đổi, mà thay đổi thường xuyên là các nhiệm vụ quản lý
nhà nước về kinh tế - các công việc cụ thể hóa chức năng quản lý trong không gian
và thời gian nhất định.
Các chức năng cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế nước ta được phân
loại theo nhiều tiêu thức khác nhau:
1.2.2.1. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo phương hướng tác động
Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “Trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của
các doanh nghiệp, Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt các chức năng quản lý vĩ
mô sau đây:
- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh
- Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển
- Hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội
- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia…”
1.2.2.2. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo giai đoạn tác động
a. Định hướng phát triển kinh tế đất nước:
Định hướng phát triển kinh tế là quyết định trước những nhiệm vụ, những
mục tiêu và những chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong khoảng thời gian
thường là 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn.
Đây là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý của nhà nước và
các chức năng quản lý khác phải căn cứ vào đó để thực hiện.
Chức năng định hướng bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
16
- Xác định các nhiệm vụ, là xác định những công việc phải làm trong khoảng
thời gian nhất định để tạo ra sự phát triển kinh tế đất nước.
- Xác định mục tiêu dài hạn của phát triển kinh tế đất nước. Đây là nội dung
quan trọng của chức năng định hướng, vì mục tiêu là khởi đầu của quản lý,
nó chi phối toàn bộ hoạt động quản lý. Xác định mục tiêu đúng còn là cơ sở
để xác lập các nguyên tắc và bộ máy quản lý.
- Xác định chiến lược phát triển kinh tế:
+ Các đường lối tổng quát, các chủ trương mà nhà nước sẽ thực thi trong một
thời gian đủ dài
+ Các mục tiêu dài hạn cơ bản của đất nước
+ Các giải pháp chủ yếu để thu hút và phân bổ các nguồn lực, các tiềm năng
trong và ngoài nước, nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
b. Lập kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là tập hợp các mục tiêu ở cấp quốc gia
hay khu vực nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Nhà nước phải xây dựng các kế hoạch
phát triển quốc gia dài hạn và trung hạn. Kế hoạch dài hạn kéo dài từ 10 đến 20 năm
hoặc lâu hơn, kế hoạch trung hạn kéo dài trong 5 năm, với những mục tiêu và giải
pháp cụ thể hơn. Các kế hoạch trung hạn được cụ thể hóa thành kế hoạch hàng năm,
kết hợp với hệ thống ngân sách của Chính phủ và có tính đến viện trợ từ bên ngoài
đã được phê duyệt, để triển khai thực hiện.
Chương trình là tổ hợp các mục tiêu, các chính sách, các thủ tục, các quy tắc,
các nhiệm vụ, các bước phải tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố cần
thiết khác, để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định về phát triển kinh tế
đất nước, vùng và ngành.
Chương trình và kế hoạch có quan hệ với nhau và có điểm khác nhau.
Chương trình là một bộ phận của kế hoạch, hay một phương thức vận hành của kế
hoạch để đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tế cuộc sống. Chương trình đảm bảo phối
hợp một cách đồng bộ các biện pháp liên quan trong việc thực hiện các mục tiêu kế
hoạch đề ra. Chương trình tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào giải quyết có
17
hiệu quả những trọng tâm của kế hoạch nhà nước trong từng thời kỳ, để tạo cơ cấu
kinh tế mới.
c. Thiết lập khung khổ pháp luật về kinh tế
Pháp luật về kinh tế theo nghĩa rộng là tổng thể các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất – kinh doanh giữa các
doanh nghiệp với nhau và với các đơn vị hữu quan khác.
Luật kinh tế là hành lang an toàn nhất cho các hoạt động kinh tế, đồng thời
xác định địa vị pháp lý cho các tổ chức và các đơn vị kinh tế. Trên cơ sở đó tạo lập
cơ sở pháp lý cho các hoạt động và nhà nước thực hiện sự quản lý của mình với các
hoạt động đó.
d. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách, các công cụ và các đòn bẩy
kinh tế
Chính sách là tổng thể các phương thức, biện pháp, phương tiện nhất định,
được nhà nước sử dụng, nhằm tác động đến cá nhân, nhóm người, xã hội, để đạt tới
các mục tiêu bộ phận, trong quá trình thực hiện các mục tiêu tổng thể phát triển kinh
tế xã hội như:
- Chính sách tài chính;
- Chính sách tiền tệ - tín dụng;
- Chính sách kinh tế đối ngoại…
đ. Tổ chức và điều hành các hệ thống kinh tế trong nước hoạt động
Với chức năng tổ chức sản xuất, nhà nước phải hình thành các đơn vị kinh tế
theo ngành, theo vùng, theo thành phần kinh tế và theo loại hình sản xuất – kinh
doanh, cũng như các trung tâm khoa học, đào tạo và các đơn vị sự nghiệp, phục vụ
cho phát triển kinh tế.
Với chức năng điều hành, nhà nước phối hợp hoạt động giữa các cơ quan,
đơn vị trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những mối quan hệ cần thiết trong quá
trình thực hiện những mục tiêu kế hoạch của đất nước..
e. Kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế
18
Chức năng này nhằm kịp thời phát hiện những sai sót, ách tắc, đồng thời phát
hiện những cơ hội, vận hội tốt trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội
của đất nước, giữ đúng định hướng kế hoạch nhà nước đã đề ra.
g. Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế:
Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế là những tác động bổ sung của nhà
nước đến nền kinh tế, nhằm sửa chữa những sai sót, tận dụng thời cơ để phát triển
kinh tế.
Điều chỉnh về kinh tế của nhà nước được thực hiện thông qua các công cụ và chính
sách quản lý kinh tế, như luật pháp, kế hoạch, chính sách, các đòn bẩy kinh tế…
1.2.3. Các công cụ quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp:
Thực chất của quản lý kinh tế vĩ mô là quá trình thiết kế mục tiêu kinh tế và
căn cứ vào đó mà sử dụng công cụ quản lý hiện hữu và phương pháp quản lý thích
hợp để điều tiết sự vận hành của nền kinh tế quốc dân theo quỹ đạo và mục tiêu đã
định. Mục tiêu quản lý đề ra dù có chính xác và khả thi đến đâu đi nữa, nhưng nếu
không có công cụ quản lý tương ứng thì cũng không thể thực hiện được, vẫn chỉ là
mục tiêu quản lý trên lý thuyết, chứ chưa phải mục tiêu quản lý trong hiện thực
Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử
dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.
Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện hữu hình
và vô hình mà Nhà nước sử dụng để tác động lên mọi chủ thể kinh tế trong xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân. Chính nhờ đó công cụ quản lý
kinh tế với tư cách là vật truyền dẫn tác động của quản lý Nhà nước mà nhà nước
chuyển tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức và cá nhân sinh sống và
hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể
ở bên ngoài.
Công cụ quản lý Nhà nước chủ yếu là bằng pháp luật. Bên cạnh đó, một công
cụ không kém phần quan trọng đó là sử dụng các chính sách, các đòn bẩy kinh tế
tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
19
1.2.3.1. Pháp luật
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, vận động dưới sự chi phối của
các quy luật kinh tế thị trường trong môi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối với xã hội
nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp
luật.
Chức năng chủ yếu của pháp luật là điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục để đảm
bảo và phát triển xã hội theo mục tiêu và phương hướng nhất định. Thông qua việc
thực hiện các chức năng này, pháp luật có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển
dịch nền kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, mở cửa, được thể hiện ở các mặt cơ bản sau đây:
a) Tạo tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn
định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế
bền vững
Điều chỉnh kịp thời và hợp lý các quan hệ kinh tế là điều kiện cần thiết và bắt
buộc để duy trì sự ổn định thường xuyên, lâu dài của nền kinh tế quốc dân, nhằm
thực hiện mục tiêu tăng trường kinh tế liên tục với tốc độ và hiệu quả cao. Muốn
vậy, phải có các hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản áp dụng quy
phạm pháp luật chuẩn xác trong quản lý nhà nước về kinh tế. Nhờ chúng mà tạo
được tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh kịp thời và hợp lý các quan hệ kinh tế,
làm cho mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi vùng, mọi địa phương, mọi thành phần kinh
tế và mọi công dân yên tâm huy động các nguồn lực của mình vào sản xuất, kinh
doanh với năng suất, chất lượng và hiệu quả.
b) Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
giữa các chủ thể kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân
Bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế bao gồm hai mặt có quan hệ mật thiết với
nhau: bình đẳng về quyền lợi và bình đẳng về nghĩa vụ; hai mặt đó phải thường
xuyên tương ứng vơi nhau, ăn khớp với nhau, không được tách rời nhau và càng
không được đối lập nhau. Cạnh tranh là một quy luật kinh tế khách quan, là một giải
20
pháp có tính chiến lược để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ thấp chi phí sản
xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân vì mục tiêu hiệu quả
cao. Để đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, một vấn đề rất
quan trọng và Chính phủ nhiều nước quan tâm giải quyết là ban hành và thực thi
luật chống độc quyền. Trong đó, tạo lập cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế, nhất là giữa các thành
phần kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân.
c) Tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội và bảo vệ môi trường
Tăng trưởng kinh tế bền vững là một mục tiêu chung, có tính chất toàn cầu
mà mọi quốc gia đều mong muốn và phấn đấu thực hiện. Hiệu quả tăng trưởng kinh
tế theo quan niệm hiện đại được đánh giá thông qua các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế,
hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Tăng trưởng kinh tế bền vững về thực chất
là tăng trưởng liên tục, ổn định GDP với tốc độ cao, tạo mở ngày càng nhiều công
ăn việc làm cho người lao động, hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp, khai thác và sử dụng hợp
lý, tiết kiệm các loại tài nguyên, bảo vệ sự trong lành của môi trường sinh thái.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường, Nhà
nước cần đề ra và thực thi các quy phạm pháp luật có liên quan với việc kết hợp hài
hòa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Thí dụ: Luật đất
đai, luật doanh nghiệp, luật lao động, luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật bảo vệ môi
trường.
1.2.3.2 . Kế hoạch
Kế hoạch theo nghĩa hẹp là phương án hành động trong tương lai; theo nghĩa
rộng là quá trình xây dựng, quán triệt, chấp hành và giám sát, kiểm tra việc thực
hiện phương án hành động trong tương lai. Kế hoạch với tính cách là một công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bản thân là một hệ thống bao gồm nhiều nội
dung hoạt động.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: là đường lối chung tổng quát và giải pháp
chủ yếu, tổng thể để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời gian dài
21
(ở nước ta thường là 10 năm). Thí dụ: chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội 1991 – 2000 do Đại hội VII của Đảng đề ra; Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 – 2010 do Đại hội IX của Đảng đề ra.
- Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: là sự cụ thể hóa một bước chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, nó là một tập hợp các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn
lực tương ứng để thực hiện các mục tiêu theo không gian và thời gian. Nước ta đề ra
quy hoạch đô thị vào năm 1997, sau đó nhiều ngành cũng đề ra quy hoạch phát triển
để nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, ví dụ ngành Hàng hải
Việt Nam dự định đưa ra quy hoạch phát triển đội tàu biển và quy hoạch phát triển
hệ thống cảng biển Việt Nam.
- Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 3 năm, kế hoạch 5 năm) là phương tiện chủ yếu để
cụ thể hóa các mục tiêu và các giải pháp đã được lựa chọn trong chiến lược. Kế
hoạch trung hạn mà thường là kế hoạch 5 năm, trong đó có phân bổ chỉ tiêu cho
từng năm, là hình thái chủ yếu của kế hoạch, là định hướng khung cho quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Kế hoạch hàng năm: là sự cụ thể hóa của kế hoạch trung hạn nhằm thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của kế hoạch trung hạn. Kế hoạch hàng năm
được xây dựng căn cứ vào mục tiêu và định hướng chiến lược, vào phương pháp,
nhiệm vụ của kế hoạch trung hạn và vào kết quả phân tích tình huống.
- Chương trình: được sử dụng rất phổ biến, để xác định một cách đồng bộ các mục
tiêu cần đạt, các bước công việc phải tiến hành, các nguồn lực cần huy động để thực
hiện một ý đồ nào đó. Ví dụ: Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt
khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi giai đoạn 2006 – 2010.
- Dự án: Tổng thể các hoạt động, các nguồn lực và các chi phí được bố trí chặt chẽ
theo thời gian và không gian nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội cụ thể,
ví dụ: dự án xóa đói giảm nghèo của đồng bào các xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu
vùng xa.
- Ngân sách: là bảng tường trình bằng con số, sự huy động phân bổ các nguồn lực
cho việc thực hiện các chương trình, dự án trong một giai đoạn nhất định.
22
1.2.3.3. Chính sách
Chính sách là một trong các công cụ chủ yếu của Nhà nước sử dụng để quản
lý nền kinh tế quốc dân. Dưới dạng chung nhất, mỗi chính sách cụ thể là một tập
hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình đạt
tới các mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế - xã hội. Một chính sách bất kỳ
thường gồm hai bộ phận: các mục tiêu cần đạt và các giải pháp cần áp dụng để thực
hiện mục tiêu.
Chính sách là một hệ thống phức tạp nhiều loại, theo lĩnh vực hoạt động, có
thể đem các chính sách phân thành hia nhóm:
- Các chính sách kinh tế chủ yếu là:
+ Chính sách cơ cấu kinh tế;
+ Chính sách tài chính;
+ Chính sách tiền tệ;
+ Chính sách giá cả;
+ Chính sách kinh tế đối ngoại;
…
- Các chính sách xã hội (hoặc các chính sách phi kinh tế) chủ yếu là:
+ Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình;
+ Chính sách lao động và việc làm;
+ Chính sách giáo dục;
+ Chính sách văn hóa;
+ Chính sách khoa học và công nghệ;
+ Chính sách bảo hiểm;
+ Chính sách bảo vệ sức khỏe toàn dân;
+ Chính sách an ninh – quốc phòng;
+ Chính sách xóa đói – giảm nghèo;
+ Chính sách bảo vệ môi trường…
Các chính sách là công cụ đặc thù và không thể thiếu được mà Nhà nước sử
dụng để quản lý kinh tế vĩ mô. Chúng có chức năng chung là tạo ra những kích
23
thích đủ lớn cần thiết để biến đường lối, chiến lược của Đảng thành hiện thực, góp
phần thống nhất tư tưởng và hành động của mọi người trong xã hội, đẩy nhanh và
hữu hiệu sự tiến bộ của các hoạt động thuộc mục tiêu bộ phận mà chính sách nhằm
hướng tới và thực hiện các mục tiêu chung của phát triển kinh tế quốc dân.
Trong hệ thống các công cụ quản lý, các chính sách là bộ phận năng động
nhất, có độ nhạy cảm cao trước những biến động trong đời sống kinh tế - xã hội của
đất nước nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc mà xã hội đặt ra. Thực tiễn nước ta
và nhiều nước trên thế giới đều chứng tỏ: phần lớn những thành công trong công
cuộc đổi mới và cải cách kinh tế đểu bắt nguồn từ việc lựa chọn và áp dụng những
chính sách kinh tế thích hợp, có năng suất cao để khai thác tối ưu các lợi thế so sánh
của đất nước về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, vốn, công nghệ,
thị trường, kết cấu hạ tầng.
1.2.4. Quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp bán lẻ
Việc quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ là một bộ phận trong
việc quản lý Nhà nước đối với hệ thống phân phối. Mỗi nền kinh tế đều có các hệ
thống phân phối hàng hóa vĩ mô hoạt động rất phức tạp. Nhà nước có vai trò quản
lý vĩ mô phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển các hệ thống phân phối
hàng hóa hiện đại, hoạt động có hiệu quả cao. Nhà nước phải đảm bảo các điều kiện
về môi trường kinh doanh để các hệ thống phân phối hàng hóa hoạt động có hiệu
quả, bảo vệ các dòng chảy hàng hóa hợp pháp, hạn chế những dòng chảy hàng hóa
tiêu cực, bất hợp pháp. Đặc điểm của quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các hệ
thống phân phối hàng hóa là không can thiệp trực tiếp vào hoạt động phân phối của
các doanh nghiệp và các hệ thống phân phối cụ thể mà chủ yếu là bằng các công cụ
gián tiếp. Vai trò quản lý của Nhà nước được thể hiện trên các mặt sau:
Một là, xây dựng và thực thi hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, chi phối hoạt
động của các hệ thống phân phối hàng hóa nhằm đảm bảo môi trường pháp lý thuận
lợi cho các doanh nghiệp phát triển hiệu quả các hệ thống phân phối hàng hóa. Hệ
24
thống pháp luật phải đảm bảo hàng hóa lưu thông thông suốt qua các hệ thống phân
phối, chống các hành vi độc quyền và các hình thức phân phối bất hợp pháp.
Hai là, tác động đến sự hình thành, phát triển và hoạt động của hệ thống phân
phối bằng các chiến lược, quy hoạch, chính sách để định hướng các dòng chảy hàng
hóa và dịch vụ trên thị trường.
Ba là, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của hệ thống phân phối
thông qua xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động phân phối lưu
thông hàng hóa của toàn nền kinh tế. Ví dụ, đầu tư xây dựng hệ thống thông tin viễn
thông, xây dựng hạ tầng giao thông, đường xá, bến cảng, kho bãi, xây dựng các kết
cấu hạ tầng thương mại như chợ, trung tâm thương mại và dịch vụ…
Bốn là, quản lý hệ thống phân phối qua việc xây dựng bộ máy quản lý hành
chính vĩ mô các hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Năm là, Nhà nước có chính sách và biện pháp chi phối trực tiếp đến sự hoạt
động của các hệ thống phân phối hàng hóa, xây dựng các loại hình trung gian
thương mại kiểu mới, xây dựng các mô hình liên kết mới trong phân phối…
Đây chính là nền tảng để các doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối nói
chung, các doanh nghiệp trong lĩnh vực bán lẻ nói riêng tồn tại và phát triển mạnh
mẽ trong môi trường tự do cạnh tranh ngày càng gay gắt.
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong quản lý Nhà nƣớc đối với
doanh nghiệp bán lẻ
1.3.1. Nhật Bản
Vào đầu những năm 50 của thế kỷ XX, hệ thống phân phối hàng hóa Nhật
Bản còn mang nặng tính sản xuất nhỏ, hầu hết các cửa hàng bán lẻ kiểu gia đình,
quy mô nhỏ. Hình thức mua bán trên thị trường chủ yếu là các giao dịch ngẫu nhiên
theo kiểu “mua đứt bán đoạn”. Hệ thống phân phối hàng nông sản chủ yếu qua các
chợ và các cửa hàng bán lẻ nhỏ. Tuy nhiên sau một thời gian, Nhật Bản đã nhanh
chóng mở cửa thị trường cho phép các công ty của Mĩ đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực
bán lẻ.
25
Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới với dân số trên 127 triệu
người, doanh số bán lẻ khoảng một nghìn tỷ USD. Nhờ đó Nhật Bản trở thành thị
trường bán lẻ lớn thứ hai chỉ sau Mĩ (số liệu 2003). Tỉ lệ bán lẻ trên đầu người của
Nhật là 8183 dollar, gần bằng Mĩ (8204 dollar). Điều đáng chú ý là Nhật có tỉ lệ bán
lẻ thực phẩm trên đầu người rất cao - 3367 dollar. Nhật Bản là một nước giàu, thị
trường tiêu thụ lớn, vì vậy Nhật Bản là mục tiêu hấp dẫn mà các nhà bán lẻ quốc tế
chú ý. Chính yếu tố cạnh tranh khốc liệt đã buộc các doanh nghiệp Nhật Bản phải
nhanh chóng vận dụng những phương thức phân phối tiến bộ như chia hệ thống
phân phối hàng hóa thành nhiều cấp độ trung gian. Mỗi cấp độ trung gian được
chuyên môn hóa cao vào một số chức năng phân phối nhất định. Các công ty sản
xuất lớn cũng nhanh chóng phát triển các hệ thống phân phối hiện đại theo kiển
phương Tây. Các cơ quan quản lý vĩ mô đã xây dựng hệ thống luật pháp điều chỉnh
hoạt động phân phối lưu thông, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng, chống độc
quyền. Bên cạnh đó chính phủ cũng quan tâm phát triển hạ tầng cơ sở cho phân phối
và phát triển các ngành kinh doanh hỗ trợ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…
Năm 1998, Nhật Bản nới lỏng luật về các cửa hàng lớn; năm 1999 nới lỏng
quy chế về thuốc tân dược. Năm 2000 đánh dấu sự kiện Seveneleven đã vượt DAIE
và đứng đầu về doanh số bán lẻ và lần đầu tiên xuất hiện doanh nghiệp có vốn nước
ngoài mang tên NIHONTOIZARASU. Đây là thời kỳ ngành công nghiệp phân phối
Nhật Bản chú ý đến những cải cách bắt đầu từ tập trung nghiên cứu người tiêu dùng
tiến tới thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Môi trường cạnh tranh có sự thay đổi, từ
cạnh tranh giữa các cửa hàng độc lập chuyển sang cạnh tranh có tính chất tổng hợp
và đa dạng hơn. Năm 2002 có 1.3 triệu cửa hàng bán lẻ - khoảng 1 cửa hàng cho
100 người. Trên dưới 70% cửa hàng được gọi là cửa hàng “Papa Mama”. Năm 2004
ghi nhận quá trình hướng tới phục hồi kinh tế (Cách mạng lưu thông lần ba) và lần
đầu tiên, doanh số của liên minh Aeon vượt qua Itoyokado, đứng đầu các doanh
nghiệp bán lẻ tổng hợp. Hiện nay các hình thức bán lẻ phát triển là: cửa hàng tiện
ích; Trung tâm gia đình; cửa hàng tân dược; nhà sản xuất – bán lẻ hàng may mặc...
26
Một số hình thức khác gặp khó khăn là cửa hàng bách hóa, GMS (siêu thị tổng
hợp); vấn đề sống còn là cải tổ để “sống sót trên thương trường” và chuyển sang
giai đoạn tấn công.
Một số văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán lẻ tại Nhật Bản:
a. Luật quy định vị trí nhà hàng bán lẻ có quy mô lớn
Tháng 6 – 2000 luật liên quan đến các biện pháp cần được áp dụng cho các
nhà hàng bán lẻ có quy mô lớn nhằm bảo vệ môi trường sống đã có hiệu lực. Thay
thế luật điều chỉnh nhà hàng bán lẻ có quy mô lớn trước đây, luật này đã bảo vệ các
cơ sở bán lẻ quy mô vừa và nhỏ bằng cách giới hạn việc mở các chi nhánh bán lẻ
quy mô lớn. Mục đích của luật mới là nhằm tăng cường sự phát triển đúng đắn, bảo
vệ môi trường sống của các khu vực xung quanh. Luật này là một trong số 3 bộ luật
mới được áp dụng gần đây liên quan tới chính sách phát triển địa phương và môi
trường đô thị. Hai luật còn lại là luật cải thiện và tái thiết các trung tâm thành phố
sửa đổi.
Luật quy định vị trí cửa hàng bán lẻ có quy mô lớn này yêu cầu các cá nhân
và doanh nghiệp mới thành lập một cửa hàng bán lẻ lớn với diện tích sàn trên 1000
m2
cần đáp ứng các yêu cầu: Vấn đề giao thông (Phải đảm bảo đủ chỗ trống đỗ xe
cho xe hơi và xe đạp, lối vào và ra các tuyến phố), sự tiện ích với người đi bộ, ngăn
cản và giảm tiếng ồn, tăng cường tái chế và giảm chất thải, hợp tác với các cơ quan
phòng chống cháy và các tai họa khác và quan tâm tới môi trường cộng đồng…
b. Luật quy hoạch đô thị
Có hiệu lực từ năm 1968 nhằm thiết lập các điều khoản cần thiết cho công
tác quy hoạch thành phố với mục tiêu thiết lập sự phát triển đúng đắn của thành phố
và công tác cải tạo một cách quy củ. Theo luật này, đất đai quốc hữu hóa có thể
được chia thành khu quy hoạch đô thị, khu quy hoạch tương đương đô thị hay khu
vực quy hoạch phi đô thị. Khu vực quy hoạch đô thị lại được chia tiếp thành các khu
vực thúc đẩy đô thị hóa và khu vực giới hạn quá trình đô thị hóa. Các khu vực đẩy
mạnh quá trình đô thị hóa là những khu vực yêu cầu phát triển và bảo dưỡng nói
chung, trong khi các khu vực còn lại là những khu vực trong đó quá trình đô thị
27
hóa cần được kiểm soát. Khu vực đẩy mạnh đô thị hóa có các thiết kế cho mỗi khu
riêng biệt về việc đất đai được sử dụng như thế nào, loại nhà hàng nào được phép
xây dựng và chúng phải được xây dựng như thế nào (phân vùng).
c. Luật chống độc quyền
d. Luật chống các hình thức quà tặng không đúng mức và các thông báo sai trên
sản phẩm
đ. Luật chống cạnh tranh không bình đẳng
e. Luật xúc tiến doanh nghiệp bán lẻ quy mô vửa và nhỏ
g. Luật giao dịch thương mại cụ thể hóa (đặc định)
Bao gồm các hình thức bán hàng ngoài phạm vi cửa hàng và văn phòng bán
hàng như bán hàng tận nhà, bán hàng theo đơn đặt hàng qua thư, bán hàng thông
qua tiếp thị điện tử, tiếp thị đa cấp (mô hình kim tự tháp), các giao dịch cung cấp
dịch vụ như phòng khám thẩm mĩ và các lớp học ngoại ngữ), và các giao dịch cung
cấp dịch vụ kinh doanh…
h. Luật về hợp đồng của người tiêu dùng năm 2000
i. Luật vệ sinh an toàn thực phẩm
k. Luật thuế đối với rượu
l. Luật về dược phẩm
Luật này quy định rằng để bán thuốc cho các nhà bán lẻ hoặc các cơ sở y tế,
thì nhà bán buôn phải xin giấy phép của cơ quan hành chính địa phương; thêm vào
đó luật này quy định rằng để bán thuốc trực tiếp cho người tiêu dùng thì mỗi cửa
hàng bán lẻ cũng phải xin cấp giấy phép của cơ quan hành chính địa phương (có 5
loại giấy phép kinh doanh đối với việc bán lẻ thuốc)
m. Luật tăng cường sức khỏe
Luật tăng cường sức khỏe (trước đây là luật tăng cường dinh dưỡng), ngăn
cấm các quảng cáo sai sự thực hay thực chất nhằm mục đích lừa dối người dân về
tác dụng duy trì sức khỏe và lợi ích của sản phẩm được bán như loại thực phẩm (bao
gồm cả các thuốc không có giấy phép hay phê duyệt và những sản phẩm tươi sống
không phải đối tượng trong luật liên quan đến các vấn đề về thực phẩm )
28
Theo luật này những người có trách nhiệm trông nom các trang thiết bị do
nhiều người sử dụng như các cửa hàng bách hóa, nhà hàng, trường học, bệnh viện,
nhà hát… phải nỗ lực tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm chống khói thuốc là ở
dạng bị động (hít phải khói thuốc của người khác trong phòng môi trường đóng hay
khép kín)
1.3.2. Trung Quốc
Thị trường bán lẻ Trung Quốc là một trong những thị trường bán lẻ lớn nhất
thế giới. Quy mô thị trường bán lẻ hiện nay của Trung Quốc là khoảng 550 tỷ USD.
Dự báo trong 20 năm tới, thị trường bán lẻ của Trung Quốc sẽ là khoảng 2.4 ngàn tỷ
USD. Tăng trưởng trong lĩnh vực bán lẻ ở Trung Quốc đạt 22% trong năm 2008 và
xu hướng nổi trội là sát nhập giữa các công ty.
Theo lộ trình mà Chính phủ Trung Quốc (TQ) đã cam kết khi gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) bắt đầu từ 11/12/2004, lĩnh vực bán lẻ tại đây
được mở cửa một cách hoàn toàn. Theo đó, các công ty, tập đoàn bán lẻ nước ngoài
sẽ không còn bị giới hạn ở thị phần, số cửa hàng hay vị trí của chúng. Sau khi Trung
quốc mở cửa thị trường, có khoảng 40 tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài tràn
vào khai thác thị trường tiềm năng này. Sớm nhất là Carrefour (Pháp) vào Trung
Quốc từ năm 1992, ngay khi nước này mở cửa thị trường bán lẻ cho đầu tư nước
ngoài. Những đại gia khác cũng góp mặt vào thị trường này như Tessco (Anh),
Metro (Đức), Aeon (Nhật), Ikea (Thụy Điển), Makro (Hà Lan), McDonald’s (Mỹ)
hay Dairy Farm (Hồng Kông)…
Sự tham gia của tập đoàn bán lẻ nước ngoài đã gây sức ép rất lớn với các nhà
bán lẻ Trung Quốc. 60% doanh thu bán lẻ rơi vào tay các tập đoàn bán lẻ nước
ngoài, khiến các công ty bán lẻ Trung Quốc rơi vào tình thế rất khó khăn, một số bị
phá sản. Trong khoảng thời gian chưa tới 10 năm kể từ năm 1992 khi Trung Quốc
cho phép thành lập các liên doanh bán lẻ bằng việc sửa đổi luật đầu tư nước ngoài,
các công ty nước ngoài đã chiếm được 5 – 8% thị phần bán lẻ. Chỉ trong vòng 2
năm sau khi tập đoàn bán lẻ lớn thứ hai thế giới Carrefour mở trung tâm bán lẻ thứ
29
hai tại Thượng hải, trong phạm vi 35 km, 3 công ty thuộc dạng “cá mập” trong nước
đã bị phá sản.
Nguyên nhân dẫn đến việc thua kém của các công ty bán lẻ nội địa được biết
đến một phần là do Bộ Thương mại đã nhượng bộ quá nhiều trong quá trình đàm
phán trên lĩnh vực thương mại dịch vụ khi Trung Quốc gia nhập WTO và không
quản lý một cách thật chặt chẽ hoạt động của các công ty bán lẻ nước ngoài. Một số
doanh nghiệp nước ngoài đã không ngồi chờ đến thời điểm ngày 11/12/2004 mà đã
chủ động đi “cửa sau” qua chính quyền cấp thấp hơn. Tại đây, chính quyền địa
phương có vẻ dễ hơn trong việc cho phép các tập đoàn nước ngoài mở trung tâm bán
lẻ. Ngoài ra, nguyên nhân chính làm các công ty trong nước thua ngay trên sân nhà
là xuất phát từ yếu tố chủ quan. Ở tầm quốc gia, chưa có tập đoàn bán lẻ Trung Quốc
nào được xem là đối thủ ngang cơ với các đại gia bán lẻ nước ngoài. Hiện nay, số
lượng trung tâm, cửa hàng bán lẻ của các nhà đầu tư nước ngoài là không đáng kể so
với trong nước nhưng lại chiếm lĩnh được thị phần không nhỏ. Họ có lợi thế về kinh
nghiệm thương trường trong cuộc đua. Chính phủ Trung quốc nhận định các công ty
trong nước không nên tiếp tục tranh cãi hay chỉ trích mà phải nỗ lực để tự cứu mình,
họ cần học hỏi kinh nghiệm từ chính những đối thủ nước ngoài.
Khi các hãng bán lẻ lớn của nước ngoài chiếm lĩnh những vị trí đẹp nhất ở
các thành phố lớn, thì các hãng phân phối của Trung Quốc có lẽ sẽ thích hợp hơn ở
các thành phố cỡ trung bình, nơi mà năng suất thấp hơn. Và có thể những hình thức
kinh doanh khác sẽ phù hợp hơn như nhượng quyền thương mại từ McDonald’s,
KFC và Tuppeware.
Nhằm thích ứng với yêu cầu toàn cầu hóa kinh tề và việc gia nhập WTO,
nâng cao hiệu suất vận hành nền kinh tế, trong những năm gần đây Chính phủ
Trung Quốc đã tích cực thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực phân phối và lưu thông
hàng hóa hiện đại, trong đó có lĩnh vực bán lẻ, cụ thể là:
(a) Cải cách các quy định và phương thức quản lý có liên quan, tạo môi trường lành
mạnh cho sự phát triển của lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa hiện đại.
30
- Điều chỉnh phương thức quản lý hành chính, tạo thuận lợi hơn cho việc đăng
ký kinh doanh của các doanh nghiệp phân phối và lưu thông hàng hóa, giảm thiểu
việc quản lý phê chuẩn có tính chất hành chính
- Cải tiến và hoàn thiện chính sách quản lý thu thuế của các doanh nghiệp phân
phối và lưu thông hàng hóa.
- Cải tiến việc quản lý giao thông của các loại xe cộ phân phối và lưu thông
hàng hóa ở thành thị, tạo thuận lợi cho xe cộ phân phối và lưu thông hàng hóa đi lại,
đỗ, xếp dỡ hàng hóa trong thành phố.
- Đơn giản hóa thủ tục hải quan, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa hiệu
quả.
(b) Tăng cường bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, áp dụng trang thiết bị kỹ
thuật tiên tiến trong phân phối và lưu thông hàng hóa:
- Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn hóa các tiêu chuẩn kỹ thuật
phân phối và lưu thông hàng hóa và các tiêu chuẩn liên quan, tích cực quán triệt và
phổ biến rộng rãi các tiêu chuẩn đó.
- Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hoạt động
trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa.
- Mở rộng việc sử dụng trang thiết bị và kỹ thuật tiên tiến trong phân phối và lưu
thông hàng hóa cũng như trong việc tiếp cận thông tin thị trường
(c) Xây dựng quy hoạch phát triển phân phối và lưu thông hàng hóa:
- Đẩy nhanh việc xây dựng các trung tâm phân phối và lưu thông hàng hóa mang
tính xã hội hóa, chấn chỉnh lại các tổ chức phân phối và lưu thông hàng hóa.
- Hiện tại các ban ngành có liên quan của Nhà nước đang xem xét xây dựng quy
hoạch phát triển hệ thống phân phối và lưu thông hàng hóa thống nhất trên toàn
Trung Quốc, chỉ đạo thúc đẩy sự phát triển của lưu thông hàng hóa hiện đại cả
thành thị và nông thôn.
(d) Thực hiện các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp phân phối và
lưu thông hàng hóa:
31
- Khuyến khích các doanh nghiệp phân phối phát triển theo hướng chuyên nghiệp
hóa, nâng cao hiệu quả, tiến hành sát nhập, cải tổ, liên hợp.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng các kênh lưu thông vốn, thu hút vốn trên thị
trường trong nước. Khuyến khích các ngân hàng duy trì các khoản vay cho các
doanh nghiệp phát triển tốt.
- Tích cực thúc đẩy thị trường phân phối và lưu thông hàng hóa mở cửa ra bên
ngoài, khuyến khích các doanh nghiệp lớn và vừa nước ngoài đến Trung Quốc. Đặc
biệt Trung Quốc cũng khuyến khích các nhà bán lẻ của mình đầu tư ra nước ngoài
để chiếm lĩnh thị trường các nước trong khu vực, thậm chí cả các nước phát triển
như EU và Hoa Kỳ.
(e) Tăng cường điều tiết giữa các ban ngành Chính phủ liên quan tới quản lý phân
phối và lưu thông hàng hóa bởi quản lý phân phối và lưu thông hàng hóa liên quan
tới nhiều ngành như hàng không, đường sắt, giao thông, thương mại…
1.3.3. Thái Lan.
Trước cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, thương mại truyền thống vẫn
chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống bán lẻ Thái Lan. Lúc đó hệ thống bán lẻ hiện
đại chỉ chiếm 30% tổng số thương mại của nước này. Nhưng hiện nay, hệ thống bán
lẻ hiện đại của Thái Lan có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của hệ
thống bán lẻ truyền thống và còn tiếp tục tăng do các tập đoàn bán lẻ nước ngoài sẽ
mở thêm các siêu thị và đại siêu thị tại Thái Lan. Đối thủ cạnh tranh chủ yếu của
các siêu thị vẫn là các chợ truyền thống. Số lượng các cửa hàng hiện đại chỉ chiếm
một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số cửa hàng bán lẻ của Thái Lan nhưng doanh thu của
chúng lại chiếm hơn quá nửa tổng doanh số bán lẻ của Thái Lan. Trong số các cửa
hàng hiện đại, cửa hàng giảm giá, cửa hàng bách hóa lớn, đại siêu thị chiếm ưu thế,
kế tiếp là các trung tâm thương mại, cửa hàng tiện dụng và mô thình Cash & Carry,
cuối cùng là siêu thị truyền thống.
Hệ thống cửa hàng tiêu dùng ở Thái Lan (số liệu năm 2002)
* Mô hình hiện đại: 4.879 cái, trong đó
32
Các cửa hàng giảm giá 114 (gồm 93 đại siêu thị, 21 siêu thị bán buôn)
Cửa hàng bách hóa 236
Siêu thị 247
Cửa hàng tiện lợi 3.650
Cửa hàng tươi sống/ đặc sản 650
* Cửa hàng truyền thống: 297.405 cái, lớn gấp nhiều lần mô hình cửa hàng hiện đại
bao gồm các chợ rau quả, cửa hiệu tạp hóa và các nhà bán buôn địa phương
Chính phủ Thái Lan đã đề ra một số chính sách nhằm trợ giúp các mô hình
bán lẻ truyền thống như sau:
- Tăng nội lực và sức cạnh tranh của các cửa hàng bán lẻ vừa và nhỏ, đặc biệt là
hình thức kinh doanh truyền thống.
- Tổ chức các cuộc hội thảo trên toàn quốc cho chủ các cửa hàng bán lẻ truyền
thống nhỏ để tăng nhận thức về sức ép cạnh tranh từ các cửa hàng ưu đãi giảm giá
và thay đổi đối xử với khách hàng
- Tổ chức đào tạo trên toàn quốc để tăng hiểu biết cửa các chủ cửa hàng nhỏ bán lè
truyền thống bề quản lý và tham gia bán lẻ hiện đại phù hợp với môi trường biến
động.
- Hiện đại hóa các cửa hàng nhỏ bán lẻ truyền thống thông qua việc cử các đội
chuyên gia bán lẻ phát triển diện mạo cửa hàng giống như “cửa hàng tiện lợi”
- Trợ giúp các cửa hàng bán lẻ vừa và nhỏ để tăng khả năng kinh doanh
1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm về quản lý Nhà nƣớc các doanh nghiệp bán
lẻ cho Việt Nam.
Từ kinh nghiệm phát triển hệ thống phân phối và đặc biệt là bán lẻ thông qua công
tác quản lý Nhà nước của một số quốc gia ở trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam như sau:
- Để vừa phù hợp với trình độ và quy mô của thị trường trong nước, đồng thời
phải đi tắt đón đầu để hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới nên một mặt phải
mở rộng các quan hệ phân phối bán lẻ trực tiếp ở khu vực thị trường trung tâm qua
33
mạng lưới chợ, qua các hội chợ; mặt khác phải tăng cường các yếu tố cho sự phát
triển của các phương thức phân phối tiến bộ thông qua phát triển các hệ thống phân
phối hiện đại được các nhà bán lẻ chuyên nghiệp tổ chức và điều phối.
- Việc xây dựng hệ thống luật pháp chi phối các hoạt động phân phối bán lẻ
trên thị trường nhằm tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp phát triển các hệ
thống phân phối hàng hóa hiệu quả cần phải được đặc biệt quan tâm. Hệ thống luật
pháp phải tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đây là một yếu tố điều kiện
quan trọng để khuyến khích mọi loại hình kinh doanh tham gia phát triển các hệ
thống phân phối cạnh tranh.
- Hiện đại hóa hệ thống phân phối bán lẻ thông qua thu hút đầu tư nước ngoài,
phát triển các chuỗi siêu thị, đại siêu thị, cửa hàng tổng hợp và chuyên doanh, các
trung tâm bán buôn và mua bán hàng hóa. Sự có mặt các công ty thương mại đa
quốc gia là những nhân tố cân thiết thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và phát
triển các hệ thống phân phối hiện đại
- Chính phủ không can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp, song phải
coi trọng việc hỗ trợ để các doanh nghiệp bán lẻ phát triển các hệ thống phân phối
của mình, thông qua các chính sách, biện pháp hỗ trợ cụ thể đối với các doanh
nghiệp thương mại trong nước để cạnh tranh với được với các doanh nghiệp nước
ngoài.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại cho phát triển các hệ thống phân phối hiệu quả.
Phát triển hệ thống giao thông, hệ thống thông tin, hệ thống kho tàng, bến bãi…
chính là tạo lập các điều kiện để xây dựng các hệ thống phân phối hiện đại.
34
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ TRÊN THỊ TRƢỜNG VIỆT
NAM
2.1. Tổng quan chung về doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam có thể được mô tả khái quát như
sau: các cửa hàng tạp hóa bán lẻ, các cửa hàng trung tâm với diện tích lớn và vị trí
thuận tiện, các chợ đầu mối và chợ truyền thống, hệ thống bán hàng lưu động (hàng
rong), các cửa hàng bán lẻ chuyên biệt.
Các cửa hàng bán lẻ đã tồn tại từ lâu và đến nay vẫn chiếm tới 90% tổng
lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường Việt Nam. Trong thời điểm hiện nay, các
cửa hàng bán lẻ đã có sự thay đổi căn bản ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải
Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ với sự phân
hóa khá rõ về chủng loại hàng hóa và cách thức trưng bày. Ở các thành phố này, các
cửa hàng bán lẻ đã không còn mang tính tạp hóa nữa mà mang tính “bán lẻ” –
chủng loại mặt hàng giảm đi và số lượng các thương hiệu của cùng chủng loại tăng
lên.
Các cửa hàng trung tâm với diện tích lớn và vị trí thuận tiên hiện nay chưa
nhiều, nhưng có thể nói đó là tương lai của thị trường bán lẻ hàng cao cấp. Quản lý
trung tâm là các công ty chuyên nghiệp với các công thức hoạt động được lập trình
sẵn và các tiêu chí đánh giá hoạt động dài hạn.
Các chợ đầu mối sẽ là kênh phân phối bị ảnh hưởng mạnh nhất khi Việt Nam
tham gia vào WTO. Đây là nơi mà sản phẩm sẽ được quyết định bởi hai nguồn lực:
vốn cung ứng và sức mạnh thuyết phục hệ thống phân phối. Chợ truyền thống là
một trong những kênh lưu thông bán lẻ hàng hóa khá quan trọng đối với khu vực
nông thôn. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa càng phát triển thì tỷ trọng của
nó càng giảm, nhưng nó không thể mất đi mà biến đổi và phục hồi gắn với các nét
sinh hoạt văn hóa và du lịch.
35
Hệ thống bán hàng lưu động (hàng rong): Hệ thống này rất hiệu quả ở các
vùng quê nhưng nguồn hàng cung cấp của hệ thống này chính là các đại lý nhỏ hoặc
thậm chí là các cửa hàng tạp hóa bán lẻ. Do đó hệ thống này góp phần tăng sức
mạnh của hệ thống tạp hóa bán lẻ
Các cửa hàng bán lẻ chuyên biệt: các cửa hàng này chỉ bán một chủng loại
sản phẩm, có thể bán lẻ và cũng có thể cung cấp số lượng lớn theo yêu cầu. Các cửa
hàng này thường có uy tín cao trong chuyên môn thẩm định chất lượng và sự phù
hợp của sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm mới. Các cửa hàng này cũng có giá trị
rất cao trong việc thuyết phục người mua hàng sẽ tiêu thụ sản phẩm nào và nếu
thành công thì việc tiếp tục tiêu thụ trong một thời gian dài là đều có thể hi vọng
được.
Mặc dù quá trình hội nhập và sự phát triển của sản xuất kinh doanh đã tạo
nên những bước tiến đáng kể trong hệ thống phân phối nhưng cho đến nay về cơ
bản thị trường và người tiêu dùng Việt Nam vẫn hoàn toàn khác với những nước
phát triển, với hàng trăm ngàn các cửa hiệu bán hàng phân bố từ thành thị tới nông
thôn, luôn đáp ứng nhu cầu hàng ngày của người tiêu dùng. Khác hẳn hành vi mua
hàng tại các nước phát triển, người tiêu dùng Việt Nam vẫn có thói quen mua hàng
hằng ngày thay vì tới siêu thị vào ngày cuối tuần để mua hàng đủ dùng cho cả tuần.
Vì vậy, hệ thống các cửa hàng gần khu dân cư vẫn đang đóng một tỷ lệ lớn nhất
trong toàn bộ hệ thống phân phối của thị trường Việt Nam.
2.1.2. Đặc điểm
Hình thức bán lẻ chủ yếu ở nước ta trước đây là chợ truyền thống và các cửa
hàng mặt tiền nhỏ. Khi hoạt động thương mại phát triển, mặt bằng kinh doanh cũng
có những vận động đặc thù. Ví dụ như trước đây, để tránh bị đánh thuế mặt tiền cửa
hàng, người ta đã tạo ra kiểu nhà ống hẹp ngang, sâu hun hút đặc trưng của nhà phố
cổ Hà Nội.
Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường đòi hỏi ngành bán lẻ phải có những
mặt bằng mới, hiện đại và tiện dụng hơn. Do đó, các kênh bán hàng hiện đại đã xuất
36
hiện ở nước ta và ngày càng trở nên quen thuộc với nhiều người dân Việt Nam.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 1995, Việt Nam chỉ có 10 siêu thị và 2 trung tâm
thương mại thì đến năm 2007 đã có ít nhất 140 siêu thị và đại siêu thị, 20 trung tâm
thương mại và gần 1 triệu m2 mặt bằng kinh doanh bán lẻ đang được đầu tư. Đến
năm 2008, Việt Nam đã có khoảng 400 siêu thị, 60 trung tâm thương mại và gần
2.000 cửa hàng tiện ích. Dự kiến đến năm 2010, số siêu thị và trung tâm thương mại
sẽ tăng lần lượt là 62,5% và 150%.
Dù phát triển nhanh và đầy cơ hội nhưng bên cạnh các yếu tố thuận lợi, thị
trường bán lẻ Việt Nam cũng còn gặp nhiều khó khăn và thách thức cần phải vượt
qua.
2.1.2.1. Điểm mạnh
Thị trường bán lẻ Việt Nam có rất nhiều yếu tố thuận lợi để phát triển
nhanh hơn nữa trong thời gian tới.
a) Dân số đông, trẻ với dân số 85 triệu dân, trong đó 79 triệu người dưới 65
tuổi, khoảng 60 triệu người tiêu dùng, dự báo đến năm 2018 là 95 triệu dân và 70
triệu người tiêu dùng. Lực lượng người tiêu dùng trẻ này dễ dàng tiếp nhận hình
thức bán hàng trực tiếp mới, sự hiểu biết về sản phẩm ngày càng được nâng cao.
b) Thu nhập trung bình của người Việt Nam ngày càng tăng, trong đó nhóm
có tốc độ tăng thu nhập nhanh nhất trong khoảng 500-1.000 USD/tháng. Bên cạnh
đó, tỷ lệ tiêu dùng trên thu nhập của người Việt Nam thuộc loại cao nhất ở Đông
Nam Á. Người Việt Nam tiêu dùng trung bình khoảng 70% thu nhập hàng tháng.
Điều này ảnh hưởng lớn tới mức tăng trưởng của thị trường bán lẻ Việt Nam trong
những năm vừa qua, ví dụ như những năm trước, mức này luôn đạt bình quân
20%, thì đến năm 2007 đã tăng lên 25 – 27%… Doanh số bán lẻ toàn Việt Nam
ước tính đến hết năm 2008 đạt 54,3 tỷ USD, tăng 20,5% so với 2007. Tỷ lệ mua
sắm tại các siêu thị, trung tâm thương mại của người Việt Nam đã tăng từ 9% năm
2005 lên 14% năm 2007 và dự kiến sẽ tăng lên 24% vào năm 2010.
37
Bảng 2: Tỷ lệ mua sắm tại các siêu thị, trung tâm
thương mại
40 37
35
30 24 24
25
% 20 15 14
15 9 Cả nước
10
HN - Tp. HCM
5
0
2005 2007 2010 (dự
kiến)
Nguồn: http://www.saga.vn/view.aspx?id=15205
c) Việt Nam được xếp hạng cao về thái độ lạc quan của người tiêu dùng,
xếp thứ 5 về chỉ số lòng tin của người tiêu dùng (Consumer confidence index).
Bên cạnh đó, năm 2007 Việt Nam cũng được đánh giá là một trong 4 thị trường
bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới (sau Ấn Độ, Nga, và Trung Quốc - theo A.T Kearney)
và năm 2008 đã vươn lên đứng đầu.
d) Thị trường bán lẻ trị giá hơn 40 tỷ USD/ 1 năm. Số lượng doanh nghiệp
bán lẻ tăng tương đối nhanh qua các năm, đặc biệt từ năm 2004 đến năm 2006. Tính
đến cuối năm 2006, số doanh nghiệp phân phối bán lẻ thực tế đang hoạt động kinh
doanh trên phạm vi cả nước là 16.313 doanh nghiệp, tăng 2.912 doanh nghiệp so
với 2005 và 8.785 doanh nghiệp so với năm 2000.
Bảng 3: Số lƣợng doanh nghiệp phân phối bán lẻ 2000 -2006
Số doanh nghiệp
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
7.528 8.490 8.955 9.384 11.042 13.401 16.313
Nguồn: Tổng cục thống kê (2000 - 2008), Thực trạng doanh nghiệp theo kết quả
điều tra, HN
38
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng liên tục tăng với tốc độ cao
và ổn định. Tổng mức bán lẻ xã hội năm 2006 đạt 596207.1 tỷ đồng tăng 20.9% so
với năm 2005, sơ bộ ước tính năm 2007 đạt tới 731809.7 tỷ đồng và nửa đầu năm
2008 đã đạt 450.000 tỷ đồng
Bảng 4: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 2000 – 2007
Chia ra
Năm Tổng số Kinh tế Nhà Kinh tế ngoài
Kinh tế có
vốn đầu tƣ
nƣớc Nhà nƣớc
nƣớc ngoài
Tổng mức lƣu chuyển hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng (tỷ đồng)
2000 220410,6 39205,7 177743,9 3461,0
2001 245315,0 40956,0 200363,0 3996,0
2002 280884,0 45525,4 224436,4 10922,2
2003 333809,3 52381,8 267724,8 13702,7
2004 398524,5 59818,2 323586,1 15120,2
2005 480293,5 62175,6 399870,7 18247,2
2006 596207,1 75314,0 498610,1 22283,0
Sơ bộ 2007 731809,7 74556,8 629000,3 28252,6
Cơ cấu %
2000 100,0 17,8 80,6 1,6
2001 100,0 16,7 81,7 1,6
2002 100,0 16,2 79,9 3,9
2003 100,0 15,7 80,2 4,1
2004 100,0 15,0 81,2 3,8
2005 100,0 12,9 83,3 3,8
2006 100,0 12,7 83,6 3,7
Sơ bộ 2007 100,0 10,2 85,9 3,9
Nguồn: Tổng cục thống kê (2007), Niên giám thống kê, NXB Thống kê.
39
đ) Đã xuất hiện hầu hết các loại hình bán lẻ hiện đại, đặc biệt là hệ thống siêu
thị. Các phương thức thanh toán tiện dụng bằng thẻ tín dụng cũng đã xuất hiện,
trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam có những bước tiến mạnh mẽ, vững chắc. Hệ
thống phân phối bán lẻ bắt đầu phát triển theo tính chất liên kết và có tính hệ thống
trong chuỗi ngành hàng. Đến nay Việt Nam đã hình thành mạng lưới siêu thị ở các
thành phố và đô thị lớn trong cả nước và các siêu thị đã góp phần không nhỏ vào
việc tạo ra một diện mạo mới cho thương mại bán lẻ ở Việt Nam. Tuy nhiên, các
phương thức kinh doanh truyền thống vẫn đóng vai trò quan trọng trong dịch vụ bán
lẻ. Cửa hàng bán lẻ thuộc sở hữu hộ gia đình chiếm tỷ trọng khá lớn. Các cửa hàng
này phục vụ trên diện rộng đối với cả hàng hóa thực phẩm và phi thực phẩm. Các
cửa hàng tạp hóa độc lập vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc kinh doanh các
mặt hàng thực phẩm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày.
2.1.2.2. Điểm yếu:
a) Thứ nhất, ảnh hưởng từ thói quen mua sắm của người Việt: Phương thức
chợ truyền thống và các c ửa hàng bán lẻ nhỏ vẫn chiểm đ ến 90% trong thói quen
tiêu dùng của người Việt Nam. Việc mua sắm tại các trung tâm thương mại, siêu thị
vẫn mới chỉ phát triển ở một số thành phố lớn hoặc khu đô thị hiện đại.
b) Thứ hai , số lượng doanh nghiệp phân phối bán lẻ nhiều nhưng quy mô
nhỏ, phân tán, đi kèm với công nghệ, thiết bị lạc hậu. Năm 2006, đa số các doanh
nghiệp có quy mô từ 5 – 9 lao động, chỉ có 3 doanh nghiệp có 1000 đến 4999 người.
So với năm 2004 là có tăng lên về quy mô nhưng vẫn là rất nhỏ.
40
Bảng 5: Số doanh nghiệp phân phối bán lẻ theo quy mô lao động đến 31/12
(2004-2006)
Từ Từ Từ Từ Từ Từ
Tổng số Dƣới Từ 5 10 50 200 300 500 1000
Năm doanh 5 đến 9 đến đến đến đến đến đến
nghiệp ngƣời ngƣời 49 199 299 499 999 4999
ngƣời ngƣời ngƣời ngƣời ngƣời ngƣời
1=
2 3 4 5 6 7 8 9
2+3+…+9
2004 11.042 5.437 3.353 1.991 207 28 15 9 2
2005 13.401 6.383 4.291 2.455 219 22 21 7 3
2006 16.313 5.341 8.045 2.654 219 26 14 11 3
Nguồn: Tổng cục thống kê (2008), Thực trạng các doanh nghiệp qua kết quả điều
tra 2005, 2006, 2007; NXB Thống kê
Nhìn chung quy mô vốn của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ trên thị
trường Việt Nam còn nhỏ. Năm 2006 đa số các doanh nghiệp có số vốn từ 1 đến 5
tỷ đồng (56.11% trên tổng số doanh nghiệp), chỉ có 7 doanh nghiệp có số vốn từ
500 tỷ đồng trở lên. Quy mô vốn nhỏ là trở ngại lớn trong quá trình cạnh tranh của
các doanh nghiệp
41
Bảng 6: Số doanh nghiệp phân phối bán lẻ theo quy mô vốn 2004 – 2006
Từ
Từ 1 Từ 5
Từ
Từ 50
Từ
0.5 10 200 Từ
Tổng số Dưới đến đến đến
đến đến đến 500
Năm doanh 0.5 tỷ dưới dưới dưới
dưới dưới dưới tỷ trở
nghiệp đồng 5 tỷ 10 tỷ 200 tỷ
1 tỷ 50 tỷ 500 tỷ lên
đồng đồng đồng
đồng đồng đồng
1=
2 3 4 5 6 7 8 9
2+3+…+9
2004 11.042 4.932 2.482 3.073 315 197 31 9 3
2005 13.401 5.384 3.196 4.085 428 255 45 6 2
2006 16.313 2.263 4.015 9.153 459 327 77 12 7
Nguồn: Tổng cục thống kê (2008), Thực trạng doanh nghiệp theo kết quả điều tra
2005, 2006, 2007; NXB Thống kê
Do quy mô doanh nghiệp nhỏ, vốn ít, nên khả năng trang bị các trang thiết bị
còn hạn chế, hầu hết các doanh nghiệp chưa áp dụng ISO; việc quản trị hàng tồn
kho, xử lý đơn đặt hàng, tổ chức vận chuyển, thông tin và báo cáo… đều còn ở trinh
độ công nghệ thấp và chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế; tất yếu dẫn đến năng
lực cạnh tranh kém, hiệu quả không cao.
c) Thứ ba, nhân lực và kinh nghiệm quản lý: Một trong những điểm yếu nói
chung của lao động ở Việt Nam đó là trình độ còn thấp, kinh nghiệm thiếu. Phần
lớn các doanh nghiệp phải tự đào tạo tay nghề cho người lao động (chiếm 85.06%),
chứ không phải lao động được đào tạo qua hệ thống trường dạy nghề tập trung.
Điều này dẫn đến chi phí đào tạo lao động cao nhưng trình độ hiểu biết khoa học kỹ
thuật, nghiệp vụ bán hàng của lao động thấp, nên rất hạn chế trong việc phát huy
sáng kiến cải tiến công nghệ bán hàng.
d) Thứ tư, quy hoạch đô thị không đồng bộ, manh mún: Một trong những
yếu tố quan trọng để thị trường mặt bằng bán lẻ có thể phát triển, đó là sự tập trung
42
của khu dân cư cũng như chất lượng đời sống người dân. Tuy nhiên không thể đánh
giá cao chất lượng quy hoạch đô thị của Việt Nam hiện nay.
e) Thứ năm, giá thuê mặt bằng quá cao và thủ tục rườm rà: Khiến cho nhiều
doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ khó có thể thuê được mặt bằng như mình mong
muốn. Theo thống kê tính đến cuối tháng 7/2008, tại Tp. HCM, giá thuê mặt bằng
bán lẻ trong khu trung tâm đạt mức trung bình 65 USD/m2
/tháng, với những vị trí
đẹp giá trung bình đạt đến 85 USD/m2
/tháng và mức giá thuê cao nhất tại khu vực
này lên tới 250 USD/m2
/tháng; giá thuê mặt bằng khu vực ngoài trung tâm rẻ hơn
đôi chút đang ở mức trung bình 40 USD/m2
/tháng.
Từ ngày 01/01/2009 Việt Nam sẽ mở cửa thị trường bán lẻ với các nhà phân
phối nước ngoài. Những đặc điểm nội tại vốn có, khi được đặt trong hoàn cảnh kinh
tế sôi động sẽ làm hé lộ nhiều cơ hội xen lẫn thách thức. Cả cơ hội và thách thức lớn
nhất đều là từ việc nhiều hãng bán lẻ nước ngoài đã thúc đẩy việc mở rộng sự hiện
diện ở Việt Nam. Bourbon, Parkson và Metro đang mở rộng hệ thống cửa hàng tại
Việt Nam, trong khi Tesco, Wal-Mart và Carrefour có khả năng sẽ đầu tư vào Việt
Nam trong thời gian không xa. Hiện Metro đang có dự định mở thêm cửa hàng thứ
8 tại Việt Nam. Có nguồn tin cho biết, Parkson có dự định đạt con số 10 cửa hàng
tại Việt Nam vào năm 2009. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang
diễn ra, các nhà bán lẻ, nhà đầu tư nước ngoài sẽ chưa vào nước ta ngay do còn phải
giải quyết các vấn đề ở nước sở tại cũng như cần thời gian để nghiên cứu sâu sắc
hơn về thị trường và quản trị rủi ro cũng như cấu trúc lại nguồn vốn. Vì vậy, dự báo
năm 2009, thị trường bán lẻ sẽ chưa có nhiều thay đổi so với năm 2008. Tác động
của việc mở cửa toàn phần thị trường bán lẻ đối với các nhà bán lẻ quốc tế theo cam
kết với WTO được dự báo sẽ chưa tạo ra những tác động sâu sắc đến thị trường bán
lẻ trong nước trong năm 2009, nhưng đây sẽ là một năm có nhiều ảnh hưởng đến
những năm tiếp theo, khi nền kinh tế thế giới phục hồi và các nhà bán lẻ quốc tế tiếp
tục các kế hoạch mở rộng của mình.
43
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam

Mais conteúdo relacionado

Semelhante a Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
Nguyễn Công Huy
 
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
Nguyễn Công Huy
 
Quản trị bán hàng - Trần Thị Thập.pdf
Quản trị bán hàng - Trần Thị Thập.pdfQuản trị bán hàng - Trần Thị Thập.pdf
Quản trị bán hàng - Trần Thị Thập.pdf
Man_Ebook
 
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (51)
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (51)Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (51)
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (51)
Nguyễn Công Huy
 

Semelhante a Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam (20)

Đề tài: Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công t...
Đề tài: Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công t...Đề tài: Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công t...
Đề tài: Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công t...
 
Đề tài: Bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công ty Phú Thái
Đề tài: Bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công ty Phú TháiĐề tài: Bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công ty Phú Thái
Đề tài: Bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công ty Phú Thái
 
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
 
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
 
Một Số Giải Pháp Đẩy Mạnh Hoạt Động Bán Hàng Tại Công Ty
Một Số Giải Pháp Đẩy Mạnh Hoạt Động Bán Hàng Tại Công TyMột Số Giải Pháp Đẩy Mạnh Hoạt Động Bán Hàng Tại Công Ty
Một Số Giải Pháp Đẩy Mạnh Hoạt Động Bán Hàng Tại Công Ty
 
Nâng cao hiệu quả hoạt động bán hàng tại Công ty Cổ Phần Nước Khoáng Khánh Hoà
Nâng cao hiệu quả hoạt động bán hàng tại Công ty Cổ Phần Nước Khoáng Khánh HoàNâng cao hiệu quả hoạt động bán hàng tại Công ty Cổ Phần Nước Khoáng Khánh Hoà
Nâng cao hiệu quả hoạt động bán hàng tại Công ty Cổ Phần Nước Khoáng Khánh Hoà
 
Hệ Thống Chuỗi Cung Ứng Của CO.OP MART
Hệ Thống Chuỗi Cung Ứng Của CO.OP MARTHệ Thống Chuỗi Cung Ứng Của CO.OP MART
Hệ Thống Chuỗi Cung Ứng Của CO.OP MART
 
Luận văn tốt nghiệp một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu ...
Luận văn tốt nghiệp một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu ...Luận văn tốt nghiệp một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu ...
Luận văn tốt nghiệp một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu ...
 
Quản trị bán hàng - Trần Thị Thập.pdf
Quản trị bán hàng - Trần Thị Thập.pdfQuản trị bán hàng - Trần Thị Thập.pdf
Quản trị bán hàng - Trần Thị Thập.pdf
 
QT051.DOC
QT051.DOCQT051.DOC
QT051.DOC
 
Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Hoạt Động Bán Hàng Tại Công Ty
Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Hoạt Động Bán Hàng Tại Công TyGiải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Hoạt Động Bán Hàng Tại Công Ty
Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Hoạt Động Bán Hàng Tại Công Ty
 
Cơ Sở Lý Luận Về Hiệu Quả Hoạt Động Quản Trị Bán Hàng
Cơ Sở Lý Luận Về Hiệu Quả Hoạt Động Quản Trị Bán HàngCơ Sở Lý Luận Về Hiệu Quả Hoạt Động Quản Trị Bán Hàng
Cơ Sở Lý Luận Về Hiệu Quả Hoạt Động Quản Trị Bán Hàng
 
Download free Chuyên đề tốt nghiệp kênh phân phối của công ty
Download free Chuyên đề tốt nghiệp kênh phân phối của công tyDownload free Chuyên đề tốt nghiệp kênh phân phối của công ty
Download free Chuyên đề tốt nghiệp kênh phân phối của công ty
 
Luận văn: Xây dựng mô hình nhượng quyền thương mại cửa hàng sinh tố và khoáng...
Luận văn: Xây dựng mô hình nhượng quyền thương mại cửa hàng sinh tố và khoáng...Luận văn: Xây dựng mô hình nhượng quyền thương mại cửa hàng sinh tố và khoáng...
Luận văn: Xây dựng mô hình nhượng quyền thương mại cửa hàng sinh tố và khoáng...
 
Nâng cao dịch vụ bán hàng tại siêu thị MM Mega Market Bình Dương.docx
Nâng cao dịch vụ bán hàng tại siêu thị MM Mega Market Bình Dương.docxNâng cao dịch vụ bán hàng tại siêu thị MM Mega Market Bình Dương.docx
Nâng cao dịch vụ bán hàng tại siêu thị MM Mega Market Bình Dương.docx
 
Luận văn: Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, HAY
Luận văn: Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, HAYLuận văn: Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, HAY
Luận văn: Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
 
Hoàn thiện công nghệ marketing bán lẻ tại cửa hàng thực phẩm công ty nông sản...
Hoàn thiện công nghệ marketing bán lẻ tại cửa hàng thực phẩm công ty nông sản...Hoàn thiện công nghệ marketing bán lẻ tại cửa hàng thực phẩm công ty nông sản...
Hoàn thiện công nghệ marketing bán lẻ tại cửa hàng thực phẩm công ty nông sản...
 
Những lý luận cơ bản về hoạt động bán hàng trong doanh nghiệp
Những lý luận cơ bản về hoạt động bán hàng trong doanh nghiệp Những lý luận cơ bản về hoạt động bán hàng trong doanh nghiệp
Những lý luận cơ bản về hoạt động bán hàng trong doanh nghiệp
 
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (51)
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (51)Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (51)
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (51)
 

Mais de Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877

Mais de Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877 (20)

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thốngLuận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
 
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang TrạiLuận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafeTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
 
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn THTiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
 

Último

Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 

Último (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 

Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam

  • 1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ -------***------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ BÁN LẺ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LUANVANTRITHUC.COM ZALO: 0936.885.877 TẢI TÀI LIỆU NHANH QUA ZALO Hà Nội, tháng 05/2009
  • 2. Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới WTO, thể hiện sự hội nhập mạnh mẽ và toàn diện với thế giới thông qua các cam kết cụ thể cả trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Trong đó, các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam được đánh giá là khá mạnh mẽ. Vì vậy ngành dịch vụ bán lẻ của Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động từ quá trình mở cửa thị trường trong lộ trình thực hiện các cam kết này. Ở thời điểm hiện tại, theo như lộ trình cam kết, Việt Nam đã chính thức mở cửa thị trường bán lẻ bằng việc cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực phân phối kể từ ngày 1/1/2009. Một số tập đoàn bán lẻ nước ngoài đã có những bước đi đầu tiên khá vững chắc tại thị trường Việt Nam; một số khác đang chuẩn bị cho những kế hoạch lớn, dài hơi với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường bán lẻ hấp dẫn số một này – như họ đã làm và từng thành công tại nhiều quốc gia khác. Đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ các “người khổng lồ” trên thị trường bán lẻ thế giới, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam rất dễ bị tổn thương trong điều kiện còn yếu kém về nhiều mặt. Để trụ vững trên chính sân nhà, dù năng lực cạnh tranh còn yếu, nhưng nếu có sự hỗ trợ thích hợp từ Nhà nước thông qua các công cụ quản lý Nhà nước hợp lý, hiệu quả, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ thêm lớn mạnh. Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam có nhiều ý kiến lo ngại rằng vẫn còn nhiều vướng mắc trong công tác quản lý Nhà nước như hệ thống các định chế pháp lý chưa đầy đủ, đồng bộ, thiếu các cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển…Vì vậy việc nghiên cứu tìm hiểu tác động của các công cụ quản lý Nhà nước hiện nay đối với thị trường dịch vụ bán lẻ và tìm kiếm giải pháp để một mặt nâng cao hiệu quả quản lý nhằm phát triển thị trường đang phát triển sôi động này, một mặt tuân thủ các cam kết của WTO là cần thiết. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề trên, người viết xin lựa chọn nghiên cứu 1
  • 3. đề tài khóa luận tốt nghiệp “Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ bán lẻ”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: - Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích khái quát thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam, thực trạng các công cụ quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ bán lẻ, đồng thời làm rõ các cam kết của Việt Nam trong WTO về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, khóa luận đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ nhằm phù hợp với tình hình phát triển thị trường và tuân thủ các cam kết WTO. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ sau: + Làm rõ một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp bán lẻ, quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp bán lẻ. + Tìm hiểu kinh nghiệm thành công của một số quốc gia trong công tác quản lý Nhà nước với thị trường dịch vụ bán lẻ + Phân tích, đánh giá thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam và tác động của các cam kết WTO đối với thị trường bán lẻ. + Phân tích các công cụ quản lý Nhà nước hiện nay đối với các doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ Việt Nam. + Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp bán lẻ. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc phân tích các công cụ quản lý Nhà nước, trong đó tập trung vào công cụ hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam. 2
  • 4. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để hoàn thiện khóa luận, người viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp: hệ thống hóa, thống kê, phân tích, lý luận logic, so sánh. 5. Kết cấu khóa luận: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận chia làm 3 chương: Chương I: Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ Chương II: Thực trạng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Thị Thu Thủy, khoa Quản trị kinh doanh, cùng các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương đã cho em những kinh nghiệm bổ ích trong nghiên cứu khoa học cũng như đã dành thời gian quý báu, chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này. Trong quá trình nghiên cứu do còn hạn chế về trình độ nghiên cứu, thông tin, tài liệu tham khảo nên không thể tránh khỏi thiếu sót. Người viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và bạn đọc. Hà Nội, tháng 5 năm 2009. Sinh viên Phạm Thị Kim Ngân 3
  • 5. CHƢƠNG I: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP BÁN LẺ 1.1 Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp bán lẻ 1.1.1 Khái niệm bán lẻ và doanh nghiệp bán lẻ Có nhiều định nghĩa khác nhau về bán lẻ, trong đó có một số định nghĩa tiêu biểu sau đây: Theo định nghĩa của Philip Kotler: Bán lẻ là mọi hoạt động nhằm bán hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng cho cá nhân, không mang tính thương mại1 Bất kỳ một tổ chức nào làm công việc này cũng là một tổ chức bán lẻ, bất kể hàng hóa hay dịch vụ đó được bán như thế nào (bán trực tiếp, qua bưu điện, qua điện thoại, hay qua máy bán hàng tự động) và ở đâu (trong cửa hàng, trên đường phố hay tại nhà người tiêu dùng). Theo khoản 8, điều 3, Nghị định 23/2007/NĐ-CP ban hành ngày 12/2/2007 của Chính phủ Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: Bán lẻ là hoạt động bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Trong văn bản giải thích của mình đối với Danh sách phân loại sản phẩm trung tâm CPC, Ban Thống kê của Liên Hợp Quốc đưa ra định nghĩa các dịch vụ bán lẻ là “bán hàng hóa cho người tiêu dùng cá nhân hay hộ gia đình bao gồm các dịch vụ kèm theo việc bán các hàng hóa đó (các dịch vụ bán lẻ)”2 Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra định nghĩa: Bán lẻ bao gồm việc bán hàng hóa cho cá nhân hoặc hộ gia đình để họ tiêu dùng, tại một địa điểm cố định, hoặc không tại một địa điểm cố định mà qua các dịch vụ liên quan3 . 1 Philip Kotler (2007), Marketing căn bản, NXB Lao động – xã hội, trang 314 2 http://unstats.un.org/unsd/cr/registry/regcs.asp?Cl=9&Lg=1&Co=6 3 http://en.wikipedia.org/wiki/Retail 4
  • 6. Để hiểu được thế nào là doanh nghiêp bán lẻ, trước tiên ta phải hiểu thế nào là doanh nghiệp. Khoản 1, điều 4, Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Như vậy bất kỳ doanh nghiệp nào thực hiện hoạt động kinh doanh bán lẻ thì cũng được gọi là doanh nghiệp bán lẻ. Các doanh nghiệp bán lẻ hay các nhà bán lẻ có đủ loại quy mô và hình thức, và luôn luôn xuất hiện thêm những kiểu bán lẻ mới. Dù bán hàng cho một trong những giai tầng xã hội hay cho thị trường đại chúng, qua năm tháng những người bán lẻ đều có chung một ý nghĩ là họ phải làm việc trong những điều kiện của một môi trường biến đổi cực kỳ nhanh. Những công thức bán lẻ của ngày hôm qua có thể không còn phù hợp trong ngày hôm nay và chắc chắn không phù hợp cho ngày mai nữa. Các chức năng phân phối do các nhà bán lẻ thực hiện có thể phối hợp theo nhiều cách khác nhau để tạo ra các dạng mới của bán lẻ. Có thể phân loại những nhà bán lẻ theo một số các tiêu thức sau đây4 : A. Theo quyền sở hữu: 1. Cửa hàng độc lập 2. Các tổ chức bán lẻ nhiều cửa hàng (cửa hàng chuỗi, chi nhánh) 3. Các cửa hàng bán lẻ của nhà sản xuất 4. Các cửa hàng bán lẻ của người tiêu dùng 5. Các cửa hàng bán lẻ của nông dân 6. Các cửa hàng bán lẻ do Nhà nước quản lý 7. Cửa hàng của các công ty phúc lợi công cộng B. Theo loại hình kinh doanh 1. Cửa hàng bách hóa tổng hợp 2. Cửa hàng kinh doanh theo nhóm hàng 3. Cửa hàng chuyên doanh 4 Trương Đình Chiến – GS.PTS Nguyễn Văn Thường (1999), Quản trị hệ thống phân phối sản phẩm, NXB Thống kê, Trang 50-52. 5
  • 7. C. Theo mức độ liên kết dọc 1. Không có quan hệ liên kết (Chỉ có chức năng bán lẻ) 2. Liên kết với chức năng bán buôn 3. Liên kết với chức năng sản xuất D. Theo hình thức pháp lý của tổ chức 1. Cùng một chủ sở hữu 2. Quan hệ thành viên 3. Quan hệ hợp tác E. Theo phương thức tiếp xúc với khách hàng 1. Cửa hàng bình thường 2. Bán hàng qua thư 3. Bán hàng trực tiếp tại nhà F. Theo địa điểm 1. Cửa hàng ở thành phố lớn - Cửa hàng ở trung tâm - Cửa hàng ở ngoại ô 2. Cửa hàng ở thành phố nhỏ 3. Cửa hàng ở vùng nông thôn 4. Điểm bán hàng cạnh đường H. Theo mức độ cung cấp dịch vụ cho khách hàng 1. Bán lẻ dịch vụ đầy đủ 2. Bán lẻ dịch vụ hạn chế 3. Tự phục vụ Ngoài ra, trong khu vực bán lẻ còn có nhiều cửa hàng “gia đình” rất nhỏ: Những doanh nghiệp của người bán lẻ nhỏ giữ một vai trò quan trọng vì một số nguyên nhân sau: - Ở đó thường xuất hiện những hình thức bán lẻ mới mà sau đó được các cửa hàng lớn áp dụng. 6
  • 8. - Các cửa hàng này rất thuận tiện cho người tiêu dùng vì nó có mặt ở khắp mọi nơi - Thường nó có đặc điểm là có khả năng thích ứng cao và dành cho người tiêu dùng những dịch vụ rất đặc biệt - Họ tạo cho người mua cảm thấy mình là chủ 1.1.2. Vị trí, chức năng của doanh nghiệp bán lẻ: 1.1.2.1. Vị trí của dịch vụ bán lẻ trong dịch vụ thương mại Dịch vụ bán lẻ là một bộ phận nằm trong lĩnh vực dịch vụ phân phối của ngành dịch vụ thương mại. Theo cách hiểu của WTO, họ không đưa ra khái niệm, định nghĩa về dịch vụ, dịch vụ thương mại và thương mại dịch vụ. Thay vì đưa ra các khái niệm này, WTO dành sự quan tâm cho những quy định về các phương thức cung ứng dịch vụ thương mại giữa các nước thành viên. Vì dịch vụ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thương mại quốc tế, tại vòng đàm phán Urugoay, các nước thành viên GATT đã đồng ý đưa dịch vụ vào nội dung đàm phán. Và cũng vì dịch vụ là lĩnh vực nhạy cảm so với hàng hóa hữu hình, cho nên, để điều chỉnh các hoạt động thương mại dịch vụ, kết thúc vòng đàm phán Urugoay, các nước thành viên đã ký một hiệp định đa biên dành riêng cho thương mại dịch vụ, đó là Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (Tiếng Anh là General Agreement on Trade Services, viết tắt là GATS). Để cụ thể hóa hơn nữa các loại hình dịch vụ mà Hiệp định GATS điều chỉnh, WTO đưa ra danh mục phân loại các dịch vụ theo ngành (Services Sectorial Classification List – GNS/W/120). Về cơ bản, phân loại dịch vụ của WTO dựa theo CPC (Danh mục phân loại các sản phẩm chủ yếu - Central Products Classification). WTO phân loại dịch vụ dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế. Toàn bộ lĩnh vực dịch vụ được chia ra 12 ngành. Mỗi ngành dịch vụ lại được chia ra các phân ngành, trong các phân ngành có liệt lê các hoạt động dịch vụ cụ thể. Việc phân loại dịch vụ theo WTO rất thích hợp cho việc xúc tiến đàm phán về mở của thị trường dịch vụ quốc tế. GATS điều chỉnh dịch vụ bán lẻ là một trong các lĩnh vực của dịch vụ phân phối - bao gồm các dịch 7
  • 9. vụ đại lý ăn hoa hồng, các dịch vụ thương mại bán buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ cấp quyền kinh doanh, các dịch vụ phân phối khác. 1.1.2.2. Vị trí của doanh nghiệp bán lẻ trong hệ thống phân phối Phân phối là quá trình lưu thông hàng hóa từ nhà chế tạo/sản xuất hay nhập khẩu tới các nhà phân phối trực tiếp/các đại lý bán hàng; hay các công ty thương mại, các đối tác thu mua tới tay người tiêu dùng/các khách hàng kinh doanh, nhà chuyên môn (các trung gian phân phối). Dù hoạt động phân phối có thể do chính người sản xuất thực hiện hay do các trung gian đảm nhiệm theo yêu cầu của người sản xuất, nó luôn được coi là chiếc cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Đối với người tiêu dùng, hoạt động phân phối được thể hiện chủ yếu tại các cửa hàng bán lẻ. Vậy nhà bán lẻ là mắt xích cuối cùng của quá trình biến đổi, vận chuyển, dự trữ và đưa hàng hóa, dịch vụ đến tay người tiêu dùng. Vị trí đó được thể hiện trong sơ đồ các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu thụ cuối cùng sau đây: Sơ đồ 1: Các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất cho tới ngƣời tiêu thụ cuối cùng 5 5 Bộ Công thương. Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (2008), WTO và hệ thống phân phối Việt Nam, NXB Lao động, trang 6 8
  • 10. 1.1.2.3. Chức năng của doanh nghiệp bán lẻ: Nhà bán lẻ là một trung gian trong hệ thống phân phối, do đó nhà bán lẻ mang đầy đủ chức năng của một thành viên trong kênh phân phối6 : - Thứ nhất, nghiên cứu, thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo thuận lợi cho việc trao đổi - Thứ hai, kích thích tiêu thụ - soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng hóa - Thứ ba, thiết lập các mối liên hệ - tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua tiềm ẩn. - Thứ tư, hoàn thiện hàng hóa – làm cho hàng hóa đáp ứng được yêu cầu của người mua. - Thứ năm, tiến hành thương lượng – những việc thỏa thuận về giá cả và những điều kiện khác để thực hiện bước tiếp theo là chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng - Thứ sáu, tổ chức lưu thông hàng hóa – vận chuyển và bảo quản, dự trữ hàng hóa - Thứ bảy, đảm bảo kinh phí – tìm kiếm và sử dụng nguồn vốn để bù đắp các chi phí hoạt động - Chấp nhận rủi ro – gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của kênh. Việc thực hiện năm chức năng đầu hỗ trợ cho nhà bán lẻ ký kết các hợp đồng, còn việc thực hiện ba chức năng còn lại thì hỗ trợ cho việc hoàn tất thương vụ đã ký kết. 1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp bán lẻ: Để làm rõ hơn cách phân loại các nhà bán lẻ đã được đề cập ở phần 1 về khái niệm bán lẻ và doanh nghiệp bán lẻ, người viết xin phân tích cụ thể hơn các phương thức phân loại cửa hàng bán lẻ và đặc điểm của các loại hình bán lẻ đó: 1.1.3.1. Phân loại theo mức độ cung cấp dịch vụ 6 Philip Kotler (2007), Marketing căn bản, NXB Lao động – xã hội, trang 289 9
  • 11. Theo số lượng dịch vụ nhà bán lẻ cung cấp, người ta chia thành 4 loại: những cửa hàng bán lẻ tự phục vụ, những cửa hàng bán lẻ tự do lựa chọn hàng hóa có người bán hàng để giúp đỡ, cửa hàng bán lẻ phục vụ hạn chế, cửa hàng bán lẻ phục vụ đầy đủ Bảng 1: Phân loại loại hình bán lẻ theo chỉ tiêu khối lƣợng dịch vụ cho ngƣời tiêu dùng Tự phục vụ Tự do lựa chọn Phục vụ hạn chế Phục vụ đầy đủ Đặc - Số dịch vụ tối - Số dịch vụ hạn - Có nhiều dạng - Có rất nhiều điểm thiểu: Người tiêu chế: Có người bán dịch vụ: Mức độ dạng dịch vụ: nổi bật dùng sẵn sàng tự hàng giúp đỡ giúp đỡ cao hơn từ Dịch vụ chăm tìm, so sánh và lựa - Giá cả hấp dẫn phía nhân viên, sóc khách hàng chọn hàng hóa - Bán những mặt người tiêu dùng tốt - Giá cả hấp dẫn hàng chủ yếu được hưởng dịch - Bán hàng thời - Bán những mặt thường dùng vụ bán trả góp thượng hàng chủ yếu, - Bán những mặt hoặc trả lại hàng - Bán những mặt thường dùng hàng thường ngày đã mua hàng cho nhu cầu - Bán những mặt đặc biệt hàng cần lựa chọn trước Ví dụ - Cửa hàng kem Cửa hàng hạ giá, Bán hàng lưu Cửa hàng chuyên bán lẻ, cửa hàng cửa hàng tạp hóa, động, cửa hàng doanh, cửa hàng thực phẩm, cửa cửa hàng bán qua bách hóa, cửa bách hóa tổng hàng hạ giá, cửa bưu điện hàng bán qua điện hợp hàng bán qua bưu thoại, cửa hàng tạp điện, máy bán hóa hàng tự động 1.1.3.2. Phân loại theo chủng loại hàng hóa được bán Theo nghĩa rộng ra có thể nói về chiều rộng và mức độ phong phú của chủng loại hàng hóa và dựa vào những đặc điểm đó để phân ra những kiểu cửa hàng chủ 10
  • 12. yếu: cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hóa tổng hợp, cửa hàng bán hàng tiêu dùng thường ngày, phức hợp thương mại. - Cửa hàng chuyên doanh: bán một số chủng loại hàng hóa thuộc dòng sản phẩm hẹp và chuyên sâu, nhưng rất phong phú.Ví dụ cửa hàng quần áo, cửa hàng chỉ bán giày thể thao, cửa hàng chỉ bán máy tính. - Cửa hàng bách hóa tổng hợp: bán một số nhóm chủng loại hàng, mỗi nhóm chủng loại do một bộ phận cửa hàng chuyên trách. Đứng đầu các bộ phận này là người thu mua hay người bán. - Các siêu thị: Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng. - Cửa hàng phục vụ nhu cầu thường ngày: Thường là các cửa hàng thực phẩm có quy mô tương đối nhỏ và nằm ở gần các khu dân cư, mở cửa tất cả các ngày trong tuần và đến khuya, bán một số chủng loại hàng thông dụng thường ngày với tốc độ quay vòng cao. Các cửa hàng này làm việc kéo dài và chủ yếu phục vụ người tiêu dùng trong trường hợp “chữa cháy” nên thường bán với giá tương đối cao hơn. Nhưng chúng đáp ứng được một trong những nhu cầu tiêu dùng quan trọng và người ta sẵn sàng trả giá cho những sự thuận tiện đã tạo ra cho họ. Hiện nay mô hình cửa hàng này ở Việt Nam còn được biết đến với tên gọi cửa hàng tiện ích, cửa hàng tiện dụng. Ngoài ra trong lĩnh vực bán lẻ hàng tiêu dùng còn xuất hiện mô hình “cây xăng – cửa hàng”. Các cửa hàng bán lẻ này nằm kế bên trạm xăng, và người mua xăng có thể kết hợp mua rất nhiều mặt hàng tiêu dùng thường ngày như bánh mì, sữa, thuốc lá, bánh ngọt, cà phê… - Siêu thị liên hợp, siêu thị bách hóa và các tổ hợp thương mại: kiểu cửa hàng vượt hơn hẳn siêu thị thông thường về quy mô. Siêu thị liên hợp là dạng siêu thị với chủng loại hàng được mở rộng do có bán cả thuốc không cần toa và thuốc theo toa. Siêu thị bách hóa có quy mô diện tích lớn hơn siêu thị thông thường , cố gắng thỏa mãn đầy đủ các nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm cũng như về hàng hóa không phải thực phẩm thường dùng. Ở các siêu thị bách hóa chính vì chủng loại mặt 11
  • 13. hàng rộng nên giá cả thường cao hơn so với giá ở các siêu thị thông thường. Tổ hợp thương mại vượt cả những siêu thị bách hóa về quy mô và diện tích, bao gồm siêu thị, cửa hàng hạ giá và kho – cửa hàng bán lẻ. Chủng loại mặt hàng vượt ra ngoài phạm vi những hàng hóa thông thường, bao gồm cả đồ gỗ, đồ điện gia dụng lớn và nhỏ, quần áo và rất nhiều các mặt hàng khác. So với mức giá thông thường của các siêu thị bách hóa, các tổ hợp thương mại áp dụng giá có chiết khấu. 1.1.3.3. Phân loại theo sự quan tâm tương đối về giá cả: Có thể phân loại các cửa hàng bán lẻ trên cơ sở hình thành giá cả của chúng. Phần lớn các cửa hàng đều bán hàng theo giá trung bình và mức dịch vụ bình thường cho người tiêu dùng. Một số cửa hàng bán hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao và theo giá cao hơn. Ta sẽ xem xét các cửa hàng hạ giá, các mô hình sinh ra từ chúng dưới dạng kho – cửa hàng và cửa hàng giới thiệu sản phẩm bán theo catalog: - Cửa hàng hạ giá: bán những hàng hóa tiêu chuẩn theo giá thấp hơn bằng cách giảm định mức lợi nhuận và tăng khối lượng tiêu thụ. Cửa hàng hạ giá thực sự có 5 đặc điểm sau: 1. nó luôn bán hàng theo giá thấp hơn giá thịnh hành ở các cửa hàng có phụ giá cao và tốc độ quay vòng hàng dự trữ chậm; 2. nó coi trọng hàng hóa có nhãn hiệu phổ biến trong toàn quốc nên giá thấp hoàn toàn không phải do chất lượng hàng kém; 3. nó hoạt động theo phương pháp tự phục vụ với những tiện nghi tối thiểu; 4. Nó thường nằm ở khu vực có mức tiền thuê nhà thấp và thu hút người mua từ những nơi tương đối xa; 5. ở đó chỉ lắp đặt thiết bị thương mại đơn giản. - Các kho – cửa hàng: Kho - cửa hàng là một doanh nghiệp thương mại hạ giá với khối lượng dịch vụ hạn chế và bỏ mọi thứ rườm rà với mục đích là bán một khối lượng lớn hàng theo giá hạ, thậm chí trưng bày hàng ngay trong thùng chứa. Đối tượng phục vụ là những người mua phẩm cấp trung bình, quan tâm đến giá hạ và khả năng nhận được hàng ngay. - Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm bán theo catalog: kết hợp các nguyên tắc bán hàng theo catalog và những nguyên tắc bán hàng hạ giá để tiêu thụ nhiều chủng loại hàng hóa có nhãn hiệu bán chạy, thường là với phụ giá cao. Các cửa hàng này xuất bản những cuốn catalog nhiều màu sắc và có thể lấy ở phòng trưng bày. Trong 12
  • 14. catalog ghi rõ giá quy định chính thức của từng mặt hàng và giá có chiết khấu của nó. Khách hàng có thể đặt hàng qua điện thoại hay đến gian trưng bày trực tiếp xem sản phẩm và mua những thứ có sẵn. 1.1.3.4. Phân loại theo tính chất của gian hàng: - Bán lẻ theo đơn đặt hàng qua bưu điện hay điện thoại: có các loại hình bán theo đơn đặt hàng căn cứ vào catalog, marketing trực tiếp hoặc gửi thư trực tiếp, bán hàng qua điện thoại. Ngày càng có nhiều phụ nữ đi làm nên đây là các hình thức giúp họ tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại. - Các máy bán hàng tự động: Các máy bán hàng tự động ngày nay đã vượt xa các thế hệ tiền bối của nó với kết cấu thể hiện những thành tựu của kỹ thuật vũ trụ và máy tính. Chúng có thể nhận tiền xu hay tiền giấy và trả lại tiền dư. Máy được đặt ở mặt bằng thuận lợi như các nhà máy, cơ quan, cửa hàng lớn, trạm tiếp xăng và cả trên toa ăn của đường sắt. Đây là một kênh phân phối tương đối đắt và chi phí của người bán khá cao do các máy nằm rải rác khắp nơi trên một địa bàn rộng, cần thường xuyên bổ sung hàng, hay hỏng hóc và một số khu vực còn bị mất cắp vặt. Người tiêu dùng đôi khi khó chịu vì máy hư, không bổ sung hàng kịp thời và không thể trả hàng lại được. - Phục vụ đơn hàng có chiết khấu: hỗ trợ nhóm khách hàng đặc biệt, thường là công nhân viên của những tổ chức lớn như trường học, bệnh viện, đoàn thể, cơ quan nhà nước, mua hàng theo giá có chiết khấu của một số người bán lẻ nhất định. - Bán hàng lưu động: hoạt động theo nguyên tắc đến từng nhà, từng cơ quan hay theo nguyên tắc bố trí những cuộc hẹn mua bán tại nhà. Ví dụ công ty Avon có một ý tưởng độc đáo, xây dựng đội ngũ nhân viên nữ vừa là bạn, vừa là cố vấn cho các bà nội trợ về mỹ phẩm, chào hàng rải khắp thế giới và biến công ty Avon thành công ty mỹ phẩm lớn nhất thế giới và công ty bán hàng lưu động lớn nhất thế giới. 1.1.3.5. Phân loại theo loại hình sở hữu cửa hàng: - Mạng lưới công ty: Là một trong những hiện tượng quan trọng và đáng kể nhất ngành thương nghiệp bán lẻ trong thế kỷ 20. Mạng lưới cửa hàng là hai hay nhiều doanh nghiệp thương mại chung một quyền sở hữu và kiểm soát, bán những chủng 13
  • 15. loại hàng tương tự nhau, có chung một bộ phận thu mua và tiêu thụ và cũng có thể có hình thức kiến trúc như nhau. - Các hợp tác xã tiêu thụ: Là công ty bán lẻ thuộc quyền của chính người tiêu dùng, khi dân cư của một cộng đồng nào đó chung tiền mở cửa hàng riêng của mình, cùng xác định những nguyên tắc hoạt động cho cửa hàng và bầu các thành viên của ban quản trị. - Tổ chức của những người có quyền ưu đãi: là sự liên kết theo hợp đồng giữa những người chủ sở hữu quyền ưu đãi (nhà sản xuất, người bán sỉ hay tổ chức dịch vụ) và những người được hưởng quyền ưu đãi (những nhà kinh doanh độc lập, mua quyền sở hữu một hay một số điểm của hệ thống hoạt động trên cơ sở quyền ưu đãi đó). Điểm khác biệt cơ bản của tổ chức này so với các liên kết theo hợp đồng khác (mạng lưới tự nguyện, hợp tác xã bán lẻ) là thường bán một mặt hàng độc đáo, dịch vụ độc đáo, một phương pháp hoạt động kinh doanh, tên thương mại, uy tín hay giấy phép của chủ sở hữu quyền ưu đãi. - Các tập đoàn bán lẻ: hợp nhất một số doanh nghiệp thuộc các hướng khác nhau và hình thức bán lẻ khác nhau vào một mối với sự nhất thể hóa một phần các chức năng phân phối và quản lý. 1.1.3.6. Phân loại theo mức độ tập trung cửa hàng: Nguyên tắc cuối cùng để phân loại các doanh nghiệp bán lẻ là số lượng cửa hàng. Ngày nay phần lớn các cửa hàng tập trung ở những khu thương mại do quy định của các cơ quan chính quyền địa phương phân vùng các hoạt động cũng như vì ý muốn tạo cho người tiêu dùng nhiều khả năng mua sắm tất cả những thứ cần thiết trong một lần đi. Những cửa hàng tập trung vào một chỗ cũng giải quyết nhiệm vụ như các siêu thị và các cửa hàng bách hóa tổng hợp, tiết kiệm thời gian và công sức của người tiêu dùng khi tìm kiếm hàng hóa cần thiết cho mình. Có 4 kiểu tập trung cơ bản: - Khu vực kinh doanh trung tâm - Các trung tâm thương mại khu vực - Các trung tâm thương mại quận, huyện. 14
  • 16. - Các trung tâm thương mại phường, xã. 1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp bán lẻ 1.2.1. Khái niệm quản lý Nhà nƣớc về kinh tế Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có chủ đích của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính, trên tất cả các lĩnh vực và các thành phần kinh tế.7 Quản lý nhà nước về kinh tế là một tất yếu khách quan của mọi quốc gia, không kể chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước bao giờ cũng có nguồn gốc từ kinh tế, và ngược lại bất kỳ một hoạt động nào của nhà nước cũng, hoặc là thúc đẩy, hoặc là kìm hãm sự phát triển kinh tế. Ngày nay sự cạnh tranh giữa các quốc gia cơ bản là về tiềm lực kinh tế. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo về vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ và duy trì sức mạnh của mỗi quốc gia. Vấn đề quan trọng là mỗi nhà nước phải xác định được phạm vi, mức độ, vai trò của mình trong quản lý kinh tế sao cho phù hợp với bản chất và định hướng chính trị, đồng thời có tri thức và kỹ năng để thực hiện thành công, có hiệu quả vai trò của mình trong thực tế. 1.2.2. Chức năng của quản lý Nhà nƣớc về kinh tế Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của nhà nước, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà nhà nước phải tiến hành trong quá trình quản lý kinh tế đất nước Thực chất chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhà nước tạo ra và thực hiện một cơ chế hay phương thức quản lý nền kinh tế quốc dân, đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững Phân tích chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhằm hiểu được nhà nước phải làm những công việc gì để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. 7 PGS.TS. Nguyễn Cúc (Chủ biên) (2008), Tập bài giảng Quản lý nhà nước về kinh tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, trang 31 15
  • 17. Nhận thức rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là cơ sở khách quan để tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, từ chức năng mà sắp xếp bộ máy và bố trí biên chế về con người. Mặt khác chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là những nhiệm vụ tổng quát mà nhà nước phải thực hiện trong từng thời gian nhất định, do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và do tình hình, điều kiện cụ thể của từng giai đoạn lịch sử quy định. Do đó, nhận thức về chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế cũng không cố định mà luôn biến động và phát triển. Tuy nhiên các chức năng cơ bản, chủ yếu thường ít thay đổi, mà thay đổi thường xuyên là các nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế - các công việc cụ thể hóa chức năng quản lý trong không gian và thời gian nhất định. Các chức năng cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế nước ta được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: 1.2.2.1. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo phương hướng tác động Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “Trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp, Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt các chức năng quản lý vĩ mô sau đây: - Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh - Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển - Hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội - Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia…” 1.2.2.2. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo giai đoạn tác động a. Định hướng phát triển kinh tế đất nước: Định hướng phát triển kinh tế là quyết định trước những nhiệm vụ, những mục tiêu và những chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong khoảng thời gian thường là 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn. Đây là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý của nhà nước và các chức năng quản lý khác phải căn cứ vào đó để thực hiện. Chức năng định hướng bao gồm các nội dung chủ yếu sau: 16
  • 18. - Xác định các nhiệm vụ, là xác định những công việc phải làm trong khoảng thời gian nhất định để tạo ra sự phát triển kinh tế đất nước. - Xác định mục tiêu dài hạn của phát triển kinh tế đất nước. Đây là nội dung quan trọng của chức năng định hướng, vì mục tiêu là khởi đầu của quản lý, nó chi phối toàn bộ hoạt động quản lý. Xác định mục tiêu đúng còn là cơ sở để xác lập các nguyên tắc và bộ máy quản lý. - Xác định chiến lược phát triển kinh tế: + Các đường lối tổng quát, các chủ trương mà nhà nước sẽ thực thi trong một thời gian đủ dài + Các mục tiêu dài hạn cơ bản của đất nước + Các giải pháp chủ yếu để thu hút và phân bổ các nguồn lực, các tiềm năng trong và ngoài nước, nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. b. Lập kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là tập hợp các mục tiêu ở cấp quốc gia hay khu vực nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Nhà nước phải xây dựng các kế hoạch phát triển quốc gia dài hạn và trung hạn. Kế hoạch dài hạn kéo dài từ 10 đến 20 năm hoặc lâu hơn, kế hoạch trung hạn kéo dài trong 5 năm, với những mục tiêu và giải pháp cụ thể hơn. Các kế hoạch trung hạn được cụ thể hóa thành kế hoạch hàng năm, kết hợp với hệ thống ngân sách của Chính phủ và có tính đến viện trợ từ bên ngoài đã được phê duyệt, để triển khai thực hiện. Chương trình là tổ hợp các mục tiêu, các chính sách, các thủ tục, các quy tắc, các nhiệm vụ, các bước phải tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố cần thiết khác, để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định về phát triển kinh tế đất nước, vùng và ngành. Chương trình và kế hoạch có quan hệ với nhau và có điểm khác nhau. Chương trình là một bộ phận của kế hoạch, hay một phương thức vận hành của kế hoạch để đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tế cuộc sống. Chương trình đảm bảo phối hợp một cách đồng bộ các biện pháp liên quan trong việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch đề ra. Chương trình tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào giải quyết có 17
  • 19. hiệu quả những trọng tâm của kế hoạch nhà nước trong từng thời kỳ, để tạo cơ cấu kinh tế mới. c. Thiết lập khung khổ pháp luật về kinh tế Pháp luật về kinh tế theo nghĩa rộng là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất – kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và với các đơn vị hữu quan khác. Luật kinh tế là hành lang an toàn nhất cho các hoạt động kinh tế, đồng thời xác định địa vị pháp lý cho các tổ chức và các đơn vị kinh tế. Trên cơ sở đó tạo lập cơ sở pháp lý cho các hoạt động và nhà nước thực hiện sự quản lý của mình với các hoạt động đó. d. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách, các công cụ và các đòn bẩy kinh tế Chính sách là tổng thể các phương thức, biện pháp, phương tiện nhất định, được nhà nước sử dụng, nhằm tác động đến cá nhân, nhóm người, xã hội, để đạt tới các mục tiêu bộ phận, trong quá trình thực hiện các mục tiêu tổng thể phát triển kinh tế xã hội như: - Chính sách tài chính; - Chính sách tiền tệ - tín dụng; - Chính sách kinh tế đối ngoại… đ. Tổ chức và điều hành các hệ thống kinh tế trong nước hoạt động Với chức năng tổ chức sản xuất, nhà nước phải hình thành các đơn vị kinh tế theo ngành, theo vùng, theo thành phần kinh tế và theo loại hình sản xuất – kinh doanh, cũng như các trung tâm khoa học, đào tạo và các đơn vị sự nghiệp, phục vụ cho phát triển kinh tế. Với chức năng điều hành, nhà nước phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những mối quan hệ cần thiết trong quá trình thực hiện những mục tiêu kế hoạch của đất nước.. e. Kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế 18
  • 20. Chức năng này nhằm kịp thời phát hiện những sai sót, ách tắc, đồng thời phát hiện những cơ hội, vận hội tốt trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội của đất nước, giữ đúng định hướng kế hoạch nhà nước đã đề ra. g. Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế: Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế là những tác động bổ sung của nhà nước đến nền kinh tế, nhằm sửa chữa những sai sót, tận dụng thời cơ để phát triển kinh tế. Điều chỉnh về kinh tế của nhà nước được thực hiện thông qua các công cụ và chính sách quản lý kinh tế, như luật pháp, kế hoạch, chính sách, các đòn bẩy kinh tế… 1.2.3. Các công cụ quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp: Thực chất của quản lý kinh tế vĩ mô là quá trình thiết kế mục tiêu kinh tế và căn cứ vào đó mà sử dụng công cụ quản lý hiện hữu và phương pháp quản lý thích hợp để điều tiết sự vận hành của nền kinh tế quốc dân theo quỹ đạo và mục tiêu đã định. Mục tiêu quản lý đề ra dù có chính xác và khả thi đến đâu đi nữa, nhưng nếu không có công cụ quản lý tương ứng thì cũng không thể thực hiện được, vẫn chỉ là mục tiêu quản lý trên lý thuyết, chứ chưa phải mục tiêu quản lý trong hiện thực Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra. Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện hữu hình và vô hình mà Nhà nước sử dụng để tác động lên mọi chủ thể kinh tế trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân. Chính nhờ đó công cụ quản lý kinh tế với tư cách là vật truyền dẫn tác động của quản lý Nhà nước mà nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức và cá nhân sinh sống và hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể ở bên ngoài. Công cụ quản lý Nhà nước chủ yếu là bằng pháp luật. Bên cạnh đó, một công cụ không kém phần quan trọng đó là sử dụng các chính sách, các đòn bẩy kinh tế tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. 19
  • 21. 1.2.3.1. Pháp luật Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, vận động dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường trong môi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật. Chức năng chủ yếu của pháp luật là điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục để đảm bảo và phát triển xã hội theo mục tiêu và phương hướng nhất định. Thông qua việc thực hiện các chức năng này, pháp luật có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, được thể hiện ở các mặt cơ bản sau đây: a) Tạo tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững Điều chỉnh kịp thời và hợp lý các quan hệ kinh tế là điều kiện cần thiết và bắt buộc để duy trì sự ổn định thường xuyên, lâu dài của nền kinh tế quốc dân, nhằm thực hiện mục tiêu tăng trường kinh tế liên tục với tốc độ và hiệu quả cao. Muốn vậy, phải có các hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản áp dụng quy phạm pháp luật chuẩn xác trong quản lý nhà nước về kinh tế. Nhờ chúng mà tạo được tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh kịp thời và hợp lý các quan hệ kinh tế, làm cho mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi vùng, mọi địa phương, mọi thành phần kinh tế và mọi công dân yên tâm huy động các nguồn lực của mình vào sản xuất, kinh doanh với năng suất, chất lượng và hiệu quả. b) Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân Bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế bao gồm hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau: bình đẳng về quyền lợi và bình đẳng về nghĩa vụ; hai mặt đó phải thường xuyên tương ứng vơi nhau, ăn khớp với nhau, không được tách rời nhau và càng không được đối lập nhau. Cạnh tranh là một quy luật kinh tế khách quan, là một giải 20
  • 22. pháp có tính chiến lược để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ thấp chi phí sản xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân vì mục tiêu hiệu quả cao. Để đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, một vấn đề rất quan trọng và Chính phủ nhiều nước quan tâm giải quyết là ban hành và thực thi luật chống độc quyền. Trong đó, tạo lập cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế, nhất là giữa các thành phần kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân. c) Tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường Tăng trưởng kinh tế bền vững là một mục tiêu chung, có tính chất toàn cầu mà mọi quốc gia đều mong muốn và phấn đấu thực hiện. Hiệu quả tăng trưởng kinh tế theo quan niệm hiện đại được đánh giá thông qua các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Tăng trưởng kinh tế bền vững về thực chất là tăng trưởng liên tục, ổn định GDP với tốc độ cao, tạo mở ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động, hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các loại tài nguyên, bảo vệ sự trong lành của môi trường sinh thái. Để nâng cao hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường, Nhà nước cần đề ra và thực thi các quy phạm pháp luật có liên quan với việc kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Thí dụ: Luật đất đai, luật doanh nghiệp, luật lao động, luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật bảo vệ môi trường. 1.2.3.2 . Kế hoạch Kế hoạch theo nghĩa hẹp là phương án hành động trong tương lai; theo nghĩa rộng là quá trình xây dựng, quán triệt, chấp hành và giám sát, kiểm tra việc thực hiện phương án hành động trong tương lai. Kế hoạch với tính cách là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bản thân là một hệ thống bao gồm nhiều nội dung hoạt động. - Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: là đường lối chung tổng quát và giải pháp chủ yếu, tổng thể để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời gian dài 21
  • 23. (ở nước ta thường là 10 năm). Thí dụ: chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000 do Đại hội VII của Đảng đề ra; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 do Đại hội IX của Đảng đề ra. - Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: là sự cụ thể hóa một bước chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nó là một tập hợp các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn lực tương ứng để thực hiện các mục tiêu theo không gian và thời gian. Nước ta đề ra quy hoạch đô thị vào năm 1997, sau đó nhiều ngành cũng đề ra quy hoạch phát triển để nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, ví dụ ngành Hàng hải Việt Nam dự định đưa ra quy hoạch phát triển đội tàu biển và quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam. - Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 3 năm, kế hoạch 5 năm) là phương tiện chủ yếu để cụ thể hóa các mục tiêu và các giải pháp đã được lựa chọn trong chiến lược. Kế hoạch trung hạn mà thường là kế hoạch 5 năm, trong đó có phân bổ chỉ tiêu cho từng năm, là hình thái chủ yếu của kế hoạch, là định hướng khung cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - Kế hoạch hàng năm: là sự cụ thể hóa của kế hoạch trung hạn nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của kế hoạch trung hạn. Kế hoạch hàng năm được xây dựng căn cứ vào mục tiêu và định hướng chiến lược, vào phương pháp, nhiệm vụ của kế hoạch trung hạn và vào kết quả phân tích tình huống. - Chương trình: được sử dụng rất phổ biến, để xác định một cách đồng bộ các mục tiêu cần đạt, các bước công việc phải tiến hành, các nguồn lực cần huy động để thực hiện một ý đồ nào đó. Ví dụ: Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi giai đoạn 2006 – 2010. - Dự án: Tổng thể các hoạt động, các nguồn lực và các chi phí được bố trí chặt chẽ theo thời gian và không gian nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội cụ thể, ví dụ: dự án xóa đói giảm nghèo của đồng bào các xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu vùng xa. - Ngân sách: là bảng tường trình bằng con số, sự huy động phân bổ các nguồn lực cho việc thực hiện các chương trình, dự án trong một giai đoạn nhất định. 22
  • 24. 1.2.3.3. Chính sách Chính sách là một trong các công cụ chủ yếu của Nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế quốc dân. Dưới dạng chung nhất, mỗi chính sách cụ thể là một tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình đạt tới các mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế - xã hội. Một chính sách bất kỳ thường gồm hai bộ phận: các mục tiêu cần đạt và các giải pháp cần áp dụng để thực hiện mục tiêu. Chính sách là một hệ thống phức tạp nhiều loại, theo lĩnh vực hoạt động, có thể đem các chính sách phân thành hia nhóm: - Các chính sách kinh tế chủ yếu là: + Chính sách cơ cấu kinh tế; + Chính sách tài chính; + Chính sách tiền tệ; + Chính sách giá cả; + Chính sách kinh tế đối ngoại; … - Các chính sách xã hội (hoặc các chính sách phi kinh tế) chủ yếu là: + Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; + Chính sách lao động và việc làm; + Chính sách giáo dục; + Chính sách văn hóa; + Chính sách khoa học và công nghệ; + Chính sách bảo hiểm; + Chính sách bảo vệ sức khỏe toàn dân; + Chính sách an ninh – quốc phòng; + Chính sách xóa đói – giảm nghèo; + Chính sách bảo vệ môi trường… Các chính sách là công cụ đặc thù và không thể thiếu được mà Nhà nước sử dụng để quản lý kinh tế vĩ mô. Chúng có chức năng chung là tạo ra những kích 23
  • 25. thích đủ lớn cần thiết để biến đường lối, chiến lược của Đảng thành hiện thực, góp phần thống nhất tư tưởng và hành động của mọi người trong xã hội, đẩy nhanh và hữu hiệu sự tiến bộ của các hoạt động thuộc mục tiêu bộ phận mà chính sách nhằm hướng tới và thực hiện các mục tiêu chung của phát triển kinh tế quốc dân. Trong hệ thống các công cụ quản lý, các chính sách là bộ phận năng động nhất, có độ nhạy cảm cao trước những biến động trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc mà xã hội đặt ra. Thực tiễn nước ta và nhiều nước trên thế giới đều chứng tỏ: phần lớn những thành công trong công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế đểu bắt nguồn từ việc lựa chọn và áp dụng những chính sách kinh tế thích hợp, có năng suất cao để khai thác tối ưu các lợi thế so sánh của đất nước về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, vốn, công nghệ, thị trường, kết cấu hạ tầng. 1.2.4. Quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp bán lẻ Việc quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ là một bộ phận trong việc quản lý Nhà nước đối với hệ thống phân phối. Mỗi nền kinh tế đều có các hệ thống phân phối hàng hóa vĩ mô hoạt động rất phức tạp. Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển các hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại, hoạt động có hiệu quả cao. Nhà nước phải đảm bảo các điều kiện về môi trường kinh doanh để các hệ thống phân phối hàng hóa hoạt động có hiệu quả, bảo vệ các dòng chảy hàng hóa hợp pháp, hạn chế những dòng chảy hàng hóa tiêu cực, bất hợp pháp. Đặc điểm của quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các hệ thống phân phối hàng hóa là không can thiệp trực tiếp vào hoạt động phân phối của các doanh nghiệp và các hệ thống phân phối cụ thể mà chủ yếu là bằng các công cụ gián tiếp. Vai trò quản lý của Nhà nước được thể hiện trên các mặt sau: Một là, xây dựng và thực thi hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, chi phối hoạt động của các hệ thống phân phối hàng hóa nhằm đảm bảo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển hiệu quả các hệ thống phân phối hàng hóa. Hệ 24
  • 26. thống pháp luật phải đảm bảo hàng hóa lưu thông thông suốt qua các hệ thống phân phối, chống các hành vi độc quyền và các hình thức phân phối bất hợp pháp. Hai là, tác động đến sự hình thành, phát triển và hoạt động của hệ thống phân phối bằng các chiến lược, quy hoạch, chính sách để định hướng các dòng chảy hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Ba là, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của hệ thống phân phối thông qua xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động phân phối lưu thông hàng hóa của toàn nền kinh tế. Ví dụ, đầu tư xây dựng hệ thống thông tin viễn thông, xây dựng hạ tầng giao thông, đường xá, bến cảng, kho bãi, xây dựng các kết cấu hạ tầng thương mại như chợ, trung tâm thương mại và dịch vụ… Bốn là, quản lý hệ thống phân phối qua việc xây dựng bộ máy quản lý hành chính vĩ mô các hoạt động kinh doanh trên thị trường. Năm là, Nhà nước có chính sách và biện pháp chi phối trực tiếp đến sự hoạt động của các hệ thống phân phối hàng hóa, xây dựng các loại hình trung gian thương mại kiểu mới, xây dựng các mô hình liên kết mới trong phân phối… Đây chính là nền tảng để các doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối nói chung, các doanh nghiệp trong lĩnh vực bán lẻ nói riêng tồn tại và phát triển mạnh mẽ trong môi trường tự do cạnh tranh ngày càng gay gắt. 1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong quản lý Nhà nƣớc đối với doanh nghiệp bán lẻ 1.3.1. Nhật Bản Vào đầu những năm 50 của thế kỷ XX, hệ thống phân phối hàng hóa Nhật Bản còn mang nặng tính sản xuất nhỏ, hầu hết các cửa hàng bán lẻ kiểu gia đình, quy mô nhỏ. Hình thức mua bán trên thị trường chủ yếu là các giao dịch ngẫu nhiên theo kiểu “mua đứt bán đoạn”. Hệ thống phân phối hàng nông sản chủ yếu qua các chợ và các cửa hàng bán lẻ nhỏ. Tuy nhiên sau một thời gian, Nhật Bản đã nhanh chóng mở cửa thị trường cho phép các công ty của Mĩ đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực bán lẻ. 25
  • 27. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới với dân số trên 127 triệu người, doanh số bán lẻ khoảng một nghìn tỷ USD. Nhờ đó Nhật Bản trở thành thị trường bán lẻ lớn thứ hai chỉ sau Mĩ (số liệu 2003). Tỉ lệ bán lẻ trên đầu người của Nhật là 8183 dollar, gần bằng Mĩ (8204 dollar). Điều đáng chú ý là Nhật có tỉ lệ bán lẻ thực phẩm trên đầu người rất cao - 3367 dollar. Nhật Bản là một nước giàu, thị trường tiêu thụ lớn, vì vậy Nhật Bản là mục tiêu hấp dẫn mà các nhà bán lẻ quốc tế chú ý. Chính yếu tố cạnh tranh khốc liệt đã buộc các doanh nghiệp Nhật Bản phải nhanh chóng vận dụng những phương thức phân phối tiến bộ như chia hệ thống phân phối hàng hóa thành nhiều cấp độ trung gian. Mỗi cấp độ trung gian được chuyên môn hóa cao vào một số chức năng phân phối nhất định. Các công ty sản xuất lớn cũng nhanh chóng phát triển các hệ thống phân phối hiện đại theo kiển phương Tây. Các cơ quan quản lý vĩ mô đã xây dựng hệ thống luật pháp điều chỉnh hoạt động phân phối lưu thông, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền. Bên cạnh đó chính phủ cũng quan tâm phát triển hạ tầng cơ sở cho phân phối và phát triển các ngành kinh doanh hỗ trợ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm… Năm 1998, Nhật Bản nới lỏng luật về các cửa hàng lớn; năm 1999 nới lỏng quy chế về thuốc tân dược. Năm 2000 đánh dấu sự kiện Seveneleven đã vượt DAIE và đứng đầu về doanh số bán lẻ và lần đầu tiên xuất hiện doanh nghiệp có vốn nước ngoài mang tên NIHONTOIZARASU. Đây là thời kỳ ngành công nghiệp phân phối Nhật Bản chú ý đến những cải cách bắt đầu từ tập trung nghiên cứu người tiêu dùng tiến tới thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Môi trường cạnh tranh có sự thay đổi, từ cạnh tranh giữa các cửa hàng độc lập chuyển sang cạnh tranh có tính chất tổng hợp và đa dạng hơn. Năm 2002 có 1.3 triệu cửa hàng bán lẻ - khoảng 1 cửa hàng cho 100 người. Trên dưới 70% cửa hàng được gọi là cửa hàng “Papa Mama”. Năm 2004 ghi nhận quá trình hướng tới phục hồi kinh tế (Cách mạng lưu thông lần ba) và lần đầu tiên, doanh số của liên minh Aeon vượt qua Itoyokado, đứng đầu các doanh nghiệp bán lẻ tổng hợp. Hiện nay các hình thức bán lẻ phát triển là: cửa hàng tiện ích; Trung tâm gia đình; cửa hàng tân dược; nhà sản xuất – bán lẻ hàng may mặc... 26
  • 28. Một số hình thức khác gặp khó khăn là cửa hàng bách hóa, GMS (siêu thị tổng hợp); vấn đề sống còn là cải tổ để “sống sót trên thương trường” và chuyển sang giai đoạn tấn công. Một số văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán lẻ tại Nhật Bản: a. Luật quy định vị trí nhà hàng bán lẻ có quy mô lớn Tháng 6 – 2000 luật liên quan đến các biện pháp cần được áp dụng cho các nhà hàng bán lẻ có quy mô lớn nhằm bảo vệ môi trường sống đã có hiệu lực. Thay thế luật điều chỉnh nhà hàng bán lẻ có quy mô lớn trước đây, luật này đã bảo vệ các cơ sở bán lẻ quy mô vừa và nhỏ bằng cách giới hạn việc mở các chi nhánh bán lẻ quy mô lớn. Mục đích của luật mới là nhằm tăng cường sự phát triển đúng đắn, bảo vệ môi trường sống của các khu vực xung quanh. Luật này là một trong số 3 bộ luật mới được áp dụng gần đây liên quan tới chính sách phát triển địa phương và môi trường đô thị. Hai luật còn lại là luật cải thiện và tái thiết các trung tâm thành phố sửa đổi. Luật quy định vị trí cửa hàng bán lẻ có quy mô lớn này yêu cầu các cá nhân và doanh nghiệp mới thành lập một cửa hàng bán lẻ lớn với diện tích sàn trên 1000 m2 cần đáp ứng các yêu cầu: Vấn đề giao thông (Phải đảm bảo đủ chỗ trống đỗ xe cho xe hơi và xe đạp, lối vào và ra các tuyến phố), sự tiện ích với người đi bộ, ngăn cản và giảm tiếng ồn, tăng cường tái chế và giảm chất thải, hợp tác với các cơ quan phòng chống cháy và các tai họa khác và quan tâm tới môi trường cộng đồng… b. Luật quy hoạch đô thị Có hiệu lực từ năm 1968 nhằm thiết lập các điều khoản cần thiết cho công tác quy hoạch thành phố với mục tiêu thiết lập sự phát triển đúng đắn của thành phố và công tác cải tạo một cách quy củ. Theo luật này, đất đai quốc hữu hóa có thể được chia thành khu quy hoạch đô thị, khu quy hoạch tương đương đô thị hay khu vực quy hoạch phi đô thị. Khu vực quy hoạch đô thị lại được chia tiếp thành các khu vực thúc đẩy đô thị hóa và khu vực giới hạn quá trình đô thị hóa. Các khu vực đẩy mạnh quá trình đô thị hóa là những khu vực yêu cầu phát triển và bảo dưỡng nói chung, trong khi các khu vực còn lại là những khu vực trong đó quá trình đô thị 27
  • 29. hóa cần được kiểm soát. Khu vực đẩy mạnh đô thị hóa có các thiết kế cho mỗi khu riêng biệt về việc đất đai được sử dụng như thế nào, loại nhà hàng nào được phép xây dựng và chúng phải được xây dựng như thế nào (phân vùng). c. Luật chống độc quyền d. Luật chống các hình thức quà tặng không đúng mức và các thông báo sai trên sản phẩm đ. Luật chống cạnh tranh không bình đẳng e. Luật xúc tiến doanh nghiệp bán lẻ quy mô vửa và nhỏ g. Luật giao dịch thương mại cụ thể hóa (đặc định) Bao gồm các hình thức bán hàng ngoài phạm vi cửa hàng và văn phòng bán hàng như bán hàng tận nhà, bán hàng theo đơn đặt hàng qua thư, bán hàng thông qua tiếp thị điện tử, tiếp thị đa cấp (mô hình kim tự tháp), các giao dịch cung cấp dịch vụ như phòng khám thẩm mĩ và các lớp học ngoại ngữ), và các giao dịch cung cấp dịch vụ kinh doanh… h. Luật về hợp đồng của người tiêu dùng năm 2000 i. Luật vệ sinh an toàn thực phẩm k. Luật thuế đối với rượu l. Luật về dược phẩm Luật này quy định rằng để bán thuốc cho các nhà bán lẻ hoặc các cơ sở y tế, thì nhà bán buôn phải xin giấy phép của cơ quan hành chính địa phương; thêm vào đó luật này quy định rằng để bán thuốc trực tiếp cho người tiêu dùng thì mỗi cửa hàng bán lẻ cũng phải xin cấp giấy phép của cơ quan hành chính địa phương (có 5 loại giấy phép kinh doanh đối với việc bán lẻ thuốc) m. Luật tăng cường sức khỏe Luật tăng cường sức khỏe (trước đây là luật tăng cường dinh dưỡng), ngăn cấm các quảng cáo sai sự thực hay thực chất nhằm mục đích lừa dối người dân về tác dụng duy trì sức khỏe và lợi ích của sản phẩm được bán như loại thực phẩm (bao gồm cả các thuốc không có giấy phép hay phê duyệt và những sản phẩm tươi sống không phải đối tượng trong luật liên quan đến các vấn đề về thực phẩm ) 28
  • 30. Theo luật này những người có trách nhiệm trông nom các trang thiết bị do nhiều người sử dụng như các cửa hàng bách hóa, nhà hàng, trường học, bệnh viện, nhà hát… phải nỗ lực tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm chống khói thuốc là ở dạng bị động (hít phải khói thuốc của người khác trong phòng môi trường đóng hay khép kín) 1.3.2. Trung Quốc Thị trường bán lẻ Trung Quốc là một trong những thị trường bán lẻ lớn nhất thế giới. Quy mô thị trường bán lẻ hiện nay của Trung Quốc là khoảng 550 tỷ USD. Dự báo trong 20 năm tới, thị trường bán lẻ của Trung Quốc sẽ là khoảng 2.4 ngàn tỷ USD. Tăng trưởng trong lĩnh vực bán lẻ ở Trung Quốc đạt 22% trong năm 2008 và xu hướng nổi trội là sát nhập giữa các công ty. Theo lộ trình mà Chính phủ Trung Quốc (TQ) đã cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) bắt đầu từ 11/12/2004, lĩnh vực bán lẻ tại đây được mở cửa một cách hoàn toàn. Theo đó, các công ty, tập đoàn bán lẻ nước ngoài sẽ không còn bị giới hạn ở thị phần, số cửa hàng hay vị trí của chúng. Sau khi Trung quốc mở cửa thị trường, có khoảng 40 tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài tràn vào khai thác thị trường tiềm năng này. Sớm nhất là Carrefour (Pháp) vào Trung Quốc từ năm 1992, ngay khi nước này mở cửa thị trường bán lẻ cho đầu tư nước ngoài. Những đại gia khác cũng góp mặt vào thị trường này như Tessco (Anh), Metro (Đức), Aeon (Nhật), Ikea (Thụy Điển), Makro (Hà Lan), McDonald’s (Mỹ) hay Dairy Farm (Hồng Kông)… Sự tham gia của tập đoàn bán lẻ nước ngoài đã gây sức ép rất lớn với các nhà bán lẻ Trung Quốc. 60% doanh thu bán lẻ rơi vào tay các tập đoàn bán lẻ nước ngoài, khiến các công ty bán lẻ Trung Quốc rơi vào tình thế rất khó khăn, một số bị phá sản. Trong khoảng thời gian chưa tới 10 năm kể từ năm 1992 khi Trung Quốc cho phép thành lập các liên doanh bán lẻ bằng việc sửa đổi luật đầu tư nước ngoài, các công ty nước ngoài đã chiếm được 5 – 8% thị phần bán lẻ. Chỉ trong vòng 2 năm sau khi tập đoàn bán lẻ lớn thứ hai thế giới Carrefour mở trung tâm bán lẻ thứ 29
  • 31. hai tại Thượng hải, trong phạm vi 35 km, 3 công ty thuộc dạng “cá mập” trong nước đã bị phá sản. Nguyên nhân dẫn đến việc thua kém của các công ty bán lẻ nội địa được biết đến một phần là do Bộ Thương mại đã nhượng bộ quá nhiều trong quá trình đàm phán trên lĩnh vực thương mại dịch vụ khi Trung Quốc gia nhập WTO và không quản lý một cách thật chặt chẽ hoạt động của các công ty bán lẻ nước ngoài. Một số doanh nghiệp nước ngoài đã không ngồi chờ đến thời điểm ngày 11/12/2004 mà đã chủ động đi “cửa sau” qua chính quyền cấp thấp hơn. Tại đây, chính quyền địa phương có vẻ dễ hơn trong việc cho phép các tập đoàn nước ngoài mở trung tâm bán lẻ. Ngoài ra, nguyên nhân chính làm các công ty trong nước thua ngay trên sân nhà là xuất phát từ yếu tố chủ quan. Ở tầm quốc gia, chưa có tập đoàn bán lẻ Trung Quốc nào được xem là đối thủ ngang cơ với các đại gia bán lẻ nước ngoài. Hiện nay, số lượng trung tâm, cửa hàng bán lẻ của các nhà đầu tư nước ngoài là không đáng kể so với trong nước nhưng lại chiếm lĩnh được thị phần không nhỏ. Họ có lợi thế về kinh nghiệm thương trường trong cuộc đua. Chính phủ Trung quốc nhận định các công ty trong nước không nên tiếp tục tranh cãi hay chỉ trích mà phải nỗ lực để tự cứu mình, họ cần học hỏi kinh nghiệm từ chính những đối thủ nước ngoài. Khi các hãng bán lẻ lớn của nước ngoài chiếm lĩnh những vị trí đẹp nhất ở các thành phố lớn, thì các hãng phân phối của Trung Quốc có lẽ sẽ thích hợp hơn ở các thành phố cỡ trung bình, nơi mà năng suất thấp hơn. Và có thể những hình thức kinh doanh khác sẽ phù hợp hơn như nhượng quyền thương mại từ McDonald’s, KFC và Tuppeware. Nhằm thích ứng với yêu cầu toàn cầu hóa kinh tề và việc gia nhập WTO, nâng cao hiệu suất vận hành nền kinh tế, trong những năm gần đây Chính phủ Trung Quốc đã tích cực thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa hiện đại, trong đó có lĩnh vực bán lẻ, cụ thể là: (a) Cải cách các quy định và phương thức quản lý có liên quan, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển của lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa hiện đại. 30
  • 32. - Điều chỉnh phương thức quản lý hành chính, tạo thuận lợi hơn cho việc đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp phân phối và lưu thông hàng hóa, giảm thiểu việc quản lý phê chuẩn có tính chất hành chính - Cải tiến và hoàn thiện chính sách quản lý thu thuế của các doanh nghiệp phân phối và lưu thông hàng hóa. - Cải tiến việc quản lý giao thông của các loại xe cộ phân phối và lưu thông hàng hóa ở thành thị, tạo thuận lợi cho xe cộ phân phối và lưu thông hàng hóa đi lại, đỗ, xếp dỡ hàng hóa trong thành phố. - Đơn giản hóa thủ tục hải quan, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa hiệu quả. (b) Tăng cường bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, áp dụng trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến trong phân phối và lưu thông hàng hóa: - Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn hóa các tiêu chuẩn kỹ thuật phân phối và lưu thông hàng hóa và các tiêu chuẩn liên quan, tích cực quán triệt và phổ biến rộng rãi các tiêu chuẩn đó. - Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa. - Mở rộng việc sử dụng trang thiết bị và kỹ thuật tiên tiến trong phân phối và lưu thông hàng hóa cũng như trong việc tiếp cận thông tin thị trường (c) Xây dựng quy hoạch phát triển phân phối và lưu thông hàng hóa: - Đẩy nhanh việc xây dựng các trung tâm phân phối và lưu thông hàng hóa mang tính xã hội hóa, chấn chỉnh lại các tổ chức phân phối và lưu thông hàng hóa. - Hiện tại các ban ngành có liên quan của Nhà nước đang xem xét xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống phân phối và lưu thông hàng hóa thống nhất trên toàn Trung Quốc, chỉ đạo thúc đẩy sự phát triển của lưu thông hàng hóa hiện đại cả thành thị và nông thôn. (d) Thực hiện các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp phân phối và lưu thông hàng hóa: 31
  • 33. - Khuyến khích các doanh nghiệp phân phối phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa, nâng cao hiệu quả, tiến hành sát nhập, cải tổ, liên hợp. - Hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng các kênh lưu thông vốn, thu hút vốn trên thị trường trong nước. Khuyến khích các ngân hàng duy trì các khoản vay cho các doanh nghiệp phát triển tốt. - Tích cực thúc đẩy thị trường phân phối và lưu thông hàng hóa mở cửa ra bên ngoài, khuyến khích các doanh nghiệp lớn và vừa nước ngoài đến Trung Quốc. Đặc biệt Trung Quốc cũng khuyến khích các nhà bán lẻ của mình đầu tư ra nước ngoài để chiếm lĩnh thị trường các nước trong khu vực, thậm chí cả các nước phát triển như EU và Hoa Kỳ. (e) Tăng cường điều tiết giữa các ban ngành Chính phủ liên quan tới quản lý phân phối và lưu thông hàng hóa bởi quản lý phân phối và lưu thông hàng hóa liên quan tới nhiều ngành như hàng không, đường sắt, giao thông, thương mại… 1.3.3. Thái Lan. Trước cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, thương mại truyền thống vẫn chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống bán lẻ Thái Lan. Lúc đó hệ thống bán lẻ hiện đại chỉ chiếm 30% tổng số thương mại của nước này. Nhưng hiện nay, hệ thống bán lẻ hiện đại của Thái Lan có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của hệ thống bán lẻ truyền thống và còn tiếp tục tăng do các tập đoàn bán lẻ nước ngoài sẽ mở thêm các siêu thị và đại siêu thị tại Thái Lan. Đối thủ cạnh tranh chủ yếu của các siêu thị vẫn là các chợ truyền thống. Số lượng các cửa hàng hiện đại chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số cửa hàng bán lẻ của Thái Lan nhưng doanh thu của chúng lại chiếm hơn quá nửa tổng doanh số bán lẻ của Thái Lan. Trong số các cửa hàng hiện đại, cửa hàng giảm giá, cửa hàng bách hóa lớn, đại siêu thị chiếm ưu thế, kế tiếp là các trung tâm thương mại, cửa hàng tiện dụng và mô thình Cash & Carry, cuối cùng là siêu thị truyền thống. Hệ thống cửa hàng tiêu dùng ở Thái Lan (số liệu năm 2002) * Mô hình hiện đại: 4.879 cái, trong đó 32
  • 34. Các cửa hàng giảm giá 114 (gồm 93 đại siêu thị, 21 siêu thị bán buôn) Cửa hàng bách hóa 236 Siêu thị 247 Cửa hàng tiện lợi 3.650 Cửa hàng tươi sống/ đặc sản 650 * Cửa hàng truyền thống: 297.405 cái, lớn gấp nhiều lần mô hình cửa hàng hiện đại bao gồm các chợ rau quả, cửa hiệu tạp hóa và các nhà bán buôn địa phương Chính phủ Thái Lan đã đề ra một số chính sách nhằm trợ giúp các mô hình bán lẻ truyền thống như sau: - Tăng nội lực và sức cạnh tranh của các cửa hàng bán lẻ vừa và nhỏ, đặc biệt là hình thức kinh doanh truyền thống. - Tổ chức các cuộc hội thảo trên toàn quốc cho chủ các cửa hàng bán lẻ truyền thống nhỏ để tăng nhận thức về sức ép cạnh tranh từ các cửa hàng ưu đãi giảm giá và thay đổi đối xử với khách hàng - Tổ chức đào tạo trên toàn quốc để tăng hiểu biết cửa các chủ cửa hàng nhỏ bán lè truyền thống bề quản lý và tham gia bán lẻ hiện đại phù hợp với môi trường biến động. - Hiện đại hóa các cửa hàng nhỏ bán lẻ truyền thống thông qua việc cử các đội chuyên gia bán lẻ phát triển diện mạo cửa hàng giống như “cửa hàng tiện lợi” - Trợ giúp các cửa hàng bán lẻ vừa và nhỏ để tăng khả năng kinh doanh 1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm về quản lý Nhà nƣớc các doanh nghiệp bán lẻ cho Việt Nam. Từ kinh nghiệm phát triển hệ thống phân phối và đặc biệt là bán lẻ thông qua công tác quản lý Nhà nước của một số quốc gia ở trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau: - Để vừa phù hợp với trình độ và quy mô của thị trường trong nước, đồng thời phải đi tắt đón đầu để hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới nên một mặt phải mở rộng các quan hệ phân phối bán lẻ trực tiếp ở khu vực thị trường trung tâm qua 33
  • 35. mạng lưới chợ, qua các hội chợ; mặt khác phải tăng cường các yếu tố cho sự phát triển của các phương thức phân phối tiến bộ thông qua phát triển các hệ thống phân phối hiện đại được các nhà bán lẻ chuyên nghiệp tổ chức và điều phối. - Việc xây dựng hệ thống luật pháp chi phối các hoạt động phân phối bán lẻ trên thị trường nhằm tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp phát triển các hệ thống phân phối hàng hóa hiệu quả cần phải được đặc biệt quan tâm. Hệ thống luật pháp phải tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đây là một yếu tố điều kiện quan trọng để khuyến khích mọi loại hình kinh doanh tham gia phát triển các hệ thống phân phối cạnh tranh. - Hiện đại hóa hệ thống phân phối bán lẻ thông qua thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển các chuỗi siêu thị, đại siêu thị, cửa hàng tổng hợp và chuyên doanh, các trung tâm bán buôn và mua bán hàng hóa. Sự có mặt các công ty thương mại đa quốc gia là những nhân tố cân thiết thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển các hệ thống phân phối hiện đại - Chính phủ không can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp, song phải coi trọng việc hỗ trợ để các doanh nghiệp bán lẻ phát triển các hệ thống phân phối của mình, thông qua các chính sách, biện pháp hỗ trợ cụ thể đối với các doanh nghiệp thương mại trong nước để cạnh tranh với được với các doanh nghiệp nước ngoài. - Đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại cho phát triển các hệ thống phân phối hiệu quả. Phát triển hệ thống giao thông, hệ thống thông tin, hệ thống kho tàng, bến bãi… chính là tạo lập các điều kiện để xây dựng các hệ thống phân phối hiện đại. 34
  • 36. CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ TRÊN THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM 2.1. Tổng quan chung về doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam có thể được mô tả khái quát như sau: các cửa hàng tạp hóa bán lẻ, các cửa hàng trung tâm với diện tích lớn và vị trí thuận tiện, các chợ đầu mối và chợ truyền thống, hệ thống bán hàng lưu động (hàng rong), các cửa hàng bán lẻ chuyên biệt. Các cửa hàng bán lẻ đã tồn tại từ lâu và đến nay vẫn chiếm tới 90% tổng lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường Việt Nam. Trong thời điểm hiện nay, các cửa hàng bán lẻ đã có sự thay đổi căn bản ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ với sự phân hóa khá rõ về chủng loại hàng hóa và cách thức trưng bày. Ở các thành phố này, các cửa hàng bán lẻ đã không còn mang tính tạp hóa nữa mà mang tính “bán lẻ” – chủng loại mặt hàng giảm đi và số lượng các thương hiệu của cùng chủng loại tăng lên. Các cửa hàng trung tâm với diện tích lớn và vị trí thuận tiên hiện nay chưa nhiều, nhưng có thể nói đó là tương lai của thị trường bán lẻ hàng cao cấp. Quản lý trung tâm là các công ty chuyên nghiệp với các công thức hoạt động được lập trình sẵn và các tiêu chí đánh giá hoạt động dài hạn. Các chợ đầu mối sẽ là kênh phân phối bị ảnh hưởng mạnh nhất khi Việt Nam tham gia vào WTO. Đây là nơi mà sản phẩm sẽ được quyết định bởi hai nguồn lực: vốn cung ứng và sức mạnh thuyết phục hệ thống phân phối. Chợ truyền thống là một trong những kênh lưu thông bán lẻ hàng hóa khá quan trọng đối với khu vực nông thôn. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa càng phát triển thì tỷ trọng của nó càng giảm, nhưng nó không thể mất đi mà biến đổi và phục hồi gắn với các nét sinh hoạt văn hóa và du lịch. 35
  • 37. Hệ thống bán hàng lưu động (hàng rong): Hệ thống này rất hiệu quả ở các vùng quê nhưng nguồn hàng cung cấp của hệ thống này chính là các đại lý nhỏ hoặc thậm chí là các cửa hàng tạp hóa bán lẻ. Do đó hệ thống này góp phần tăng sức mạnh của hệ thống tạp hóa bán lẻ Các cửa hàng bán lẻ chuyên biệt: các cửa hàng này chỉ bán một chủng loại sản phẩm, có thể bán lẻ và cũng có thể cung cấp số lượng lớn theo yêu cầu. Các cửa hàng này thường có uy tín cao trong chuyên môn thẩm định chất lượng và sự phù hợp của sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm mới. Các cửa hàng này cũng có giá trị rất cao trong việc thuyết phục người mua hàng sẽ tiêu thụ sản phẩm nào và nếu thành công thì việc tiếp tục tiêu thụ trong một thời gian dài là đều có thể hi vọng được. Mặc dù quá trình hội nhập và sự phát triển của sản xuất kinh doanh đã tạo nên những bước tiến đáng kể trong hệ thống phân phối nhưng cho đến nay về cơ bản thị trường và người tiêu dùng Việt Nam vẫn hoàn toàn khác với những nước phát triển, với hàng trăm ngàn các cửa hiệu bán hàng phân bố từ thành thị tới nông thôn, luôn đáp ứng nhu cầu hàng ngày của người tiêu dùng. Khác hẳn hành vi mua hàng tại các nước phát triển, người tiêu dùng Việt Nam vẫn có thói quen mua hàng hằng ngày thay vì tới siêu thị vào ngày cuối tuần để mua hàng đủ dùng cho cả tuần. Vì vậy, hệ thống các cửa hàng gần khu dân cư vẫn đang đóng một tỷ lệ lớn nhất trong toàn bộ hệ thống phân phối của thị trường Việt Nam. 2.1.2. Đặc điểm Hình thức bán lẻ chủ yếu ở nước ta trước đây là chợ truyền thống và các cửa hàng mặt tiền nhỏ. Khi hoạt động thương mại phát triển, mặt bằng kinh doanh cũng có những vận động đặc thù. Ví dụ như trước đây, để tránh bị đánh thuế mặt tiền cửa hàng, người ta đã tạo ra kiểu nhà ống hẹp ngang, sâu hun hút đặc trưng của nhà phố cổ Hà Nội. Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường đòi hỏi ngành bán lẻ phải có những mặt bằng mới, hiện đại và tiện dụng hơn. Do đó, các kênh bán hàng hiện đại đã xuất 36
  • 38. hiện ở nước ta và ngày càng trở nên quen thuộc với nhiều người dân Việt Nam. Theo Tổng cục Thống kê, năm 1995, Việt Nam chỉ có 10 siêu thị và 2 trung tâm thương mại thì đến năm 2007 đã có ít nhất 140 siêu thị và đại siêu thị, 20 trung tâm thương mại và gần 1 triệu m2 mặt bằng kinh doanh bán lẻ đang được đầu tư. Đến năm 2008, Việt Nam đã có khoảng 400 siêu thị, 60 trung tâm thương mại và gần 2.000 cửa hàng tiện ích. Dự kiến đến năm 2010, số siêu thị và trung tâm thương mại sẽ tăng lần lượt là 62,5% và 150%. Dù phát triển nhanh và đầy cơ hội nhưng bên cạnh các yếu tố thuận lợi, thị trường bán lẻ Việt Nam cũng còn gặp nhiều khó khăn và thách thức cần phải vượt qua. 2.1.2.1. Điểm mạnh Thị trường bán lẻ Việt Nam có rất nhiều yếu tố thuận lợi để phát triển nhanh hơn nữa trong thời gian tới. a) Dân số đông, trẻ với dân số 85 triệu dân, trong đó 79 triệu người dưới 65 tuổi, khoảng 60 triệu người tiêu dùng, dự báo đến năm 2018 là 95 triệu dân và 70 triệu người tiêu dùng. Lực lượng người tiêu dùng trẻ này dễ dàng tiếp nhận hình thức bán hàng trực tiếp mới, sự hiểu biết về sản phẩm ngày càng được nâng cao. b) Thu nhập trung bình của người Việt Nam ngày càng tăng, trong đó nhóm có tốc độ tăng thu nhập nhanh nhất trong khoảng 500-1.000 USD/tháng. Bên cạnh đó, tỷ lệ tiêu dùng trên thu nhập của người Việt Nam thuộc loại cao nhất ở Đông Nam Á. Người Việt Nam tiêu dùng trung bình khoảng 70% thu nhập hàng tháng. Điều này ảnh hưởng lớn tới mức tăng trưởng của thị trường bán lẻ Việt Nam trong những năm vừa qua, ví dụ như những năm trước, mức này luôn đạt bình quân 20%, thì đến năm 2007 đã tăng lên 25 – 27%… Doanh số bán lẻ toàn Việt Nam ước tính đến hết năm 2008 đạt 54,3 tỷ USD, tăng 20,5% so với 2007. Tỷ lệ mua sắm tại các siêu thị, trung tâm thương mại của người Việt Nam đã tăng từ 9% năm 2005 lên 14% năm 2007 và dự kiến sẽ tăng lên 24% vào năm 2010. 37
  • 39. Bảng 2: Tỷ lệ mua sắm tại các siêu thị, trung tâm thương mại 40 37 35 30 24 24 25 % 20 15 14 15 9 Cả nước 10 HN - Tp. HCM 5 0 2005 2007 2010 (dự kiến) Nguồn: http://www.saga.vn/view.aspx?id=15205 c) Việt Nam được xếp hạng cao về thái độ lạc quan của người tiêu dùng, xếp thứ 5 về chỉ số lòng tin của người tiêu dùng (Consumer confidence index). Bên cạnh đó, năm 2007 Việt Nam cũng được đánh giá là một trong 4 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới (sau Ấn Độ, Nga, và Trung Quốc - theo A.T Kearney) và năm 2008 đã vươn lên đứng đầu. d) Thị trường bán lẻ trị giá hơn 40 tỷ USD/ 1 năm. Số lượng doanh nghiệp bán lẻ tăng tương đối nhanh qua các năm, đặc biệt từ năm 2004 đến năm 2006. Tính đến cuối năm 2006, số doanh nghiệp phân phối bán lẻ thực tế đang hoạt động kinh doanh trên phạm vi cả nước là 16.313 doanh nghiệp, tăng 2.912 doanh nghiệp so với 2005 và 8.785 doanh nghiệp so với năm 2000. Bảng 3: Số lƣợng doanh nghiệp phân phối bán lẻ 2000 -2006 Số doanh nghiệp 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 7.528 8.490 8.955 9.384 11.042 13.401 16.313 Nguồn: Tổng cục thống kê (2000 - 2008), Thực trạng doanh nghiệp theo kết quả điều tra, HN 38
  • 40. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng liên tục tăng với tốc độ cao và ổn định. Tổng mức bán lẻ xã hội năm 2006 đạt 596207.1 tỷ đồng tăng 20.9% so với năm 2005, sơ bộ ước tính năm 2007 đạt tới 731809.7 tỷ đồng và nửa đầu năm 2008 đã đạt 450.000 tỷ đồng Bảng 4: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 2000 – 2007 Chia ra Năm Tổng số Kinh tế Nhà Kinh tế ngoài Kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc Nhà nƣớc nƣớc ngoài Tổng mức lƣu chuyển hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng (tỷ đồng) 2000 220410,6 39205,7 177743,9 3461,0 2001 245315,0 40956,0 200363,0 3996,0 2002 280884,0 45525,4 224436,4 10922,2 2003 333809,3 52381,8 267724,8 13702,7 2004 398524,5 59818,2 323586,1 15120,2 2005 480293,5 62175,6 399870,7 18247,2 2006 596207,1 75314,0 498610,1 22283,0 Sơ bộ 2007 731809,7 74556,8 629000,3 28252,6 Cơ cấu % 2000 100,0 17,8 80,6 1,6 2001 100,0 16,7 81,7 1,6 2002 100,0 16,2 79,9 3,9 2003 100,0 15,7 80,2 4,1 2004 100,0 15,0 81,2 3,8 2005 100,0 12,9 83,3 3,8 2006 100,0 12,7 83,6 3,7 Sơ bộ 2007 100,0 10,2 85,9 3,9 Nguồn: Tổng cục thống kê (2007), Niên giám thống kê, NXB Thống kê. 39
  • 41. đ) Đã xuất hiện hầu hết các loại hình bán lẻ hiện đại, đặc biệt là hệ thống siêu thị. Các phương thức thanh toán tiện dụng bằng thẻ tín dụng cũng đã xuất hiện, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam có những bước tiến mạnh mẽ, vững chắc. Hệ thống phân phối bán lẻ bắt đầu phát triển theo tính chất liên kết và có tính hệ thống trong chuỗi ngành hàng. Đến nay Việt Nam đã hình thành mạng lưới siêu thị ở các thành phố và đô thị lớn trong cả nước và các siêu thị đã góp phần không nhỏ vào việc tạo ra một diện mạo mới cho thương mại bán lẻ ở Việt Nam. Tuy nhiên, các phương thức kinh doanh truyền thống vẫn đóng vai trò quan trọng trong dịch vụ bán lẻ. Cửa hàng bán lẻ thuộc sở hữu hộ gia đình chiếm tỷ trọng khá lớn. Các cửa hàng này phục vụ trên diện rộng đối với cả hàng hóa thực phẩm và phi thực phẩm. Các cửa hàng tạp hóa độc lập vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc kinh doanh các mặt hàng thực phẩm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày. 2.1.2.2. Điểm yếu: a) Thứ nhất, ảnh hưởng từ thói quen mua sắm của người Việt: Phương thức chợ truyền thống và các c ửa hàng bán lẻ nhỏ vẫn chiểm đ ến 90% trong thói quen tiêu dùng của người Việt Nam. Việc mua sắm tại các trung tâm thương mại, siêu thị vẫn mới chỉ phát triển ở một số thành phố lớn hoặc khu đô thị hiện đại. b) Thứ hai , số lượng doanh nghiệp phân phối bán lẻ nhiều nhưng quy mô nhỏ, phân tán, đi kèm với công nghệ, thiết bị lạc hậu. Năm 2006, đa số các doanh nghiệp có quy mô từ 5 – 9 lao động, chỉ có 3 doanh nghiệp có 1000 đến 4999 người. So với năm 2004 là có tăng lên về quy mô nhưng vẫn là rất nhỏ. 40
  • 42. Bảng 5: Số doanh nghiệp phân phối bán lẻ theo quy mô lao động đến 31/12 (2004-2006) Từ Từ Từ Từ Từ Từ Tổng số Dƣới Từ 5 10 50 200 300 500 1000 Năm doanh 5 đến 9 đến đến đến đến đến đến nghiệp ngƣời ngƣời 49 199 299 499 999 4999 ngƣời ngƣời ngƣời ngƣời ngƣời ngƣời 1= 2 3 4 5 6 7 8 9 2+3+…+9 2004 11.042 5.437 3.353 1.991 207 28 15 9 2 2005 13.401 6.383 4.291 2.455 219 22 21 7 3 2006 16.313 5.341 8.045 2.654 219 26 14 11 3 Nguồn: Tổng cục thống kê (2008), Thực trạng các doanh nghiệp qua kết quả điều tra 2005, 2006, 2007; NXB Thống kê Nhìn chung quy mô vốn của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ trên thị trường Việt Nam còn nhỏ. Năm 2006 đa số các doanh nghiệp có số vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng (56.11% trên tổng số doanh nghiệp), chỉ có 7 doanh nghiệp có số vốn từ 500 tỷ đồng trở lên. Quy mô vốn nhỏ là trở ngại lớn trong quá trình cạnh tranh của các doanh nghiệp 41
  • 43. Bảng 6: Số doanh nghiệp phân phối bán lẻ theo quy mô vốn 2004 – 2006 Từ Từ 1 Từ 5 Từ Từ 50 Từ 0.5 10 200 Từ Tổng số Dưới đến đến đến đến đến đến 500 Năm doanh 0.5 tỷ dưới dưới dưới dưới dưới dưới tỷ trở nghiệp đồng 5 tỷ 10 tỷ 200 tỷ 1 tỷ 50 tỷ 500 tỷ lên đồng đồng đồng đồng đồng đồng 1= 2 3 4 5 6 7 8 9 2+3+…+9 2004 11.042 4.932 2.482 3.073 315 197 31 9 3 2005 13.401 5.384 3.196 4.085 428 255 45 6 2 2006 16.313 2.263 4.015 9.153 459 327 77 12 7 Nguồn: Tổng cục thống kê (2008), Thực trạng doanh nghiệp theo kết quả điều tra 2005, 2006, 2007; NXB Thống kê Do quy mô doanh nghiệp nhỏ, vốn ít, nên khả năng trang bị các trang thiết bị còn hạn chế, hầu hết các doanh nghiệp chưa áp dụng ISO; việc quản trị hàng tồn kho, xử lý đơn đặt hàng, tổ chức vận chuyển, thông tin và báo cáo… đều còn ở trinh độ công nghệ thấp và chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế; tất yếu dẫn đến năng lực cạnh tranh kém, hiệu quả không cao. c) Thứ ba, nhân lực và kinh nghiệm quản lý: Một trong những điểm yếu nói chung của lao động ở Việt Nam đó là trình độ còn thấp, kinh nghiệm thiếu. Phần lớn các doanh nghiệp phải tự đào tạo tay nghề cho người lao động (chiếm 85.06%), chứ không phải lao động được đào tạo qua hệ thống trường dạy nghề tập trung. Điều này dẫn đến chi phí đào tạo lao động cao nhưng trình độ hiểu biết khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ bán hàng của lao động thấp, nên rất hạn chế trong việc phát huy sáng kiến cải tiến công nghệ bán hàng. d) Thứ tư, quy hoạch đô thị không đồng bộ, manh mún: Một trong những yếu tố quan trọng để thị trường mặt bằng bán lẻ có thể phát triển, đó là sự tập trung 42
  • 44. của khu dân cư cũng như chất lượng đời sống người dân. Tuy nhiên không thể đánh giá cao chất lượng quy hoạch đô thị của Việt Nam hiện nay. e) Thứ năm, giá thuê mặt bằng quá cao và thủ tục rườm rà: Khiến cho nhiều doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ khó có thể thuê được mặt bằng như mình mong muốn. Theo thống kê tính đến cuối tháng 7/2008, tại Tp. HCM, giá thuê mặt bằng bán lẻ trong khu trung tâm đạt mức trung bình 65 USD/m2 /tháng, với những vị trí đẹp giá trung bình đạt đến 85 USD/m2 /tháng và mức giá thuê cao nhất tại khu vực này lên tới 250 USD/m2 /tháng; giá thuê mặt bằng khu vực ngoài trung tâm rẻ hơn đôi chút đang ở mức trung bình 40 USD/m2 /tháng. Từ ngày 01/01/2009 Việt Nam sẽ mở cửa thị trường bán lẻ với các nhà phân phối nước ngoài. Những đặc điểm nội tại vốn có, khi được đặt trong hoàn cảnh kinh tế sôi động sẽ làm hé lộ nhiều cơ hội xen lẫn thách thức. Cả cơ hội và thách thức lớn nhất đều là từ việc nhiều hãng bán lẻ nước ngoài đã thúc đẩy việc mở rộng sự hiện diện ở Việt Nam. Bourbon, Parkson và Metro đang mở rộng hệ thống cửa hàng tại Việt Nam, trong khi Tesco, Wal-Mart và Carrefour có khả năng sẽ đầu tư vào Việt Nam trong thời gian không xa. Hiện Metro đang có dự định mở thêm cửa hàng thứ 8 tại Việt Nam. Có nguồn tin cho biết, Parkson có dự định đạt con số 10 cửa hàng tại Việt Nam vào năm 2009. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang diễn ra, các nhà bán lẻ, nhà đầu tư nước ngoài sẽ chưa vào nước ta ngay do còn phải giải quyết các vấn đề ở nước sở tại cũng như cần thời gian để nghiên cứu sâu sắc hơn về thị trường và quản trị rủi ro cũng như cấu trúc lại nguồn vốn. Vì vậy, dự báo năm 2009, thị trường bán lẻ sẽ chưa có nhiều thay đổi so với năm 2008. Tác động của việc mở cửa toàn phần thị trường bán lẻ đối với các nhà bán lẻ quốc tế theo cam kết với WTO được dự báo sẽ chưa tạo ra những tác động sâu sắc đến thị trường bán lẻ trong nước trong năm 2009, nhưng đây sẽ là một năm có nhiều ảnh hưởng đến những năm tiếp theo, khi nền kinh tế thế giới phục hồi và các nhà bán lẻ quốc tế tiếp tục các kế hoạch mở rộng của mình. 43