SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 1
Baixar para ler offline
Trường Đại Học Nông Lâm Nhóm I thực hiện
Biến Đổi Khí Hậu Trang 19/58
Một số sinh vật biển có khả năng tạo ra methyl chloride (hợp chất bền); tuy
nhiên, nó chỉ đóng góp một phần nhỏ vào tổng lượng chlorine ở tầng bình lưu
Con người thải các chất khí CFC (Chlorofluorocarbon) và các chất ODS (Ozone
depleting substances) khác vào khí quyển. CFCs được sử dụng làm chất sinh
hàn, chất tạo bọt, dung môi, bình cứu hoả, bình xịt, nhựa xốp, chất làm sạch kim
loại.. Các chất ODS khác bao gồm: methyl bromide (làm thuốc trừ sâu), halons
(trong các bình chữa cháy), methyl chloroform (dùng làm dung môi trong nhiều
ngành công nghệ)... Mặc dầu CFC nặng hơn không khí, nhưng nó có thể lên đến
tầng bình lưu bằng một quá trình kéo dài từ 2 - 5 năm. Người ta đo nồng độ
CFC ở tầng bình lưu bởi các khinh khí cầu, phi cơ và các vệ tinh. Khi CFCs đến
được tầng bình lưu, dưới tác dụng của tia cực tím nó bị phân hủy tạo ra Chlor
nguyên tử, và Chlor nguyên tử có tác dụng như một chất xúc tác để phân hủy
Ozon. Một nguyên tử Chlor có thể phá hủy 100.000 phân tử ozon. Methyl
bromide khi lên đến tầng bình lưu sẽ bị tia cực tím phân hủy để cho ra brom
nguyên tử, một nguyên tử brom có khả năng phá hủy các phân tử ozone gấp 40-
50 lần một nguyên tử chlor.
Nguyên nhân chính của giảm sút ôzôn ở Nam Cực và các nơi khác là sự hiện
diện của các khí gốc có chứa clo (trước nhất là các CFC và các hợp chất clo với
các bon liên quan) bị phân giải khi có tia cực tím
tạo thành các nguyên tử clo trở thành chất xúc
tác phân hủy ôzôn. Sự giảm sút ôzôn do clo là
chất xúc tác có thể xảy ra ở trạng thái khí nhưng
sẽ tăng đột ngột khi có sự hiện diện của các đám
mây tầng bình lưu trên địa cực. Các quá trình
quang hóa tham gia tuy phức tạp nhưng đã được
tìm hiểu tốt. Quan sát chủ yếu là thông thường
phần lớn các clo trong tầng bình lưu ở trong các
"hợp chất chứa" bền, chủ yếu là các hydro clorua
(HCl) và clo nitrat (ClONO2). Mặc dù vậy trong
mùa Đông và Xuân Nam Cực các phản ứng trên
bề mặt của các phần tử mây chuyển hóa các hợp chất chứa này trở lại thành các
gốc tự do có hoạt tính cao, Cl và ClO. Các đám mây cũng có thể lấy đi NO2 từ
khí quyển bằng cách biến đổi chúng thành axít nitric, ngăn không cho ClO vừa
được tạo thành có thể bị biến đổi trở lại ClONO2. Ánh sáng cực tím gia tăng
trong mùa xuân tạo cho các hợp chất clo phản ứng hủy diệt trên 17% ôzôn trong
khi các hợp chất brôm làm giảm sút thêm 33%. Vai trò của ánh sáng mặt trời
trong giảm sút ôzôn chính là lý do tại sao giảm sút ôzôn ở Nam Cực lớn nhất
vào mùa xuân. Trong mùa đông, mặc dù có nhiều mây nhất, không có ánh sáng
trên địa cực để thúc đẩy các phản ứng hóa học. Phần lớn các ôzôn bị phá hủy ở
phía dưới của tầng bình lưu đối ngược với việc giảm sút ôzôn ít hơn rất nhiều
thông qua các phản ứng thể khí đồng nhất xảy ra trước hết là ở phía trên của
tầng bình lưu. Nhiệt độ sưởi ấm vào cuối xuân phá vỡ các gió xoáy vào trung

Mais conteúdo relacionado

Mais de Phi Phi

Vsf 473 lect_13_bonsai30
Vsf 473 lect_13_bonsai30Vsf 473 lect_13_bonsai30
Vsf 473 lect_13_bonsai30
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai29
Vsf 473 lect_13_bonsai29Vsf 473 lect_13_bonsai29
Vsf 473 lect_13_bonsai29
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai28
Vsf 473 lect_13_bonsai28Vsf 473 lect_13_bonsai28
Vsf 473 lect_13_bonsai28
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai26
Vsf 473 lect_13_bonsai26Vsf 473 lect_13_bonsai26
Vsf 473 lect_13_bonsai26
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai25
Vsf 473 lect_13_bonsai25Vsf 473 lect_13_bonsai25
Vsf 473 lect_13_bonsai25
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai23
Vsf 473 lect_13_bonsai23Vsf 473 lect_13_bonsai23
Vsf 473 lect_13_bonsai23
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai21
Vsf 473 lect_13_bonsai21Vsf 473 lect_13_bonsai21
Vsf 473 lect_13_bonsai21
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai20
Vsf 473 lect_13_bonsai20Vsf 473 lect_13_bonsai20
Vsf 473 lect_13_bonsai20
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai19
Vsf 473 lect_13_bonsai19Vsf 473 lect_13_bonsai19
Vsf 473 lect_13_bonsai19
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai18
Vsf 473 lect_13_bonsai18Vsf 473 lect_13_bonsai18
Vsf 473 lect_13_bonsai18
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai16
Vsf 473 lect_13_bonsai16Vsf 473 lect_13_bonsai16
Vsf 473 lect_13_bonsai16
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai15
Vsf 473 lect_13_bonsai15Vsf 473 lect_13_bonsai15
Vsf 473 lect_13_bonsai15
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai12
Vsf 473 lect_13_bonsai12Vsf 473 lect_13_bonsai12
Vsf 473 lect_13_bonsai12
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai11
Vsf 473 lect_13_bonsai11Vsf 473 lect_13_bonsai11
Vsf 473 lect_13_bonsai11
Phi Phi
 
Vsf 473 lect_13_bonsai10
Vsf 473 lect_13_bonsai10Vsf 473 lect_13_bonsai10
Vsf 473 lect_13_bonsai10
Phi Phi
 

Mais de Phi Phi (20)

Vsf 473 lect_13_bonsai30
Vsf 473 lect_13_bonsai30Vsf 473 lect_13_bonsai30
Vsf 473 lect_13_bonsai30
 
Vsf 473 lect_13_bonsai29
Vsf 473 lect_13_bonsai29Vsf 473 lect_13_bonsai29
Vsf 473 lect_13_bonsai29
 
Vsf 473 lect_13_bonsai28
Vsf 473 lect_13_bonsai28Vsf 473 lect_13_bonsai28
Vsf 473 lect_13_bonsai28
 
Vsf 473 lect_13_bonsai26
Vsf 473 lect_13_bonsai26Vsf 473 lect_13_bonsai26
Vsf 473 lect_13_bonsai26
 
Vsf 473 lect_13_bonsai25
Vsf 473 lect_13_bonsai25Vsf 473 lect_13_bonsai25
Vsf 473 lect_13_bonsai25
 
Vsf 473 lect_13_bonsai24
Vsf 473 lect_13_bonsai24Vsf 473 lect_13_bonsai24
Vsf 473 lect_13_bonsai24
 
Vsf 473 lect_13_bonsai23
Vsf 473 lect_13_bonsai23Vsf 473 lect_13_bonsai23
Vsf 473 lect_13_bonsai23
 
Vsf 473 lect_13_bonsai22
Vsf 473 lect_13_bonsai22Vsf 473 lect_13_bonsai22
Vsf 473 lect_13_bonsai22
 
Vsf 473 lect_13_bonsai21
Vsf 473 lect_13_bonsai21Vsf 473 lect_13_bonsai21
Vsf 473 lect_13_bonsai21
 
Vsf 473 lect_13_bonsai20
Vsf 473 lect_13_bonsai20Vsf 473 lect_13_bonsai20
Vsf 473 lect_13_bonsai20
 
Vsf 473 lect_13_bonsai19
Vsf 473 lect_13_bonsai19Vsf 473 lect_13_bonsai19
Vsf 473 lect_13_bonsai19
 
Vsf 473 lect_13_bonsai18
Vsf 473 lect_13_bonsai18Vsf 473 lect_13_bonsai18
Vsf 473 lect_13_bonsai18
 
Vsf 473 lect_13_bonsai17
Vsf 473 lect_13_bonsai17Vsf 473 lect_13_bonsai17
Vsf 473 lect_13_bonsai17
 
Vsf 473 lect_13_bonsai16
Vsf 473 lect_13_bonsai16Vsf 473 lect_13_bonsai16
Vsf 473 lect_13_bonsai16
 
Vsf 473 lect_13_bonsai15
Vsf 473 lect_13_bonsai15Vsf 473 lect_13_bonsai15
Vsf 473 lect_13_bonsai15
 
Vsf 473 lect_13_bonsai14
Vsf 473 lect_13_bonsai14Vsf 473 lect_13_bonsai14
Vsf 473 lect_13_bonsai14
 
Vsf 473 lect_13_bonsai13
Vsf 473 lect_13_bonsai13Vsf 473 lect_13_bonsai13
Vsf 473 lect_13_bonsai13
 
Vsf 473 lect_13_bonsai12
Vsf 473 lect_13_bonsai12Vsf 473 lect_13_bonsai12
Vsf 473 lect_13_bonsai12
 
Vsf 473 lect_13_bonsai11
Vsf 473 lect_13_bonsai11Vsf 473 lect_13_bonsai11
Vsf 473 lect_13_bonsai11
 
Vsf 473 lect_13_bonsai10
Vsf 473 lect_13_bonsai10Vsf 473 lect_13_bonsai10
Vsf 473 lect_13_bonsai10
 

Bien doi khi hau20

  • 1. Trường Đại Học Nông Lâm Nhóm I thực hiện Biến Đổi Khí Hậu Trang 19/58 Một số sinh vật biển có khả năng tạo ra methyl chloride (hợp chất bền); tuy nhiên, nó chỉ đóng góp một phần nhỏ vào tổng lượng chlorine ở tầng bình lưu Con người thải các chất khí CFC (Chlorofluorocarbon) và các chất ODS (Ozone depleting substances) khác vào khí quyển. CFCs được sử dụng làm chất sinh hàn, chất tạo bọt, dung môi, bình cứu hoả, bình xịt, nhựa xốp, chất làm sạch kim loại.. Các chất ODS khác bao gồm: methyl bromide (làm thuốc trừ sâu), halons (trong các bình chữa cháy), methyl chloroform (dùng làm dung môi trong nhiều ngành công nghệ)... Mặc dầu CFC nặng hơn không khí, nhưng nó có thể lên đến tầng bình lưu bằng một quá trình kéo dài từ 2 - 5 năm. Người ta đo nồng độ CFC ở tầng bình lưu bởi các khinh khí cầu, phi cơ và các vệ tinh. Khi CFCs đến được tầng bình lưu, dưới tác dụng của tia cực tím nó bị phân hủy tạo ra Chlor nguyên tử, và Chlor nguyên tử có tác dụng như một chất xúc tác để phân hủy Ozon. Một nguyên tử Chlor có thể phá hủy 100.000 phân tử ozon. Methyl bromide khi lên đến tầng bình lưu sẽ bị tia cực tím phân hủy để cho ra brom nguyên tử, một nguyên tử brom có khả năng phá hủy các phân tử ozone gấp 40- 50 lần một nguyên tử chlor. Nguyên nhân chính của giảm sút ôzôn ở Nam Cực và các nơi khác là sự hiện diện của các khí gốc có chứa clo (trước nhất là các CFC và các hợp chất clo với các bon liên quan) bị phân giải khi có tia cực tím tạo thành các nguyên tử clo trở thành chất xúc tác phân hủy ôzôn. Sự giảm sút ôzôn do clo là chất xúc tác có thể xảy ra ở trạng thái khí nhưng sẽ tăng đột ngột khi có sự hiện diện của các đám mây tầng bình lưu trên địa cực. Các quá trình quang hóa tham gia tuy phức tạp nhưng đã được tìm hiểu tốt. Quan sát chủ yếu là thông thường phần lớn các clo trong tầng bình lưu ở trong các "hợp chất chứa" bền, chủ yếu là các hydro clorua (HCl) và clo nitrat (ClONO2). Mặc dù vậy trong mùa Đông và Xuân Nam Cực các phản ứng trên bề mặt của các phần tử mây chuyển hóa các hợp chất chứa này trở lại thành các gốc tự do có hoạt tính cao, Cl và ClO. Các đám mây cũng có thể lấy đi NO2 từ khí quyển bằng cách biến đổi chúng thành axít nitric, ngăn không cho ClO vừa được tạo thành có thể bị biến đổi trở lại ClONO2. Ánh sáng cực tím gia tăng trong mùa xuân tạo cho các hợp chất clo phản ứng hủy diệt trên 17% ôzôn trong khi các hợp chất brôm làm giảm sút thêm 33%. Vai trò của ánh sáng mặt trời trong giảm sút ôzôn chính là lý do tại sao giảm sút ôzôn ở Nam Cực lớn nhất vào mùa xuân. Trong mùa đông, mặc dù có nhiều mây nhất, không có ánh sáng trên địa cực để thúc đẩy các phản ứng hóa học. Phần lớn các ôzôn bị phá hủy ở phía dưới của tầng bình lưu đối ngược với việc giảm sút ôzôn ít hơn rất nhiều thông qua các phản ứng thể khí đồng nhất xảy ra trước hết là ở phía trên của tầng bình lưu. Nhiệt độ sưởi ấm vào cuối xuân phá vỡ các gió xoáy vào trung