1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
-------------------------------
Bài giảng
NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
Tài liệu học tập dành cho sinh viên khoa Ngoại ngữ,
bậc đại học hệ chính quy
Biên soạn: Nguyễn Ngọc Chinh
(Lưu hành nội bộ)
Đà Nẵng, 2018
2. 2
Lời nói đầu
Tập bài giảng cho học phần “Ngôn ngữ học đối chiếu” là tập
bài giảng bao gồm 5 phần được giảng dạy bao gồm lý thuyết, thảo
luận và thực hành trong 30 tiết (2 tín chỉ), gồm:
- Dẫn nhập: 2 tiết;
- Chương 1: Vị trí của ngôn ngữ học đối chiếu trong các bộ
môn ngôn ngữ học hiện đại - 6 tiết;
- Chương 2: Nhiệm vụ của Ngôn ngữ học đối chiếu - 6 tiết;
- Chương 3: Mục đích của Ngôn ngữ học đối chiếu - 6 tiết;
- Chương 4: Thực hành phân tích đối chiếu - 10 tiết;
Mỗi bài, ngoài phần lý thuyết, còn có phần bài tập nhằm củng
cố kiến thức đã học.
Đây là tập bài giảng được tích lũy, bổ sung và điều chỉnh qua
quá trình lên lớp, giảng dạy cho sinh viên ngành biên, phiên dịch, …
bậc đại học các khóa hệ chính quy tại Đại học Đà Nẵng và tại Trường
Đại học Kiến trúc Đà Nẵng.
Trong quá trình biên tập chắc hẳn còn những thiếu sót và sẽ
được hiệu chỉnh trong những lần tiếp theo.
Người biên soạn
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chinh
3. 3
MỤC LỤC
Dẫn nhập 5
Chương 1: Vị trí của ngôn ngữ học đối chiếu trong các bộ
môn ngôn ngữ học hiện đại
18
1.1. So sánh 18
1.2. Những phương pháp cơ bản được áp dụng trong so sánh
ngôn ngữ
20
1.3. Phân biệt ngôn ngữ học so sánh - lịch sử, ngôn ngữ học so
sánh - loại hình, ngôn ngữ học so sánh - khu vực và ngôn ngữ
học so sánh - đối chiếu
21
1.4. Lịch sử hình thành bộ môn ngôn ngữ học đối chiếu 21
Chương 2: Nhiệm vụ của ngôn ngữ học đối chiếu 23
2.1. Những quan điểm khác nhau về nhiệm vụ của ngôn ngữ học
đối chiếu
23
2.2. Dựa vào phạm vi của ngôn ngữ học đối chiếu để xác định
nhiệm vụ cụ thể của ngôn ngữ học đối chiếu
24
Chương 3: Mục đích của ngôn ngữ học đối chiếu ngôn ngữ 36
3.1. Những mục đích xét ở phạm vi nghiên cứu ứng dụng lý
thuyết
36
3.2. Những mục đích xét ở phạm vi nghiên cứu ứng dụng thực
hành ngôn ngữ
37
4. 4
Chương 4: Thực hành phân tích đối chiếu ngôn ngữ 46
4.1. Nghiên cứu đối chiếu về ngữ âm 46
4.2. Nghiên cứu đối chiếu từ vựng- ngữ nghĩa 51
4.3. Một số thử nghiệm (Nghiên cứu về đối chiếu ngôn ngữ -
Một số bài báo về so sánh, đối chiếu ngôn ngữ đã đăng ở tạp chí,
hội thảo khoa học)
52
Tài liệu tham khảo 91
5. 5
DẪN NHẬP
Hệ thống hóa các kiến thức môn Dẫn luận ngôn ngữ, môn
Tiếng Việt có liên quan đến môn Ngôn ngữ học đối chiếu, trong đó
các khái niệm cơ bản là:
Ngôn ngữ là gì?;
Ngôn ngữ học là gì?;
Đồng đại, lịch đại là gì?;
Ngữ âm là gì?;
Ngữ pháp là gì?;
Từ vựng là gì?;
Ngữ dụng là gì?;
Âm vị là gì?;
Hình vị là gì?;
Từ, cụm từ là gì?;
Câu là gì?;
Các phương thức ngữ pháp bên ngoài và bên trong từ?;
Phân loại ngôn ngữ theo cội nguồn: các ngữ hệ, các dòng, các
ngành, các nhánh; Phân loại ngôn ngữ theo loại hình: các loại hình
ngôn ngữ và các đặc trưng cơ bản của chúng; Các đặc điểm loại hình
của tiếng Anh và tiếng Việt.
1. Ngôn ngữ là gì?
Ngôn ngữ là một hệ thống những đơn vị vật chất phục vụ cho
việc giao tiếp của con người và được phản ánh trong ý thức của tập
thể một cách độc lập với những tư tưởng, tình cảm và nguyện vọng cụ
thể của con người, cũng như trừu tượng hóa khỏi những tư tưởng, tình
cảm và nguyện vọng đó.
Như vậy, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp ở dạng khả năng
tiềm tàng. Còn lời nói là phương tiện giao tiếp ở dạng hiện thực hóa,
tức là dạng hoạt động, gắn với những nội dung cụ thể.
6. 6
2. Ngôn ngữ học là gì?
Ngôn ngữ học là một bộ môn khoa học nghiên cứu các ngôn
ngữ. Nhiệm vụ của ngôn ngữ học là:
- Phải miêu tả và làm lịch sử cho tất cả các ngôn ngữ, các ngữ
tộc.
- Phải tìm ra được những qui luật tác động thường xuyên và
phổ biến trong các ngôn ngữ, rút ra những qui luật khái quát có thể
giải thích tất cả những hiện tượng cá biệt.
3. Đồng đại là gì? Lịch đại là gì?
- Đồng đại là trục của những hiện tượng đồng thời, liên quan
đến những sự vật đang cùng tồn tại, loại trừ mọi sự can thiệp của thời
gian.
- Lịch đại là trục của những hiện tượng kế tục, trên đó bao giờ
cũng chỉ có thể xét một sự vật trong một lúc mà thôi, nhưng trên đó có
tất cả những sự vật của trục thứ nhất (trục đồng đại) với những sự thay
đổi của nó (Saussure so sánh đồng đại và lịch đại với nhát cắt ngang
và nhát cắt dọc của một thân cây). Cần phân biệt đồng đại và lịch đại
nhưng không nên đối lập chúng một cách tuyệt đối. Trong mỗi trạng
thái ngôn ngữ cần vạch ra những sự kiện đang lùi vào quá khứ và
những hiện tượng đang xuất hiện trên cái nền của những hiện tượng
ổn định, có tính chuẩn mực đối với trạng thái ngôn ngữ đó.
4. Ngữ âm là gì?
Âm thanh tiếng nói con người, về bản chất là vô tận bởi tuỳ
theo các đặc điểm cá nhân khác nhau, các đặc điểm về hoàn cảnh phát
âm khác nhau, mục đích phát âm khác nhau mà tiếng nói phát ra có
những phần khác nhau.
5. Ngữ âm học là gì?
Ngữ âm học là ngành nghiên cứu về cơ chế tạo sản các âm
thanh của tiếng nói con người, cho nên, ngoài việc mô tả một cách
chính xác cơ chế đó hoạt động như thế nào thì cần phải đặc tả một
cách chính xác các sự biểu hiện khác nhau của tiếng nói ấy, tức là các
7. 7
kết quả của cơ chế tạo sản âm thanh tiếng nói con người. Chính vì thế,
các dạng thể âm thanh là vô hạn. Và đơn vị của ngữ âm học là các âm
tố, tức là các âm thanh tự nhiên của tiếng nói con người.
6. Từ vựng học là gì?
Nói cho đơn giản thì từ vựng học (lexicology) là một bộ môn
ngôn ngữ học nghiên cứu từ vựng của ngôn ngữ.
Vậy, đối tượng nghiên cứu của từ vựng học là từ vựng.
Từ vựng được hiểu là tập hợp tất cả các từ và đơn vị tương
đương với từ trong ngôn ngữ.
Đơn vị tương đương với từ là những cụm từ cố định, cái mà
người ta vẫn hay gọi là các thành ngữ, quán ngữ. Ví dụ: ngã vào võng
đào, múa tay trong bị, con gái rượu, tóc rễ tre, của đáng tội,… trong
tiếng Việt; hoặc wolf in sheep's clothing (sói đội lốt cừu), like a bat
out of hell (ba chân bốn cẳng)… trong tiếng Anh.
7. Ngữ pháp học là gì?
Ngữ pháp hay văn phạm là quy tắc chủ yếu trong cấu trúc
ngôn ngữ. Việc tạo ra các quy tắc chính cho một ngôn ngữ riêng
biệt là ngữ pháp của ngôn ngữ đó, vì vậy mỗi ngôn ngữ có một ngữ
pháp riêng biệt của nó. Ngữ pháp là một phần trong nghiên cứu
ngôn ngữ hay còn gọi là ngôn ngữ học.
8. Phong cách học là gì?
Phong cách học nghiên cứu các sự kiện biểu đạt của ngôn ngữ
trên quan điểm nội dung biểu cảm của chúng, nghĩa là sự biểu đạt các
sự kiện tình cảm bằng ngôn ngữ và tác động .... Bởi vì sự khắc khổ có
thể là một cái gì cường điệu và bao hàm một khái niệm không thể hiện
điều mà chúng ta cảm thấy ở đây.
9. Ngữ dụng học là gì?
Ngữ dụng học (pragmatics) là một chuyên ngành thuộc ngôn
ngữ học và tín hiệu học nghiên cứu về sự đóng góp của bối cảnh tới
nghĩa. Ngữ dụng học bao hàm cả Lý thuyết hành vi ngôn từ, Hàm
ngôn hội thoại, tương tác lơi nói và cả những cách tiếp cận khác tới
8. 8
hành vi ngôn ngữ trong triết học, xã hội học và nhân học. Khác với
Ngữ nghĩa học nghiên cứu về nghĩa qui ước hoặc "mã hóa" trong một
ngôn ngữ, Ngữ dụng học nghiên cứu về cách làm sao nghĩa lại được
chuyển tải qua không chỉ cấu trúc và hiểu biết ngôn ngữ (ngữ pháp, từ
vưng, v.v..) của người nói và người nghe, mà còn qua cả ngữ cảnh của
phát ngôn, cùng với những hiểu biết có từ trước đó liên quan tới chủ
đề, ý đồ được suy ra của người nói, và các yếu tố khác nữa. Theo cách
nhìn này, Ngữ dụng học giải thích về sao người sử dụng ngôn ngữ lại
có thể vượt qua những rào cản rõ ràng về sự mơ hồ nghĩa (hay lưỡng
nghĩa), vì nghĩa phụ thuộc vào cách thức, vị trí, thời gian, v.v.. của
một phát ngôn.
10. Âm vị là gì? Nguyên âm là gì? Phụ âm là gì? Các nét khu biệt?
- Âm vị là đơn vị tối thiểu của hệ thống ngữ âm của một ngôn
ngữ dùng để cấu tạo và phân biệt vỏ âmthanh của các đơn vị có nghĩa
của ngôn ngữ. Âm vịcòn có thể được coi là một chùm hoặc một tổng
thể đặc trưng các nét khu biệt được thể hiện đồng thời.
Tiếng Việt có 22 phụ âm đầu, bao gồm:
/b, m, f, v, t, t’, d, n, z, ʐ, s, ş, c, ʈ, ɲ, l, k, χ, ŋ, ɣ, h, ʔ/
Bảng hệ thống âm đầu tiếng Việt
9. 9
Hệ thống âm đệm
Âm đệm /w/ có chức năng làm trầm hoá âm sắc của âm tiết.
Hệ thống âm chính
Tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi làm âm
chính:
/i, e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, ă, u, o, ɔ, ɔˇ, εˇ, ie, ɯɤ, uo/
Bảng hệ thống nguyên âm tiếng Việt
Hệ thống âm cuối
Ngoài âm cuối /rezo/, tiếng Việt còn có 8 âm cuối có nội dung
tích cực, trong đó có 6 phụ âm /m, n, ŋ, p, t, k/ và hai bán nguyên âm
/-w, -j/.
Bảng hệ thống âm cuối tiếng Việt
11. Hình vị là gì? Từ là gì?
Từ được cấu tạo nhờ các hình vị. Nói cách khác, từ được tạo ra
nhờ một hoặc một số hình vị kết hợp với nhau theo những nguyên tắc
nhất định. Ví dụ:
10. 10
Từ tiếng Anh Antipoison = anti + poison
Từ tiếng Nga nucaтeль = nuca + тeль
Vậy hình vị là gì?
Quan niệm thường thấy về hình vị, được phát biểu như sau:
Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa và/hoặc có giá trị
(chức năng) về mặt ngữ pháp.
Quan niệm này xuất phát từ truyền thống ngôn ngữ học châu
Âu vốn rất mạnh về hình thái học, dựa trên hàng loạt các ngôn ngữ
biến hình. Chẳng hạn, trong dạng thức played của tiếng Anh người ta
thấy ngay là: play và -ed. Hình vị thứ nhất gọi tên, chỉ ra khái niệm về
một hành động, còn hình vị thứ hai biểu thị thời của hành động đặt
trong mối quan hệ với các từ khác trong câu mà played xuất hiện.
Các hình vị được phân chia thành những loại khác nhau. Trước
hết là sự phân loại thành các hình vị tự do và hình vị hạn chế (bị ràng
buộc).
Hình vị tự do là những hình vị mà tự nó có thể xuất hiện với tư
cách những từ độc lập. Ví dụ: house, man, black, sleep, walk… của
tiếng Anh; nhà, người, đẹp, tốt, đi, làm… của tiếng Việt.
Hình vị hạn chế là những hình vị chỉ có thể xuất hiện trong tư
thế đi kèm, phụ thuộc vào hình vị khác. Ví dụ: -ing, -ed, -s, -ity… của
tiếng Anh; ом, uх, е… của tiếng Nga.
Từ là gì?
Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền
vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái
hiện tự do trong lời nói để tạo câu.
Ví dụ:
nhà, người, áo, cũng, nếu, sẽ, thì, đường sắt, sân bay, dạ dày,
đen sì, dai nhách...
12. Phương thức ngữ pháp là gì? Các phương thức ngữ pháp phổ
biến?
11. 11
Để thể hiện các loại ý nghĩa ngữ pháp, mỗi ngôn ngữ có thể sử
dụng những phương tiện và cách thức khác nhau, tùy thuộc vào loại
hình của ngôn ngữ đó. Cách thức và phương tiện mà ngôn ngữ dùng
để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp gọi là phương thức ngữ pháp.
Có thể nêu lên những phương thức ngữ pháp chủ yếu sau đây:
1. Phương thức phụ gia (hay phụ tố)
Khi phân tích các từ có cấu tạo hình thái, ta thu được các loại
hình vị khác nhau. Chẳng hạn phân tích từ ‘workers’ (các công nhân)
của tiếng Anh ta thu được 2 loại hình vị: căn tố [work-], phụ tố [-er]
và vĩ tố [-s]. Căn tố ‘work-‘ là hình vị mang ý nghĩa từ vựng, phụ tố ‘-
er’ vừa có ý nghĩa từ vựng vừa có ý nghĩa ngữ pháp và được sử dụng
để cấu tạo từ mới, còn vĩ tố ‘-s’ chỉ được dùng để thể hiện các loại ý
nghĩa ngữ pháp của từ này. Hình vị ‘-s’ cũng là một loại phụ tố, song
không có tác dụng tạo ra từ mới như các phụ tố cấu tạo từ, mà là loại
hình vị thuần túy ngữ pháp. Nếu tách vĩ tố ra khỏi từ thì phần còn lại
của từ là một phức thể gồm căn tố và một phụ tố cấu tạo từ. Phức thể
hình vị này gọi là gốc từ hay từ căn. Dĩ nhiên, từ căn có thể có cấu tạo
khác nhau: nó có thể chỉ bao gồm một căn tố như trong ‘(to) work’,
nhưng cũng có thể là một phức thể căn tố (ví dụ như trong từ
‘workshop’), hay một phức thể căn tố và phụ tố như ví dụ nêu trên.
Phương thức dùng hình vị ngữ pháp ghép với từ căn để thể hiện các ý
nghĩa ngữ pháp khác nhau gọi là phương thức phụ gia (hay phụ tố).
Phương thức này được sử dụng chủ yếu trong các ngôn ngữ biến hình
Nga, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha. Ví dụ:
– ý nghĩa số:
teacher (giáo viên) – teachers [các giáo viên – tiếng Anh]
kniga (quyển sách) – knigi [các quyển sách – tiếng Nga]
livre (quyển sách) – livres [các quyển sách – tiếng Pháp]
– ý nghĩa thời:
12. 12
work (làm việc) – worked (đã làm việc) (tiếng Anh)
govorit’ (nói) – govoril (nó đã nói) (tiếng Nga)
parler (nói) – parlai (tôi đã nói) (tiếng Pháp)
– ý nghĩa giống:
xtud’ent (nam sinh viên) – xtud’entka (nữ sinh viên) (tiếng Nga)
étudiant (nam sinh viên) – étudiante (nữ sinh viên) (tiếng Pháp)
Schulfreund (bạn học nam) – Schulfreundin (bạn học nữ) (tiếng Đức)
2. Phương thức biến hình bên trong từ căn
Đây là phương thức dùng sự thay đổi cấu tạo bên trong từ căn
(thường là nguyên âm gốc của từ) để thể hiện các loại ý nghĩa ngữ
pháp khác nhau. Phương thức này hiện còn được sử dụng hạn chế
trong các ngôn ngữ Ấn-Âu như tiếng Anh, Đức, Pháp, Nga. Ví dụ:
Trong tiếng Anh:
take (lấy) – took (đã lấy)
goose (con ngỗng) – geese (các con ngỗng)
foot (bàn chân) – feet (các bàn chân)
Trong tiếng Đức:
Vater (bố) – Vọter (các ông bố)
Nacht (đêm) – Nọcht (các đêm)
Ofen (lò sưởi) – ệfen (các lò sưởi)
Tuy nhiên trong tiếng Ả rập, đây là phương thức ngữ pháp khá
điển hình.
3. Phương thức trọng âm
ý nghĩa ngữ pháp có thể được thực hiện bằng cách di chuyển
trọng âm. Đó chính là phương thức trọng âm. Ví dụ: trong tiếng Anh,
từ ‘survey’ nếu được phát âm với trọng âm ở âm tiết thứ nhất thì đó là
danh từ (cuộc điều tra), song khi được phát âm với trọng âm rơi vào
âm tiết thứ hai thì đó lại là một động từ (điều tra).
Vậy phương thức trọng âm là phương thức dùng sự thay đổi vị
trí của trọng âm để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp khác nhau. Có thể
dễ dàng nhận thấy rằng, phương thức này không thể áp dụng cho
13. 13
những ngôn ngữ có trọng âm cố định như tiếng Pháp hay tiếng Séc.
Song ở những ngôn ngữ có trọng âm di động như tiếng Nga hay tiếng
Anh, phương thức này có thể được sử dụng khá rộng rãi, không những
để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp mà còn để tạo nên các từ mới, ví dụ:
Tiếng Anh:
record [‘rekɔ:d] – bản ghi chép (danh từ)
record [ri’kɔ:d] – ghi chép (động từ)
Tiếng Nga:
rúki – những cánh tay (chủ cách/số nhiều)
rukí – của cánh tay (sở hữu cách/số ít)
4. Phương thức ngữ điệu
Ngữ điệu cũng là một yếu tố có thể dùng để thể hiện ý nghĩa
ngữ pháp, mà đặc biệt là nghĩa thức. Như đã nói ở chương I, ngữ điệu
là yếu tố được dùng để thay đổi ý nghĩa, mục đích của câu nói. Sự
thay đổi các đường ngữ điệu cơ bản có thể thể hiện được thái độ khác
nhau của người nói đối với nội dung được nói ra; ngữ điệu kết hợp
thăng-giáng thể hiện thái độ khách quan (câu tường thuật), còn thái độ
chủ quan được thể hiện hoặc là bằng ngữ điệu thăng (câu nghi vấn)
hoặc là bằng ngữ điệu giáng (câu mệnh lệnh hay cảm thán). Do vậy,
khi không sử dụng phương thức phụ tố (biến đổi động từ) hay một
phương thức ngữ pháp khác để tạo thức mệnh lệnh hay cầu khiến
chẳng hạn, người ta có thể sử dụng ngữ điệu giáng, hoặc một đường
ngữ điệu đặc trưng nào đó, để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp ấy.
Phương thức sử dụng sự thay đổi các đường ngữ điệu cơ bản để thể
hiện ý nghĩa ngữ pháp như vậy gọi là phương thức ngữ điệu. Ví dụ:
– Tiếng Anh: Give it to me! (Hãy đưa nó cho tôi!)
– Tiếng Việt: Xung phong!
5. Phương thức thay từ căn
Trong một số trường hợp, người ta có thể dùng một từ căn khác
hẳn với từ căn ban đầu để thay thế nó nhằm thay đổi ý nghĩa ngữ pháp
14. 14
của nó. Đó chính là phương thức thay từ căn để thể hiện ý nghĩa ngữ
pháp. Ví dụ:
– Tiếng Anh:
go (đi) – went (đã đi)
be (là) – will (sẽ)
good (tốt) – better (tốt hơn)
– Tiếng Pháp:
bon (tốt) – meilleur (tốt hơn)
aller (đi) – je vais (tôi đi)
être (là) – je suis (tôi là)
Nói chung, phương thức này thường được sử dụng cho một số
lượng đơn vị hạn chế và những đơn vị như vậy thường được coi là
những trường hợp ngoại lệ trong một hệ biến thái nào đó.
13. Một số họ ngôn ngữ chủ yếu.
Căn cứ vào nguồn gốc, các nhà ngôn ngữ học thế giới đã phân
ra trên 20 họ ngôn ngữ khác nhau. Sau đây là một số họ ngôn ngữ chủ
yếu:
a. Họ Ấn Âu:
* Dòng Ấn Độ
* Dòng Irăng
* Dòng Slavơ:
- Nhánh đông: Nga, Ucraina, Bêlôrútxia.
- Nhánh nam: Bungari...
- Nhánh tây: Tiệp, Ba Lan,...
* Dòng Bantích: Litva, Latvia
* Dòng Giécman:
- Nhánh bắc: Đan Mạch, Thụy Điển, Na uy
- Nhánh tây: Anh, Hà Lan, Đức...
* Dòng Rôman: Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...
* Dòng Hy Lạp: Hy Lạp
...
15. 15
b. Họ Hán Tạng:
* Dòng Hán Thái: Hán, Thái, Lào, Tày, Nùng...
* Dòng Tạng Miến: Tạng, Miến Điện; Lô Lô, Hà Nhì (miền
Bắc Việt Nam)
* Dòng Mèo Dao: Mèo, Dao (miền Bắc Việt Nam).
c. Họ Môn Khơme:
Tiếng Việt, tiếng Bana, tiếng Cơtu, tiếng Môn và tiếng Khơ me
thuộc họ này
d. Họ Mông Cổ:
e. Họ Mã Lai - Đa Đảo:
* Dòng Mã Lai
* Dòng Pôlinêdiêng.
...
14. Các loại hình ngôn ngữ chủ yếu:
Bốn loại hình: loại hình hòa kết, chắp dính, đơn lập và đa tổng
hợp.
a. Loại hình ngôn ngữ hòa kết: (Bao gồm các ngôn ngữ thuộc
ngữ hệ Ấn Âu như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp...)
Đặc trưng cơ bản:
* Trong hoạt động ngôn ngữ từ có biến đổi hình thái, tức là từ
nọ đòi hỏi từ kia sự hợp dạng, ở đây ý nghĩa ngữ pháp, quan hệ ngữ
pháp được thể hiện ngay trong bản thân từ. Ví dụ: I - me; he - him;
work - worked; see - saw...
* Sự đối lập căn tố - phụ tố trong các ngôn ngữ hòa kết là rất rõ
rệt nhưng chúng cũng được kết hợp với nhau rất chặt đến nỗi căn tố
không thể đứng một mình mà chỉ hoạt động được khi đi kèm với phụ
tố mang những ý nghĩa ngữ pháp nhất định.
* Trong các ngôn ngữ hòa kết, một ý nghĩa ngữ pháp có thể
được biểu hiện bằng nhiều phụ tố và ngược lại.
Các ngôn ngữ hòa kết có thể chia thành 2 nhóm: hòa kết phân
tích và hòa kết tổng hợp.
16. 16
b. Loại hình ngôn ngữ chắp dính (tiêu biểu là Thổ Nhĩ Kỳ,
Tuốcmênia, Phần Lan, tiếng Hàn, tiếng Nhật...):
Là ngôn ngữ có hiện tượng cứ nối tiếp thêm một cách máy móc
vào căn tố nào đó một hay nhiều phụ tố; mà mỗi phụ tố đó lại chỉ luôn
luôn mang một ý nghĩa ngữ pháp nhất định mà thôi.
Có 3 đặc trưng cơ bản:
* Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp của từ được biểu diễn
ngay trong bản thân từ bằng phương tiện phụ tố. Ví dụ: adam (người
đàn ông) --> adamlar (những người đàn ông). Vậy lar thể hiện ý nghĩa
ngữ pháp số nhiều của danh từ trong tiếng Thổ.
* Căn tố nói chung không biến đổi hình thái và có thể tồn tại
hoạt động độc lập khi không có phụ tố đi kèm.
* Mỗi phụ tố chắp dính chỉ biểu diễn một ý nghĩa ngữ pháp và
ngược lại (vì vậy độ dài của từ có thể tương đối lớn).
c. Loại hình ngôn ngữ đơn lập: (tiêu biểu là tiếng Việt, tiếng
Hán và các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á)
Có 4 đặc trưng chính:
* Trong hoạt động ngôn ngữ từ không biến đổi hình thái
(không đòi hỏi hợp dạng)
* Các quan hệ ngữ pháp, ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ
yếu bằng hư từ và trật tự từ.
* Tồn tại một đơn vị đặc biệt gọi là hình tiết.
* Hiện tượng cấu tạo từ bằng phụ tố hầu như không có.
d. Loại hình ngôn ngữ đa tổng hợp (lập khuôn): Tiêu biểu là
tiếng Suakhili, một số ngôn ngữ vùng Capcaz...
Có hai đặc điểm:
* Có một loại đơn vị đặc biệt vừa là từ vừa là câu được cấu tạo
trên cơ sở động từ. Trong đơn vị đó có thể có mặt luôn cả bổ ngữ,
trạng ngữ và nhiều khi cả chủ ngữ (đơn vị lập khuôn).
Ví dụ: - Nitampenda: Tôi sẽ yêu nó; - Atakupenda: Nó sẽ yêu
anh.
17. 17
(động từ penda, chủ ngữ ni (tôi), a(nó), bổ ngữ: ku (anh), m
(nó) và yếu tố chỉ thời gian của động từ: ta (sẽ)
* Các ngôn ngữ đa tổng hợp vừa có nét giống với ngôn ngữ
chắp dính ở chỗ chúng cũng tiếp nối các hình vị vào với nhau; lại vừa
có nét giống với các ngôn ngữ hòa kết ở chỗ: khi kết hợp các hình vị
với nhau có thể có biến đổi vỏ ngữ âm của hình vị. (nó - chủ ngữ = a;
nó - bổ ngữ = m).
18. 18
Chương 1
VỊ TRÍ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU TRONG
CÁC BỘ MÔN NGÔN NGỮ HỌC HIỆN ĐẠI
Ngôn ngữ học bao gồm 3 ngành học chính: ngôn ngữ học miêu
tả, ngôn ngữ học lý luận, ngôn ngữ học so sánh.
Ngôn ngữ học đối chiếu là một trong những phân ngành của
ngôn ngữ học so sánh. Cơ sở lý thuyết chung của ngôn ngữ học đối
chiếu là lý thuyết so sánh.
1.1. So sánh
1.1.1. Khái niệm so sánh
So sánh là thao tác tư duy phổ quát của nhân loại, giúp con
người nhận thức hiện thực khách quan. Hoạt động so sánh là hoạt
động đối chiếu "một cái này" với "một cái khác", nhằm vạch ra mối
quan hệ, liên hệ giữa chúng hoặc để làm nổi bật một đặc điểm nào đó
của đối tượng.
Trong khoa học, so sánh được coi như một thủ pháp nghiên
cứu phổ quát. Nó có tư cách của phương pháp nghiên cứu trong tâm
lí học, lô gích học, toán học, sinh vật học, kinh tế học... trong ngôn
ngữ học cũng vậy.
Trong nghĩa thường dùng, hai từ so sánh và đối chiếu không
khác nhau nhiều lắm về ý nghĩa. "So sánh" là xem xét để tìm ra những
điểm giống, tương tự hoặc khác biệt nhau về mặt số lượng, kích
thước, phẩm chất còn "đối chiếu" là so sánh hai sự vật có liên quan
chặt chẽ với nhau (Ví dụ: đối chiếu nguyên bản với bản dịch). [Từ
điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên]
Không nên đưa nội dung nghĩa của các từ như đã nói ở trên vào
các kết hợp thuật ngữ "ngôn ngữ học so sánh", "ngôn ngữ học đối
chiếu". Bởi vì thuật ngữ khoa học nó luôn mang tính chính xác, tính
19. 19
hệ thống và tính quốc tế. Có nghĩa là nội dung của nó được xác định,
được quy định chặt chẽ trong mối quan hệ với các thuật ngữ khác
trong hệ thống ngôn ngữ.
Với ngôn ngữ học, so sánh là một thủ pháp phân tích, một
phương pháp nghiên cứu các tài liệu ngôn ngữ. Những kinh nghiệm
tích lũy được từ so sánh, phân tích các sự kiện ngôn ngữ, các tài liệu
ngôn ngữ là cơ sở cho việc hình thành một ngành học lớn: Ngôn ngữ
học so sánh. Trên lí thuyết so sánh chung, các phân ngành nhỏ của
ngôn ngữ học so sánh được xác lập. Các phân ngành này khu biệt
nhau theo các kiểu phân tích so sánh khác nhau.
1.1.2. Phân biệt so sánh bên trong và so sánh bên ngoài ngôn ngữ
a) So sánh bên trong: Sự so sánh các đơn vị, các phạm trù
thuộc những cấp độ, những bình diện khác nhau của hệ thống cấu trúc
ngôn ngữ, nhưng chỉ trong phạm vi một ngôn ngữ.
Chính sự so sánh bên trong ngôn ngữ là cơ sở lí thuyết cho việc
hình thành và xác lập bộ môn ngôn ngữ học miêu tả.
b) So sánh bên ngoài: Sự so sánh giữa các ngôn ngữ, giả định
ít nhất là 2 (hoặc hơn 2 ngôn ngữ) được hiểu là sự so sánh bên ngoài
ngôn ngữ. Có thể phân biệt 2 kiểu so sánh tiếp theo: là so sánh không
hệ thống, ngẫu nhiên và kiểu so sánh hệ thống giữa các ngôn ngữ.
1.1.3. Phân biệt so sánh không hệ thống và so sánh hệ thống
a) So sánh không hệ thống, ngẫu nhiên: là phép so sánh giữa
các ngôn ngữ chỉ nhằm mục đích xác nhận (thừa nhận hay phủ định)
một đặc điểm hay một vài đặc điểm nào đó. Kiểu so sánh này mang
tính chất ngẫu nhiên, "bất chợt" của chủ quan nhà nghiên cứu. Sự so
sánh này có thể tìm thấy ở đa số các công trình ngữ pháp miêu tả một
ngôn ngữ.
b) So sánh hệ thống: là phép so sánh đồng loạt, có trình tự
giữa các ngôn ngữ, các hiện tượng, các yếu tố, đơn vị ngôn ngữ... ở tất
cả các bình diện, các cấp độ ngôn ngữ. Với kiểu so sánh này, một số
phân ngành ngôn ngữ học so sánh đã hình thành và phát triển. Đó là:
20. 20
ngành ngôn ngữ học so sánh - lịch sử, ngành ngôn ngữ học so sánh -
loại hình, ngành ngôn ngữ học so sánh - khu vực và ngành ngôn ngữ
học so sánh - đối chiếu.
1.2. Những phương pháp cơ bản được áp dụng trong so sánh ngôn
ngữ
1.2.1. Phương pháp so sánh lịch sử
Phương pháp này chủ yếu áp dụng cho nghiên cứu, phân loại
các ngôn ngữ theo cội nguồn. Mục đích của nó là phát hiện những nét
phản ánh quan hệ thân thuộc, gần gũi về nguồn gốc giữa các ngôn
ngữ để qui chúng vào những phổ hệ ngôn ngữ khác nhau. Nội dung
của phương pháp này là so sánh các từ và các dạng thức của từ tương
tự nhau về ý nghĩa và âm thanh trong các ngôn ngữ khác nhau dựa
vào tài liệu ngôn ngữ sống cũng như những sự kiện, hiện tượng được
ghi trên văn bia và thư tịch cổ. Phương pháp này cũng chú trọng so
sánh các hiện tượng ngữ âm thông qua việc so sánh từ và các dạng
thức khác nhau của từ. Phương pháp so sánh này dựa trên sự diễn biến
lịch sử của các ngôn ngữ. Dù cùng xuất phát từ một ngôn ngữ gốc,
mỗi ngôn ngữ vẫn có những quy luật phát triển riêng tùy theo điều
kiện xã hội - lịch sử của chúng. Vì vậy, nội dung của phương pháp so
sánh - lịch sử là qua việc so sánh tìm ra các quy luật tương ứng về ngữ
âm, từ vựng và ngữ pháp, rồi qua đấy xác định quan hệ thân thuộc
giữa các ngôn ngữ.
1.2.2. Phương pháp so sánh loại hình
Phương pháp này áp dụng cho việc nghiên cứu, phân loại các
ngôn ngữ theo loại hình. Mục đích chính của nó là nghiên cứu những
đặc trưng của loại hình ngôn ngữ và nghiên cứu những đặc trưng về
mặt loại hình của một ngôn ngữ; để quy một ngôn ngữ cụ thể vào
những loại hình khác nhau. Phương pháp này hướng vào hiện tại, vào
hoạt động của kết cấu ngôn ngữ, tìm hiểu những điểm giống và khác
nhau trong kết cấu của 2 hoặc nhiều ngôn ngữ trên các bình diện ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp. Trong đó, sự so sánh các cấu trúc ngữ pháp
21. 21
mà cụ thể là cấu trúc từ pháp của vốn từ cơ bản có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt. Bằng cách so sánh như vậy, người ta có thể rút ra đâu là
thuộc tính phổ quát (thuộc tính chung của tất cả ngôn ngữ trên thế
giới), đâu là thuộc tính riêng biệt (thuộc tính chỉ có ở ngôn ngữ đó) và
đâu là thuộc tính loại hình (thuộc tính đặc trưng cho từng nhóm ngôn
ngữ nhất định). Căn cứ vào thuộc tính loại hình để phân loại ngôn ngữ
theo loại hình.
1.3. Phân biệt ngôn ngữ học so sánh - lịch sử, ngôn ngữ học so
sánh - loại hình, ngôn ngữ học so sánh - khu vực và ngôn ngữ học
so sánh - đối chiếu
Ngôn ngữ học so sánh lịch sử (historical comparative
linguistics): làm rõmối quan hệ về mặt cội nguồn và quá trình phát
triển lịch sử của các ngôn ngữ đượcgiả định là có quan hệ về nguồn
gốc.Ví dụ : ngữ hệ Ấn Âu (Indo – European): dòng Ấn, dòng Iran,
dòng Slave, dòngRoman (Ý, Pháp), dòng German (có tiếng Anh, Đức,
Hà Lan)ngữ hệ Semit: dòng Ai Cập, dòng Semitngữ hệ Thổ: Thổ Nhĩ
Kỳ, Azecbadanngữ hệ Hán Tạng: Hánngữ hệ Nam Phương
(Austronesian): dòng Nam Thái, Nam Á,+ trong Nam Á có ngành
Môn-Khmer, + trong Môn – Khmer có tiếng Việt, Mường, Ba Na, Ka
Tu…( chỉ cần học 1 ví dụ là đủ)- Ngôn ngữ học so sánh loại hình
(typological linguistics): phân loại ngôn ngữtrên thế giới dựa và
những điểm giống nhau trong cấu trúc ngôn ngữ, không nhất thiết
cùng một nguồn gốc.
Ngôn ngữ học so sánh loại hình (typological linguistics): phân
loại ngôn ngữ trên thế giới dựa và những điểm giống nhau trong cấu
trúc ngôn ngữ, không nhất thiết cùng một nguồn gốc
1.4. Lịch sử hình thành bộ môn ngôn ngữ học đối chiếu
23. 23
Chương 2
NHIỆM VỤ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
2.1. Những quan điểm khác nhau về nhiệm vụ của ngôn ngữ học
đối chiếu
Tựu trung, có 4 loại ý kiến khác nhau:
2.1.1. Loại ý kiến thứ nhất: Chủ trương NNHĐC phải truy tìm
những nét khác biệt giữa các ngôn ngữ.
Chủ trương này xuất phát từ 1 phạm vi rất hẹp: đó là công tác
giảng dạy và học tập ngoại ngữ. Chính những nét khác nhau giữa
tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ sẽ làm cho người học gặp phải những khó
khăn nhất định; trong khi những gì giống nhau giữa ngoại ngữ và
tiếng mẹ đẻ sẽ được tiếp thu một cách dễ dàng.
Những nhà ngôn ngữ học có ý kiến thuộc loại này là: A.
Refomaski (1962), R. Lado (1964)...
2.1.2. Loại ý kiến thứ hai:
Chủ trương NNHĐC phải truy tìm những nét khác biệt quan
trọng nhất giữa các ngôn ngữ. Như vậy, cơ sở lý luận của chủ trương này
là sự phân biệt 2 kiểu khác biệt: nét khác biệt thông thường và nét khác
biệt quan trọng.
Thế nhưng, lấy gì làm cơ sở để nói rằng giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu,
đây là nét khác biệt quan trọng nhất còn cái kia thì không? Điều này tùy
thuộc vào các mục đích nghiên cứu khác nhau.
Đại biểu cho ý kiến này là B.L.Wolf (1960)
2.1.3. Loại ý kiến thứ ba: Chủ trương NNHĐC phải hướng tới cả
những sự giống nhau bên cạnh những nét khác biệt giữa các ngôn
ngữ.
Khuynh hướng này cho rằng: sự giống nhau giữa các ngôn ngữ
là cái cơ sở tối thiểu đảm bảo cho công việc đối chiếu trở nên có kết
quả. Một loại giống nhau mà ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu phải để
tâm tới là sự giống nhau về chức năng và hoạt động ngôn ngữ.
24. 24
Đại biểu cho ý kiến này là Akhmanova (1972), Lê Quang
Thiêm (1983).
2.1.4. Loại ý kiến thứ tư: Chủ trương bên cạnh những sự giống nhau
và khác nhau, việc NCĐC cần phải lưu ý đến cả những sự tương
ứng và bất tương ứng giữa các ngôn ngữ; đồng thời làm sáng tỏ
những mối quan hệ nguyên nhân giữa các hiện tượng đó.
Đại biểu cho ý kiến này là V.M.Avramop (1965)
2.2. Dựa vào phạm vi ứng dụng của ngôn ngữ học đối chiếu để xác
định nhiệm vụ cụ thể của ngôn ngữ học đối chiếu
Vấn đề phạm vi phân giới của nghiên cứu đối chiếu phải được
giải quyết trên căn bản mục đích đối chiếu. Phạm vi phân giới cụ thể
của việc NCĐC phải được giải quyết trên căn bản mục đích của ngành
học. Trong đó cần phải xây dựng một hệ thống lí luận về các nét, các
tiêu chí, các đặc trưng và quan trọng hơn cả là phân định được các
kiểu loại; các sự giống nhau và khác nhau; sự tương ứng và bất tương
ứng; tính chất, tỉ lệ, mức độ quan tâm đến chúng trong những mục
đích đối chiếu khác nhau.
Nhiệm vụ cụ thể của NCĐC các ngôn ngữ chắc chắn sẽ rõ hơn
nếu chú ý đến sự phân biệt và hợp nhất hai phạm vi ứng dụng của
phân tích đối chiếu.
2.2.1 Phạm vi ứng dụng lí thuyết ngôn ngữ học
Ở phạm vi này cần chú ý đến những nhiệm vụ cụ thể của
NCĐC đối với ngôn ngữ học đại cương, loại hình học, ngôn ngữ học
so sánh - lịch sử, và ngôn ngữ học so sánh - khu vực (ngữ vực học).
a) NNHĐC với ngôn ngữ học đại cương (phổ niệm học ngôn
ngữ):
Việc nghiên cứu đối chiếu chỉ tập trung vào những sự giống
nhau. Nhưng đây là sự giống nhau chung nhất giữa các ngôn ngữ -
những sự giống nhau mang tính chất phổ biến. Cái đơn vị nhận biết có
tính chất định hướng cho việc nghiên cứu phổ niệm là những nét
chung nhất của mọi ngôn ngữ.
25. 25
b) NNHĐC với loại hình học:
Việc NCĐC về cơ bản tập trung vào những sự giống nhau có
đặc tính loại hình. Dựa vào những sự giống nhau như vậy mới có thể
tập hợp các ngôn ngữ thành những kiểu loại hình nhất định.
Ví dụ: Từ đầu thế kỷ thứ XIX, F. Schlegel đã đối chiếu tiếng
Sancrit với tiếng Hy Lạp, tiếng La tinh, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ để đi đến
chỗ xác định hai loại hình ngôn ngữ là loại hình ngôn ngữ khuất chiết
và loại hình ngôn ngữ chắp dính.
Việc NCĐC thường tập trung vào: 1. Những nét chung nhất
cho mọi ngôn ngữ; 2. Những nét chiếm ưu thế trong nhiều ngôn ngữ;
3. Những nét phổ biến ở một số ngôn ngữ; 4. Những nét riêng của một
ngôn ngữ.
Nhờ vậy, từ các ngôn ngữ cùng loại hình có thể xác định ra các
tiểu loại hình. Bởi vì, các ngôn ngữ ở những kiểu loại hình nhất định
lại có sự khu biệt lẫn nhau.
Tóm lại, NNHĐC cung cấp cho loại hình học nhiều tư liệu cụ
thể về cấu trúc và hoạt động của các ngôn ngữ cùng và khác loại hình,
góp phần làm rõ đặc trưng của từng loại hình ngôn ngữ và bổ sung
cho loại hình học những hướng nghiên cứu mới.
Ngược lại, nhờ những kết quả nghiên cứu của loại hình học mà
NNHĐC có được cơ sở để giải thích các hiện tượng tương đồng và dị
biệt giữa các ngôn ngữ. Đồng thời, kết quả phân loại loại hình các
ngôn ngữ có thể giúp ích rất nhiều cho việc miêu tả các ngôn ngữ mới
lạ, vì chỉ cần biết được một vài đặc điểm nhất định của một ngôn ngữ
ta có thể xác định nó thuộc loại hình ngôn ngữ nào, từ đó, dựa vào
hiểu biết về loại hình ngôn ngữ này để định hướng việc nghiên cứu
ngôn ngữ đang xét. Ví dụ: Ở giai đoạn mở đầu khi nghiên cứu tiếng
Việt, Thái, Miến, nhờ biết chúng cùng loại hình với tiếng Hán nên dựa
vào kinh nghiệm nghiên cứu Hán ngữ học, các nhà nghiên cứu đã đẩy
nhanh tiến độ nghiên cứu các ngôn ngữ trên.
c) NNHĐC với NNH so sánh – lịch sử:
26. 26
Nghiên cứu đối chiếu dựa vào việc truy tìm những sự giống
nhau trên những hiện tượng khác nhau. Đơn vị nhận biết có tính chất
định hướng cho việc so sánh- lịch sử ở đây là những nét tương đồng
lịch sử. Tìm hiểu và xác lập những nét tương đồng kiểu này sẽ giúp
nhà NNH chỉ ra được những mối quan hệ lịch sử giữa các ngôn ngữ
trong ngữ hệ, một nhóm ngôn ngữ... thuộc cùng một gia đình.
d) NNHĐC với ngữ vực học:
NCĐC cơ bản nhằm vào những sự giống nhau giữa các ngôn
ngữ trong cùng một khu vực. Những sự giống nhau này vốn là kết quả
của quá trình tiếp xúc lịch sử - văn hóa của các tộc người nói những
ngôn ngữ trong khu vực. Đó là những nét giống nhau ngữ vực.
Ví dụ: Liên minh ngôn ngữ Ban Căng là tập hợp các ngôn ngữ
không có quan hệ họ hàng nhưng lại cùng một khu vực địa lý (Hy lạp,
Bungari, Rumani...). Những ngôn ngữ quốc gia thuộc bán đảo này đã
có một số yếu tố chung trong vốn từ vựng và thành ngữ, ở các hệ
thống biến cách, ở hệ thống âm vị nguyên âm và phụ âm... Những nét
giống nhau (hay gần nhau) ngữ vực cũng là kết quả của các hiện
tượng ngôn ngữ học nội tại: đồng quy ngôn ngữ, giao thoa ngôn ngữ,
tích hợp và quy tụ trong quá trình hình thành các liên minh ngôn ngữ
khu vực. Giới Đông phương học cũng đang cố gắng chứng minh sự
tồn tại của một liên minh ngôn ngữ Đông Nam Á, bao gồm các ngôn
ngữ quốc gia ở khu vựcĐông Nam Á.
e) NNHĐC với đặc trưng học:
Việc nghiên cứu đối chiếu về cơ bản tập trung vào những sự
khác nhau. Vì trong sự khác nhau được tìm thấy sẽ xuất hiện những gì
gọi là đặc trưng của một ngôn ngữ.
Ví dụ: Tiếng Việt và tiếng Hàn cùng loại hình ngôn ngữ đơn
lập nên có nhiều điểm tương đồng nhưng vẫn có những điểm dị biệt.
Chẳng hạn sự khác biệt về vị trí của giới từ trong tiếng Việt (đặt trước
danh từ, danh ngữ) và tiếng Hàn (đặt trước danh từ, danh ngữ) và điều
27. 27
này có liên quan đến sự khác nhau về trật tự cú pháp cơ bản (S-V-O
của tiếng Việt và S-O-V của tiếng Hàn).
2.2.2. Phạm vi ứng dụng thực hành ngôn ngữ: Ở đây, NNHĐC
hướng vào việc nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học ngoại ngữ và
công việc dịch thuật. Trong đó, NNHĐC đặc biệt hướng vào khu vực
dạy học ngoại ngữ.
a) NNHĐC và lĩnh vực dạy học ngoại ngữ
Ở phạm vi này, NCĐC có thể giúp xác định chính xác những
thuận lợi và khó khăn mà những học viên có cùng tiếng mẹ đẻ gặp
phải khi học một ngoại ngữ nào đó bằng cách phát hiện những điểm
tương đồng và khác biệt giữa 2 ngôn ngữ. Đặc biệt là nhờ biết được
những điểm khác biệt giữa tiếng mẹ đẻ của người học và ngoại ngữ
mà dự đoán được những lỗi mà người học có thể mắc phải để tìm cách
phòng tránh và khắc phục.
Trong lĩnh vực này xuất hiện mối quan hệ qua lại giữa người
giảng, biên soạn sách giáo khoa ngoại ngữ... và người học. Về bản
chất, đó là mối quan hệ giữa việc "lập mã", "truyền mã" và 'tiếp nhận",
"giải mã"... các sự kiện ngoại ngữ. Về phía người biên soạn sách giáo
khoa ngoại ngữ, người giảng dạy ngoại ngữ có nhiệm vụ bắt buộc là
phải nắm vững các quy tắc ngữ pháp của ngoại ngữ từ đó lọc ra những
gì cần thiết nhất trong những quy tắc đó để truyền đạt lại cho người
học. Muốn vậy, phải xem xét đối tượng "truyền mã" là người học.
Học một ngoại ngữ có đặc điểm ngoại hình gắn với tiếng mẹ đẻ
sẽ dễ hơn là học một ngoại ngữ khác xa về loại hình. Chẳng hạn, một
người nói tiếng Hán học tiếng Việt sẽ dễ dàng hơn là học tiếng Anh.
Đối với một người nói tiếng Pháp thì ngược lại, học tiếng Anh sẽ dễ
hơn nhiều so với học tiếng Việt.
Tiếng mẹ đẻ có ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình học ngoại
ngữ. NNHĐC dùng thuật ngữ chuyển di ngôn ngữ dùng để chỉ sự ảnh
hưởng này.
28. 28
Quá trình học một ngoại ngữ là quá trình nắm bắt một hệ thống
thói quen mới. Trong quá trình đó, những thói quen sử dụng tiếng mẹ
đẻ đã ảnh hưởng đến ngoại ngữ. Thuật ngữ khoa học để chỉ hiện
tượng này là "transfert" (chuyển di). Chuyển di ngôn ngữ thường được
hiểu là ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ đối với quá trình học ngoại ngữ.
Tuy nhiên, chuyển di không phải bao giờ cũng là ảnh hưởng của tiếng
mẹ đẻ. Đôi khi chuyển di còn là ảnh hưởng của ngôn ngữ khác mà
người học đã học trước đó.
Sự ảnh hưởng này có 2 khía cạnh: tích cực và tiêu cực.
* Chuyển di tích cực: là hiện tượng chuyển di những hiểu biết
và kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ vào quá trình học ngoại ngữ, giúp cho
việc học ngoại ngữ trở nên dễ dàng hơn do có sự giống nhau giữa
tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ cần học.
Có thể nói, đây là loại ảnh hưởng có lợi của của tiếng mẹ đẻ
đối với việc nắm bắt những thói quen mới trong ngoại ngữ (hoặc tác
động tích cực của việc học tiếng này sang học tiếng khác ở những
người biết nhiều ngoại ngữ). Hiện tượng chuyển di tích cực thể hiện ở
tất cả các bình diện ngôn ngữ và cả những bình diện ngoài ngôn ngữ
như chữ viết, văn hóa.
* Chuyển di tiêu cực: làm cho việc học ngoại ngữ trở nên khó
khăn hơn do áp dụng không thích hợp những phương tiện, cấu trúc,
quy tắc trong tiếng mẹ đẻ trong quá trình học ngoại ngữ, làm cho việc
sử dụng ngôn ngữ đó bị sai lệch. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng
này là sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Có thể định nghĩa: Chuyển di
tiêu cực (giao thoa ngôn ngữ) là những thói quen sử dụng tiếng mẹ
đẻ và ngoại ngữ (đã học) gây cản trở cho việc nắm bắt những thói
quen mới trong ngoại ngữ đang học.
Trong thực tế, bao giờ người học ngoại ngữ cũng bị chi phối
bởi những khó khăn do tiếng mẹ để đưa lại. Sự khác nhau (và có khi
giống nhau) giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ là nguyên nhân trực tiếp
gây ra hiện tượng giao thoa ngôn ngữ trong học tập ngoại ngữ. Giao
29. 29
thoa ngôn ngữ xuất hiện như một vật chướng ngại của người đang học
ngoại ngữ thứ hai. Do vậy, người biên soạn sách, người giảng dạy
ngoại ngữ cần phải nắm được các chuyển di tiêu cực tìm cách khắc
phục những lỗi sai có thể đã từng xảy ra trong thực tế. Qua đó, có thể
giúp người đọc nắm bắt ngoại ngữ một cách tối ưu nhất.
Trong quá trình đối chiếu các ngôn ngữ để khắc phục giao thoa,
các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã chủ trương phân biệt 4 trường hợp
sau:
(1) Những nét giống nhau cần yếu: Đây là những nét giống
nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ có thể giúp người học chuyển di
tích cực thói quen trong tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ. Nếu giữa tiếng mẹ
đẻ và ngoại ngữ đang học có càng nhiều điểm giống nhau cần yếu thì
quá trình học ngoại ngữ càng diễn ra thuận lợi.
(2) Những nét giống nhau không cần yếu: Là những nét
giống nhau giữa ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ không có giá trị đối với quá
trình chuyển di tích cực của người học (không hề gây ảnh hưởng gì
cho người biên soạn giáo trình cũng như người học ngoại ngữ). Đây là
trường hợp của những phổ niệm ngôn ngữ.
(3) Những nét khác nhau cần yếu: Đây là trường hợp đáng
lưu ý nhất. Đó là những điểm khác nhau giữa các ngôn ngữ có nhiều
khả năng dẫn đến hiện tượng chuyển di tiêu cực (giao thoa ngôn
ngữ).
(4) Những nét khác nhau không cần yếu: Đây là những sự
khác nhau không dẫn đến hiện tượng giao thoa ngôn ngữ cho
người học ngoại ngữ.
Như vậy, (2) và (4) thực chất là sự lật lại của (1) và (3).
Đặc điểm
G.trị
Sự giống nhau Sự khác nhau
Cần yếu 1 3
Không cần yếu 2 4
30. 30
b) NCĐC các ngôn ngữ trong quan hệ với lí thuyết phiên
dịch
Xây dựng một lý thuyết phiên dịch nhờ vào việc đối chiếu các
ngôn ngữ có nghĩa là: chỉ ra được cái chung về mặt nội dung mà
những đơn vị ngôn ngữ khác nhau trong những ngôn ngữ khác nhau
biểu đạt nó. Đây là sự đồng nhất về ngữ nghĩa của các đơn vị, các
phưong tiện biểu hiện khác nhau.
Khi đối chiếu các ngôn ngữ theo mục đích phiên dịch cần phải
chú ý đến "tư cách" của các ngôn ngữ trong hoạt động đối chiếu cụ
thể. Các ngôn ngữ trong hoạt động đối chiếu không hề có vai trò bình
đẳng: một ngôn ngữ là ngôn ngữ gốc - điểm xuất phát của sự phân
tích đối chiếu; ngôn ngữ thứ hai là ngôn ngữ phiên dịch. Toàn bộ
công việc đối chiếu theo mục đích này thực chất là miêu tả hệ thống
ngôn ngữ gốc theo những thuật ngữ của hệ thống ngôn ngữ phiên
dịch.
c) Nói thêm về giao thoa
c1.Lưu ý:
* Trường hợp học liên tiếp 2 ngoại ngữ (A và B) cũng có thể
xảy ra hiện tượng giao thoa:
- Nếu trình độ của A càng cao, thì giao thoa của A đối với B
càng lớn. Trường hợp này thường xảy ra ở giai đoạn đầu của việc học
ngoại ngữ mới B.
- Giao thoa của A đối với B càng giảm nếu B ngày càng mạnh
hơn.
Ví dụ: Người học tiếng Lào chuyển sang học tiếng Thái hay
người học tiếng Nga chuyển sang học tiếng Tiệp, Bun, Balan...
* Ranh giới giữa tác động tích cực và tác động tiêu cực nhiều
khi rất tế nhị: khi các thói quen trong học tập ngoại ngữ A và B tương
tự nhau, dễ xuất hiện hiện tượng chuyển di tích cực. Khi các thói quen
ấy chỉ giống nhau bộ phận, từng phần một hoặc giống nhau trên đại
thể mà phân biệt ở chi tiết thì dễ nảy sinh chuyển di tiêu cực.
31. 31
* Chuyển di ngôn ngữ không xuất hiện một cách bừa bãi, tùy
tiện. Chỗ dựa của hiện tượng này là những yếu tố tương đương
(chung) nào đó giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ, dẫn đến hành vi áp đặt
những yếu tố của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ.
Ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác dẫn đến, ảnh hưởng đến
chuyển di tiêu cực:
- Tình huống giao tiếp: nếu như người nói bắt buộc phải nói
bằng một ngoại ngữ về một vấn đề chỉ quen nói bằng một ngoại ngữ
khác thì giao thoa có thể xảy ra.
- Tuổi tác và năng lực ngoại ngữ cũng là những nhân tố đáng
chú ý khi xem xét hiện tượng giao thoa. (Tuổi càng trẻ thì tiếp thu
ngoại ngữ càng nhanh, đặc biệt là trẻ em, sẽ có ít giao thoa hơn người
lớn). Tuy nhiên những kiến thức chuyển di ở người lớn lại có ưu thế
hơn trẻ em.
- Những người nhiều tuổi, nếu càng có nhiều ngoại ngữ thì ở
một phương diện nào đó, càng có khả năng thủ tiêu giao thoa hơn. Họ
có nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp thu ngoại ngữ, có ý thức thể hiện
những chuyển di (tích cực) trong quá trình nắm bắt một hệ thống "ký
mã" ngôn ngữ mới.
- Tất cả những trạng thái bệnh lý và tình cảm đều là những
nhân tố dễ tạo điều kiện cho giao thoa ngôn ngữ xuất hiện. (ví dụ: sự
đãng trí, tâm lí căng thẳng, bệnh tật, mệt nhọc...)
c2) Các loại giao thoa
* Giao thoa ngôn ngữ xét trong sơ đồ giao tiếp: Trong giao
tiếp ngôn ngữ có thể xuất hiện 2 kiểu giao thoa: giao thoa giải mã và
giao thoa ký mã.
Người học tiếng nước ngoài, trong giao tiếp, phải tiến hành
những hành vi ngôn ngữ theo sơ đồ sau:
Hiểu (tiếp nhận - giải mã) Ngoại ngữ (N2)
Người học
32. 32
Sản sinh (kiến thiết-lập mã) (thông báo)
Giao thoa có thể xảy ra ở khu vực hiểu và sản sinh thông
báo N2.
Tuy nhiên những tai nạn của loại giao thoa xảy ra lúc tiếp nhận
và giải mã thông báo không nhất thiết phải đối xứng đều đặn với các
loại giao thoa tác động đến việc kiến thiết và lập mã thông báo sai.
Trong thực tế, với một thông báo N2, học sinh có thể hiểu rõ ràng nội
dung thông báo ấy nhưng lại khó khăn trong việc sản sinh nó và
ngược lại.
- Giao thoa sản sinh thông báo (giao thoa kí mã): đối với việc
sản sinh thông báo N2, nếu như N1 (tiếng mẹ đẻ) xuất hiện những
phạm trù, những hiện tượng đa nghĩa, thì lập tức người học sẽ gặp trở
ngại trong việc sản sinh những thông báo N2 tương ứng: họ có khả
năng áp dụng cấu trúc của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ.
Ví dụ: "nhà tôi" -> my wife, my house
- Giao thoa tiếp nhận thông báo (giao thoa giải mã): đối với
việc hiểu thông báo N2, tính đa nghĩa của các phạm trù, của những
hiện tượng ngôn ngữ ở N2 dễ dàng gây ảnh hưởng đến việc tiếp nhận
và giải mã thông báo N2.
Ví dụ1: He is making a speech.
Thông thường người Việt chỉ nghĩ đến thời hiện tại tiếp diễn
mà quên mất nghĩa chỉ tương lai gần của cấu trúc "to be + verb + ing"
Ví dụ 2: Adj - N (attribute)
Be - Adj (predicate)
Cấu trúc này khác với tiếng Việt nên khi người Việt học tiếng
Anh thì thường có giao thoa.
* Giao thoa ngôn ngữ xét trong cơ chế hoạt động của nó:
Học cả 2 thứ tiếng hoàn toàn khác nhau, trên thực tế, không
hẳn đã gây một số lượng giao thoa tối đa như nhiều người vẫn nghĩ.
Đôi khi tiếp cận 2 ngôn ngữ như vậy lại có phần dễ dàng hơn học 2
33. 33
thứ tiếng giống nhau. Điều này cũng tương tự như việc học bơi không
hề gây cản trở việc học đàn piano. Nhưng với người lái xe Việt Nam
đã quen với cách lái xe bên phải thì học lái xe bên trái đường là điều
khó khăn. [ví dụ của NVC, tr.55]. Cho nên những ngôn ngữ mà chúng
ta tiếp cận càng giống nhau bao nhiêu càng dễ giao thoa bấy nhiêu.
Bởi vì sẽ không có sự giống nhau hoàn toàn giữa 2 ngôn ngữ. Chính
trên những nét giống nhau thường tồn tại những điểm khác biệt tinh
tế. Chúng là những cái gây "tai nạn tinh quái" trong giao thoa ngôn
ngữ.
Dựa trên cơ chế hoạt động ngôn ngữ, các giao thoa có thể qui
vào những kiểu loại chung nhất sau đây:
* Giao thoa hệ dọc và giao thoa hệ ngang: Toàn bộ các đơn vị
ngôn ngữ hoạt động theo 2 trục: trục lựa chọn và trục kết hợp. Ngôn
ngữ nào cũng vậy nhưng các ngôn ngữ đều khác nhau ở hình thức lựa
chọn và cách thức sắp xếp, phân bố các ký hiệu trên 2 trục ấy. Do đó
đã xuất hiện giao thoa hệ dọc và giao thoa hệ ngang khi có ảnh hưởng
bất lợi từ N1 đến N2.
Ví dụ: Giao thoa hệ dọc vì đã lựa chọn từ không đúng trên trục
dọc:
(1) I ' ve been here since Monday.
-> I ' m here since Monday (người Việt).
(2) Các động từ đi với bổ ngữ trực tiếp:
give sb st - give st to sb -> give st for sb
get married to s.o -> get married with s.o
Giao thoa hệ dọc thường xuất hiện trong phiên dịch khi chọn
từ, người ta thường chọn từ sai trong bối cảnh ngôn ngữ cụ thể do hiện
tượng đa nghĩa, người dịch có xu hướng gắn với yếu tố phiên dịch mà
không chú ý đến ngữ cảnh, đến ngữ dụng học.
Ví dụ: Bán tôi nửa cân thịt, cho thêm 2 lạng chả.
Giao thoa hệ ngang: cơ sở của nó là quan hệ tuyến tính. Các
đơn vị ngôn ngữ lần lượt xuất hiện trên trục ngang.
34. 34
Ví dụ: giữa tiếng Việt, tiếng Khơ me và tiếng Lào đều hoàn
toàn có sự giống nhau về số lượng các yếu tố cấu tạo đoản ngữ danh
từ nhưng về trật tự sắp xếp các yếu tố trên hình tuyến thì lại có khác
nhau về sự phân bố các vị trí giữa yếu tố danh từ trung tâm đoản ngữ
và các yếu tố phụ. So sánh:
Ba con gà (Việt)
1 2 3
Moan bây kôn (Khơme)
3 1 2
Cày xảm tô (Lào)
3 1 2
Do áp lực của tiếng Việt, người Việt khi nói tiếng Khơ me và
tiếng Lào dễ sản sinh đoản ngữ giao thoa: Bây kôn moan; xảm tô cày.
* Giao thoa mặt biểu hiện và giao thoa mặt được biểu hiện:
Ký hiệu ngôn ngữ có thuộc tính hai mặt: cái biểu hiện và cái
được biểu hiện. Do vậy, các giao thoa có thể xảy ra theo 2 kiểu: giao
thoa mặt biểu hiện và giao mặt được biểu hiện ở tất cả các ngôn ngữ.
Giao thoa mặt biểu hiện và giao thoa mặt được biểu hiện có thể xảy ra
ở tất cả các loại kí hiệu ngôn ngữ.
- Giao thoa mặt được biểu hiện: giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu
những kí hiệu tương đương có cùng hình thức biểu đạt nhưng nội
dung kí hiệu lại không đồng nhất thì trường hợp này dễ gây ra giao
thoa mặt được biểu hiện (những ngôn ngữ tương đối gần nhau về khu
vực địa lí, những ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, những ngôn ngữ có
vay mượn nhau thường xảy ra giao thoa kiểu này). Các kí hiệu (từ,
ngữ, câu) đa nghĩa ở N2 thường bị những "áp lực tự nhiên" của N1 chi
phối.
- Giao thoa mặt biểu hiện: Giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu, các kí
hiệu có cùng nội dung biểu đạt nhưng lại khu biệt nhau về hình thức
biểu đạt. Hiện tượng này thường xảy ra ở các kết cấu đồng nghĩa.
-> He speaks that ' true. (s) ; He says that ' true. (đ)
35. 35
* Giao thoa tôn ti: Bên cạnh quan hệ ngang và quan hệ dọc,
giữa các đơn vị ngôn ngữ còn có quan hệ tôn ti. Đây là quan hệ bao
hàm nhau giữa các đơn vị ngôn ngữ ở các cấp độ khác nhau. Giao
thoa này xuất hiện do những ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ vào ngoại
ngữ.
Ví dụ: áo dài, hoa hồng
Người nước ngoài thường nhầm đơn vị hình vị với từ.
* Giao thoa do yếu tố văn hóa tác động: Trong giao tiếp, người
Anh khi chào thường gắn với hỏi thăm sức khỏe. Người Việt và người
Đông Nam Á nói chung thường hỏi về gia đình, ăn uống... Vì vậy,
người Đông Nam Á thường mắc lỗi: Where are you going?; Have you
got family of your own?; Have you got dinner yet?...
Tóm lại: Hiểu biết về những tương đồng và khác biệt giữa
ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ chắc chắn sẽ đem lại những bổ ích để hạn
chế những chuyển di tiêu cực, khắc sâu hơn những kiến thức về ngoại
ngữ đang học. Tuy nhiên, nhiều giáo viên ngoại ngữ không có kiến
thức sâu rộng cả về ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ, đây là điều đáng tiếc.
36. 36
Chương 3
MỤC ĐÍCH CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
3.1. Những mục đích xét ở phạm vi nghiên cứu ứng dụng lí thuyết
3.1.1. Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ trong quan hệ với loại
hình ngôn ngữ
Trong khi hướng vào loại hình học ngôn ngữ, nghiên cứu đối
chiếu đề cập đến các mặt khái quát, các phạm trù có ý nghĩa nguyên
tắc đối với hệ thống ngôn ngữ. Mục đích là nhằm phát hiện những đặc
điểm loại hình ngôn ngữ, xác định các kiểu ngôn ngữ theo những quy
luật nhất định.
3.1.2. Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ trong quan hệ với triết
học - ngôn ngữ học
Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, khi hướng vào những vấn
đề triết học - ngôn ngữ học, cần phải lưu ý thích đáng:
- Không tuyệt đối hóa quá mức vai trò của ngôn ngữ tự nhiên.
- Những ảnh hưởng của ngôn ngữ đến tư duy con người, đến
những hoạt động nhận thức và văn hóa đều phải được xem xét trong
những chừng mực nhất định, có giới hạn.
3.1.3. Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ trong quan hệ với lí
thuyết phiên dịch
Xây dựng một lý thuyết phiên dịch nhờ vào việc đối chiếu các
ngôn ngữ có nghĩa là: chỉ ra được cái chung về mặt nội dung mà
những đơn vị ngôn ngữ khác nhau trong những ngôn ngữ khác nhau
biểu đạt nó. Đây là sự đồng nhất về ngữ nghĩa của các đơn vị, các
phưong tiện biểu hiện khác nhau.
Khi đối chiếu các ngôn ngữ theo mục đích phiên dịch cần phải
chú ý đến "tư cách" của các ngôn ngữ trong hoạt động đối chiếu cụ
thể. Các ngôn ngữ trong hoạt động đối chiếu không hề có vai trò bình
37. 37
đẳng: một ngôn ngữ là ngôn ngữ gốc - điểm xuất phát của sự phân
tích đối chiếu; ngôn ngữ thứ hai là ngôn ngữ phiên dịch. Toàn bộ
công việc đối chiếu theo mục đích này thực chất là miêu tả hệ thống
ngôn ngữ gốc theo những thuật ngữ của hệ thống ngôn ngữ phiên
dịch.
3.2. Những mục đích xét ở phạm vi nghiên cứu ứng dụng thực hành ngôn
ngữ
3.2.1. Nghiên cứu đối chiếu và việc giảng dạy học tập ngoại ngữ
Trong thực tế, ở phạm vi ứng dụng thực hành này việc NCĐC
phải làm rõ được cơ chế của hiện tượng giao thoa ngôn ngữ; vạch ra
nguồn gốc của những giao thoa giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ, các
kiểu giao thoa nhất định... Đây chính là những gì mà người học ngoại
ngữ gặp khó khăn khi thâm nhập một hệ thống mã ngôn ngữ xa lạ.
Chúng ta hãy đi vào xem xét cơ chế của hiện tượng giao thoa.
a) Các quan điểm nhìn nhận hiện tượng giao thoa ngôn ngữ:
Có 3 quan điểm nhìn nhận hiện tượng giao thoa:
* Quan điểm tâm lý học ngôn ngữ: Theo quan điểm này, giao
thoa là tác động tiêu cực của thói quen này đối với một thói quen khác
có thể xảy ra trong học tập ngoại ngữ. Đây là sự ô nhiễm
(contamination) hành vi, thái độ có tính chất tâm lí học.
* Quan điểm ngôn ngữ học: Theo quan điểm này, giao thoa là
sự vận dụng các yếu tố của một thứ tiếng khi nói hoặc viết một thứ
tiếng khác. Đây là tai nạn của tính song ngữ do sự tiếp xúc giữa 2 thứ
tiếng với nhau.
Có thể xảy ra 2 trường hợp tiếp xúc ngôn ngữ:
- Tiếp xúc ngôn ngữ giữa những người thuộc các dân tộc cùng
cộng cư trên một khu vực địa lý.
- Tiếp xúc ngôn ngữ trong quá trình học tập ngoại ngữ
Trường hợp thứ 2 là đối tượng chúng ta quan tâm nhiều hơn.
* Quan điểm sư phạm học - sinh ngữ: Theo quan điểm này,
giao thoa là một loại lỗi đặc biệt mà học sinh học ngoại ngữ mắc phải
38. 38
do thói quen hoặc do chịu ảnh hưởng tự nhiên của các mô hình cấu
trúc tiếng mẹ đẻ. Đây là quá trình áp đặt tự nhiên một yếu tố của tiếng
mẹ đẻ vào ngoại ngữ, làm cho những sự kiện ngoại ngữ đi lệch khỏi
chuẩn mực ngôn ngữ của nó.
b) Phân biệt giao thoa và chuyển di:
Quá trình học một ngoại ngữ là quá trình nắm bắt một hệ thống
thói quen mới. Trong quá trình đó, những thói quen sử dụng tiếng mẹ
đẻ đã ảnh hưởng đến ngoại ngữ. Sự ảnh hưởng này có 2 khía cạnh:
tích cực và tiêu cực.
* Tác động tích cực: là loại ảnh hưởng có lợi của của tiếng mẹ
đẻ đối với việc nắm bắt những thói quen mới trong ngoại ngữ. Bên
cạnh đó, người ta còn có thể nói đến trường hợp: có sự tác động tích
cực của việc học tiếng này sang học tiếng khác ở những người biết
nhiều ngoại ngữ. Thuật ngữ khoa học để chỉ hiện tượng này là
"transfert" (chuyển di).
* Tác động tiêu cực: những thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ và
ngoại ngữ (đã học) gây cản trở cho việc nắm bắt những thói quen mới
trong ngoại ngữ đang học. Thuật ngữ khoa học để chỉ hiện tượng này
là "inteference" (giao thoa).
Trong hiện tượng chuyển di, những yếu tố ảnh hưởng đến học
tập ngoại ngữ được gọi là "facilitation" (sự thuận lợi). Còn trong hiện
tượng giao thoa, những yếu tố hoặc xu hướng ảnh hưởng đến học tập
ngoại ngữ được gọi là "ilifitation" (sự bất lợi).
Lưu ý: * Trường hợp học liên tiếp 2 ngoại ngữ (A và B) cũng
có thể xảy ra hiện tượng giao thoa:
- Nếu trình độ của A càng cao, thì giao thoa của A đối với B
càng lớn. Trường hợp này thường xảy ra ở giai đoạn đầu của việc học
ngoại ngữ mới B.
- Giao thoa của A đối với B càng giảm nếu B ngày càng mạnh
hơn.
39. 39
Ví dụ: Người học tiếng Lào chuyển sang học tiếng Thái hay
người học tiếng Nga chuyển sang học tiếng Tiệp, Bun, Balan...
* Ranh giới giữa tác động tích cực và tác động tiêu cực nhiều
khi rất tế nhị: khi các thói quen trong học tập ngoại ngữ A và B tương
tự nhau, dễ xuất hiện hiện tượng chuyển di. Khi các thói quen ấy chỉ
giống nhau bộ phận, từng phần một hoặc giống nhau trên đại thể mà
phân biệt ở chi tiết thì dễ nảy sinh giao thoa.
*Giao thoa ngôn ngữ không xuất hiện một cách bừa bãi, tùy
tiện. Chỗ dựa của hiện tượng này là những yếu tố tương đương
(chung) nào đó giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ, dẫn đến hành vi áp đặt
những yếu tố của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ.
Ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác dẫn đến, ảnh hưởng đến giao
thoa ngôn ngữ:
- Tình huống giao tiếp: nếu như người nói bắt buộc phải nói
bằng một ngoại ngữ về một vấn đề chỉ quen nói bằng một ngoại ngữ
khác thì giao thoa có thể xảy ra.
- Tuổi tác và năng lực ngoại ngữ cũng là những nhân tố đáng
chú ý khi xem xét hiện tượng giao thoa. (Tuổi càng trẻ thì tiếp thu
ngoại ngữ càng nhanh, đặc biệt là trẻ em, sẽ có ít giao thoa hơn người
lớn). Tuy nhiên những kiến thức chuyển di ở người lớn lại có ưu thế
hơn trẻ em.
- Những người nhiều tuổi, nếu càng có nhiều ngoại ngữ thì ở
một phương diện nào đó, càng có khả năng thủ tiêu giao thoa hơn. Họ
có nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp thu ngoại ngữ, có ý thức thể hiện
những chuyển di (tích cực) trong quá trình nắm bắt một hệ thống "ký
mã" ngôn ngữ mới.
- Tất cả những trạng thái bệnh lý và tình cảm đều là những
nhân tố dễ tạo điều kiện cho giao thoa ngôn ngữ xuất hiện. (ví dụ: sự
đãng trí, tâm lí căng thẳng, bệnh tật, mệt nhọc...)
c) Giao thoa xét ở khía cạnh ngôn ngữ học:
40. 40
c1) Giao thoa ngôn ngữ xét trong sơ đồ giao tiếp: Trong giao
tiếp ngôn ngữ có thể xuất hiện 2 kiểu giao thoa: giao thoa giải mã và
giao thoa ký mã.
Người học tiếng nước ngoài, trong giao tiếp, phải tiến hành
những hành vi ngôn ngữ theo sơ đồ sau:
Hiểu (tiếp nhận - giải mã) Ngoại ngữ (N2)
Người học
Sản sinh (kiến thiết-lập mã) (thông báo)
Giao thoa có thể xảy ra ở khu vực hiểu và sản sinh thông báo
N2.
Tuy nhiên những tai nạn của loại giao thoa xảy ra lúc tiếp nhận
và giải mã thông báo không nhất thiết phải đối xứng đều đặn với các
loại giao thoa tác động đến việc kiến thiết và lập mã thông báo sai.
Trong thực tế, với một thông báo N2, học sinh có thể hiểu rõ ràng nội
dung thông báo ấy nhưng lại khó khăn trong việc sản sinh nó và
ngược lại.
* Giao thoa sản sinh thông báo (giao thoa kí mã): đối với việc
sản sinh thông báo N2, nếu như N1 (tiếng mẹ đẻ) xuất hiện những
phạm trù, những hiện tượng đa nghĩa, thì lập tức người học sẽ gặp trở
ngại trong việc sản sinh những thông báo N2 tương ứng: họ có khả
năng áp dụng cấu trúc của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ.
Ví dụ: "nhà tôi" -> my wife, my house
* Giao thoa tiếp nhận thông báo (giao thoa giải mã): đối với
việc hiểu thông báo N2, tính đa nghĩa của các phạm trù, của những
hiện tượng ngôn ngữ ở N2 dễ dàng gây ảnh hưởng đến việc tiếp nhận
và giải mã thông báo N2.
Ví dụ1: He is making a speech.
41. 41
Thông thường người Việt chỉ nghĩ đến thời hiện tại tiếp diễn
mà quên mất nghĩa chỉ tương lai gần của cấu trúc "to be + verb + ing"
Ví dụ 2: Adj - N (attribute)
Be - Adj (predicate)
Cấu trúc này khác với tiếng Việt nên khi người Việt học tiếng
Anh thì thường có giao thoa.
A late train: chuyến tàu xuất phát chậm
A train late: chuyến tàu đến chậm
Small farmer : have a small farm- người nông dân có trang trại
nhỏ
The famer is small: người nông dân thấp bé
Ví dụ 3: Lan loves her cat as much as Nam (1)
(1) là một câu mơ hồ. Có thể hiểu theo 2 cách:
- Lan loves her cat as much as Nam does (2)
- Lan loves her cat as much as she loves Nam (3)
Ví dụ 4: Những từ đa nghĩa có thể gây giao thoa:
To bear: chịu đựng (1); không có khả năng sinh con
She can not bear children
c2) Giao thoa ngôn ngữ xét trong cơ chế hoạt động của nó:
Học cả 2 thứ tiếng hoàn toàn khác nhau, trên thực tế, không
hẳn đã gây một số lượng giao thoa tối đa như nhiều người vẫn nghĩ.
Đôi khi tiếp cận 2 ngôn ngữ như vậy lại có phần dễ dàng hơn học 2
thứ tiếng giống nhau. Điều này cũng tương tự như việc học bơi không
hề gây cản trở việc học đàn piano. Nhưng với người lái xe Việt Nam
đã quen với cách lái xe bên phải thì học lái xe bên trái đường là điều
khó khăn. [ví dụ của NVC, tr.55]. Cho nên những ngôn ngữ mà chúng
ta tiếp cận càng giống nhau bao nhiêu càng dễ giao thoa bấy nhiêu.
Bởi vì sẽ không có sự giống nhau hoàn toàn giữa 2 ngôn ngữ. Chính
trên những nét giống nhau thường tồn tại những điểm khác biệt tinh
tế. Chúng là những cái gây "tai nạn tinh quái" trong giao thoa ngôn
ngữ.
42. 42
Dựa trên cơ chế hoạt động ngôn ngữ, các giao thoa có thể qui
vào những kiểu loại chung nhất sau đây:
* Giao thoa hệ dọc và giao thoa hệ ngang: Toàn bộ các đơn vị
ngôn ngữ hoạt động theo 2 trục: trục lựa chọn và trục kết hợp. Ngôn
ngữ nào cũng vậy nhưng các ngôn ngữ đều khác nhau ở hình thức lựa
chọn và cách thức sắp xếp, phân bố các ký hiệu trên 2 trục ấy. Do đó
đã xuất hiện giao thoa hệ dọc và giao thoa hệ ngang khi có ảnh hưởng
bất lợi từ N1 đến N2.
Ví dụ về giao thoa hệ dọc vì đã lựa chọn từ không đúng trên
trục dọc:
(1) I ' ve been here since Monday.
-> I ' m here since Monday (người Việt).
(2) Các động từ đi với bổ ngữ trực tiếp:
give sb st - give st to sb -> give st for sb
get married to s.o -> get married with s.o
Giao thoa hệ dọc thường xuất hiện trong phiên dịch khi chọn
từ, người ta thường chọn từ sai trong bối cảnh ngôn ngữ cụ thể do hiện
tượng đa nghĩa, người dịch có xu hướng gắn với yếu tố phiên dịch mà
không chú ý đến ngữ cảnh, đến ngữ dụng học.
- Bán tôi nửa cân thịt, cho thêm 2 lạng chả.
- áo ấm, áo lạnh
- cứu hỏa, phục vụ miến gà, đi khám bác sĩ, cho vay phụ nữ
nghèo, xay bột trẻ em...
- rẻ thối
Giao thoa hệ ngang: cơ sở của nó là quan hệ tuyến tính. Các
đơn vị ngôn ngữ lần lượt xuất hiện trên trục ngang.
Ví dụ: giữa tiếng Việt, tiếng Khơ me và tiếng Lào đều hoàn
toàn có sự giống nhau về số lượng các yếu tố cấu tạo đoản ngữ danh
từ nhưng về trật tự sắp xếp các yếu tố trên hình tuyến thì lại có khác
nhau về sự phân bố các vị trí giữa yếu tố danh từ trung tâm đoản ngữ
và các yếu tố phụ. So sánh:
43. 43
Ba con gà (Việt)
1 2 3
Moan bây kôn (Khơme)
3 1 2
Cày xảm tô (Lào)
3 1 2
Do áp lực của tiếng Việt, người Việt khi nói tiếng Khơ me và
tiếng Lào dễ sản sinh đoản ngữ giao thoa: Bây kôn moan; xảm tô cày.
Ví dụ: Do you understand it? (Hư từ (function) được đảo lên
đứng đầu)
Anh có hiểu không?
* Giao thoa mặt biểu hiện và giao thoa mặt được biểu hiện:
Ký hiệu ngôn ngữ có thuộc tính hai mặt: cái biểu hiện và cái
được biểu hiện (Nói thêm). Do vậy, các giao thoa có thể xảy ra theo 2
kiểu: giao thoa mặt biểu hiện và giao mặt được biểu hiện ở tất cả các
ngôn ngữ. Giao thoa mặt biểu hiện và giao thoa mặt được biểu hiện có
thể xảy ra ở tất cả các loại kí hiệu ngôn ngữ.
- Giao thoa mặt được biểu hiện: giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu
những kí hiệu tương đương có cùng hình thức biểu đạt nhưng nội
dung kí hiệu lại không đồng nhất thì trường hợp này dễ gây ra giao
thoa mặt được biểu hiện. (những ngôn ngữ tương đối gần nhau về khu
vực địa lí, những ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, những ngôn ngữ có
vay mượn nhau thường xảy ra giao thoa kiểu này).
Các kí hiệu (từ, ngữ, câu) đa nghĩa ở N2 thường bị những "áp
lực tự nhiên" của N1 chi phối.
H. Nét nghĩa
thức
biểu đạt
Nơi có
sách
(1)
Chỗ để
bán sách
(2)
Chỗ để
cất sách
(3)
Chỗ để
xếp đồ đạc
( 4)
librairie + + - -
library + - + -
(1) thư viện; (2) hiệu sách; (3) kho sách
44. 44
Khi người Anh học tiếng Pháp hoặc ngược lại thường có giao
thoa này.
(Hoặc ở mặt ngữ âm, 2 âm /p/ và /b/)
- Giao thoa mặt biểu hiện: Giữa 2 ngôn ngữ đối chiếu, các kí
hiệu có cùng nội dung biểu đạt nhưng lại khu biệt nhau về hình thức
biểu đạt. Hiện tượng này thường xảy ra ở các kết cấu đồng nghĩa.
Ví dụ:
thành
tiếng
bằng lời
bày tỏ nhưng ko
nhấn mạnh thành
tiếng
trò chuyện
bảo ban ra
lệnh
speak + - (say) - (talk) - (tell)
nói + + + +
-> He speaks that ' true. (s) ; He says that ' true. (đ)
ăn hốc xơi đớp tọng nhậu
eat - - - - -
cool + -
mát + +
nhiệt độ sức khỏe
hot + + (cay)
nóng + -
nhiệt độ vị
tall + - (high)
cao + +
chiều cao người ch.cao vật
* Giao thoa tôn ti: Bên cạnh quan hệ ngang và quan hệ dọc,
giữa các đơn vị ngôn ngữ còn có quan hệ tôn ti. Đây là quan hệ bao
hàm nhau giữa các đơn vị ngôn ngữ ở các cấp độ khác nhau. Giao
45. 45
thoa này xuất hiện do những ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ vào ngoại
ngữ.
Ví dụ: áo dài, hoa hồng
Người nước ngoài thường nhầm đơn vị hình vị với từ.
* Giao thoa do yếu tố văn hóa tác động: Trong giao tiếp, người
Anh khi chào thường gắn với hỏi thăm sức khỏe. Người Việt và người
Đông Nam Á nói chung thường hỏi về gia đình, ăn uống... Vì vậy,
người Đông Nam Á thường mắc lỗi:
Where are you going?; Have you got family of your own?;
Have you got dinner yet?...
3.2.2. Nghiên cứu đối chiếu với việc phân tích lỗi và chữa lỗi
a) Định nghĩa lỗi: Lỗi - nảy sinh ở người nói tiếng nước ngoài -
được hiểu là những gì mà người ấy làm sai lạc các sự kiện ngoại ngữ
so với chuẩn của nó.
b) Nguyên nhân gây lỗi: trên bình diện ngôn ngữ học đối chiếu,
chú trọng đến sự ảnh hưởng tiêu cực của tiếng mẹ đẻ (hay của ngoại
ngữ nào đó) đối với ngoại ngữ đang học.
c) Các loại lỗi: Dựa vào đối tượng mắc lỗi óc thể phân biệt 2
kiểu lỗi bị mắc:
(1) Lỗi thường mắc chỉ ở một học sinh nói N1 nào đó
Ví dụ: Lỗi phát âm thanh điệu đối với những người học tiếng
Việt nói các ngôn ngữ không thanh điệu.
(2) Lỗi thường mắc ở hầu hết các học sinh nói N1 bất kể là
ngôn ngữ nào (cùng gần hay khác loại hình với N2)
Ví dụ: Lỗi về việc sử dụng động từ giới từ của tiếng Anh đối
với tất cả những ai học tiếng Anh như là một ngoại ngữ.
46. 46
Chương 4
THỰC HÀNH PHÂN TÍCH ĐỐI CHIẾU NGÔN NGỮ
4.1. Nghiên cứu đối chiếu về ngữ âm
4.1.1. Đối chiếu các phụ âm
a.Quy trình đối chiếu các phụ âm của hai ngôn ngữ gồm ba bước:
(1) Xác định hệ thống phụ âm của hai ngôn ngữ trên cơ sở một
phương pháp miêu tả nhất quán và trên cơ sở đó xác định những phụ
âm tương đương và những phụ âm không tương đương trong hai ngôn
ngữ;
(2) Xác định các biến thể của các phụ âm và tìm những điểm
giống nhau và khác nhau giữa hai ngôn ngữ;
(3) Đối chiếu khả năng phân bố của các phụ âm và sự biến đổi
của chúng trong bối cảnh ngữ âm.
Để thực hiện những bước này, cần nắm vững những vấn đề sau
đây:
(1) Cách miêu tả phụ âm theo đặc điểm cấu âm
Xét về đặc điểm cấu âm, các phụ âm được miêu tả theo ba tiêu
chí cơ bản:
- Tiêu chí 1: Theo phương thức cấu âm
Theo tiêu chí này, ta phân biệt, chẳng hạn:
* phụ âm tắc, ví dụ: [t], [d], [k], [b]
* phụ âm xát, ví dụ: [f], [v], [s], [z], [l]
* phụ âm tắc-xát, ví dụ: [t], [d], [t∫]
* phụ âm rung: [r] hoặc [R].
- Tiêu chí 2: Theo vị trí cấu âm
Theo vị trí cấu âm, ta phân biệt những phụ âm cơ bản sau:
* phụ âm môi, trong đó lại phân biệt phụ âm hai môi (ví dụ:
[b], [p], [m]), và phụ âm môi-răng (ví dụ: [f], [v]).
47. 47
* phụ âm đầu lưỡi- lợi: [t], [d], [n]
* phụ âm đầu lưỡi-ngạc cứng: [ş], [ʐ]
* phụ âm mặt lưỡi-ngạc: [c], [ɲ]
* phụ âm gốc lưỡi-ngạc mềm: [k], [g], [ŋ]
* phụ âm họng: [h], [x]
- Tiêu chí 3: Theo tính thanh
Theo tiêu chí này, ta phân biệt:
* Phụ âm hữu thanh, ví dụ: [b], [d], [g]…
* Phụ âm vô thanh, ví dụ: [p], [t], [k]…
b) Những điểm cần lưu ý khi đối chiếu các phụ âm
- Phụ âm bật hơi: Có ngôn ngữ có phụ âm bật hơi nhưng có
những ngôn ngữ không có phụ âm này. Mặt khác, đặc điểm của các
phụ âm bật hơi giữa các ngôn ngữ cũng có thể khác nhau. Ví dụ:
Tiếng Việt có phụ âm bật hơi [ť].
- Sự phân bố các phụ âm liên quan đến những đơn vị lớn hơn,
tức là âm tiết. Do vậy, trước khi đối chiếu về sự phân bố các phụ âm
trong hai ngôn ngữ, cần phải đối chiếu cấu trúc âm tiết của chúng. Các
bản miêu tả cấu trúc âm tiết cần phải chỉ ra được hệ thống phụ âm đầu
và phụ âm cuối của các âm tiết trong ngôn ngữ. Ví dụ: Trong tiếng
Việt, có những phụ âm xuất hiện trong hệ thống phụ âm đầu nhưng
không xuất hiện trong hệ thống các phụ âm cuối, như: /s/; /z/; /f/, hoặc
ngược lại, như /p/.
- Vị trí phân bố của phụ âm trong thường kéo theo sự biến đổi
ngữ âm do có các hiện tượng đồng hóa hay thích nghi ngữ âm của các
âm tố. Các Hiện tượng đồng hóa hay thích nghi ngữ âm có thể không
giống nhau trong các ngôn ngữ do đó có thể là nguyên nhân dẫn đến
việc phạm lỗi khi học ngoại ngữ. Ví dụ: Hiện tượng vô thanh hóa các
phụ âm hữu thanh ở vị trí âm cuối của từ hoặc sau phụ âm vô thanh
trong tiếng Nga hoặc Ba Lan, hay hiện tượng môi hóa các phụ âm
cuối của âm tiết tiếng Việt như ‘học’, ‘chung’, ‘ông’ rất dễ bị người
học thể hiện sai.
48. 48
- Khi đối chiếu các phụ âm về mặt phân bố, cần phải phân biệt
những biến thể âm vị mang tính bắt buộc và những biến thể mang tính
tự do. Trong việc học ngoại ngữ, các biến thể bắt buộc (gọi là biến thể
kết hợp) có giá trị trong việc rèn luyện kỹ năng nói và nghe còn các
biến thể tự do có giá trị trong việc rèn luyện kĩ năng nghe. Ví dụ: Biến
thể “ngậm” của âm vị /t/ ở vị trí cuối âm tiết (ví dụ: tất) hay biến thể
môi hóa (ví dụ: tôi) trong tiếng Việt đều phải được thể hiện chính xác,
trong khi đó biến thể bật hơi [t’] ở vị trí đầu âm tiết chỉ là biến thể do
một số cá nhân thể hiện (có thể do ảnh hưởng của tiếng Anh hoặc theo
thói quen cá nhân).
- Các phụ âm nói riêng và âm vị nói chung còn chịu ảnh hưởng
của các hiện tượng ngôn điệu là trọng âm, thanh điệu, ngữ điệu, nên
việc đối chiếu các hiện tượng ngôn điệu trong hai ngôn ngữ cũng cần
được được xem xét.
4.1.2. Đối chiếu các nguyên âm
a) Hình thang nguyên âm quốc tế (giới thiệu một số âm tiêu
biểu)
i y
u
Y
e
O
a
49. 49
Hình thang nguyên âm quốc tế cho ta biết các tiêu chí để phân
biệt các nguyên âm:
- Tiêu chí 1: Theo độ mở của miệng.
Theo tiêu chí này, ta phân biệt các nguyên âm: rộng – hơi rộng
– hơi hẹp – hẹp. Các ngôn ngữ có thể phân biệt chi tiết hơn.
- Tiêu chí 2: Theo chiều hướng của lưỡi.
Theo tiêu chí này, ta phân biệt các nguyên âm: hàng trước –
hàng giữa – hàng sau.
Có thể có sự phân biệt cụ thể hơn như giữa-trước, giữa-sau hay
gần trước, gần sau.
- Tiêu chí 3: Theo hình dáng môi.
Theo tiêu chí này, ta phân biệt các nguyên âm: tròn – không
tròn.
Ngoài ra, các nguyên âm còn phân biệt với nhau theo trường
độ: nguyên âm dài – nguyên âm ngắn, và tính mũi: nguyên âm mũi –
nguyên âm không mũi.
Nguyên âm trong các ngôn ngữ khác nhau hay giống nhau là
căn cứ vào những đặc điểm mô tả nói trên.
b) Nguyên âm và chữ viết
Khi đối chiếu các nguyên âm của hai ngôn ngữ, ta có thể đối
chiếu sự thể hiện của nguyên âm trên chữ viết. Tuy các ngôn ngữ có
thể cùng dùng một loại văn tự để ghi âm nhưng do lịch sử ra đời và
lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ học của các ngôn ngữ có khác nhau nên
việc dùng chữ viết để thể hiện các nguyên âm có thể khác nhau. Đối
chiếu âm và chữ viết có thể tìm ra những chỗ bất hợp lí và những khó
khăn của người học khi học phát âm và học viết bằng ngoại ngữ. Ví
dụ: Tiếng Việt ghi nguyên âm [Ɛ] bằng hai con chữ là e và a (ví dụ:
em/ anh).
Trên đây chỉ nói về việc đối chiếu các nguyên âm theo đặc
trưng cấu âm-âm học. Đây là kiểu đối chiếu truyền thống. Ngày nay,
nhờ những thiết bị ghi âm, phổ kí hiện đại, người ta còn có thể đối
50. 50
chiếu các nguyên âm theo những đặc trưng âm học được ghi lại bằng
nhiều phương pháp khác nhau, gọi chung là đối chiếu ngữ âm thực
nghiệm. Tuy nhiên, xét dưới góc độ học tập và giảng dạy ngoại ngữ
trong những điều kiện hiện nay, kiểu đối chiếu này chưa mang lại
nhiều lợi ích thực tiễn.
4.1.3. Đối chiếu các hiện tượng ngôn điệu
Đơn vị ngữ âm siêu đoạn tính là những đơn vị đi kèm theo đơn
vị ngữ âm đoạn tính, là những đơn vị không thể phân chia được trên
chuỗi lời nói. Ví dụ: ta có thể chia âm tiết “toán” ra thành 4 âm tố
nhưng không thể chia cắt đơn vị siêu đoạn tính đi kèm là thanh sắc. Ba
đơn vị siêu đoạn tính chủ yếu là ngữ điệu, trọng âm và thanh điệu.
a) Thanh điệu (tone): Thanh điệu là sự nâng cao hoặc hạ thấp
giọng nói trong một âm tiết có tác dụng cấu tạo và khu biệt các hình
vị, các từ khác nhau.
Ví dụ: Trong tiếng Việt có 2 từ “ba” và “bà” phân biệt với
nhau, có nghĩa khác nhau (ba: father; bà: grandmother) là do được
phát âm với cao độ khác nhau: thanh ngang và thanh huyền.
Thanh điệu là đặc trưng của âm tiết.
Không phải ngôn ngữ nào cũng có thanh điệu. Tiếng Việt, Hán,
Lào, Thái ... có thanh điệu. Tiếng Nga, Anh, Pháp ... không có thanh
điệu.
Trong các ngôn ngữ có thanh điệu, số lượng thanh điệu cũng
khác nhau. Tiếng Việt có 6 thanh, tiếng Hán có 4 thanh, tiếng Mèo có
7 thanh...
Thanh điệu còn có tác dụng tạo nhạc tính cho lời nói. Tiếng
Việt do có nhiều thanh điệu nên giàu nhạc tính.
b) Trọng âm (accent, stress): Trọng âm là hiện tượng nhấn
mạnh vào một yếu tố nào đó trong ngữ lưu.
Có trọng âm của từ, có trọng âm của câu nhưng thường khi nói
đến trọng âm, người ta thường nói đến trọng âm từ.
Trọng âm từ là sự nêu bật một trong những âm tiết của từ
51. 51
(trong từ đa âm tiết) bằng những phương tiện ngữ âm nhất định.
- Trọng âm lực: sự nêu bật được tiến hành bằng cách tăng
cường độ phát âm (nhấn mạnh âm tiết).
- Trọng âm lượng: sự nêu bật được tiến hành bằng cách tăng
trường độ phát âm (kéo dài thời gian phát âm âm tiết).
- Trọng âm hỗn hợp: phối hợp cả 2 phương thức trên.
c) Ngữ điệu (Intonation):
Ngữ điệu là sự biến đổi cao độ của giọng nói trong một ngữ
đoạn hoặc trong câu.
Nếu như thanh điệu là đặc trưng của âm tiết, trọng âm là đặc
trưng của từ thì ngữ điệu là đặc trưng của câu.
Ngữ điệu có khả năng mang nghĩa và là một phương thức ngữ
pháp để biểu hiện tính chất của các loại câu (câu khẳng định, phủ
định, cầu khiến...).
4.2. Nghiên cứu đối chiếu về từ vựng-ngữ nghĩa
Đối tượng của việc phân tích đối chiếu về từ vựng là những
điểm giống nhau và khác nhau của thành phần từ vựng và quan hệ từ
vựng trong các ngôn ngữ đối chiếu.
4.2.1. Đối chiếu một số nhóm từ vựng tiêu biểu
a) Đối chiếu từ:
- Giống nhau về hình thức và ý nghĩa: Đó thường là những
từ vay mượn hoặc có quan hệ cội nguồn.
- Giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về ý nghĩa: Có
thể phân biệt 2 loại: khác nhau một phần và khác nhau hoàn toàn.
- Giống nhau về ý nghĩa nhưng khác nhau về hình thức:
Đây là trường hợp thông dụng nhất khi so sánh 2 ngôn ngữ.
- Khác nhau về hình thức và ý nghĩa:
Phương ngữ Bắc: tầng 1 tương ứng với tầng trệt trong Phương
ngữ Nam;
Phương ngữ Bắc: tầng 2 tương ứng với lầu 1 trong Phương ngữ
Nam;
52. 52
- Giống nhau về nghĩa gốc nhưng khác nhau về nghĩa phái
sinh: Mèo trong tiếng Việt có nghĩa phái sinh là “nhân tình” nhưng
trong tiếng Anh thì “cat” chỉ “người đàn bà tinh ranh”.
b) Thực hành đối chiếu một số trường từ vựng tiêu biểu:
- Trường từ vựng chỉ quan hệ thân tộc;
- Trường từ vựng chỉ sự chuyển động;
- Trường từ vựng chỉ màu sắc;
- Trường từ vựng chỉ thời gian;
- Trường từ vựng chỉ hoạt động cảm nghĩ, nói năng, nghe nhìn.
…
Sự khác nhau giữa các trường từ vựng có thể do sự tri giác, sự
cấu trúc hóa thế giới khác nhau.
4.2.2. Nghiên cứu trường hợp tương đương phiên dịch
a) Trường hợp một từ trong tiếng mẹ đẻ được biểu thị bằng một
từ ở ngoại ngữ đang dịch hoặc ngược lại.
b) Trường hợp một từ trong tiếng mẹ đẻ tương ứng với một loạt
từ ở ngoại ngữ đang dịch hoặc ngược lại. Ví dụ: rice: gạo, cơm, lúa,
thóc, tấm
c) Khi phiên dịch, một từ trong tiếng mẹ đẻ được biểu thị bằng
một ngữ ở ngoại ngữ đang dịch hoặc ngược lại. Ví dụ: Nói thách: to
put the price up expecting people to bargain.
d) Trường hợp không có từ hoặc ngữ tương đương ở ngoại ngữ
đang dịch: phở, nem rán, cải lương, tuồng, khăn đóng, áo dài, quân
tử…
Vấn đề thành ngữ cũng là một vấn đề thú vị khi đối chiếu ngôn
ngữ.
4.3. Một số thử nghiệm
4.3.1. Tên bài báo “MỘT SỐ ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA TIẾNG ÊĐÊ VÀ
TIẾNG VIỆT/THE DIFFERENCE BETWEEN THE Ede LANGUAGE
53. 53
AND VIETNAMESE LANGUAGE”, Tác giả: Nguyễn Ngọc Chinh*, Niê
H’Loanh**, *Trường ĐH Ngoại ngữ, ĐH Đà Nẵng.
Mở đầu
Dân tộc Êđê có chữ viết theo hệ chữ cái La tinh. Chữ Êđê được hình
thành từ những năm cuối thế kỉ XIX [4], [9]. Năm 1935 Toàn quyền Đông
Dương ban hành Nghị định công nhận bộ chữ Êđê mẫu tự Latinh. Hiện nay
tiếng Êđê được xem là ngôn ngữ phổ thông trong các ngôn ngữ dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên và là một trong những ngôn ngữ được Bộ Giáo dục
và Đào tạo đưa vào giảng dạy trong các trường phổ thông, và không những
dạy ở mỗi trường PT mà còn dạy cho cán bộ công chức công tác tại vùng
dân tộc. Cụ thể, ở Đắk Lắk có 118 trường học đưa tiếng Êđê vào giảng dạy.
Trong đó, bậc Tiêu học là 105 trường (với 597 lớp và 11.963 HS) và THCS
là 13 trường (với 38 lớp và 1.378 HS) [8]. Vì vậy tiếng Êđê nó có tầm quan
trọng đối với người học, và để người học tiếp thu nhanh một cách dễ dàng,
chúng ta tìm ra chỉ những điểm cơ bản khác biệt so với tiếng Việt.
Loại hình học là một ngành khoa học thiên về lý luận, không nhằm
giải đáp những yêu cầu thực tiễn một cách trực tiếp. Tuy nhiên, các thành
tựu, các kết luận của ngành loại hình học lại rất có thể đem ứng dụng vào
thực tiễn, lợi ích của loại hình học giúp việc giảng dạy môn ngoại ngữ (tiếng
Êđê) có thể rút được nhiều điều, so sánh các hiện tượng trong tiếng mẹ đẻ
(tiếng Việt) và ngôn ngữ khác (tiếng Êđê) tìm ra những những khác nhau
giữa hai ngôn ngữ. Tiếng Êđê và Tiếng Việt tuy đều là loại hình ngôn ngữ
đơn lập [1] nhưng có những điểm khác biệt, để làm rõ vấn đề, bài báo tìm
hiểu từng đơn vị ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của hai ngôn ngữ này.
Về ngữ âm
Bảng 1. Bảng so sánh âm tố tiếng Êđê và tiếng Việt [3]
Tiếng Việt Tiếng Êđê
a a
ă ă
â â
b b
[
c ]
d d
đ đ
e e
e
ê ê
54. 54
e#
g g
h h
i i
^
j
k k
l l
m m
n n
`
o o
o
ô ô
o#
ơ ơ
ơ
p p
q
r r
s s
t t
u u
u
ư ư
ư
v w
x
y y
Qua bảng so sánh, tiếng Êđê có 38 âm tố (chữ cái), còn tiếng Việt có
29 âm tố. Và tiếng Êđê có những âm tố khác biệt so với tiếng Việt đó là: [, ],
e, e#, ^, j, `, o, o#, ơ, u, ư, w.
Hệ thống âm đầu: - Tiếng Việt có 22 phụ âm đầu bao gồm: b, m, f,
v, t, t’, d, n, z, z, s, s, c, , ŋ , k, x, ?, y, h, ?
- Tiếng Êđê có 26 phụ âm đó là: p, p’, b, [, m, , t, t’, d, đ, c, c’, j, j, k, k’, g,
s, j, l, r, n, , ŋ , h, ?
Phụ âm đầu tiếng Êđê ghi kí tự chữ viết có phần khác với tiếng Việt
như j trong jah (phát (rẫy, cỏ)); p trong pa (bốn). Có những phụ âm không
55. 55
được ghi bằng kí tự trên chữ viết, kiểu như một loại phụ âm trong những âm
tiết: un (lợn), êa (nước), ung (chồng).
Trong tiếng Êđê cách tạo từ hai âm tiết mà tiếng Việt không có đó là:
sử dụng dấu gạch nối (-) nếu là từ có hai âm tiết đều là nguyên âm, như ê-ăt
(lạnh), ê- i (cái rổ); ê-un (mềm). Và dấu dấu nháy đơn ( ’) để ghi hai phụ âm
với nguyên âm và phụ âm với phụ âm, như h’iêng (quý mến); k’ho (nóng);
m’ar (giấy).
Trong tiếng Êđê, phần đầu âm tiết là bộ phận phức tạp nhất, những
tổ hợp phụ âm mà thành phần của nó có thể từ hai đến ba yếu tố tạo thành.
Điểm khác biệt với ngôn ngữ tiếng Việt chính là tổ hợp có hai phụ âm và
đặc biệt là có tổ hợp ba phụ âm (Bảng 2).
Bảng 2. Các tổ hợp hai phụ âm mà tiếng Việt không có [3], [7]
Phụ âm Chữ viết Nghĩa tiếng Việt
bl blu nói
[l [le chảy, mọc
bh bha` hắt hơi
br brei cho
dl dlăng đọc, xem, nhìn
dr drei chúng ta
đr đru giúp
dj djă cầm
gr grăp mỗi
hg hgum hợp lại
hl hla lá
kp kpă thẳng
md mdei nghỉ
mđ mđao ấm
mg mgi ngày mai
ml mlan tháng, trăng
mm mmah nhai
mn mnei tắm
m` m`am dệt
mr mran thuyền
ms msah ướt
mt mtei chuối
pl plei bí đỏ, bí rợ
pr prăk tiền
tl tlam chiều, buổi chiều
56. 56
Đặc biệt tiếng Êđê có những tổ hợp có ba phụ âm mà tiếng Việt không có,
có thể liệt kê như sau:
hml hmlei bông (gòn)
kph kphê kphê
kdj kdjăt giật mình
kng knga tai
ktr ktrâo chim bồ câu
kml kmlư mớ (ngủ)
kmr mkra sửa chữa
mbl mblang giảng, dạy
mbr mbruê hôm qua
mgh mghă đỡ (đánh đòn)
mkr mkra sửa chữa
mng mnga hoa
mdh mdhă gỗ,ván
mbh mbhă may mắn
mdr mdrao điều trị
mpl mplư lừa phỉnh
Cấu tạo âm tiết
Phương thức cấu tạo từ tiếng Êđê, phân tách âm tiết thành hai bộ
phận: phần đầu và phần cuối.
Sơ đồ phân bậc âm vị học cấu trúc âm tiết tiếng Êđê như sau: [3]
ÂM TIẾT
C1 C2 C3 S1 S2 C4
Bậc I Phần đầu Phần cuối
C
C1 C2 C3 C1 S1 V S2 C4
C1C2C3
Bậc II âm nối âm chính âm cuối
Sơ đồ tính phân bậc tiếng Việt
Thanh điệu