ICAFIS - Presentation fisheries co management in viet nam
Mô hình nuôi trồng thủy sản thích ứng biến đổi khí hậu: kết quả và bài học kinh nghiệm tại Hoằng Châu, Hoằng Hóa, Thanh Hóa
1. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
MÔ HÌNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI
KHÍ HẬU: KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TẠI HOẰNG CHÂU,
HOẰNG HÓA, THANH HÓA
Tưởng Phi Lai, Đinh Xuân Lập, Lê Thị Phương Dung
Trung tâm Hợp tác Quốc tế Nuôi trồng và Khai thác thủy sản bền vững
(ICAFIS)
TÓM TẮT
Thanh Hóa là một tỉnh thuộc Bắc miền Trung của Việt Nam, nơi chịu nhiều
ảnh hưởng của biến đối khí hậu, hàng năm gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng cho
người dân. Phổ biến nhất là các ảnh hưởng của lũ lụt, nắng nóng kéo dài, rét đậm,
rét hại và khô hạn….nông nghiệp là lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nhất. Qua khảo sát
của nhóm nghiên cứu tại Cồn Trường, xã Hoằng Châu, Hoằng Hóa, Thanh Hóa
ước tính thiệt hại do biến đổi thời tiết gây ra đã làm giảm 75-80% sản lượng thu
hoạch trong nuôi thủy sản. Bằng việc triển khai áp dụng thử nghiệm “mô hình nuôi
thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu” trong khuôn khổ Dự án “Xây dựng mô
hình nuôi trồng thuỷ sản thích ứng với biến đổi khí hậu, và sử dụng hợp lý hệ sinh
thái rừng ngập mặn hướng tới phát triển bền vững nuôi trồng thuỷ sản tại xã Hoằng
Châu, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá” do Hội nghề cá tỉnh Thanh Hóa triển
khai từ tháng 7 năm 2010 đến tháng 7 năm 2012 do Chương trình dự án nhỏ-Quỹ
Môi trường Toàn cầu tài trợ. Mô hình được thực hiện dựa trên các nghiên cứu về
thời tiết khí hậu tại địa phương, đặc điểm sinh học của đối tượng nuôi, tri thức bản
địa qua đó lồng ghép kiến thức khoa học để đưa ra các giải pháp thích ứng. Kết quả
bước đầu cho thấy, mô hình xen ghép và lách vụ chứng minh làm tăng khả năng
thích ứng với biến đổi khí hậu và hiệu quả sản xuất: cải thiện được tỷ lệ sống, tăng
kích cỡ sản phẩm thu hoạch, tăng năng suất, sản lượng và lợi nhuận mặc dù cũng
làm tăng chi phí mô hình nuôi.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, Mô hình, Nuôi trồng Thủy sản, thích ứng.
1. GIỚI THIỆU
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi
khí hậu, đặc biệt là khu vực vùng biển từ Thanh Hoá-Thừa Thiên-Huế. Trong số 28
tỉnh thành ven biển, thì Thanh Hoá là một trong những địa phương có tần xuất bão
thuộc hàng lớn nhất cả nước. Theo thống kê, vùng biển Thanh Hoá là vùng có số
2. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
cơn bão đổ bộ và ảnh hưởng nhiều nhất, với tần số trung bình năm là 1.0 – 1.5 cơn.
Đây cũng là vùng chịu ảnh hưởng của bão sớm hơn các vùng khác với thời kỳ
nhiều bão nhất là 3 tháng VI, VII, VIII; lượng mưa lớn nhất trong 24 giờ đã ghi
được là trên 470 mm. Cường độ bão cao nhất đã ghi nhận được là cấp 15-cấp cao
nhất ghi nhận được trên cả nước.
Nuôi tôm là ngành kinh tế có ý nghĩa quan trọng không chỉ về tạo kim ngạch xuất
khẩu lớn ở Thanh Hoá, mà còn có ý nghĩa quan trọng về tạo việc làm, tăng thu
nhập và gắn với an ninh quốc phòng vùng ven biển. Ngành nuôi tôm Thanh Hoá,
do đặc trưng là hệ thống nuôi mở, đối tượng canh tác là sinh học, nhạy cảm với
thời tiết, ao nuôi tiếp xúc trực tiếp với không khí, ánh sáng mặt trời, hạ tầng trại
nuôi và vùng nuôi manh mún v.v.. nên là một trong những ngành chịu ảnh hưởng
nặng nhất của biến đổi khí hậu.
Với diện tích năm 2013 khoảng 4,100 ha và hơn 5,000 hộ nông dân tham gia nuôi
tôm, Thanh Hoá là tỉnh có diện tích nuôi tôm lớn thứ hai miền Bắc sau Quảng
Ninh, do tỉnh có đường bờ biển dài (102km và vùng lãnh hải rộng 17,000km2), và
dân số ven biển chiếm khoảng 25% dân số toàn tỉnh. Tuy nhiên, năng suất nuôi
tôm của Thanh Hoá lại thuộc hàng thấp nhất miền Bắc, với khoảng 0.63
tấn/ha/năm, thấp hơn Nghệ An 2.97 tấn/ha/năm và Nam Định là 1.07 tấn/ha/năm.
Một trong những nguyên nhân quan trọng là phần lớn diện tích nuôi tôm của tỉnh
là quảng canh và quảng canh cải tiến, năng lực kỹ thuật nuôi của nông dân hạn chế;
mức đầu tư cho nuôi thấp và chưa có nhiều sáng kiến, mô hình thích ứng hiệu quả
với những thay đổi của thời tiết, khí hậu và môi trường. Theo báo cáo tổng kết của
Hội nghề cá Thanh Hoá năm 2013, các yếu tố thời tiết, khí hậu ảnh hưởng trực tiếp
đến nghề nuôi tôm Thanh Hoá đó là 1: Bão 2) Rét đậm, rét hại; 3) Nắng nóng cực
đoan và 4) Lụt tiểu mãn và 5) Nước dâng.
Chính vì vậy, việc tìm ra một mô hình nuôi thích ứng được với những thay đổi
của thời tiết, khí hậu và môi trường được xem là việc làm hết sức cần thiết giúp
ngành nuôi tôm Thanh Hoá nâng cao hiệu quả phát triển. Xuất phát từ thực tế đó,
trong khuôn khổ dự án “Xây dựng mô hình nuôi trồng thuỷ sản thích ứng với biến
đổi khí hậu, và sử dụng hợp lý hệ sinh thái rừng ngập mặn hướng tới phát triển bền
3. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
vững nuôi trồng thuỷ sản tại xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá”
do Hội nghề cá tỉnh Thanh Hóa triển khai từ tháng 7 năm 2010 đến tháng 7 năm
2012 do Chương trình dự án nhỏ-Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) tài trợ, một số
mô hình nuôi tôm mang tính thích ứng đã được thử nghiệm.
Báo cáo này được xây dựng, dựa trên việc tổng kết những kết quả nghiên cứu
thử nghiệm của dự án trên. Trong khuôn khổ dự án, các giải pháp thích ứng dựa
trên các thông tin dữ liệu khoa học, và kinh nghiệm thích ứng của nhân dân địa
phương. Sau 2 năm triển khai, bước đầu cho thấy, việc nuôi tôm xen nghép với các
đối tượng khác và áp dụng lách vụ, cho kết quả tốt hơn cả về tỷ lệ sống, năng suất,
doanh thu và lợi nhuận của các hộ nuôi tôm vùng dự án, so với các hộ đối chứng.
2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG DỰ ÁN
Theo Viện Kinh tế và Quy hoạch Thuỷ sản, 2007. Vùng duyên hải Bắc Trung Bộ
do đặc thù địa hình và điều kiện tự nhiên, là vùng thường xuyên phải chịu tác động
bất lợi của thời tiết và khí hậu, như hạn hán, bão, lũ lụt, gió Tây Nam khô nóng,
nước biển dâng, đặc biệt là gia tăng nhiệt độ và thay đổi lượng mưa… gây ảnh
hưởng đến NTTS trong vùng.
Thanh Hoá nói chung và khu vực Cồn Trường (xã Hoằng Châu) nói riêng nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ngoài ra còn chịu gió Lào, khô nóng vào
mùa hạ, thường gây bất lợi cho sản xuất và đời sống. Mưa, bão tập trung chủ yếu
vào từ tháng 4 đến tháng 10 với lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.500
mm. Các hiện tượng gió lốc, mưa đá có xảy ra vào tháng 4. Nhiệt độ trung bình
hàng năm từ 220
C đến 24,30
C. Hàng năm có 9 tháng nhiệt độ trung bình trên 20 0
C,
có 3 tháng nhiệt độ dưới 20 0
C. Tháng lạnh nhất là tháng 1 và tháng 2, sương muối
thường xảy ra vào tháng 1.
Bảng 1: Thời gian xuất hiện các yếu tố thời tiết bất thường
Tháng
Yếu tố thời tiết
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Mưa bão
Rét đậm, rét hại
4. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
Gió lốc, mưa đá
Lụt tiểu mãn
Nắng gắt
Nguồn: Kết quả tham vấn cộng đồng
Cồn Trường, xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa nằm ở hạ lưu
sông Mã phần tiếp giáp với biển Đông và là nơi có đặc điểm về thủy văn, khí hậu,
địa hình phức tạp. Đây là nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp các loại hình thiên tai (Bão,
áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán, xói lở bờ do thay đổi dòng chảy, triều cường, rét
đậm – rét hại kéo dài…) với tần suất và cường độ cao hơn các địa phương khác ở
khu vực Bắc Trung bộ. Ngoài ra Cồn Trường cũng nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới gió mùa, và ảnh hưởng của chịu gió Lào, khô nóng vào mùa hạ, thường gây bất
lợi cho sản xuất và đời sống.
* Tăng giảm nhiệt độ
Trong các tháng mùa Đông (tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau)
thường xuất hiện nhiều đợt gió mùa Đông Bắc (3-4 đợt/tháng).Tốc độ gió lên đến
18-20 m/s; Rét đậm rét hại kéo dài trên 20 ngày (nhiệt độ tới thấp dưới 10o
C, có
ngày xuống 5o
C); Mỗi đợt kéo dài 5-10 ngày (như các năm 1999, 2003, 2006,
2008). Năm 2011, thống kê có 40 đợt gió mùa Đông Bắc, nhiệt độ xuống tới thấp 8
– 9 o
C kéo dài 30 ngày (từ 4/1 đến 2/2/2011). Theo đánh giá của người dân ở khu
vực này đây là đợt rét đậm rét hại kéo dài nhất từ năm 1980 trở lại đây. Đầu năm
2012, liên tục xảy ra rét đậm rét hại kéo dài, nhiệt độ xuống thấp dưới 10o
C gây
thiệt hại không nhỏ cho người nuôi trồng thủy sản.
Nhiệt độ trung bình các tháng trong năm của Thanh Hóa biến động khá phức
tạp; các tháng từ 1 đến tháng 3 nhiệt độ trung bình dao động từ 160
C đến 200
C;
Các tháng từ 5 đến tháng 8 nhiệt động trung bình từ 280
C đến 330
C; nhiệt động
trung bình các tháng cuối năm tháng 11, tháng 12 nhiệt độ tiếp tục xuống dưới mức
200
C. (Hình 1) Số đợt nắng nóng kéo dài trong năm nhiệt độ thường trên 380
C, có
thời điểm lên tới 39 0
C (tháng 5 năm 2010). Nhiệt độ nắng nóng theo các năm có
xu hướng tăng dần, cộng với gió Lào trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đây sẽ là một
điều kiện thời tiết rất bất lợi đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản.
Hình 1: Nhiệt độ trung bình tháng của Thanh Hóa
5. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn Trung ương
* Độ mặn và lượng mưa
Một trong những yếu tố quyết định đến sự thành bại của nghề nuôi thủy sản
mặn lợ đó là“độ mặn”. Nếu độ mặn của môi trường nuôi nằm trong ngưỡng thích
hợp là điều kiện rất tốt cho thủy sản nuôi sinh trưởng và phát triển. Khi xảy ra mưa
lớn hoặc lũ về, độ mặn trong các ao nuôi giảm xuống đột ngột làm cho tôm cá
trong ao nuôi bị sốc dẫn đến chậm lớn hoặc chết.
Tại Thanh Hóa lượng mưa bình quân cả mùa đông chỉ đạt 15% tổng lượng
mưa cả năm. Lượng mưa đo được tại trạm khí tượng thủy văn Thanh Hóa là 1.745
mm/năm (lượng mưa bình quân trong khu vực Biển Đông là 1.700 – 1.800
mm/năm). Tháng 1 và tháng 12 có lượng mưa thấp nhất; Lượng mưa nhiều nhất
trong năm thường tập trung vào thời điểm tháng 5, tháng 6 dương lịch. Do mưa kết
hợp với lũ đổ về nhiều đã xâm nhập vào các ao nuôi làm độ mặn giảm xuống
nhanh chóng có thể đến 0 ppt. Vào thời điểm giao mùa (tháng 11 và tháng 4) thời
tiết diễn biến rất phức tạp, thường xảy ra tố lốc, mưa đá. Nhưng vào tháng 11 đến
tháng 2 năm sau thường xảy ra hạn hán kéo dài làm cho độ mặn lên tới 33‰, có
tác động lớn đến sinh trưởng và phát triển của thủy sản nuôi.
Hình 2: Lượng mưa trung bình tháng ở Thanh Hóa
15
20
25
30
35
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NiệtđộoC
Tháng trong năm
6. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn Trung ương
Lượng mưa trung bình của Thanh Hóa ở mức trung bình nhưng lại tập trung nhiều
vào các tháng 5, tháng 6, tháng 7 và tháng 8 dao động trong khoảng 130 mm đến
200 mm. Với địa hình ngắn và dốc khi có mưa, dễ phát sinh lụt bất ngờ làm cho
người dân ứng phó không kịp và nó gây thiệt hại lớn. Điển hình năm 2008, lượng
mưa từ 31 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6 lến đến 138,6 mm; năm 2009 từ 13 đến 23
tháng năm lượng mưa lên đến 169,5 mm, 02 năm này sản lượng thu hoạch tôm sú
tại cồn Trưng chỉ đạt khoảng 20%.
* Tác động của biến đổi khí hậu đến hoạt động nuôi thủy sản
Hoạt động nuôi trồng thủy sản chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường bên
ngoài. Bất kể sự biến động (dao động) của thời tiết đều gây thiệt hại trực tiếp hoặc
gián tiếp cho đối tượng nuôi. Do đặc điểm sinh học các đối tượngsản xuất của nghề
nuôi trồng thủy sản có khả năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường nuôi nói
riêng và điều kiện khí hậu nói chung có những hạn chế nhất định. Chính vì vậy,
người nuôi trồng thủy sản đã áp dụng mọi biện pháp kỹ thuật nhằm duy trì điều
kiện môi trường trong khoảng thích hợp để thủy sản nuôi sinh trưởng và phát triển
tốt.
Tuy nhiên, thời tiết thay đổi bất thường trong những năm vừa qua đã gây
thiệt hại nặng nề cho người nuôi trồng thủy sản trên toàn thế giới, trong đó có Việt
Nam. Thiệt hại do thời tiết nắng nóng kéo dài đã gây bùng phát bệnh dịch trên tôm
He chân trắng và tôm Sú nuôi ở các tỉnh ven biển Việt Nam. Ước tính mỗi hộ nuôi
tôm đó thiệt hại khoảng 100 đến 300 triệu đồng, cá biệt có hộ thiệt hại trên 1 tỷ
đồng.
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Lượngmưa(mm)
Tháng
7. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
Tại Hoằng Châu, Hoằng Hòa ngoài năng nóng kéo dài, hoạt động nuôi thủy
sản còn chịu ảnh hưởng của rét đậm, rét hại và lụt tiểu mãn bất thường.
- Rét đậm, rét hại kéo dài dẫn đến cho đối tượng nuôi sinh trưởng chậm,
thậm chí còn gây “chết rét” mặc dù người nuôi đã áp dụng một số biện pháp kỹ
thuật nhằm giảm thiểu tác hại.
- Lụt tiểu mãn kéo về làm ngọt hóa môi trường nước ao nuôi, có thể gây
tràn bờ hoặc phá bờ bao gây thiệt hại cho người nuôi trồng thủy sản. Đã có trường
hợp người nuôi trồng thủy sản ở Cồn Trường phải mua muối hoặc nước muối ót đổ
xuống ao nuôi nhằm duy trì độ mặn của nước với chi phí khá cao. Nếu mưa lũ diễn
ra liên tục, việc áp dụng biện pháp trên sẽ không có hiệu quả do làm tăng chi phí
sản xuất.
Hình 3: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến nuôi trồng thủy sản tại
Hoằng Châu
Nguồn: Khảo sát thực tế tại địa phương
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 7 năm 2010 đến tháng 7 năm 2012 tại
Cồn Trường, xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, đơn vị thực hiện
Hội nghề cá tỉnh Thanh Hóa (VINAFIS Thanh Hóa) và Nhóm nghiên cứu của Dự
án. Với các phương pháp sau:
1) Phương pháp kế thừa: Nhóm nghiên cứu đã kế thừa các tài liệu nghiên
cứu, các báo cáo khoa học và báo cáo kỹ thuật có sẵn về khí tượng, thuỷ
văn (nhiệt độ, độ ẩm…), hải văn (dòng chảy thuỷ triều, độ mặn…) v.v..
tại Trung tâm Khí tượng thuỷ văn Thanh Hoá; các thông tin về thuỷ sản
tại Sở NN và PTNT Thanh Hoá; các tài liệu kỹ thuật về nuôi thuỷ sản tại
0
20
40
60
80
100
2006 2007 2008 2009 2010
Tỷlệthiệthại(%)
Năm
8. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
Trung tâm Khuyến Nông khuyến Ngư Thanh Hoá. Ngoài ra, các báo cáo
khoa học liên quan cũng được thu thập tại Viện Nghiên cứu NTTS 1;
Viện nghiên cứu Hải sản; Sở KHCN Thanh Hoá.
2) Phương pháp xây dựng mô hình: Trên cơ sở phân tích các thông tin, dữ
liệu có sẵn về khoa học và kết hợp với kiến thức bản địa của người dân
trong quá trình sản xuất; Nhóm nghiên cứu cùng với BQL Dự án GEF
Thanh Hoá (nòng cốt là VINAFIS Thanh Hoá) đã đưa ra các giải pháp
thích ứng; xây dựng thành tài liệu hướng dẫn và thí điểm đối với những
ao nuôi tham gia mô hình của dự án GEF Thanh Hoá. Nhóm nghiên cứu
đã xây dựng Bộ chỉ tiêu Theo dõi và Giám sát mô hình, cho những hộ
tham gia mô hình (13 hộ) và các hộ đối chứng của dự án (130 hộ) tại
cùng thời điểm và địa điểm (cồn Trường, xã Hoằng Châu, huyện Hoằng
Hoá, Thanh Hoá).
3) Phương pháp nghiên cứu có sự tham gia (participatory research):
Nghiên cứu huy động sự tham gia của người dân nuôi thuỷ sản, từ khâu
thiết kế nghiên cứu, triển khai nghiên cứu (mô hình), theo dõi và giám
sát, đánh giá kết quả mô hình. Đồng thời, huy động sự tham gia của cán
bộ Nông nghiệp-thuỷ sản xã; cán bộ Phòng Nông nghiệp huyện Hoằng
Hoá; cán bộ Trung tâm Khuyến Nông khuyến Ngư Thanh Hoá; và cán bộ
Chi cục NTTS; cán bộ Sở NN và PTNT Thanh Hoá. Bên cạnh đó, dự án
còn có sự tham gia của các chuyên gia độc lập của GEF từ Hà Nội tư vấn,
hướng dẫn kỹ thuật cho mô hình từ đầu cho đến khi kết thúc dự án.
4) Phương pháp hội thảo, tham vấn: Trong quá trình nghiên cứu, ít nhất
03 hội thảo tham vấn đã được thực hiện gồm 1) 01 Hội thảo khởi động dự
án, và tham vấn các bên liên quan về mô hình lý thuyết/mô hình do Dự
án thiết kế 2) Hội thảo đánh giá giữa kỳ tham vấn các bên liên quan về
tiến độ giữa kỳ của dự án và 3) Hội thảo kế thúc và chia sẻ bài học kinh
nghiệm dự án. Ngoài ra, dự án còn tổ chức nhiều cuộc họp tham vấn cấp
cộng đồng. Trong quá trình nghiên cứu, Nhóm nghiên cứu còn tổ chức
khảo sát tham vấn bổ sung 66 người. Tổng số người tham gia các cuộc
hội thảo tham vấn của dự án và của nghiên cứu này là 196 người.
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
a. Mô hình thích ứng
* Mô hình lách vụ
Trong Nuôi trồng Thủy sản, yếu tố con nước ảnh hưởng trực tiếp đến vụ nuôi.
Trong đó, các yếu tố độ mặn và nhiệt độ đóng vai trò quan trọng. Với đặc điểm
9. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
thời tiết tại Cồn Trường là thường xuyên xảy ra lụt tiểu mãn. Điều này khiến độ
mặn và nhiệt độ trong nước giảm. Lụt tiểu mãn còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến vụ nuôi. Do đó, phương thức nuôi lách vụ là một trong những mô hình được
xem là phù hợp để điều chỉnh mùa vụ nuôi.
- Nuôi lách vụ là phương thức nuôi khôn khéo điều chỉnh mùa vụ (lựa chọn
thời điểm thả giống, chính vụ và thu hoạch) cho phù hợp để tránh đi những bất lợi
của thời tiết hay môi trường hay một yếu tố bất lợi nào khác.
- Đối tượng nuôi Tôm sú, Cua xanh, cá Đối. Trong nghiên cứu này, tôm
giống (đối tượng nuôi chính và mẫn cảm nhất với rét và nắng nóng) trước khi thả
nuôi được ương trong các bể của trại giống trước khi thả xuống ao nuôi nhằm tăng
sức chống chịu và khả năng thích ứng với môi trường ngoài, giảm tỉ lệ chết…
- Dịch chuyển mùa vụ nuôi tránh được lụt tiểu mãn và nắng nóng kéo dài
vào mùa Hè, hạn chế ảnh hưởng của rét đậm - rét hại vào cuối Đông, đầu Xuân.
Sau khi chuẩn bị và thực hiện quá trình ương và chọn tôm giống (Tôm sú),
người dân bắt đầu quá trình chuẩn bị cho nuôi thương phẩm.
Hình 4: Sơ đồ mô hình nuôi lách vụ
* Mô hình nuôi xen ghép:
- Nuôi xen ghép là hình thức nuôi nhiều đối tượng trong một ao nuôi để tận
dụng tháp năng lượng trong ao nuôi, sử dụng hiệu quả hơn nguồn thức ăn có sẵn
trong ao nuôi ở các tầng nước khác nhau và ở nền đáy ao. Do các loài thủy sản
khác nhau có tập tính sống khác nhau, sống các tầng nước khác nhau, và ăn các
10. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
loại thức ăn khác nhau nên việc nuôi ghép có khả năng sử dụng hiệu quả năng sản
xuất sinh học của ao nuôi và như vậy sẽ làm tăng sinh khối sản phẩm nuôi trên một
đơn vị diện tích của ao nuôi.
- Đối tượng thủy sản xen ghép ở đây là: tôm sú, cua xanh, tôm rảo, cá đối,
rong câu.
-Nuôi xen ghép giúp thích ứng tốt hơn với thời tiết và môi trường vì đa
dạng loài nuôi, đồng nghĩa với an toàn hơn khi các yếu tố môi trường thay đổi,
mỗi loài có một ngưỡng khác nhau nên hạn chế nguy cơ bị mất trắng (ví dụ
nắng quá, mưa quá có thể tôm sú bị chết nhưng cá đối, tôm rảo khả năng chịu tốt
hơn; nhưng nếu thuận lợi thì lợi nhuận từ tôm sú lại rất cao).
- Nuôi xen ghép còn giúp hạn chế bệnh dịch thủy sản thông qua quan hệ
địch hại - con mồi; Nuôi xen ghép giúp đa dạng hóa nguồn thu và tăng lợi nhuận
cho người nông dân.
Kỹ thuật nuôi xen ghép:
Điều quan trọng khi thực hiện nuôi xen ghép chính là đối tượng nuôi. Việc
lựa chọn đối tượng nuôi phù hợp ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm và
kinh tế. Do đó, người nuôi cần nắm rõ đặc tính sinh học của mỗi loài khi thực hiện
xen ghép để có phương pháp cải tạo ao và nuôi phù hợp. Nghiên cứu được thực
hiện với ao nuôi được nuôi xen ghép giữa cá Đối, tôm Rảo, tôm Sú, Cua xanh,
Rong câu
Mật độ thả nuôi: Việc xác định mật độ thả nuôi và cơ cấu các loài nuôi ghép
là yếu tố đặc biệt quan trọng trong loại hình nuôi xen ghép. Tuỳ vào khả năng đầu
tư thêm thức ăn và thức ăn tự nhiên sẵn có trong ao có thể các loài với mật độ nuôi
như sau:
Tôm Sú: 3 con/m2
; cua Xanh: 0,2- 0,5 con/m2
; cá Đối: 0,5 con/m2
; tôm Rảo:
1 con/m2
.
Hình 5: Sơ đồ mô hình nuôi xen ghép
11. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
Trong mô hình xen ghép , chúng ta nuôi với năng suất thấp, giảm thiểu sự tác
động của các yếu tố bên ngoài, tận dụng triệt để nguồn thức ăn sẵn có ngoài tự
nhiên. Các loài thuỷ sản nuôi xen canh có tính ăn, môi trường sống về cơ bản khác
nhau, không cạnh tranh nhau. Vì vậy khi nguồn lợi thức ăn tự nhiên suy giảm,
không đủ cho nhu cầu của các đối tượng nuôi thì phải cung cấp thêm thức ăn bổ
sung, đặc biệt là bổ sung thức ăn cho đối tượng nuôi chính.
Loại thức ăn sử dụng: kết hợp thức ăn tự nhiên và thức ăn công nghiệp (cho
tôm); Cá tạp (cho Cua xanh); Cá đối sử dụng sinh vật phù du, mùn bã hữu cơ, và
thức ăn thừa của tôm, cua… Rong câu sử dụng muối dinh dưỡng trong ao nuôi
được phân hủy từ các hợp chất hữu cơ (thức ăn thừa, xác tôm cá chết, chất thải tôm
cá…) nhờ đó làm sạch môi trường ao nuôi.
Đồng thời, thường xuyên theo dõi và quản lý điều kiện môi trường trong ao
nuôi. Chú ý đến độ mặn, nhiệt độ, pH, chất thải và nồng độ Oxy trong ao.
Quản lý dịch bệnh: do đặc thù của mô hình nuôi xen ghép là nuôi các loài
khác nhau, đặc điểm sinh học khác nhau, do đó, các loài nuôi rất dễ bị nhiễm bệnh.
Do đó, công tác quản lý dịch bệnh rất quan trong. Cần kiểm tra sức khỏe hằng
ngày, đặc biệt là đối tượng nuôi chính là tôm, vốn là động vật thủy sản rất nhạy
cảm.
b. Hiệu quả kinh tế
Để đánh giá hiệu quả dự án chúng tôi đã so sánh hiệu quả kinh tế củamô
hình dự án với các mô hình đối chứng theo phương pháp nuôi thông thường của
người dân địa phương:
12. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
-Các mô hình thông thường của người dần Hoằng Châu chủ yếu theo
phương thức quảng canh (hầu như chỉ thả giống và bảo vệ, không cho ăn) của các
hộ dân phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên trong khi các yếu tố thời tiết, khí hậu càng
ngày càng diễn biến bất lợi. Trong bối cảnh đó, dự án đã thử nghiệm việc cho ăn
thêm thức ăn bổ sung là thức ăn công nghiệp và thức ăn tươi sống có kiểm soát để
nâng cao khả năng chủ động của hệ thống nuôi, làm tăng khả năng chống chịu của
vật nuôi đối với các diễn biến bất lợi của thời tiết, môi trường. Kết quả cho thấy
năng suất, tăng trưởng và hiệu quả sản xuất của các ao này cao hơn đáng kể so với
các ao nuôi không hoặc rất ít cho ăn thức ăn bổ sung.
- Cả hai mô hình nuôi lách vụ và xem ghép đã giúp người dân NTTS tại Cồn
Trường, Hoằng Châu thích ứng được một số yếu tố thời tiết tại địa phương như:
chống chịu được rét đậm, rét hại, tránh được lụt tiểu mãn và thời tiết nắng nóng
kéo dài. Mang lại hiệu quả kinh tế bước đầu cho người dân (giảm dịch bệnh, tăng
năng suất, giảm tỷ lệ chết, giá bán cao hơn…).
Bảng2: So sánh hiệu quả mô hình dự án vơi mô hình đối chứng
TT Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Mô hình Nuôi
lách vụ
Mô
hình
Nuôi
xen
ghép
Hộ ngoài Dự án
Lần 1
2011
Lần 2
2012
2011 2012
1 Quy mô thực hiện Ha 15 15,5 19,4 256,8 284,5
Số hộ tham gia Hộ 5 7 6 119 130
Tỉ lệ sống
+ Tôm sú % 60 60 50 35 35
+ Cua xanh % 50 50 50 40 40
Cỡ thu hoạch
+ Tôm sú Kg/con 0,025 0,025 0,025 0,025 0,025
+ Cua xanh kg/con ≥ 0,3 ≥ 0,3 ≥ 0,3 ≥ 0,3 ≥ 0,3
13. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
Năng suất bình quân/ha
+ Tôm sú Tấn/ha 0,44 0,24 0,3 0,13 0,13
+ Cua xanh Tấn/ha 0,15 0,19 0,17 0,26 0,11
Chi phí sản
xuất/ha
Triệu
đồng
78,2 55,8 64,43 59,16 43,5
Doanh thu bình
quân /ha
Triệu
đồng
149,27 89,59 103,01 85,72 89,59
Lợi nhuận bình
quân/ ha
Triệu
đồng
41,07 33,79 38,56 26,5 15,36
Nguồn:Kết quả theo dõi dự án giai đoạn 2010-2012.
c. Một số bài học kinh nghiệm
-Một trong những bước đầu tạo nên thành công của các mô hình trong dự án
đó là kết hợp tri thức bản địa và kiến thức khoa học trong các mô hình nuôi trồng
thủy sản của dự án nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu. Các yếu tố đầu vào đóng
vai trò hết sức quan trọng trong việc sắp xếp lịch vụ mùa: lựa chọn đối tượng nuôi
phù hợp, hệ thống ao nuôi.
- Để thích ứng tại chỗ, đòi hỏi người tham gia mô hình phải có tư duy, kỹ
năng ứng phó toàn diện.
- Các yếu tố thời tiết liên tục thay đổi, trong khi người dân nuôi quy mô nhỏ,
không thể đầu tư nhà kính giữ ấm hay que nâng nhiệt cho ao…việc đưa ra các bằng
chứng về thiệt hại tại địa phương do xuống giống vào thời điểm rét đậm, rét hại và
đưa ra phương án nuôi ương trong trại giống 01 tháng đến khi con giống có kích cỡ
lớn(đảm bảo độ cứng cáp và sức chống chịu) nhanh chóng nhận được sự hưởng
ứng của các hộ dân. Sau 01 vụ thử nghiệm mô hình, đem lại hiệu quả thiết thực
cho người dân mô hình đã lan tỏa sang các hộ khác trong cộng đồng.
-Việc chọn hộ tham gia trong các mô hình nuôi của dự án có ý nghĩa rất quan
trọng: các hộ tham gia trong các mô hình dự án Thích ứng BĐKH dựa vào cộng
đồng (CBA) tại Cồn Trường là các hộ có tiềm lực kinh tế, có tinh thần trách nhiệm
14. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
và có uy tín trong cộng đồng. Bên cạnh đó, dự án còn thúc đẩy trong thành lập các
tổ nuôi thủy sản giúp tạo nên không khí thi đua cùng phát triển trong dự án.
5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Qua 02 năm triển khai (2010-2012) các mô hình nuôi thủy sản thích ứng biến đổi
khí hậu ở Hoằng Châu, Hoằng Hoá, Thanh Hoá, có thể đưa ra kết luận sơ bộ như
sau:
-Kết luận:
+ Cả hai mô hình nuôi lách vụ và xen ghép đã giúp người dân nuôi trồng thủy sản
tại Cồn Trường, Hoằng Châu thích ứng được một số yếu tố thời tiết tại địa phương
như: chống chịu được rét đậm, rét hại, tránh được lụt tiểu mãn và thời tiết nắng
nóng kéo dài. Mang lại hiệu quả kinh tế bước đầu cho người dân (giảm dịch bệnh,
tăng năng suất, giảm tỷ lệ chết, giá bán cao hơn…).
+Mô hình xen ghép giữa tôm Sú và các đối tượng thuỷ sản khác như cá Đối, tôm
Rảo, cua Xanh/bùn, Rong câu cho hiệu quả cao hơn so với đối chứng ở các chỉ tiêu
như tỷ lệ sống, năng suất, và sản lượng. Tuy nhiên, chi phí sản xuất của các mô
hình xen ghép cao hơn so với mô hình đối chứng từ 8.2% đến 32.5% tương ứng
cho năm 2011 và 2012. Cuối cùng, lợi nhuận của mô hình xen ghép cao hơn so
với mô hình đối chứng từ 31.3% đến 60.2% tương ứng cho năm 2011 và 2012.
+Mô hình lách vụ để tránh rét đậm, rét hại, tránh được lụt tiểu mãn và thời tiết
nắng nóng kéo dài cho hiệu quả cao hơn so với đối chứng ở các chỉ tiêu như tỷ lệ
sống, năng suất, và sản lượng. Tuy nhiên, chi phí sản xuất của các mô hình lách vụ
cao hơn so với mô hình đối chứng từ 22.0% đến 24.3% tương ứng cho năm 2011
và 2012. Cuối cùng, lợi nhuận của mô hình lách vụ cao hơn so với mô hình đối
chứng từ 35.5% đến 54.5% tương ứng cho năm 2011 và 2012.
-Kiến nghị:
Mô hình chỉ mới được áp dụng với một thiểu số nhóm hộ tham gia dự án (13 hộ)
và chỉ với những hộ có tiềm lực về kinh tế khá trong cộng đồng, do đó, Nhóm
nghiên cứu kiến nghị với Hội nghề cá Thanh Hoá, Trung tâm Khuyến Nông
Khuyến ngư Thanh Hoá, Sở NN và PTNT Thanh Hoá và các ban ngành liên quan
cần được nhân rộng hơn cho người dân địa phương và các địa phương khác có điều
kiện thời tiết, khí hậu tương đồng.
15. International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability (ICAFIS) |
Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)
Email: infor@icafis.vn Website: http://icafis.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Hội nghề cá tỉnh Thanh Hóa, 2013. Tài liệu Kỹ thuật dự án “Xây dựng mô hình
nuôi trồng thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu và sử dụng hợp lý hệ sinh thái
rừng ngập mặn hướng tới phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản tại xã Hoằng
Châu, Hoằng Hóa, Thanh Hóa” (CBA/VN/SPA/09/08).
2) Dự án quản lý rủi ro thiên tai tỉnh Thanh Hóa, 2010.Báo cáo tình hình thiên tai
trên các lưu vực sông tỉnh Thanh Hóa năm 2010. Báo cáo kỹ thuật dự án.
3) Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, 2007. Tác động của Biến đối khí hậu đến
nuôi thủy sản và khai thác thủy sản, Hội thảo chuyên đề về Đa dạng sinh học và
Biến đổi khí hậu: Mối liên quan tới Đói nghèo và Phát triển bền vững Hà Nội,
Ngày 22-23 tháng 5, 2007.
4) Trung tâm Khí hậu Thủy văn tỉnh Thanh Hóa, 2013.Số liệu thông kê theo dõi
thời tiết, khí hậu, thủy văn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2010 đến năm 2012.
5) Tổ chức GIZ, 2011. Sổ tay hướng dẫn cho giáo viên THCS và THPT về Biến
đổi khí hậu. Tài liệu Dự án.
6) Viện Khoa học Khí tưởng Thủy văn và Môi trường, 2011. Tài liệu hướng dẫn
Đánh giá tác động của Biến đối khí hậu và xác định các giải pháp thích ứng.
Source: Tuong Phi Lai, Dinh Xuan Lap, Le Thi Phuong Dung, 2016, “climate
change adaptation model in aquaculutre , Case study in hoang chau, hoang hoa,
thanh hoa province” Vietnam Fishereries Development, Quality and Sustainability.
Pg 262 – 276, Vietnam Institute of Fisheries Economic and Planning, Ministry of
Agriculture and Rural development.