SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 26
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
Khoa Quản Trị Kinh Doanh
TIỂU LUẬN KINH TẾ VĨ MÔ
Tên đề tài:
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 -2008
Học viên:
MSSV:
Cần Thơ, Tháng 11 năm 2021
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ....................................................................................... 3
1. Khái niệm...................................................................................................................... 3
2. Phân loại....................................................................................................................... 4
3. Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế................................................................................ 5
CHƯƠNG 2: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆT NAM ............... 6
1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng................................................................................ 6
2. Kinh tế Việt Nam trước tác động của khủng hoảng ................................................ 7
3. Thị trường bất động sản chống trọi với khủng hoảng kinh tế 2008 ....................10
4. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giớiError! Bookmark not defined.
5. Hệ thống ngân hàng thương mại trước tác động của khủng hoảng 2008 ..........17
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN......................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................................25
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng có tính chu kì của nền kinh tế. Nó tồn
tại và xuất hiện như một phần không thể thiếu. Bởi khủng hoảng không chỉ gây những
ảnh hưởng tiêu cực mà đồng thời ở một góc nhìn khác nó cũng tác động tích cực đến
nền kinh tế. Đây là lí do để tôi lựa chọn đề tài này.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, kinh tế thế giới đã xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng tài
chính – kinh tế khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Trước năm 2008, cuộc khủng hoảng
1929-1933 được coi là cuộc khủng hoảng lớn nhất và để lại nhiều thiệt hại nặng nề cho
nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, tháng 9 năm 2008 đã chứng kiến một cơn bão khủng
hoảng trầm trọng hơn xuất phát từ Mĩ. Cuộc khủng hoảng này đã làm cho kinh tế thế
giới nhanh chóng rơi vào suy thoái, kim ngạch thương mại sụt giảm mạnh, thất nghiệp
tăng, lòng tin của các nhà đầu tư giảm sút nghiêm trọng.
Cuộc khủng hoảng này không chỉ gây điêu đứng nền kinh tế Mỹ, mà hậu quả
của nó còn lan rộng ra khắp các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Việt Nam là một
nền kinh tế mở, và đang phát triển. Từ khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam có
nhiều tương tác và liên hệ trực tiếp hơn với nền kinh tế toàn cầu nên Việt Nam cũng
chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng trên khắp các phương diện: thị trường
chứng khoán, bất động sản, ngân hàng, hệ thống tài chính,…
Bài tiểu luận của tôi được viết nhằm trình bày có hệ thống những vấn đề tổng
quan về khủng hoảng kinh tế. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu từ khái niệm của khủng hoảng
kinh tế, cho đến nguyên nhân, tác động của nó đến nền kinh tế quốc dân. Từ nền kiến
thức cơ bản đó, ta có thể phân tích và hiểu hơn về ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
2008 tới nền kinh tế Việt Nam. Hi vọng rằng qua bài tiểu luận này, chúng ta sẽ thu
nhận được cho bản thân những kiến thức cơ bản về khủng hoảng kinh tế - một khái
niệm cơ bản của kinh tế học cũng như những nhận thức, tri thức về nền kinh tế Việt
Nam đã chịu những tàn phá như thế nào trong cơn bão khủng hoảng đó.
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm
“Nếu như trong sản xuất hàng hóa giản đơn, với sự phát triển của chức năng
phương tiện thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng nổ ra khủng hoảng kinh
tế, thì đến chủ nghĩa tư bản, khi nền sản xuất xã hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là
điều không thể tránh khỏi” (Giáo trình NNLCB của Chủ nghĩa Mác-Lênin). Như vậy,
khủng hoảng kinh tế là thuật ngữ đã xuất hiện rất lâu trong công cuộc phát triển kinh
tế.
Trước hết, để hiểu hơn về khủng hoảng kinh tế, ta đi tìm hiểu thuật ngữ “suy
thoái kinh tế”. Suy thoái kinh tế theo định nghĩa của kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm
tổng sản phẩm quốc nội thực (GNP) trong thời gian hai hoặc lớn hơn hai quý liên tiếp
trong năm. Hay nói theo cách khác thì suy thoái kinh tế là tốc độ tăng trưởng kinh tế
âm liên tiếp trong hai quý. Suy thoái kinh tế là sự tụt giảm của tất cả các hoạt động
kinh tế bao gồm cả việc làm, đầu tư và lợi nhuận doanh nghiệp, kéo theo cả hạ giá cả
(giảm phát) và tăng nhanh giá cả (lạm phát).
Theo học thuyết kinh tế của Các-mác, khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm các
hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kì kinh tế. Khủng
hoảng kinh tế ám chỉ thời gian chuyển biến rất nhanh sang giai đoạn suy thoái kinh tế.
Như vậy ta có thể kết luận rằng sự suy thoái kinh tế trầm trọng và lâu dài được gọi là
khủng hoảng kinh tế.
Chính sách tài khóa trong kinh tế học vĩ mô là chính sách thông qua chế độ
thuế và đầu tư công để tác động tới nền kinh tế. Chính sách tài khóa cùng với chính
sách tiền tệ là các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, nhằm ổn định và phát triển kinh
tế. Khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái, nhà nước có thể giảm thuế, tăng chi tiêu
(đầu tư công) để chống lại. Chính sách tài chính như thế gọi là chính sách tài khóa mở
rộng. Ngược lại, khi nền kinh tế ở tình trạng lạm phát và có hiện tượng nóng, thì nhà
4
nước có thể tăng thuế và giảm chi tiêu của mình để ngăn cho nền kinh tế khỏi rơi vào
tình trạng quá nóng dẫn tới đổ vỡ. Chính sách tài khóa như thế này gọi là chính sách tài
khóa thắt chặt.
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là quá trình quản lý cung
tiền của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân hàng trung ương), thường là hướng tới
một lãi suất mong muốn để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế -
như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao
động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các
loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường
mở; quy định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
2. Phân loại
2.1. Khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa
Trong suốt quá trình phát triển, nền kinh tế của toàn Thế giới đã phải trải qua
nhiều cuộc khủng hoảng khác nhau nhưng hình thức khủng hoảng đầu tiên và phổ biến
nhất là “Khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa”. Khủng hoảng này nổ ra đầu tiên vào năm
1825 và nhiều năm tiếp theo.
Ví dụ: cuộc khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa gây ra hậu quả nặng nề nhất là vào năm
1929 kéo dài tới năm 1933.
Với kiểu khủng hoảng kinh tế này thì tình trạng thừa hàng hoá không phải là thừa
so với nhu cầu xã hội mà là thừa so với sức mua có hạn của quần chúng lao động, kéo
theo sản xuất giảm sút, vốn đầu tư bị rút bớt, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao và tỉ lệ tái sản
xuất bị rối loạn. Khi nổ ra khủng hoảng thì hàng hoá không được tiêu thụ, sản xuất bị
thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thị trường bị rối loạn, hàng hoá thì bị
phá huỷ. Hàng triệu người lao động lâm vào tình trạng đói khổ vì họ không có khả
năng thanh toán.
5
2.2. Khủng hoảng tài chính (KHTC)
Được định nghĩa là trạng thái chấn động của hệ thống tài chính, từ hệ thống lưu
thông tiền tệ, tín dụng, đến tài chính nhà nước. Biểu hiện của khủng hoảng này chủ yếu
là ở sự mất ổn định, mất cân đối giữa thu và chi, thiếu hụt nghiêm trọng và kéo dài các
nguồn vốn ngân sách nhà nước và tín dụng của ngân hàng, kéo theo lạm phát, đồng
tiền mất giá nghiêm trọng. KHTC bắt nguồn từ sự thiếu hụt ngân sách do đề phòng và
chuẩn bị chiến tranh, tăng cường lực lượng quân sự, hoặc do chi tiêu vào phúc lợi xã
hội quá sức chịu đựng của nền kinh tế, hoặc đầu tư nhiều mà không có hiệu quả, tất cả
đều có thể dẫn đến KHTC. Khủng hoảng thị trường tài chính xảy ra khi những món nợ
đến hạn không thu hồi được, do việc cấp phát vốn, cấp tín dụng không kiểm tra, kiểm
soát, không xem xét khả năng hoàn vốn của những đơn vị vay, hoặc do giá chứng
khoán cổ phần đột nhiên giảm sút.
Ví dụ: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nặng nề nhất đã xảy ra tại các nước Châu Á
năm 1997.
2.3. Khủng hoảng tiền tệ và tín dụng (KHTT-TD)
Là sự chấn động, rối loạn của hệ thống lưu thông tiền tệ và tín dụng, nảy sinh do
khủng hoảng chu kì của sản xuất (khủng hoảng kinh tế) hoặc do các sự kiện đặc biệt
thất thường về kinh tế và chính trị. Trên thị trường tiền tệ, KHTT-TD biểu hiện dưới
dạng thiếu tiền cho vay và tăng cao lãi suất. Đặc trưng của nó là "nạn đói tiền" hay là
sự "rối loạn" toàn bộ lưu thông tiền tệ, và sự mất giá đồng tiền.
Ví dụ: Một trong những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nghiêm trọng đã xảy ra
vào nửa cuối năm 1997 ở các nước Đông Nam Á (Thái Lan, Indonesia, Philippin,
Malayxia) và một số nước Đông Á khác, và ở cả một số nước phát triển Châu Âu.
3. Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế
Nền kinh tế trong chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế
với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Dựa trên đó, các nhà nghiên cứu đã tính được chu kỳ
6
của khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế chính là khoảng thời gian
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc
khủng hoảng sau.
Nhìn chung, cứ từ 8 đến 12 năm lại xuất hiện một cuộc khủng hoảng kinh tế.
Chu kỳ kinh tế gồm 4 giai đoạn: Khủng hoảng, Tiêu điều, Phục hồi, Hưng thịnh.
 Khủng hoảng là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn
này, hàng hóa ế thừa, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng
cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Nhà tư bản
mất khả năng thanh toán các khoản nợ dẫn đến phá sản nên lực lượng sản
xuất bị phá hoại nghiêm trọng.
 Tiêu điều là giai đoạn sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp tục đi
xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp đình đốn, tư bản không
có nơi đầu tư.
 Phục hồi là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản
xuất. Công nhân lại được thu hút vào làm việc, mức sản xuất đạt đến quy
mô cũ, vật giá tăng lên, lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.
 Hưng thịnh là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà
chu kì trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí
nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân
hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã
hội. Do đó lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.
CHƯƠNG 2: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆT NAM
1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng
Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản chính là nguyên nhân chính dẫn
đến khủng hoảng kinh tế. Đó chính là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hoá cao
7
của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội.
Để hiểu rõ được mâu thuẫn này, ta phải xem xét đến phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bao gồm lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong khi lực lượng sản xuất có công cụ
sản xuất luôn được cải tiến nhờ sự sáng tạo vượt bậc của con người, nhờ có sự
tiến bộ của khoa học kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất và do đó nó mang tính
xã hội hoá cao. Còn về quan hệ sản xuất lại mang tính tư hữu hoá bởi nó thuộc
sở hữu của các nhà tư bản nên quy mô của nó hay cung cách tổ chức phụ thuộc
vào đó. Do vậy sinh ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được thể hiện qua:
- Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ
và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội.
- Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích luỹ, mở rộng không có giới hạn của tư
bản với sự sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá.
- Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm thuê.
- Sự mâu thuẫn này có thể là nguyên nhân chính gây ra các cuộc khủng hoảng
kinh tế kéo theo nó là các vụ bãi công, biểu tình đòi lại quyền lợi của chính
họ qua sự bóc lột nặng nề của các chủ tư biển thông qua giá trị thặng dư.
- Đây là ba mâu thuẫn cơ bản dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế. Bên
cạnh đó cũng có nhiều nguyên nhân khác như sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá
trị sử dụng và giá trị gây ra khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa.
2. Kinh tế Việt Nam trước tác động của khủng hoảng
Với đà tăng trưởng kinh tế rất ấn tượng và lạc quan trong năm 2007, tác động
của cơn bão khủng hoảng tài chính đến Việt Nam có chậm hơn so với nhiều nước trên
thế giới. Tuy nhiên kinh tế Việt Nam năm 2008 cũng không nằm ngoài dòng chảy của
8
kinh tế thế giới. Sau đây là một số phân tích về kinh tế Việt Nam trước tác động của
khủng hoảng tài chính 2008.
2.1. FDI
Xu hướng vốn đăng kí vào Việt Nam đang giảm dần về cuối năm 2008. Trong 9
tháng đầu năm 2008, Việt Nam thu hút được 57,12 tỉ USD vốn đầu tư đăng kí, bình
quân gần 6,35 tỉ USD/ tháng. Tuy vậy, tháng 10/2008 chỉ có thêm được 2,19 tỉ USD,
tháng 11/2008 thêm 3,19 tỉ USD, tháng 12/2008 thêm 1,51 tỉ USD
Năm 2008 cũng chứng kiến sự sụt giảm số lượng dự án FDI. Trong năm này cả
nước đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 1171 dự án, trong khi đó con số của năm 2007
là 1406 dự án.
2.2. Lạm phát
Trong nửa đầu năm 2008, lạm phát đã trở thành vấn đề hàng đầu của chính sách
kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) liên tục leo thang, diễn biến lạm phát cũng rất phức
tạp.
Trong giai đoạn này, USD yếu làm giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các
nước xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương đối. Giá dầu thô tăng vọt từ 89,4
USD/ thùng (12/2007) lên 147 USD/ thùng(7/2008), giá phôi thép tăng khiến các
doanh nghiệp tranh thủ nhập khẩu. Đà tăng trưởng từ năm 2007 khiến lượng tiền đồng
trong nền kinh tế tăng lên, cao hơn so với sức hấp thụ của nền kinh tế, cộng thêm việc
nhập siêu nửa đầu năm 2008 cao hơn mức nhập siêu cả năm 2007, làm gia tăng áp lực
lạm phát.
Trước tình hình trên, chính phủ đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm kiềm chế
lạm phát: thắt chặt tiền tệ, cắt giảm đầu tư chi phí không cần thiết, đẩy mạnh sản xuất,
đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu, chống nhập siêu, triệt để
tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, quản lí thị trường, chống đầu cơ, triển khai mở
rộng các chính sách an ninh xã hội, ổn định tình hình kinh tế xã hội. Cùng lúc đó, giá
9
cả hàng hóa toàn cầu giảm xuống, tạo thuận lợi cho giảm giá đầu vào của sản xuất
trong nước. Nhờ vậy, lạm phát dần có những diễn biến tích cực. Từ tháng 10/2008,
xuất hiện dấu hiệu giảm phát khi CPI giảm xuống 148,20 so với mức 148,48 của tháng
9/2008.
2.3. Chính sách tiền tệ và tài khóa
Trước những dấu hiệu gia tăng lạm phát xuất hiện cuối năm 2007, ngay đầu
năm 2008, Ngân hàng nhà nước đã theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt. Thị trường
chứng khoán sụt giảm, nguồn tín dụng ở trong tình trạng khan hiếm, mặt bằng lãi suất
lên cao. Trước tình hình đó, NHNN giảm lãi suất cơ bản, hạ tỉ lệ dự trữ bắt buộc,….
Trong quý IV/2008, chính sách tiền tệ được nới lỏng. Bên cạnh đó, chính phủ sử
dụng kết hợp chính sách tài khóa, với việc ban hành các chính sách thuế nhằm ngăn
chặn suy giảm kinh tế: tăng thuế nhập khẩu và hạ thuế xuất khẩu một số mặt hàng
nhằm ổn định đầu vào sản xuất, khuyến khích xuất khẩu.
Tỷ giá VNĐ/USD trong suốt năm 2008 cũng diễn biến rất phức tạp. Trong 3
tháng đầu năm, tỷ giá VNĐ/USD trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm. Từ
giữa tháng 3 đến cuối tháng 7/2008, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa
tháng 6/2008. USD cùng với giá vàng tăng mạnh lên gần 19 triệu đồng/lượng. Từ nửa
cuối tháng 7/2008, tỷ giá giảm dần và đi vào ổn định. So với cuối năm 2007, tỷ giá
VNĐ/USD tăng khoảng 9%, đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của
những ngành hàng có đầu tư lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ
tăng cao.
2.4 Xuất nhập khẩu
Năm 2008 đã chứng kiến những biến động chưa từng có về giá hàng hóa xuất
nhập khẩu. Nửa đầu năm, giá hàng hóa trên thị trường thế giới leo thang đã gây áp lực
tăng chi phí nhập khẩu và đẩy nhập siêu lên cao, thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu.
10
Từ cuối tháng 7/2008, tác động của khủng hoảng tới hoạt động xuất nhập khẩu
Việt Nam thể hiện rõ rệt. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đồng loạt giảm giá mạnh,
đặc biệt ở mặt hàng dầu thô, nông sản, thủy sản… Trong 2 tháng cuối năm, lượng đơn
hàng từ đối tác nước ngoài của nhiều ngành hàng bị hủy bỏ hoặc sụt giảm mạnh.
Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước chuyển động mới, mở
rộng thị trường xuất khẩu. Khi những thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản..
gặp khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã chủ động khai thác và mở rộng sang thị trường
mới hoặc đã thâm nhập trước đó.
Trong 5 tháng đầu năm 2008 nhập siêu tăng mạnh lên tới 14,4 tỉ USD. Tuy
nhiên, liên tiếp trong 7 tháng cuối năm, nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp, một phần
do giá hàng hóa nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu.
2.5. Thất nghiệp
Khủng hoảng kinh tế 2008 khiến tình trạng thất nghiệp tăng cao trên khắp thế
giới. Xu hướng mất việc diễn biến phức tạp do nhiều doanh nghiệp không nhận được
đơn đặt hàng từ phía nước ngoài, không tiêu thụ được hàng hóa. Số lao động mất việc
làm năm 2008 tại 41 tỉnh, thành phố là 66707 người. Dù chính phủ nỗ lực đưa ra nhiều
biện pháp ưu đãi doanh nghiệp, nhiều dự đoán vẫn cho rằng tỉ lệ thất nghiệp ở Việt
Nam trong năm 2009 sẽ cao gấp 5 lần so với năm 2008.
3. Thị trường bất động sản chống trọi với khủng hoảng kinh tế 2008
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế thì tác động qua lại giữa các
nền kinh tế, trong đó có tác động tích cực và tác động tiêu cực là không thể tránh khỏi.
Việc cần thiết là chủ động phân tích, đánh giá rút ra các bài học kinh nghiệm để phát
huy các mặt tích cực và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực đối với nền kinh tế của đất
nước. Thị trường bất động sản Việt nam tuy mới hình thành nhưng cũng đã thể hiện
tầm quan trọng, có ảnh hưởng không nhỏ tới các thị trường khác. Câu hỏi đặt ra là thị
trường bất động sản Việt nam có giống thị trường bất động sản Mỹ mà chúng ta đã
11
chứng kiến đợt khủng hoảng tài chính - tín dụng bất động sản vừa qua, đang tác động
mạnh đến hệ thống tài chính cũng như tín dụng của rất nhiều các quốc gia, các khu vực
lớn và nhỏ trên thế giới?
3.1. Về khủng hoảng tài chính - tín dụng bất động sản tại Hoa Kỳ
Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ lâm vào tình trạng khủng hoảng từ giữa năm
2007 và đỉnh điểm là tháng 9 năm nay (2008). Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ cho vay
nhà đất thứ cấp làm sụp đổ 3 trong 5 ngân hàng đầu tư lớn nhất nước Mỹ là Bear
Stearns, Merill Lynch, Lehman Brothers (chỉ còn lại Goldman Sachs và Morgan
Stanley) và 2 tập đoàn cung cấp tín dụng thế chấp thứ cấp bất động sản lớn nhất nước
Mỹ (chiếm gần một nửa bất động sản cầm cố trong cả nước, khoảng 5.000 tỷ Đô la
Mỹ) là Fannie Mae và Freddie Mac được Chính phủ tiếp quản. Để cứu vãn thị trường
tài chính, tránh một cuộc sụp đổ hệ thống, Quốc Hội Mỹ đã buộc phải phê chuẩn kế
hoạch 700 tỷ USD để hỗ trợ thị trường tài chính.
Nhiều chuyên gia kinh tế có uy tín trong và ngoài nước đã phân tích các nguyên
nhân của cuộc khủng hoảng tài chính - tín dụng tại các nước, nhưng có thể rút ra một
số nguyên nhân cơ bản sau đây:
** Nguyên nhân đầu tiên quan trọng nhất là gia tăng nguồn vốn tài trợ để mua
bán nhà ở thông qua kỹ thuật “chứng khoán hóa bất động sản thế chấp” trong khi hệ
thống kiểm soát không theo kịp là nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng
** Nguyên nhân thứ hai là việc cho vay mua nhà ở dễ dãi “dưới chuẩn” nhưng
thiếu cơ chế kiểm soát
** Nguyên nhân thứ ba là giá bất động sản tại Mỹ tăng liên tục đã lôi kéo các
nhà đầu tư và cả người dân đổ xô vào kinh doanh bất động sản làm cung vượt quá cầu
3.2. Đối chiếu với thị trường bất động sản Việt Nam
12
Kể từ khi đất nước thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thị trường bất động sản cũng được
điều chỉnh theo cơ chế chung. Tuy vậy, thị trường bất động sản Việt nam do mới hình
thành nên có những đặc điểm khác so với các thị trường bất động sản Mỹ. Cụ thể như
sau:
Ở Việt Nam chưa có khung pháp lý cho việc chứng khoán hóa bất động sản nên
chưa có việc các ngân hàng phát hành trái phiếu cho bất động sản thế chấp. Vì vậy, tuy
có hạn chế về huy động vốn cho thị trường bất động sản nhưng chưa có những rủi ro
do “chứng khoán hóa” bất động sản gây nên.
Quan hệ cung - cầu trên thị trường bất động sản Việt nam vẫn mất cân đối theo
hướng cầu luôn lớn hơn cung và xu hướng này vẫn còn kéo dài trong tương lai vì tốc
độ đô thị hoá vẫn tăng cao trong thời gian tới dẫn đến nhu cầu về nhà ở, hạ tầng khu
công nghiệp, khách sạn, văn phòng cho thuê tăng nhanh. Tuy tiềm năng của thị trường
bất động sản Việt nam còn rất lớn, nhưng thị trường cũng có dấu hiệu thiếu ổn định và
tiềm ẩn nhiều rủi ro, thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất: Trong năm 2006, 2007 tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã
xảy ra tình trạng giá văn phòng cho thuê, căn hộ cao cấp, giá chuyển nhượng quyền sử
dụng đất để xây dựng nhà ở riêng lẻ tăng đột biến, cục bộ ở một số dự án, một số khu
vực nhất định. Tại những khu vực giá bất động sản tăng đột biến đã có hiện tượng đầu
cơ, mua đi bán lại, các nhà đầu tư giữ hàng không đưa ra thị trường, nhằm đẩy giá lên
cao.
Thứ hai: Hàng hoá bất động sản, nhất là nhà ở có cơ cấu không hợp lý, chủ yếu
các doanh nghiệp đầu tư loại nhà cao cấp, diện tích rộng và giá thành lớn chỉ phù hợp
với đối tượng có thu nhập cao, trong khi đó nhu cầu và khả năng của phân khúc thị
13
trường này chỉ chiếm khoảng 5% thị trường nhà ở. Thị trường thiếu hàng hoá có quy
mô và giá cả phù hợp với đa số nhu cầu của thị trường, thiếu loại nhà ở cho thuê phù
hợp với nhu cầu của đối tượng thu nhập trung bình và thấp. Đây cũng là biểu hiện của
quan hệ cung cầu không phù hợp và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra
khủng hoảng.
Thứ ba: Lợi nhuận cao trên thị trường bất động sản trong thời gian vừa qua đã
thu hút nhiều công ty, tập đoàn lớn thành lập công ty kinh doanh bất động sản. Nhiều
ngân hàng có quỹ hoặc công ty kinh doanh bất động sản, xuất hiện đầu tư nội bộ khó
kiểm soát. Nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng tài chính, thiếu kinh nghiệm cũng
tham gia đầu tư kinh doanh bất động sản nên đã nảy sinh hiện tượng cạnh tranh không
lành mạnh, đầu tư theo phong trào, đầu tư không hiệu quả.
Thứ tư: Việc cho vay mua bán bất động sản cũng có biểu hiện cho vay dễ dãi
nhất là vào thời điểm cuối năm 2007. Do bùng nổ sự ra đời các ngân hàng thương mại
cổ phần vào cuối 2006 đầu 2007, tạo áp lực cạnh tranh trong kinh doanh quay vòng
vốn nên có biểu hiện cho vay dễ dãi. Có những ngân hàng cho vay mua bất động sản
đến 70% giá trị bất động sản thế chấp tại thời điểm giá bất động sản cao. Có những
ngân hàng cho doanh nghiệp vay tín chấp hoặc thế chấp bằng chính dự án với số vốn
lớn để đầu tư bất động sản. Như vậy, cũng xuất hiện nguy cơ khi thị trường bất động
sản trầm lắng, giá bất động sản giảm, người vay không có khả năng thanh toán sẽ xuất
hiện hiện tượng mất tính thanh khoản và “tự lỗ”.
Thứ năm: Mặc dù chưa có khung pháp lý cho việc chứng khoán hóa bất động
sản thế chấp, nhưng cũng có hiện tượng có công ty kinh doanh bất động sản ban hành
trái phiếu doanh nghiệp (theo quy định tại Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5
năm 2006 của Chính phủ) và cho người mua trái phiếu quyền ưu tiên mua bất động
sản.
14
Thứ sáu: Chính sách tín dụng không ổn định, việc hạn chế cho vay đầu tư kinh
doanh bất động sản và tăng lãi suất cho vay vào những tháng giữa năm 2008, tuy có tác
động hạn chế đầu cơ bất động sản, góp phần “giảm nhiệt” thị trường nhưng làm các
chủ đầu tư khó khăn trong việc huy động vốn, nhiều dự án đã bị kéo dài tiến độ hoặc bị
đình hoãn có thể dẫn đến nguy cơ thiếu hàng hóa xét trong ngắn hạn vài ba năm tới,
làm trầm trọng thêm sự mất cân đối cung cầu, làm thị trường phát triển thiếu ổn định.
Tóm lại dưới góc độ tài chính, thị trường bất động sản Việt Nam không có
những rủi ro do “chứng khoán hóa” bất động sản gây nên nhưng cũng có những biểu
hiện tác động ngược từ thị trường bất động sản tới thị trường tài chính, ngân hàng
thông qua việc vay vốn thế chấp để đầu cơ bất động sản nhưng nhỏ hơn về quy mô và
mức độ.
Để thị trường bất động sản Việt Nam phát triển lành mạnh, ổn định và bền
vững, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội cần phải triển khai có
hiệu quả các nhóm giải pháp đã được nêu trong Chỉ thị số 01/2008/CT-TTg ngày
08/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển và quản
lý thị trường bất động sản, đồng thời tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các định chế tài chính
bất động sản của Mỹ và các nước khác như các quỹ đầu tư, tái thế chấp, tín thác bất
động sản để áp dụng nhằm đa dạng hóa nguồn vốn cho thị trường bất động sản, nhưng
kèm theo là cơ chế kiểm soát hiệu quả.
4. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến thị trường chứng khoán
Việt Nam
Hai năm 2006-2007, thị trường chứng khoán Việt nam phát triển bong bong với
tốc độ chóng mặt và là một trong những nước có tốc độ phát triển TTCK nhanh hàng
đầu thế giới. Nhưng bước sang năm 2008, TTCK Việt Nam cũng lại nằm trong những
nước đứng đầu về tốc độ suy giảm.
15
TTCK Việt Nam đã có 1 năm đầy biến động, tụt giảm sâu hơn dự đoán nhiều
chuyên gia, VN-Index giảm 66%, Hastc-Index giảm 68%. Cuối năm 2007 vốn hóa thị
trường chiếm 40% GDP (30 tỉ USD) đến hết năm 2008 chỉ còn 13 tỉ USD chiếm 17%
GDP. Năm 2008 TTCK Việt Nam khép lại với 1 số điểm nổi bật: VN-Index và Hastc-
Index giảm mạnh, tính thanh khoản của thị trường kém, thị giá cổ phiếu sụt giảm với
nhiều mã cổ phiếu rơi xuống dưới mệnh giá khối ngoại thoái vốn, các cơ quan điều
hành liên tục can thiệp và tâm lý các nhà đầu tư ảm đạm.
Nối tiếp đà sụt giảm từ cuối năm 2007, đi xuống là xu hướng chủ đạo của
TTCK năm 2008.
Khởi đầu năm 2008, Việt Nam đã đón nhiều thông tin bất lợi từ chính sách thắt
chặt tiền tệ của nhà nước nhằm khống chế lạm phát ở mức 2 con số. Các biện pháp thắt
chặt tiền tệ đã đẩy lãi suất huy động lên cao. Cùng với sự suy giảm của TTCK, đặc biệt
là thị trường cổ phiếu xuống giá khiến nhiều nhà đầu tư rời bỏ thị trường chuyển sang
gửi tiền ở ngân hàng với độ an toàn và lãi suất cao hơn.
Ngày 25/3/2008 VN-Index đã chính thức phá đáy 500 điểm, đóng cửa tại 496.64
điểm. Sự điều chỉnh biên độ giao động giá cổ phiếu của UBCKNN khiến giảm bớt tình
trạng hoảng loạn bán tháo của nhà đầu tư và thay vào đó là tâm lý đầu cơ mua vào,
khiến thị trường có những dấu hiệu ổn định hơn.
Ngày 3/4/2008 HoSE lên 2% và Hastc lên 3%
Mặc dù vậy, những yếu tố kinh tế vĩ mô vẫn còn xấu nên xu hướng tăng trong
ngắn hạn đã nhanh chóng chấm dứt.
Trong tháng 5/2008 khi lượng cung tăng mạnh ở tất cả các mã cổ phiếu thì
lượng đặt mua lại rất thưa thớt, VN-Index giảm liên tiếp 25 phiên, Hastc giảm liên tiếp
28 phiên, thị trường gần như mất thanh khoản. Theo thống kê, sức cầu toàn thị trường
của cả HoSE và Hastc trong giai đoạn từ 15/5-15/6 chỉ đạt 140 tỷ/ ngày và đây cũng là
mức thấp nhất kể từ năm 2006.
16
Bước sang đầu quý III, cung với những dấu hiệu cải thiện của các yếu tố kinh tế
vĩ mô TTCK đã có sự phục hồi trong ngắn hạn.
Đến tận 9/2008 TTCK đã chứng kiến giai đoạn hoạt động sôi nổi nhất của thị
trường: cả HoSE và Hastc đã có những phiên tăng điểm mạnh. Trong giai đoạn này, cổ
phiếu được ưa chuộng nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí, nguyên vật liệu và công nghệ.
Chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, TTCK Việt Nam chịu nhiều
ảnh hưởng sâu sắc. Trên TTCK Việt Nam, khối lượng giao dịch giảm dần và xuất hiện
hiện tượng khối đầu tư nước ngoài bán ra với quy mô khá lớn. Giai đoạn bán ròng của
các khối nhà đầu tư nước ngoài diễn ra từ đầu tháng 9 và lên mức đỉnh trong tháng 10.
Lần đầu tiên sau 3 năm thành lập, Hastc chứng kiến chỉ số Hastc-Index giảm
dưới mốc 100 điểm, chỉ còn 97.61 điểm vào ngày 27/11 và đây cũng là mức đáy của
Hastc-Index trong năm 2008.
Ngày 10/12/2008, VN-Index xuống đáy thấp nhất trong năm 2008 ở mức 286,85
điểm.
Năm 2008 đầy thăng trầm và song gió với TTCK Việt nam đã kết thúc bằng một
phiên giảm điểm.
Tại thời điểm 31/12/2008, sau một năm giá trị vốn hóa của TTCK đã mất đi
269.000 tỷ đồng. Giá trị vốn hóa thị trường của tất cả các cổ phiếu đang niêm yết trên
cả 2 sàn hơn 225.300 tỉ đồng trong khi cuối năm 2007 là 494.500 tỷ đồng.
17
5. Hệ thống ngân hàng thương mại trước tác động của khủng hoảng 2008
5.1. Vài nét Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam
- Các ngân hàng thương mại chú trọng đến 4 trụ cột trong hoạt động:
+ Quy mô tổng tài sản
+ Hiện đại hoá
+ Nguồn nhân lực
+ Quản trị điều hành theo chuẩn mực quốc tế
18
0%
50%
100%
150%
200%
250%
300%
350%
400%
450%
500%
0
50
100
150
200
250
300
350
Tăng trưởng tổng tài sản năm 2007
Tổng tài sản Tăng trưởng tổng tải sản
Số lượng ngân hàng qua các năm (2005 – 5/2009)
2005 2006 2007 2008 5/2009
NHTM nhà nước 5 5 5 4 3
NHTM cổ phần 37 34 35 39 41
Ngân hàng liên doanh 4 5 5 5 5
Chi nhánh ngân hàng
nước ngoài
29 31 41 41 41
- Tốc độ tăng trưởng của hoạt động tín dụng và huy động tiền gửi ở mức rất
cao, đạt trung bình trên 35% /năm trong suốt giai đoạn 2002-2007.
- Mạng lưới hoạt động của các ngân hàng được phát triển rộng rãi và nhanh
chóng, đặc biệt là ngân hàng thương mại cổ phần
19
- Để cạnh tranh về huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng, các
NHTM cổ phần thường là người châm ngòi cho các cuộc chạy đua về lãi
suất cũng như hàng loạt chương trình khuyến mại.
5.2 Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tới các NHTM ở Việt Nam
5.2.1. Nhận định chung
Cuộc khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng ra toàn thế giới đã
kéo theo sự sụp độ của hàng loạt các hệ thống tài chính lớn. Theo Chính phủ và
Ngân hàng nhà nước, do chưa có mối liên hệ trực tiếp với thị trường tài chính
thế giới nên hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hưởng sâu sắc của
cuộc khủng hoảng 2008.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính làm suy giảm kinh tế toàn cầu đã
gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Từ đó, mối quan hệ tín
dụng của các NHTM với doanh nghiệp cũng chịu những ảnh hưởng tiêu cực.
5.2.2. Tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại
i) Cuộc chạy đua lãi suất giữa các NHTM và những hệ quả
Năm 2007 là thời điểm ngành ngân hàng chứng kiến sự tăng trưởng
mạnh về tín dụng (trên 50%). Tuy nhiên, đầu năm 2008, chịu ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính thế giới, Việt Nam phải đối mặt với tình hình lạm phát
cao cũng như sự sụt giảm mạnh của thị trường bất động sản và chứng khoán.
Trước hoàn cảnh đó, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã ban hành những chính
sách thắt chặt tiền tệ, còn các ngân hàng do lo ngại rủi ro tín dụng nên thận
trọng hơn trong việc cho vay vốn. Vì lẽ đó, lãi suất cho vay tăng mạnh lại trở
thành rào cản đối với các nhu cầu tín dụng.
Những biện pháp của NHNN cộng với sự khó khăn về thanh khoản của
các NHTM đã gây không ít khó khăn cho các ngân hàng, đặc biệt là hoạt động
huy động vốn. Trong thời kì này, lãi suất huy động và cho vay có những biến
20
động lớn chưa từng có. Tháng 5/2008 đã bùng phát một cuộc chạy đua lãi suất
và tạo ra những đỉnh điểm nóng trong tháng 6/2008. Trên thị trường liên ngân
hàng, lãi suất đã đạt tới mức kỉ lục đến trên 40%/năm.
Ví dụ, ngày 11/6/2008, lãi suất cơ bản đối với VND được tăng lên
14%/năm, có nghĩa là vào thời điểm đó lãi suất cho vay tối đa cho các NHTM là
21%. Từ mức đỉnh là 16,54%/ năm vào ngày 10/6/2008, ngày 11/6/2008, lãi
suất huy động VND của các ngân hàng liên tục được đẩy lên. Đến cuối ngày
11/6, đã có 20 NHTM công bố điều chỉnh lãi suất. Trong ngày 11/6, mức lãi
suất kỉ lục 19,2%/ năm, kì hạn 13 tháng đã được thiết lập bởi Ngân hàng Đông
Nam Á (SeABank). Ngày 30/6, Ngân hàng Kiên Long TP Hồ Chí Minh đã áp
dụng mức lãi suất huy động phá kỉ lục là 20%/năm cho kì hạn 12 tháng.
Như đã nói ở trên, trong giai đoạn đối đầu với cơn bão khủng hoảng, các
NHTM cũng trở nên cầm chừng hơn trong hoạt động cho vay. Chính vì lẽ đó mà
các doanh nghiệp vừa gặp phải rào cản về lãi suất quá cao vừa gặp khó khăn về
khả năng tiếp cận vốn. Tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ và tốc độ tăng
trưởng tín dụng giảm mạnh và bước vào giai đoạn thấp nhất trong năm.
Các NHTM cho vay chủ yêu vẫn dựa trên tài sản thế chấp là bất động sản. Chịu
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, thị trường bất động sản biến động vô
21
cùng phức tạp. Điều này làm cho chất lượng của tài sản đảm bảo cho các khoản vay
bị giảm sút. Trong khi đó các doanh nghiệp bản thân đang gặp khó khăn lại chịu
những rào cản về chi phí vay vốn tăng cao. Hoạt động cho vay của NHTM vì thế
mà giảm sút. Cùng với sự giảm mạnh của tín dụng, các NHTM đứng trước nguy cơ
tăng nợ xấu và rủi ro kinh doanh.
Nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2008
Tính chung toàn
hệ thống
NHTM
nhà nước
NHTM cổ phần
NHTM liên doanh
và nước ngoài
3,5% 4,59% 2,44% 1,45%
Từ cuối năm 2008 đến đầu năm 2009, sự nới lỏng chính sách tiền tệ của
NHNN đã khiến cho lãi suất huy động và cho vay đang ở mức cao giảm liên tục.
Ví dụ, từ đỉnh điểm 20%/năm lãi suất huy động VND xuống còn 12,75%/năm
(Từ tháng 9 đến cuối năm 2008)
Diễn biến lãi suất huy động và cho vay
12.6
16.5 16.5 16.7 17.5
21 20.5 20.5 20.5
19
15.5
11.8 11.4
10.1 9.9 9.9
8.8
10.3
11.4 12
14.3
17.2 17.7 17.7 17.3 17.4
12.8
9.2
7.7 7.4 7.7 7.7
0
5
10
15
20
25
Cho vay Huy động
22
ii) Diễn biến tỷ giá năm 2008 biến động mạnh
Chịu ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tê, thậm chí cả tin
đồn…, diễn biến tỷ giá năm 2008 tại Việt Nam biến động phức tạp. Sự biến
động này đã gây không ít khó khăn và thiệt hại cho các doanh nghiệp ở cả lĩnh
vực xuất khẩu và nhập khẩu.
Đến cuối tháng 11/2008, so với cuối năm 2007 thì tỷ giá bình quân liên
ngân hàng tăng 2,75% (tỷ lệ này năm 2007 là 0,17%). Tỷ giá mua bán của các
NHTM trong biên độ cho phép. Mặc dù diễn biến của tỷ giá về cơ bản trong sự
điều hành của NHNN nhưng tỷ giá trên thị trường có lúc diễn biến bất thường
do xu hướng nhập siêu gia tăng, diễn biến thị trường vàng, ngoại tệ trên thế giới
phức tạp… đã tác động đến tâm lý người dân và nhà đầu tư.
Một bộ phận các nhà đầu cơ ngoại tệ đã tích trữ ngoại tệ, do đó, đã đẩy tỷ
giá tăng cao và liên tục trong tháng 6/2008. Trong khoảng thời gian này, tỷ giá
và cung cầu ngoại tệ diễn biến nhanh, thừa ngoại tệ nhiều, sau đó lại khan hiếm
ngoại tệ. Hiện tượng thu phí ngoại hối diễn ra, một số ngân hàng đã tìm cách
lách biên độ bằng cách giao dịch bằng đồng tiền thứ ba. Điều này lại tác động
ngược trở lại thị trường ngoại hối, gây tâm lý cho người dân và làm lợi cho đầu
cơ, ảnh hưởng nhiều đến các doanh nghiệp. Trước những diễn biến phức tạp của
thị trường ngoại hối, NHNN đã nghiêm cấm việc thu phí và giao dịch qua đồng
tiền thứ ba.
Sau những biến động phức tạp, những dấu hiệu khả quan về nhập siêu,
tăng trưởng kinh tế, lạm phát, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kim ngạch
xuát khẩu mà đặc biệt là thông tin về dự trữ ngoại tệ quốc gia… thị trường có
những phản ứng tích cực. Tỷ giá cũng như quan hệ cung-cầu tín dụng đã ổn
định trở lại, các tổ chức tín dụng đảm bảo đáp ứng ngoại tệ cho các hoạt động
xuất nhập khẩu.
23
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN
Có thể nói, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 vừa là cơ hội, vừa
là thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Khó ai có thể phủ
nhận ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh
của Việt Nam cũng như với các thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán,….
Hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam liên quan đến nền kinh tế thế giới đều
bị tác động mạnh bởi cơn bão tài chính.
Tuy nhiên, cú va đập mà Việt Nam phải gánh chịu đã được giảm nhẹ rất nhiều
do một số nguyên nhân. Nguyên nhân chủ yếu là do việc Việt Nam chưa hội quá sâu
vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Chính phủ và
doanh nghiệp ta chưa có quan hệ vay nợ nhiều với các tổ chức tín dụng quốc tế nên
24
kinh tế trong nước hầu như không bị ảnh hưởng khi hệ thống tài chính toàn cầu chao
đảo với 169 ngân hàng phá sản tại Mỹ. Ngược lại, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam,
với tư cách là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), lại được hưởng lợi
do không phải chịu hàng rào thuế quan quá ngặt nghèo. Ngoài ra, còn có nguyên nhân
chủ quan nằm ở chính kiểu sống của người Việt nói riêng và người châu Á nói chung.
Người Mỹ sở dĩ phải chịu đựng hậu quả nặng nề là do họ tiêu dùng nhiều hơn những gì
mình làm ra. Họ sinh hoạt bằng tiền đi vay. Nợ quốc gia của Mỹ hiện chiếm 85% GDP.
Nếu tính cả nợ tư nhân, con số này lớn gấp 10 lần số của cải nước Mỹ có thể làm ra
trong một năm. Nước Nhật cũng ở tình trạng tương tự khi giá trị nợ đã lên tới 159%
GDP. Người Việt thì không như vậy: Biết tiết kiệm và biết để dành.
Với những nhân tố nêu trên, chính phủ Việt Nam đã có những biện pháp tích
cực để đối phó với cuộc đại khủng hoảng này. Kết quả khả quan cho thấy kinh tế Việt
Nam đã đạt được mức tăng trưởng dương 5,32% trong năm 2009. Công đầu trong
những thành quả này thuộc về nhân dân và doanh nghiệp đã bươn trải để tồn tại và
chèo lái con thuyền kinh tế đi lên. Đứng trước những thay đổi lớn này của thế giới,
việc doanh nghiệp Việt có thích ứng được hay không chính là câu hỏi lớn đối với kinh
tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Khủng hoảng tài chính toàn cầu – Thách thức với Việt Nam, TS. Nguyễn Đức
Hưởng - NXB Thanh Niên
2 Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Chính trị
Quốc gia, 2009.
3 Hoạt động hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam 1 năm sau gia nhập
WTO, NXB Thống kê, 2007
4 Thời báo kinh tế Việt Nam
5 www.vneconomy.vn
6 www.baomoi.com
7 www.bloomberg.com
8 www.vnexpress.com
9 www.vntrades.com
10 Wikipedia

Mais conteúdo relacionado

Semelhante a Kinh tế vĩ mô.doc

Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
Linh Khánh
 
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảngCâc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
SanSan Nguyễn
 
Tiểu luận về chính sách tiền tệ
Tiểu luận về chính sách tiền tệTiểu luận về chính sách tiền tệ
Tiểu luận về chính sách tiền tệ
XUAN THU LA
 

Semelhante a Kinh tế vĩ mô.doc (20)

lạm phát và tăng trưởng kinh tế
lạm phát và tăng trưởng kinh tếlạm phát và tăng trưởng kinh tế
lạm phát và tăng trưởng kinh tế
 
Gih1
Gih1Gih1
Gih1
 
Đề tài: Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay, HAY
Đề tài: Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay, HAYĐề tài: Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay, HAY
Đề tài: Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
 
Đề tài: Cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng lạm phát, đề ...
Đề tài: Cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng lạm phát, đề ...Đề tài: Cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng lạm phát, đề ...
Đề tài: Cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng lạm phát, đề ...
 
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảngCâc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
 
Đề tài: Học thuyết kinh tế của John Maynard Keynes và ứng dụng học thuyết kin...
Đề tài: Học thuyết kinh tế của John Maynard Keynes và ứng dụng học thuyết kin...Đề tài: Học thuyết kinh tế của John Maynard Keynes và ứng dụng học thuyết kin...
Đề tài: Học thuyết kinh tế của John Maynard Keynes và ứng dụng học thuyết kin...
 
BÁO CÁO KTVM.docx
BÁO CÁO KTVM.docxBÁO CÁO KTVM.docx
BÁO CÁO KTVM.docx
 
Bài thảo luận nhóm 02
Bài thảo luận nhóm 02Bài thảo luận nhóm 02
Bài thảo luận nhóm 02
 
Vietnamese Inflation
Vietnamese InflationVietnamese Inflation
Vietnamese Inflation
 
Mối liên hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế việt nam trong thời gian qua
Mối liên hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế việt nam trong thời gian quaMối liên hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế việt nam trong thời gian qua
Mối liên hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế việt nam trong thời gian qua
 
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở việ...
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở việ...Tiểu luận môn tài chính tiền tệ các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở việ...
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở việ...
 
Các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở Việt Nam
Các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở Việt NamCác công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở Việt Nam
Các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở Việt Nam
 
Vi mô
Vi môVi mô
Vi mô
 
Báo cáo thực tập Khoa Đầu tư Tài chính Trường Đại học Kinh tế, 9 điểm.doc
Báo cáo thực tập Khoa Đầu tư Tài chính Trường Đại học Kinh tế, 9 điểm.docBáo cáo thực tập Khoa Đầu tư Tài chính Trường Đại học Kinh tế, 9 điểm.doc
Báo cáo thực tập Khoa Đầu tư Tài chính Trường Đại học Kinh tế, 9 điểm.doc
 
Chuong 14 tong cau va tong cung
Chuong 14 tong cau va tong cungChuong 14 tong cau va tong cung
Chuong 14 tong cau va tong cung
 
LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...
LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...
LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...
 
IMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu Á
IMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu ÁIMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu Á
IMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu Á
 
Tiểu luận về chính sách tiền tệ
Tiểu luận về chính sách tiền tệTiểu luận về chính sách tiền tệ
Tiểu luận về chính sách tiền tệ
 
Gỗ & Nội thất - VOL 86
Gỗ & Nội thất - VOL 86Gỗ & Nội thất - VOL 86
Gỗ & Nội thất - VOL 86
 

Kinh tế vĩ mô.doc

  • 1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG Khoa Quản Trị Kinh Doanh TIỂU LUẬN KINH TẾ VĨ MÔ Tên đề tài: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 -2008 Học viên: MSSV: Cần Thơ, Tháng 11 năm 2021
  • 2. 1 MỤC LỤC MỤC LỤC.................................................................................................................................. 1 PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 2 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ....................................................................................... 3 1. Khái niệm...................................................................................................................... 3 2. Phân loại....................................................................................................................... 4 3. Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế................................................................................ 5 CHƯƠNG 2: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆT NAM ............... 6 1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng................................................................................ 6 2. Kinh tế Việt Nam trước tác động của khủng hoảng ................................................ 7 3. Thị trường bất động sản chống trọi với khủng hoảng kinh tế 2008 ....................10 4. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giớiError! Bookmark not defined. 5. Hệ thống ngân hàng thương mại trước tác động của khủng hoảng 2008 ..........17 CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN......................................................................................................23 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................................25
  • 3. 2 PHẦN MỞ ĐẦU Khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng có tính chu kì của nền kinh tế. Nó tồn tại và xuất hiện như một phần không thể thiếu. Bởi khủng hoảng không chỉ gây những ảnh hưởng tiêu cực mà đồng thời ở một góc nhìn khác nó cũng tác động tích cực đến nền kinh tế. Đây là lí do để tôi lựa chọn đề tài này. Từ đầu thế kỉ XX đến nay, kinh tế thế giới đã xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Trước năm 2008, cuộc khủng hoảng 1929-1933 được coi là cuộc khủng hoảng lớn nhất và để lại nhiều thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, tháng 9 năm 2008 đã chứng kiến một cơn bão khủng hoảng trầm trọng hơn xuất phát từ Mĩ. Cuộc khủng hoảng này đã làm cho kinh tế thế giới nhanh chóng rơi vào suy thoái, kim ngạch thương mại sụt giảm mạnh, thất nghiệp tăng, lòng tin của các nhà đầu tư giảm sút nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng này không chỉ gây điêu đứng nền kinh tế Mỹ, mà hậu quả của nó còn lan rộng ra khắp các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Việt Nam là một nền kinh tế mở, và đang phát triển. Từ khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam có nhiều tương tác và liên hệ trực tiếp hơn với nền kinh tế toàn cầu nên Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng trên khắp các phương diện: thị trường chứng khoán, bất động sản, ngân hàng, hệ thống tài chính,… Bài tiểu luận của tôi được viết nhằm trình bày có hệ thống những vấn đề tổng quan về khủng hoảng kinh tế. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu từ khái niệm của khủng hoảng kinh tế, cho đến nguyên nhân, tác động của nó đến nền kinh tế quốc dân. Từ nền kiến thức cơ bản đó, ta có thể phân tích và hiểu hơn về ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng 2008 tới nền kinh tế Việt Nam. Hi vọng rằng qua bài tiểu luận này, chúng ta sẽ thu nhận được cho bản thân những kiến thức cơ bản về khủng hoảng kinh tế - một khái niệm cơ bản của kinh tế học cũng như những nhận thức, tri thức về nền kinh tế Việt Nam đã chịu những tàn phá như thế nào trong cơn bão khủng hoảng đó.
  • 4. 3 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1. Khái niệm “Nếu như trong sản xuất hàng hóa giản đơn, với sự phát triển của chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng nổ ra khủng hoảng kinh tế, thì đến chủ nghĩa tư bản, khi nền sản xuất xã hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là điều không thể tránh khỏi” (Giáo trình NNLCB của Chủ nghĩa Mác-Lênin). Như vậy, khủng hoảng kinh tế là thuật ngữ đã xuất hiện rất lâu trong công cuộc phát triển kinh tế. Trước hết, để hiểu hơn về khủng hoảng kinh tế, ta đi tìm hiểu thuật ngữ “suy thoái kinh tế”. Suy thoái kinh tế theo định nghĩa của kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm tổng sản phẩm quốc nội thực (GNP) trong thời gian hai hoặc lớn hơn hai quý liên tiếp trong năm. Hay nói theo cách khác thì suy thoái kinh tế là tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tiếp trong hai quý. Suy thoái kinh tế là sự tụt giảm của tất cả các hoạt động kinh tế bao gồm cả việc làm, đầu tư và lợi nhuận doanh nghiệp, kéo theo cả hạ giá cả (giảm phát) và tăng nhanh giá cả (lạm phát). Theo học thuyết kinh tế của Các-mác, khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kì kinh tế. Khủng hoảng kinh tế ám chỉ thời gian chuyển biến rất nhanh sang giai đoạn suy thoái kinh tế. Như vậy ta có thể kết luận rằng sự suy thoái kinh tế trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng hoảng kinh tế. Chính sách tài khóa trong kinh tế học vĩ mô là chính sách thông qua chế độ thuế và đầu tư công để tác động tới nền kinh tế. Chính sách tài khóa cùng với chính sách tiền tệ là các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, nhằm ổn định và phát triển kinh tế. Khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái, nhà nước có thể giảm thuế, tăng chi tiêu (đầu tư công) để chống lại. Chính sách tài chính như thế gọi là chính sách tài khóa mở rộng. Ngược lại, khi nền kinh tế ở tình trạng lạm phát và có hiện tượng nóng, thì nhà
  • 5. 4 nước có thể tăng thuế và giảm chi tiêu của mình để ngăn cho nền kinh tế khỏi rơi vào tình trạng quá nóng dẫn tới đổ vỡ. Chính sách tài khóa như thế này gọi là chính sách tài khóa thắt chặt. Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là quá trình quản lý cung tiền của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; quy định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối. 2. Phân loại 2.1. Khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa Trong suốt quá trình phát triển, nền kinh tế của toàn Thế giới đã phải trải qua nhiều cuộc khủng hoảng khác nhau nhưng hình thức khủng hoảng đầu tiên và phổ biến nhất là “Khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa”. Khủng hoảng này nổ ra đầu tiên vào năm 1825 và nhiều năm tiếp theo. Ví dụ: cuộc khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa gây ra hậu quả nặng nề nhất là vào năm 1929 kéo dài tới năm 1933. Với kiểu khủng hoảng kinh tế này thì tình trạng thừa hàng hoá không phải là thừa so với nhu cầu xã hội mà là thừa so với sức mua có hạn của quần chúng lao động, kéo theo sản xuất giảm sút, vốn đầu tư bị rút bớt, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao và tỉ lệ tái sản xuất bị rối loạn. Khi nổ ra khủng hoảng thì hàng hoá không được tiêu thụ, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thị trường bị rối loạn, hàng hoá thì bị phá huỷ. Hàng triệu người lao động lâm vào tình trạng đói khổ vì họ không có khả năng thanh toán.
  • 6. 5 2.2. Khủng hoảng tài chính (KHTC) Được định nghĩa là trạng thái chấn động của hệ thống tài chính, từ hệ thống lưu thông tiền tệ, tín dụng, đến tài chính nhà nước. Biểu hiện của khủng hoảng này chủ yếu là ở sự mất ổn định, mất cân đối giữa thu và chi, thiếu hụt nghiêm trọng và kéo dài các nguồn vốn ngân sách nhà nước và tín dụng của ngân hàng, kéo theo lạm phát, đồng tiền mất giá nghiêm trọng. KHTC bắt nguồn từ sự thiếu hụt ngân sách do đề phòng và chuẩn bị chiến tranh, tăng cường lực lượng quân sự, hoặc do chi tiêu vào phúc lợi xã hội quá sức chịu đựng của nền kinh tế, hoặc đầu tư nhiều mà không có hiệu quả, tất cả đều có thể dẫn đến KHTC. Khủng hoảng thị trường tài chính xảy ra khi những món nợ đến hạn không thu hồi được, do việc cấp phát vốn, cấp tín dụng không kiểm tra, kiểm soát, không xem xét khả năng hoàn vốn của những đơn vị vay, hoặc do giá chứng khoán cổ phần đột nhiên giảm sút. Ví dụ: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nặng nề nhất đã xảy ra tại các nước Châu Á năm 1997. 2.3. Khủng hoảng tiền tệ và tín dụng (KHTT-TD) Là sự chấn động, rối loạn của hệ thống lưu thông tiền tệ và tín dụng, nảy sinh do khủng hoảng chu kì của sản xuất (khủng hoảng kinh tế) hoặc do các sự kiện đặc biệt thất thường về kinh tế và chính trị. Trên thị trường tiền tệ, KHTT-TD biểu hiện dưới dạng thiếu tiền cho vay và tăng cao lãi suất. Đặc trưng của nó là "nạn đói tiền" hay là sự "rối loạn" toàn bộ lưu thông tiền tệ, và sự mất giá đồng tiền. Ví dụ: Một trong những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nghiêm trọng đã xảy ra vào nửa cuối năm 1997 ở các nước Đông Nam Á (Thái Lan, Indonesia, Philippin, Malayxia) và một số nước Đông Á khác, và ở cả một số nước phát triển Châu Âu. 3. Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế Nền kinh tế trong chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Dựa trên đó, các nhà nghiên cứu đã tính được chu kỳ
  • 7. 6 của khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế chính là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Nhìn chung, cứ từ 8 đến 12 năm lại xuất hiện một cuộc khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ kinh tế gồm 4 giai đoạn: Khủng hoảng, Tiêu điều, Phục hồi, Hưng thịnh.  Khủng hoảng là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn này, hàng hóa ế thừa, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Nhà tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ dẫn đến phá sản nên lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng.  Tiêu điều là giai đoạn sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp tục đi xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp đình đốn, tư bản không có nơi đầu tư.  Phục hồi là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất. Công nhân lại được thu hút vào làm việc, mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.  Hưng thịnh là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kì trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới. CHƯƠNG 2: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆT NAM 1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản chính là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Đó chính là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hoá cao
  • 8. 7 của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Để hiểu rõ được mâu thuẫn này, ta phải xem xét đến phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong khi lực lượng sản xuất có công cụ sản xuất luôn được cải tiến nhờ sự sáng tạo vượt bậc của con người, nhờ có sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất và do đó nó mang tính xã hội hoá cao. Còn về quan hệ sản xuất lại mang tính tư hữu hoá bởi nó thuộc sở hữu của các nhà tư bản nên quy mô của nó hay cung cách tổ chức phụ thuộc vào đó. Do vậy sinh ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được thể hiện qua: - Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội. - Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích luỹ, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sự sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá. - Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm thuê. - Sự mâu thuẫn này có thể là nguyên nhân chính gây ra các cuộc khủng hoảng kinh tế kéo theo nó là các vụ bãi công, biểu tình đòi lại quyền lợi của chính họ qua sự bóc lột nặng nề của các chủ tư biển thông qua giá trị thặng dư. - Đây là ba mâu thuẫn cơ bản dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế. Bên cạnh đó cũng có nhiều nguyên nhân khác như sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị gây ra khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa. 2. Kinh tế Việt Nam trước tác động của khủng hoảng Với đà tăng trưởng kinh tế rất ấn tượng và lạc quan trong năm 2007, tác động của cơn bão khủng hoảng tài chính đến Việt Nam có chậm hơn so với nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên kinh tế Việt Nam năm 2008 cũng không nằm ngoài dòng chảy của
  • 9. 8 kinh tế thế giới. Sau đây là một số phân tích về kinh tế Việt Nam trước tác động của khủng hoảng tài chính 2008. 2.1. FDI Xu hướng vốn đăng kí vào Việt Nam đang giảm dần về cuối năm 2008. Trong 9 tháng đầu năm 2008, Việt Nam thu hút được 57,12 tỉ USD vốn đầu tư đăng kí, bình quân gần 6,35 tỉ USD/ tháng. Tuy vậy, tháng 10/2008 chỉ có thêm được 2,19 tỉ USD, tháng 11/2008 thêm 3,19 tỉ USD, tháng 12/2008 thêm 1,51 tỉ USD Năm 2008 cũng chứng kiến sự sụt giảm số lượng dự án FDI. Trong năm này cả nước đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 1171 dự án, trong khi đó con số của năm 2007 là 1406 dự án. 2.2. Lạm phát Trong nửa đầu năm 2008, lạm phát đã trở thành vấn đề hàng đầu của chính sách kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) liên tục leo thang, diễn biến lạm phát cũng rất phức tạp. Trong giai đoạn này, USD yếu làm giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các nước xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương đối. Giá dầu thô tăng vọt từ 89,4 USD/ thùng (12/2007) lên 147 USD/ thùng(7/2008), giá phôi thép tăng khiến các doanh nghiệp tranh thủ nhập khẩu. Đà tăng trưởng từ năm 2007 khiến lượng tiền đồng trong nền kinh tế tăng lên, cao hơn so với sức hấp thụ của nền kinh tế, cộng thêm việc nhập siêu nửa đầu năm 2008 cao hơn mức nhập siêu cả năm 2007, làm gia tăng áp lực lạm phát. Trước tình hình trên, chính phủ đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát: thắt chặt tiền tệ, cắt giảm đầu tư chi phí không cần thiết, đẩy mạnh sản xuất, đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu, chống nhập siêu, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, quản lí thị trường, chống đầu cơ, triển khai mở rộng các chính sách an ninh xã hội, ổn định tình hình kinh tế xã hội. Cùng lúc đó, giá
  • 10. 9 cả hàng hóa toàn cầu giảm xuống, tạo thuận lợi cho giảm giá đầu vào của sản xuất trong nước. Nhờ vậy, lạm phát dần có những diễn biến tích cực. Từ tháng 10/2008, xuất hiện dấu hiệu giảm phát khi CPI giảm xuống 148,20 so với mức 148,48 của tháng 9/2008. 2.3. Chính sách tiền tệ và tài khóa Trước những dấu hiệu gia tăng lạm phát xuất hiện cuối năm 2007, ngay đầu năm 2008, Ngân hàng nhà nước đã theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt. Thị trường chứng khoán sụt giảm, nguồn tín dụng ở trong tình trạng khan hiếm, mặt bằng lãi suất lên cao. Trước tình hình đó, NHNN giảm lãi suất cơ bản, hạ tỉ lệ dự trữ bắt buộc,…. Trong quý IV/2008, chính sách tiền tệ được nới lỏng. Bên cạnh đó, chính phủ sử dụng kết hợp chính sách tài khóa, với việc ban hành các chính sách thuế nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế: tăng thuế nhập khẩu và hạ thuế xuất khẩu một số mặt hàng nhằm ổn định đầu vào sản xuất, khuyến khích xuất khẩu. Tỷ giá VNĐ/USD trong suốt năm 2008 cũng diễn biến rất phức tạp. Trong 3 tháng đầu năm, tỷ giá VNĐ/USD trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm. Từ giữa tháng 3 đến cuối tháng 7/2008, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6/2008. USD cùng với giá vàng tăng mạnh lên gần 19 triệu đồng/lượng. Từ nửa cuối tháng 7/2008, tỷ giá giảm dần và đi vào ổn định. So với cuối năm 2007, tỷ giá VNĐ/USD tăng khoảng 9%, đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành hàng có đầu tư lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao. 2.4 Xuất nhập khẩu Năm 2008 đã chứng kiến những biến động chưa từng có về giá hàng hóa xuất nhập khẩu. Nửa đầu năm, giá hàng hóa trên thị trường thế giới leo thang đã gây áp lực tăng chi phí nhập khẩu và đẩy nhập siêu lên cao, thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu.
  • 11. 10 Từ cuối tháng 7/2008, tác động của khủng hoảng tới hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam thể hiện rõ rệt. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đồng loạt giảm giá mạnh, đặc biệt ở mặt hàng dầu thô, nông sản, thủy sản… Trong 2 tháng cuối năm, lượng đơn hàng từ đối tác nước ngoài của nhiều ngành hàng bị hủy bỏ hoặc sụt giảm mạnh. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước chuyển động mới, mở rộng thị trường xuất khẩu. Khi những thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản.. gặp khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã chủ động khai thác và mở rộng sang thị trường mới hoặc đã thâm nhập trước đó. Trong 5 tháng đầu năm 2008 nhập siêu tăng mạnh lên tới 14,4 tỉ USD. Tuy nhiên, liên tiếp trong 7 tháng cuối năm, nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp, một phần do giá hàng hóa nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu. 2.5. Thất nghiệp Khủng hoảng kinh tế 2008 khiến tình trạng thất nghiệp tăng cao trên khắp thế giới. Xu hướng mất việc diễn biến phức tạp do nhiều doanh nghiệp không nhận được đơn đặt hàng từ phía nước ngoài, không tiêu thụ được hàng hóa. Số lao động mất việc làm năm 2008 tại 41 tỉnh, thành phố là 66707 người. Dù chính phủ nỗ lực đưa ra nhiều biện pháp ưu đãi doanh nghiệp, nhiều dự đoán vẫn cho rằng tỉ lệ thất nghiệp ở Việt Nam trong năm 2009 sẽ cao gấp 5 lần so với năm 2008. 3. Thị trường bất động sản chống trọi với khủng hoảng kinh tế 2008 Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế thì tác động qua lại giữa các nền kinh tế, trong đó có tác động tích cực và tác động tiêu cực là không thể tránh khỏi. Việc cần thiết là chủ động phân tích, đánh giá rút ra các bài học kinh nghiệm để phát huy các mặt tích cực và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực đối với nền kinh tế của đất nước. Thị trường bất động sản Việt nam tuy mới hình thành nhưng cũng đã thể hiện tầm quan trọng, có ảnh hưởng không nhỏ tới các thị trường khác. Câu hỏi đặt ra là thị trường bất động sản Việt nam có giống thị trường bất động sản Mỹ mà chúng ta đã
  • 12. 11 chứng kiến đợt khủng hoảng tài chính - tín dụng bất động sản vừa qua, đang tác động mạnh đến hệ thống tài chính cũng như tín dụng của rất nhiều các quốc gia, các khu vực lớn và nhỏ trên thế giới? 3.1. Về khủng hoảng tài chính - tín dụng bất động sản tại Hoa Kỳ Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ lâm vào tình trạng khủng hoảng từ giữa năm 2007 và đỉnh điểm là tháng 9 năm nay (2008). Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ cho vay nhà đất thứ cấp làm sụp đổ 3 trong 5 ngân hàng đầu tư lớn nhất nước Mỹ là Bear Stearns, Merill Lynch, Lehman Brothers (chỉ còn lại Goldman Sachs và Morgan Stanley) và 2 tập đoàn cung cấp tín dụng thế chấp thứ cấp bất động sản lớn nhất nước Mỹ (chiếm gần một nửa bất động sản cầm cố trong cả nước, khoảng 5.000 tỷ Đô la Mỹ) là Fannie Mae và Freddie Mac được Chính phủ tiếp quản. Để cứu vãn thị trường tài chính, tránh một cuộc sụp đổ hệ thống, Quốc Hội Mỹ đã buộc phải phê chuẩn kế hoạch 700 tỷ USD để hỗ trợ thị trường tài chính. Nhiều chuyên gia kinh tế có uy tín trong và ngoài nước đã phân tích các nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính - tín dụng tại các nước, nhưng có thể rút ra một số nguyên nhân cơ bản sau đây: ** Nguyên nhân đầu tiên quan trọng nhất là gia tăng nguồn vốn tài trợ để mua bán nhà ở thông qua kỹ thuật “chứng khoán hóa bất động sản thế chấp” trong khi hệ thống kiểm soát không theo kịp là nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng ** Nguyên nhân thứ hai là việc cho vay mua nhà ở dễ dãi “dưới chuẩn” nhưng thiếu cơ chế kiểm soát ** Nguyên nhân thứ ba là giá bất động sản tại Mỹ tăng liên tục đã lôi kéo các nhà đầu tư và cả người dân đổ xô vào kinh doanh bất động sản làm cung vượt quá cầu 3.2. Đối chiếu với thị trường bất động sản Việt Nam
  • 13. 12 Kể từ khi đất nước thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thị trường bất động sản cũng được điều chỉnh theo cơ chế chung. Tuy vậy, thị trường bất động sản Việt nam do mới hình thành nên có những đặc điểm khác so với các thị trường bất động sản Mỹ. Cụ thể như sau: Ở Việt Nam chưa có khung pháp lý cho việc chứng khoán hóa bất động sản nên chưa có việc các ngân hàng phát hành trái phiếu cho bất động sản thế chấp. Vì vậy, tuy có hạn chế về huy động vốn cho thị trường bất động sản nhưng chưa có những rủi ro do “chứng khoán hóa” bất động sản gây nên. Quan hệ cung - cầu trên thị trường bất động sản Việt nam vẫn mất cân đối theo hướng cầu luôn lớn hơn cung và xu hướng này vẫn còn kéo dài trong tương lai vì tốc độ đô thị hoá vẫn tăng cao trong thời gian tới dẫn đến nhu cầu về nhà ở, hạ tầng khu công nghiệp, khách sạn, văn phòng cho thuê tăng nhanh. Tuy tiềm năng của thị trường bất động sản Việt nam còn rất lớn, nhưng thị trường cũng có dấu hiệu thiếu ổn định và tiềm ẩn nhiều rủi ro, thể hiện qua những điểm sau: Thứ nhất: Trong năm 2006, 2007 tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã xảy ra tình trạng giá văn phòng cho thuê, căn hộ cao cấp, giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất để xây dựng nhà ở riêng lẻ tăng đột biến, cục bộ ở một số dự án, một số khu vực nhất định. Tại những khu vực giá bất động sản tăng đột biến đã có hiện tượng đầu cơ, mua đi bán lại, các nhà đầu tư giữ hàng không đưa ra thị trường, nhằm đẩy giá lên cao. Thứ hai: Hàng hoá bất động sản, nhất là nhà ở có cơ cấu không hợp lý, chủ yếu các doanh nghiệp đầu tư loại nhà cao cấp, diện tích rộng và giá thành lớn chỉ phù hợp với đối tượng có thu nhập cao, trong khi đó nhu cầu và khả năng của phân khúc thị
  • 14. 13 trường này chỉ chiếm khoảng 5% thị trường nhà ở. Thị trường thiếu hàng hoá có quy mô và giá cả phù hợp với đa số nhu cầu của thị trường, thiếu loại nhà ở cho thuê phù hợp với nhu cầu của đối tượng thu nhập trung bình và thấp. Đây cũng là biểu hiện của quan hệ cung cầu không phù hợp và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng. Thứ ba: Lợi nhuận cao trên thị trường bất động sản trong thời gian vừa qua đã thu hút nhiều công ty, tập đoàn lớn thành lập công ty kinh doanh bất động sản. Nhiều ngân hàng có quỹ hoặc công ty kinh doanh bất động sản, xuất hiện đầu tư nội bộ khó kiểm soát. Nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng tài chính, thiếu kinh nghiệm cũng tham gia đầu tư kinh doanh bất động sản nên đã nảy sinh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, đầu tư theo phong trào, đầu tư không hiệu quả. Thứ tư: Việc cho vay mua bán bất động sản cũng có biểu hiện cho vay dễ dãi nhất là vào thời điểm cuối năm 2007. Do bùng nổ sự ra đời các ngân hàng thương mại cổ phần vào cuối 2006 đầu 2007, tạo áp lực cạnh tranh trong kinh doanh quay vòng vốn nên có biểu hiện cho vay dễ dãi. Có những ngân hàng cho vay mua bất động sản đến 70% giá trị bất động sản thế chấp tại thời điểm giá bất động sản cao. Có những ngân hàng cho doanh nghiệp vay tín chấp hoặc thế chấp bằng chính dự án với số vốn lớn để đầu tư bất động sản. Như vậy, cũng xuất hiện nguy cơ khi thị trường bất động sản trầm lắng, giá bất động sản giảm, người vay không có khả năng thanh toán sẽ xuất hiện hiện tượng mất tính thanh khoản và “tự lỗ”. Thứ năm: Mặc dù chưa có khung pháp lý cho việc chứng khoán hóa bất động sản thế chấp, nhưng cũng có hiện tượng có công ty kinh doanh bất động sản ban hành trái phiếu doanh nghiệp (theo quy định tại Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ) và cho người mua trái phiếu quyền ưu tiên mua bất động sản.
  • 15. 14 Thứ sáu: Chính sách tín dụng không ổn định, việc hạn chế cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản và tăng lãi suất cho vay vào những tháng giữa năm 2008, tuy có tác động hạn chế đầu cơ bất động sản, góp phần “giảm nhiệt” thị trường nhưng làm các chủ đầu tư khó khăn trong việc huy động vốn, nhiều dự án đã bị kéo dài tiến độ hoặc bị đình hoãn có thể dẫn đến nguy cơ thiếu hàng hóa xét trong ngắn hạn vài ba năm tới, làm trầm trọng thêm sự mất cân đối cung cầu, làm thị trường phát triển thiếu ổn định. Tóm lại dưới góc độ tài chính, thị trường bất động sản Việt Nam không có những rủi ro do “chứng khoán hóa” bất động sản gây nên nhưng cũng có những biểu hiện tác động ngược từ thị trường bất động sản tới thị trường tài chính, ngân hàng thông qua việc vay vốn thế chấp để đầu cơ bất động sản nhưng nhỏ hơn về quy mô và mức độ. Để thị trường bất động sản Việt Nam phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội cần phải triển khai có hiệu quả các nhóm giải pháp đã được nêu trong Chỉ thị số 01/2008/CT-TTg ngày 08/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển và quản lý thị trường bất động sản, đồng thời tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các định chế tài chính bất động sản của Mỹ và các nước khác như các quỹ đầu tư, tái thế chấp, tín thác bất động sản để áp dụng nhằm đa dạng hóa nguồn vốn cho thị trường bất động sản, nhưng kèm theo là cơ chế kiểm soát hiệu quả. 4. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến thị trường chứng khoán Việt Nam Hai năm 2006-2007, thị trường chứng khoán Việt nam phát triển bong bong với tốc độ chóng mặt và là một trong những nước có tốc độ phát triển TTCK nhanh hàng đầu thế giới. Nhưng bước sang năm 2008, TTCK Việt Nam cũng lại nằm trong những nước đứng đầu về tốc độ suy giảm.
  • 16. 15 TTCK Việt Nam đã có 1 năm đầy biến động, tụt giảm sâu hơn dự đoán nhiều chuyên gia, VN-Index giảm 66%, Hastc-Index giảm 68%. Cuối năm 2007 vốn hóa thị trường chiếm 40% GDP (30 tỉ USD) đến hết năm 2008 chỉ còn 13 tỉ USD chiếm 17% GDP. Năm 2008 TTCK Việt Nam khép lại với 1 số điểm nổi bật: VN-Index và Hastc- Index giảm mạnh, tính thanh khoản của thị trường kém, thị giá cổ phiếu sụt giảm với nhiều mã cổ phiếu rơi xuống dưới mệnh giá khối ngoại thoái vốn, các cơ quan điều hành liên tục can thiệp và tâm lý các nhà đầu tư ảm đạm. Nối tiếp đà sụt giảm từ cuối năm 2007, đi xuống là xu hướng chủ đạo của TTCK năm 2008. Khởi đầu năm 2008, Việt Nam đã đón nhiều thông tin bất lợi từ chính sách thắt chặt tiền tệ của nhà nước nhằm khống chế lạm phát ở mức 2 con số. Các biện pháp thắt chặt tiền tệ đã đẩy lãi suất huy động lên cao. Cùng với sự suy giảm của TTCK, đặc biệt là thị trường cổ phiếu xuống giá khiến nhiều nhà đầu tư rời bỏ thị trường chuyển sang gửi tiền ở ngân hàng với độ an toàn và lãi suất cao hơn. Ngày 25/3/2008 VN-Index đã chính thức phá đáy 500 điểm, đóng cửa tại 496.64 điểm. Sự điều chỉnh biên độ giao động giá cổ phiếu của UBCKNN khiến giảm bớt tình trạng hoảng loạn bán tháo của nhà đầu tư và thay vào đó là tâm lý đầu cơ mua vào, khiến thị trường có những dấu hiệu ổn định hơn. Ngày 3/4/2008 HoSE lên 2% và Hastc lên 3% Mặc dù vậy, những yếu tố kinh tế vĩ mô vẫn còn xấu nên xu hướng tăng trong ngắn hạn đã nhanh chóng chấm dứt. Trong tháng 5/2008 khi lượng cung tăng mạnh ở tất cả các mã cổ phiếu thì lượng đặt mua lại rất thưa thớt, VN-Index giảm liên tiếp 25 phiên, Hastc giảm liên tiếp 28 phiên, thị trường gần như mất thanh khoản. Theo thống kê, sức cầu toàn thị trường của cả HoSE và Hastc trong giai đoạn từ 15/5-15/6 chỉ đạt 140 tỷ/ ngày và đây cũng là mức thấp nhất kể từ năm 2006.
  • 17. 16 Bước sang đầu quý III, cung với những dấu hiệu cải thiện của các yếu tố kinh tế vĩ mô TTCK đã có sự phục hồi trong ngắn hạn. Đến tận 9/2008 TTCK đã chứng kiến giai đoạn hoạt động sôi nổi nhất của thị trường: cả HoSE và Hastc đã có những phiên tăng điểm mạnh. Trong giai đoạn này, cổ phiếu được ưa chuộng nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí, nguyên vật liệu và công nghệ. Chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, TTCK Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc. Trên TTCK Việt Nam, khối lượng giao dịch giảm dần và xuất hiện hiện tượng khối đầu tư nước ngoài bán ra với quy mô khá lớn. Giai đoạn bán ròng của các khối nhà đầu tư nước ngoài diễn ra từ đầu tháng 9 và lên mức đỉnh trong tháng 10. Lần đầu tiên sau 3 năm thành lập, Hastc chứng kiến chỉ số Hastc-Index giảm dưới mốc 100 điểm, chỉ còn 97.61 điểm vào ngày 27/11 và đây cũng là mức đáy của Hastc-Index trong năm 2008. Ngày 10/12/2008, VN-Index xuống đáy thấp nhất trong năm 2008 ở mức 286,85 điểm. Năm 2008 đầy thăng trầm và song gió với TTCK Việt nam đã kết thúc bằng một phiên giảm điểm. Tại thời điểm 31/12/2008, sau một năm giá trị vốn hóa của TTCK đã mất đi 269.000 tỷ đồng. Giá trị vốn hóa thị trường của tất cả các cổ phiếu đang niêm yết trên cả 2 sàn hơn 225.300 tỉ đồng trong khi cuối năm 2007 là 494.500 tỷ đồng.
  • 18. 17 5. Hệ thống ngân hàng thương mại trước tác động của khủng hoảng 2008 5.1. Vài nét Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam - Các ngân hàng thương mại chú trọng đến 4 trụ cột trong hoạt động: + Quy mô tổng tài sản + Hiện đại hoá + Nguồn nhân lực + Quản trị điều hành theo chuẩn mực quốc tế
  • 19. 18 0% 50% 100% 150% 200% 250% 300% 350% 400% 450% 500% 0 50 100 150 200 250 300 350 Tăng trưởng tổng tài sản năm 2007 Tổng tài sản Tăng trưởng tổng tải sản Số lượng ngân hàng qua các năm (2005 – 5/2009) 2005 2006 2007 2008 5/2009 NHTM nhà nước 5 5 5 4 3 NHTM cổ phần 37 34 35 39 41 Ngân hàng liên doanh 4 5 5 5 5 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 29 31 41 41 41 - Tốc độ tăng trưởng của hoạt động tín dụng và huy động tiền gửi ở mức rất cao, đạt trung bình trên 35% /năm trong suốt giai đoạn 2002-2007. - Mạng lưới hoạt động của các ngân hàng được phát triển rộng rãi và nhanh chóng, đặc biệt là ngân hàng thương mại cổ phần
  • 20. 19 - Để cạnh tranh về huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng, các NHTM cổ phần thường là người châm ngòi cho các cuộc chạy đua về lãi suất cũng như hàng loạt chương trình khuyến mại. 5.2 Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tới các NHTM ở Việt Nam 5.2.1. Nhận định chung Cuộc khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng ra toàn thế giới đã kéo theo sự sụp độ của hàng loạt các hệ thống tài chính lớn. Theo Chính phủ và Ngân hàng nhà nước, do chưa có mối liên hệ trực tiếp với thị trường tài chính thế giới nên hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hưởng sâu sắc của cuộc khủng hoảng 2008. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính làm suy giảm kinh tế toàn cầu đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Từ đó, mối quan hệ tín dụng của các NHTM với doanh nghiệp cũng chịu những ảnh hưởng tiêu cực. 5.2.2. Tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại i) Cuộc chạy đua lãi suất giữa các NHTM và những hệ quả Năm 2007 là thời điểm ngành ngân hàng chứng kiến sự tăng trưởng mạnh về tín dụng (trên 50%). Tuy nhiên, đầu năm 2008, chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới, Việt Nam phải đối mặt với tình hình lạm phát cao cũng như sự sụt giảm mạnh của thị trường bất động sản và chứng khoán. Trước hoàn cảnh đó, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã ban hành những chính sách thắt chặt tiền tệ, còn các ngân hàng do lo ngại rủi ro tín dụng nên thận trọng hơn trong việc cho vay vốn. Vì lẽ đó, lãi suất cho vay tăng mạnh lại trở thành rào cản đối với các nhu cầu tín dụng. Những biện pháp của NHNN cộng với sự khó khăn về thanh khoản của các NHTM đã gây không ít khó khăn cho các ngân hàng, đặc biệt là hoạt động huy động vốn. Trong thời kì này, lãi suất huy động và cho vay có những biến
  • 21. 20 động lớn chưa từng có. Tháng 5/2008 đã bùng phát một cuộc chạy đua lãi suất và tạo ra những đỉnh điểm nóng trong tháng 6/2008. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất đã đạt tới mức kỉ lục đến trên 40%/năm. Ví dụ, ngày 11/6/2008, lãi suất cơ bản đối với VND được tăng lên 14%/năm, có nghĩa là vào thời điểm đó lãi suất cho vay tối đa cho các NHTM là 21%. Từ mức đỉnh là 16,54%/ năm vào ngày 10/6/2008, ngày 11/6/2008, lãi suất huy động VND của các ngân hàng liên tục được đẩy lên. Đến cuối ngày 11/6, đã có 20 NHTM công bố điều chỉnh lãi suất. Trong ngày 11/6, mức lãi suất kỉ lục 19,2%/ năm, kì hạn 13 tháng đã được thiết lập bởi Ngân hàng Đông Nam Á (SeABank). Ngày 30/6, Ngân hàng Kiên Long TP Hồ Chí Minh đã áp dụng mức lãi suất huy động phá kỉ lục là 20%/năm cho kì hạn 12 tháng. Như đã nói ở trên, trong giai đoạn đối đầu với cơn bão khủng hoảng, các NHTM cũng trở nên cầm chừng hơn trong hoạt động cho vay. Chính vì lẽ đó mà các doanh nghiệp vừa gặp phải rào cản về lãi suất quá cao vừa gặp khó khăn về khả năng tiếp cận vốn. Tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ và tốc độ tăng trưởng tín dụng giảm mạnh và bước vào giai đoạn thấp nhất trong năm. Các NHTM cho vay chủ yêu vẫn dựa trên tài sản thế chấp là bất động sản. Chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, thị trường bất động sản biến động vô
  • 22. 21 cùng phức tạp. Điều này làm cho chất lượng của tài sản đảm bảo cho các khoản vay bị giảm sút. Trong khi đó các doanh nghiệp bản thân đang gặp khó khăn lại chịu những rào cản về chi phí vay vốn tăng cao. Hoạt động cho vay của NHTM vì thế mà giảm sút. Cùng với sự giảm mạnh của tín dụng, các NHTM đứng trước nguy cơ tăng nợ xấu và rủi ro kinh doanh. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2008 Tính chung toàn hệ thống NHTM nhà nước NHTM cổ phần NHTM liên doanh và nước ngoài 3,5% 4,59% 2,44% 1,45% Từ cuối năm 2008 đến đầu năm 2009, sự nới lỏng chính sách tiền tệ của NHNN đã khiến cho lãi suất huy động và cho vay đang ở mức cao giảm liên tục. Ví dụ, từ đỉnh điểm 20%/năm lãi suất huy động VND xuống còn 12,75%/năm (Từ tháng 9 đến cuối năm 2008) Diễn biến lãi suất huy động và cho vay 12.6 16.5 16.5 16.7 17.5 21 20.5 20.5 20.5 19 15.5 11.8 11.4 10.1 9.9 9.9 8.8 10.3 11.4 12 14.3 17.2 17.7 17.7 17.3 17.4 12.8 9.2 7.7 7.4 7.7 7.7 0 5 10 15 20 25 Cho vay Huy động
  • 23. 22 ii) Diễn biến tỷ giá năm 2008 biến động mạnh Chịu ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tê, thậm chí cả tin đồn…, diễn biến tỷ giá năm 2008 tại Việt Nam biến động phức tạp. Sự biến động này đã gây không ít khó khăn và thiệt hại cho các doanh nghiệp ở cả lĩnh vực xuất khẩu và nhập khẩu. Đến cuối tháng 11/2008, so với cuối năm 2007 thì tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 2,75% (tỷ lệ này năm 2007 là 0,17%). Tỷ giá mua bán của các NHTM trong biên độ cho phép. Mặc dù diễn biến của tỷ giá về cơ bản trong sự điều hành của NHNN nhưng tỷ giá trên thị trường có lúc diễn biến bất thường do xu hướng nhập siêu gia tăng, diễn biến thị trường vàng, ngoại tệ trên thế giới phức tạp… đã tác động đến tâm lý người dân và nhà đầu tư. Một bộ phận các nhà đầu cơ ngoại tệ đã tích trữ ngoại tệ, do đó, đã đẩy tỷ giá tăng cao và liên tục trong tháng 6/2008. Trong khoảng thời gian này, tỷ giá và cung cầu ngoại tệ diễn biến nhanh, thừa ngoại tệ nhiều, sau đó lại khan hiếm ngoại tệ. Hiện tượng thu phí ngoại hối diễn ra, một số ngân hàng đã tìm cách lách biên độ bằng cách giao dịch bằng đồng tiền thứ ba. Điều này lại tác động ngược trở lại thị trường ngoại hối, gây tâm lý cho người dân và làm lợi cho đầu cơ, ảnh hưởng nhiều đến các doanh nghiệp. Trước những diễn biến phức tạp của thị trường ngoại hối, NHNN đã nghiêm cấm việc thu phí và giao dịch qua đồng tiền thứ ba. Sau những biến động phức tạp, những dấu hiệu khả quan về nhập siêu, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kim ngạch xuát khẩu mà đặc biệt là thông tin về dự trữ ngoại tệ quốc gia… thị trường có những phản ứng tích cực. Tỷ giá cũng như quan hệ cung-cầu tín dụng đã ổn định trở lại, các tổ chức tín dụng đảm bảo đáp ứng ngoại tệ cho các hoạt động xuất nhập khẩu.
  • 24. 23 CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN Có thể nói, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Khó ai có thể phủ nhận ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh của Việt Nam cũng như với các thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán,…. Hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam liên quan đến nền kinh tế thế giới đều bị tác động mạnh bởi cơn bão tài chính. Tuy nhiên, cú va đập mà Việt Nam phải gánh chịu đã được giảm nhẹ rất nhiều do một số nguyên nhân. Nguyên nhân chủ yếu là do việc Việt Nam chưa hội quá sâu vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Chính phủ và doanh nghiệp ta chưa có quan hệ vay nợ nhiều với các tổ chức tín dụng quốc tế nên
  • 25. 24 kinh tế trong nước hầu như không bị ảnh hưởng khi hệ thống tài chính toàn cầu chao đảo với 169 ngân hàng phá sản tại Mỹ. Ngược lại, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, với tư cách là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), lại được hưởng lợi do không phải chịu hàng rào thuế quan quá ngặt nghèo. Ngoài ra, còn có nguyên nhân chủ quan nằm ở chính kiểu sống của người Việt nói riêng và người châu Á nói chung. Người Mỹ sở dĩ phải chịu đựng hậu quả nặng nề là do họ tiêu dùng nhiều hơn những gì mình làm ra. Họ sinh hoạt bằng tiền đi vay. Nợ quốc gia của Mỹ hiện chiếm 85% GDP. Nếu tính cả nợ tư nhân, con số này lớn gấp 10 lần số của cải nước Mỹ có thể làm ra trong một năm. Nước Nhật cũng ở tình trạng tương tự khi giá trị nợ đã lên tới 159% GDP. Người Việt thì không như vậy: Biết tiết kiệm và biết để dành. Với những nhân tố nêu trên, chính phủ Việt Nam đã có những biện pháp tích cực để đối phó với cuộc đại khủng hoảng này. Kết quả khả quan cho thấy kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng dương 5,32% trong năm 2009. Công đầu trong những thành quả này thuộc về nhân dân và doanh nghiệp đã bươn trải để tồn tại và chèo lái con thuyền kinh tế đi lên. Đứng trước những thay đổi lớn này của thế giới, việc doanh nghiệp Việt có thích ứng được hay không chính là câu hỏi lớn đối với kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
  • 26. 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Khủng hoảng tài chính toàn cầu – Thách thức với Việt Nam, TS. Nguyễn Đức Hưởng - NXB Thanh Niên 2 Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, 2009. 3 Hoạt động hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam 1 năm sau gia nhập WTO, NXB Thống kê, 2007 4 Thời báo kinh tế Việt Nam 5 www.vneconomy.vn 6 www.baomoi.com 7 www.bloomberg.com 8 www.vnexpress.com 9 www.vntrades.com 10 Wikipedia