SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 123
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÊ MINH NAM
THỰC HIỆN DÂN Ở CẤP CƠ SỞ
(Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)
TẢI MIỄN PHÍ KẾT BẠN ZALO:0917 193 864
DỊCH VỤ VIẾT LUẬN VĂN CHẤT LƯỢNG
WEBSITE: LUANVANTRUST.COM
ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864
MAIL:
BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÊ MINH NAM
THỰC HIỆN DÂN Ở CẤP CƠ SỞ
(Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. Ngô Thị Phƣợng
Hà Nội- 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở
(Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)” do tôi thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của
Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ Ngô Thị Phƣợng. Các số liệu, kết quả trong luận văn là
hoàn toàn trung thực, chƣa từng công bố trong công trình nghiên cứu nào
trƣớc đó. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đƣợc trích dẫn đầy đủ, chính
xác từ các sách, báo, tạp chí.
Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2015
Tác giả
Lê Minh Nam
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNTB
CNXH
CSCN
TBCN
UBND
XHCN
Chủ nghĩa tƣ bản
Chủ nghĩa xã hội
Cộng sản chủ nghĩa
Tƣ bản chủ nghĩa
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................2
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ VÀ
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NINH
BÌNH .......................................................................................................10
1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ cấp cơ sở .........................10
1.2. Khái quát về cấp cơ sở và các yếu tố tác động đến thực hiện dân
chủ ở cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình.....................................................34
Chƣơng 2: THỰC HIỆN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NINH BÌNH –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ..............................................................48
2.1. Thực trạng thực hiện dân chủ cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình...........48
2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cƣờng việc thực hiện dân chủ
ở cấp cơ sở trên địa bàn tình Ninh Bình hiện nay ..............................80
KẾT LUẬN.............................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................94
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần tích cực vào việc thúc đẩy, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh trật tự ở cơ sở. Xây dựng và
thực hiện dân chủ ở cơ sở đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và chất lƣợng đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Trung ƣơng, các cấp ủy đảng,
chính quyền đã chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy định, quy
trình dân chủ, công khai, bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ trong công tác đảng. Việc các cấp ủy đảng, chính quyền tổ chức đối thoại
trực tiếp với dân, lấy ý kiến nhân dân tham gia các công việc đã góp phần
nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cấp ủy và chất lƣợng đảng viên, từng
bƣớc xây dựng tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở, không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo của tổ chức Đảng, nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cơ quan nhà
nƣớc và nhất là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở cơ sở
đang là nhu cầu bức xúc hiện nay. Những năm qua, việc thông báo công khai
và truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn, công khai kết quả hoạt động giám
sát và các kiến nghị của cử tri tại các kỳ họp của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp đã thu hút sự quan tâm, theo dõi của nhân dân, nâng cao trách
nhiệm của cơ quan đại diện và của ngƣời đại biểu nhân dân. Việc thực hiện
công khai, dân chủ đã trở thành phƣơng thức quản lý, điều hành của các cơ
quan nhà nƣớc và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với nhân
dân; đồng thời, khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng, giám sát các hoạt
động của cơ quan nhà nƣớc, góp ý cho cán bộ, công chức về đạo đức lối
sống, phong cách làm việc và tôn trọng nhân dân.
2
Quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở đã làm chuyển biến đáng kể
nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể, phát huy đƣợc quyền
làm chủ trực tiếp của cán bộ, công chức, ngƣời lao động, góp phần tích cực,
hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh,
nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, xây
dựng khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở,
tạo động lực quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
Bên cạnh những thành tựu bƣớc đầu đạt đƣợc, việc thực hiện dân chủ
ở từng địa phƣơng còn có những hạn chế, thiếu sót, do những nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của nhân
dân chƣa đƣợc tôn trọng thậm chí vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Các
chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở chƣa thực sự làm tròn vai trò,
trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Việc tổng kết quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở là một việc làm cấp
bách mang tính thƣờng xuyên, liên tục để đánh giá những mặt tích cực, hạn
chế… để sửa chữa hoặc khuyến khích, nhân rộng những kinh nghiệm trong
quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn cả nƣớc.
Ninh Bình là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, trong những
năm qua, đặc biệt từ năm 1998 đến nay có Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị Ban
chấp hành trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam về Xây dựng và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở kế đến là các Nghị định của Chính phủ, Pháp lệnh của Ủy
ban thƣờng vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn. Các địa
phƣơng trên toàn tỉnh đã tích cực triển khai thực hiện dân chủ nhằm góp phần
dân chủ hóa đời sống xã hội. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, đặc biệt là về nhận thức chƣa đầy đủ của đội ngũ cán bộ và nhân dân
ở cơ sở. Triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở còn nhiều lúng túng. Do vậy,
quyền lực và lợi ích hợp pháp của một bộ phận nhân dân chƣa đƣợc đảm
3
bảo.Với những lý do đó, tôi đã chọn vấn đề
sởhiện nay (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Thực hiện dân chủ ở cấp cơ
làm đề tài luận văn thạc sĩ,
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan đến đề tài luận văn, ở Việt Nam đã có nhiều công trình đƣợc
công bố, những năm gần đây các công trình đó đƣợc phân chia theo ba nhóm
vấn đề sau.
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về dân chủ
TS. Đoàn Minh Huấn: “Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá
trình mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 8-
2004; Tác giả đã làm rõ đặc trƣng của hai hình thức dân chủ là dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện, đồng thời làm rõ vai trò, ƣu thế của mỗi hình thức
cũng nhƣ sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân chủ này trong
quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nƣớc ta hiện nay.
GS. TS. Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ và dân chủ ở nông thôn trong tiến
trình đổi mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008; Trong công trình này
tác giả đã nêu lên tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, nhất là tầm
quan trọng của thực hiện dân chủ ở nông thôn; thực trạng và những hạn chế
trong thực hiện dân chủ ở nông thôn trong thời gian qua. Qua đó tác giả đề ra
các giải pháp thực hiện dân chủ trong tiến trình đổi mới ở nông thôn.
PGS. TS. Nguyễn Văn Mạnh - Th.s. Tào Thị Quyên: “Dân chủ trực tiếp
ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2010. Đây
là kỷ yếu Hội thảo Công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn về dân chủ và dân chủ trực tiếp của một số nƣớc và Việt Nam,
các tác giả đã đánh giá thực trạng thực hiện dân chủ trực tiếp và nêu ra các
giải pháp nhằm phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp.
4
Đào Trí Úc (Chủ biên), Trịnh Đức Thảo, Vũ Công Giao...: “Một số vấn
đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt
Nam”, Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014; Trình bày một loạt vấn
đề về lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp,
dân chủ cơ sở trên thế giới và Việt Nam. Đề xuất những quan điểm, giải pháp
hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm dân chủ trực tiếp và
dân chủ cơ sở ở nƣớc ta trong thời gian tới.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về dân chủ ở cấp cơ sở
Phạm Ngọc Trâm: “Nhìn lạiquá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở 1998 - 2012”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11/ 2012.
Bài viết trên bổ sung nhận thức mới, đề xuất cách làm mới để xây
dựng, thực hiện dân chủ phù hợp với đặc điểm lịch sử, truyền thống của dân
tộc, đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Nguyễn Hồng Chuyên: “Thựchiện pháp luậtvề dân chủ ở cấp xã phục
vụ xây dựng nông thôn mới”, Nxb: Tƣ pháp, Hà nội, 2013. Đây là cuốn sách
chuyên khảo giới thiệu một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn
mới.Trình bày chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính quyền, pháp luật của
Nhà nƣớc về thực hiện dân chủ ở cấp xã và xây dựng nông thôn mới. Phân
tích lý luận vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng
nông thôn mới. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
phục vụ xây dựng nông thôn mới qua thực tế của tỉnh Thái Bình. Đề xuất các
giải pháp đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp
xã phục vụ xây dựng nông thôn mới ở nƣớc ta hiện nay.
Nguyễn Văn Phƣơng: “Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc xã, phường,
thị trấn tỉnh Bắc Ninh trong thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay”, Luận án
Tiến sĩ khoa học Chính trị bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2014. Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận về dân chủ ở
cơ sở và thực tiễn hoạt động của Mặt trận tổ quốc (MTTQ) trong thực hiện
5
dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng MTTQ xã, phƣờng, thị trấn tỉnh Bắc
Ninh vững mạnh, tăng cƣờng hoạt động của MTTQ xã, phƣờng, thị trấn
trong thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu về thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở
tỉnh Ninh Bình
“Ninh Bình phát huy quyền làm chủ của nhân dân, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, công chức cơ sở” của Đinh Văn Hùng, Tạp chí Cộng sản, Chuyên đề
cơ sở, số 30/2009. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá mặt đƣợc và mặt chƣa đƣợc
trong thực hiện Pháp lệnh dân chủ, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp
tục thực hiện tốt hơn Pháp lệnh dân chủ gắn với rèn luyện đội ngũ cán bộ,
công chức.
“Ninh Bình thực hiện quy chế dân chủ” của Đỗ Tấn, đăng trên Báo
Nhân dân điện tử, ngày 22-8-2013. Tác giả khẳng định những thành công
trong thực hiện Quy chế dân chủ Ninh Bình, rút ra kinh nghiệm của Ninh
Bình là tạo ra nhiều kênh để ngƣời dân thực hiện quyền làm chủ. Quy chế dân
chủ chính là cầu nối giữa nhân dân với cấp ủy đảng và chính quyền để qua đó
tạo sự đồng thuận giúp cho việc thực hiện thắng lợi các chƣơng trình, mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng, khơi thông mọi nguồn lực nhằm
xóa đói, giảm nghèo, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân.
“KhiQuy chế dân chủ đi vào đời sống” của Quốc Khang, đăng trên báo
Ninh Bình điện tử, ngày 24 - 9-2013. Qua khảo sát các quá trình thực hiện
Quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, tác giả nhận định: Thời
gian qua, việc thực hiện Quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở trên địa bàn tỉnh đã
đạt đƣợc nhiều kết quả rõ nét, quyền làm chủ của ngƣời dân ngày càng đƣợc
phát huy, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Những nội dung cơ
bản của QCDC đã và đang trở thành phƣơng châm hành động của đội ngũ
cán bộ, đảng viên ở cơ sở và góp phần tăng thêm sự đoàn kết, nhất trí trong
Đảng và tạo sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân... Tác giả trình
6
bày các sáng kiến thực thi quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, đề xuất
những giải pháp tiếp tục nâng cao chất lƣợng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Nhìn chung, các công trình khoa học trên cho thấy, chƣa có một công
trình độc lập nào đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình triển
khai thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Tuy nhiên, đó
là những tài liệu quý để tác giả tham khảo trong nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về dân chủ và dân chủ cấp cơ sở,
Luận văn trình bày thành tựu và hạn chế việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình, từ đó đƣa ra các giải pháp tăng cƣờng hơn nữa hiệu
quả việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn này.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt đƣợc mục đíchtrên luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
- Trình bày khái niệm và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Những nội dung cơ bản của dân chủ cấp cơ sở.
- Nêu những yếu tố tác động đến thực hiện dân chủ cấp cơ sở ở tỉnh Ninh
Bình.
- Phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế việc thực hiện dân chủ cấp
cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cƣờng hơn nữa hiệu quả của việc thực
hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc, nhất là chỉ thị
30- CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị Định 29 NĐ- CP của Chính phủ ban hành
7
kèm theo quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn; Pháp lệnh số
34/2007/PL - UBTVQH của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội về thực hiện dân
chủ ở xã, phƣờng, thị trấn. Đồng thời ngƣời viết cũng kế thừa có chọn lọc các
công trình và các bài viết khác của một số tác giả đã công bố.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Những hoạt động triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bản tỉnh
Ninh Bình.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên phƣơng pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, trong đó sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên
cứu nhƣ: phƣơng pháp lịch sử và logic, phân tích - tổng hợp, thống kê - so
sánh, điều tra xã hội học, nghiên cứu tài liệu…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Dân chủ cấp cơ sở đƣợc thực hiện bằng hai hình thức, dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại điện. Luận văn tập trung nghiên cứu dân chủ trực tiếp, thông
qua “Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn” trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình.
5.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Tiến hành nghiên cứu việc thực hiện dân chủ ở cơ sở chỉ bao gồm xã,
phƣờng, thị trấn trên một số địa bàn Ninh Bình từ năm 1998 nay (từ khi có
Quy chế dân chủ cơ sở đến nay).
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế,
xác định các vấn đề đặt trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình.
8
Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi phù hợp với
quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong giai
đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc thực
hiện dân chủ ở cấp cơ sở để phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã,
phƣờng, thị trấn ở nƣớc ra nói chung, ở Ninh Bình nói riêng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy và
học tập về dân chủ cơ sở, là tài liệu tham khảo đối với cơ quan chức năng của
tỉnh trong việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.
8. Kết cấucủa luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chƣơng, 4 tiết.
9
Chƣơng 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ
VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ
Ở TỈNH NINH BÌNH
1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ cấp cơ sở
1.1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Thuật ngữ dân chủ có gốc từ tiếng Hy lạp cổ: Demokratos đƣợc ghép
từ hai chữ demos có nghĩa là dân chúng, nhân dân và kratos có nghĩa là quyền
lực. Và nghĩa khởi thủy của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Cho đến
ngày nay, cùng với lịch sử phát triển của xã hội, thuật ngữ dân chủ đƣợc dùng
với nhiều nội dung khác nhau, tùy theo từng góc độ tiếp cận nhất định. Ở góc
độ chính trị - xã hội, dân chủ là một hiện tƣợng chính trị - xã hội, gắn liền với
nhà nƣớc, dân chủ cũng dùng để chỉ một hình thức tổ chức nhà nƣớc. Ở góc
độ văn hóa, dân chủ là một hiện tƣợng, một yếu tố cấu thành đời sống văn
hóa của xã hội - văn hóa dân chủ. Dân chủ còn đƣợc xem xét nhƣ một giá trị
xã hội, mọi cuộc đấu tranh giành dân chủ đều hƣớng tới giải phóng con
ngƣời, nâng cao vị trí của con ngƣời trong lịch sử, hình thành và phát triển ở
con ngƣời ý thức, năng lực làm chủ xã hội. Do vậy, dân chủ là một lý tƣởng
nhân đạo, một giá trị nhân văn.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ nghĩa là quyền lực
thuộc về nhân dân; dân chủ là hình thức tổ chức của các xã hội có giai cấp và
đấu tranh giai cấp, một hình thức nhà nƣớc. Với tính cách là một hình thức tổ
chức nhà nƣớc, dân chủ là sự thống nhất biện chứng của hai mặt. Thứ nhất,
dân chủ đảm bảo quyền lực cho giai cấp thống trị xã hội, giai cấp mà nó đại
diện. Thứ hai, dân chủ cũng chính là thực hiện chuyên chính với các lực
lƣợng đối lập. Dân chủ và chuyên chính là hai mặt thống nhất trong bất cứ
một hình thức nhà nƣớc nào. Theo cách tiếp cận này, dân chủ là một phạm trù
10
lịch sử. Dân chủ ra đời, tồn tại và phát triển trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, khi xã hội có sự phân chia giai cấp. Gắn với mỗi giai đoạn lịch sử, một
xã hội có giai cấp, xã hội tồn tại một hình thức dân chủ khác nhau. Mỗi hình
thức dân chủ lại có bản chất, hình thức tổ chức khác nhau nhằm thể hiện và
thực hiện quyền lực của giai cấp cầm quyền.
Khi giai cấp công nhân giành đƣợc chính quyền, thiết lập nhà nƣớc
chuyên chính vô sản (nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa), một hình thức dân chủ mới
ra đời - Dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đa
số nhân dân lao động (giai cấp công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động
khác) bảo vệ quyền, lợi ích của đa số nhân dân lao động, đồng thời trấn áp
mọi sự phản kháng của giai cấp bóc lột - giai cấp có lợi ích đối kháng với lợi
ích của nhân dân lao động.
Để thực hiện mục tiêu ấy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện bản chất của giai cấp công nhân
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nói lên tính chất nhất nguyên của dân chủ
xã hội chủ nghĩa đồng thời là điều kiện hàng đầu thể hiện tính định hƣớng
trong tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa và tính tự giác của
toàn thể nhân dân lao động trong quá trình xây dựng, củng cố, hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và tham gia vào công việc quản lý nhà
nƣớc, quản lý xã hội nói riêng.
Chế độ dân chủ XHCN, trong bản chất của nó, gắn chặt với cuộc đấu
tranh vì dân chủ nhằm giải phóng con ngƣời khỏi áp bức, bóc lột.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ
rõ: “Giai cấp vô sản mỗi nƣớc trƣớc hết phải tự mình giành lấy chính quyền,
phải tự vƣơn lên thành giai cấp dân tộc”[39, tr 623,624], phải giành lấy dân
chủ với ý nghĩa là trực tiếp giành lấy quyền lực nhà nƣớc (quyền lực dân chủ
về chính trị) và tổ chức quyền lực đã giành đƣợc đó thành nhà nƣớc dân chủ
11
vô sản. Chế độ dân chủ vô sản “chế độ sẽ tự thi hành ngay lập tức những biện
pháp để chặt tận gốc rễ chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện
pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá bỏ chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn
xây dựng một chế độ dân chủ nhân dân”[34,tr 135]. Chỉ có chế độ dân chủ vô
sản, chế độ dân chủ đƣợc thiết lập trên cơ sở của chế độ kinh tế mà ở đó các
tƣ liệu sản xuất thuộc về toàn xã hội, lực lƣợng sản xuất không ngừng tăng
lên, sự đối kháng giai cấp bị thủ tiêu thì quyền làm chủ của nhân dân lao động
mới đƣợc thực hiện đầy đủ. V. I. Lênin đã chỉ rõ: “Dƣới chế độ xã hội chủ
nghĩa, nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên thủy tất nhiên sẽ sống lại, vì lần
đầu tiên trong lịch sử những xã hội văn minh, quần chúng nhân dân đang
vƣơn lên tham gia một cách độc lập không những vào việc bầu cử và tuyển
cử, mà cả vào việc quản lý hàng ngày nữa”[34, tr 143]. Với ý nghĩa đó, chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa đóng vai trò to lớn trong các cuộc đấu tranh giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con ngƣời.
Tƣ tƣởng về dân chủ xã hội chủ nghĩa còn đƣợc V.I. Lênin cụ thể hoá
hơn nữa khi đề cập đến quyền của công dân. Ngƣời viết: “Tính chất xã hội
chủ nghĩa của chính quyền Xô viết - tức là dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ
nghĩa) nếu đƣợc áp dụng một cách cụ thể là: Các cử tri đều là quần chúng bị
bóc lột, phải xoá bỏ mọi hạn chế có tính chất quan liêu, quần chúng hoàn toàn
có quyền bãi miễn những ngƣời mà họ bầu ra, dƣới sự lãnh đạo của đội tiền
phong của giai cấp công nhân, toàn dân đều học tập quản lý và bắt đầu đảm
nhận công tác quản lý” [37, tr 259] và “nhà nƣớc - Xô viết - đảm bảo cho họ
tham gia quản lý nhà nƣớc”[38, tr 116].
Để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân thì phải chống chủ nghĩa quan
liêu, chống tính bảo thủ, trì trệ và cuộc đấu tranh ấy chỉ có thể thắng lợi một
khi có sự tham gia của đông đảo nhân dân. V. I. Lênin khẳng định: “Chỉ khi
12
nào toàn thể nhân dân đều tham gia quản lý thì khi ấy mới có thể đả phá chủ
nghĩa quan liêu đến cùng, đến thắng lợi hoàn toàn đƣợc”[37, tr 205] t38.
V. I. Lênin chỉ rõ: “Để chống các bệnh lề mề, quan liêu, xa hoa, lãng
phí, ăn hối lộ, thực hành tiết kiệm và phát hiện tốt hơn nữa các hiện tƣợng
lạm dụng, cũng nhƣ để vạch mặt và sa thải các công chức bất lƣơng đã chui
vào các cơ quan Xô viết, nay đặt ra các quy tắc sau: Quy chế về ngày giờ mở
cửa tiếp công chúng cần phải đƣợc yết thị ở từng cơ quan chẳng những ở
trong mà cònở ngoài nữa để ai cũng có thể đến các cơ quan Xô viết mà không
cần có giấy phép gì cả… Trong mỗi cơ quan Xô viết, phải có một quyển sổ để
ghi hết sức vắn tắt tên ngƣời có việc yêu cầu, tính chất yêu cầu và chuyển
việc ấy đến đâu”[36, tr 449].
V. I. Lênin cũng đặt ra yêu cầu với nhà nƣớc về việc mở các lớp học đào
tạo cán bộ của nhà nƣớc về quản lý. Biên soạn giáo trình quản lý nhà nƣớc, cử
ngƣời sang Anh, sang Đức học về khoa học quản lý. Vì theo V. I. Lênin: “Muốn
quản lý đƣợc phải hiểu công việc. Không thể quản lý đƣợc nếu không có kiến
thức đầy đủ, nếu không tinh thông khoa học quản lý”[37, tr 257] “Cán bộ phải
học tập, học tập nữa, học tập mãi. Phải làm cho việc học không hình thức, không
nằm trên giấy, hoặc chỉ là lời nói theo mốt nữa, phải làm cho việc học ăn sâu vào
trí não, trở thành bộ phận khăng khít của cuộc sống”[38, tr 444].
Một trong nhiều điều kiện để thực hiện dân chủ là phải thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, thanh tra.V. I. Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Ngƣời
cho rằng phải cải tổ “bộ dân uỷ thanh tra công nông” để có thể hoàn thành
nhiệm vụ thanh tra hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc, đồng thời phải phát
động và tạo điều kiện để chính nhân dân có thể kiểm tra công việc của nhân
viên nhà nƣớc.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ chính trị mà ở đó những giá
trị dân chủ, quyền lực của nhân dân đƣợc thể chế hóa thành pháp luật, thành
13
nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển xã hội nói chung và thành hệ thống
chính trị trong CNXH nói riêng. Các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm nhập
và chi phối mọi hoạt động xã hội. Mọi công dân và tổ chức có khả năng nhận
thức, vận dụng các giá trị dân chủ và biến thành những nguyên tắc phổ biến
trong mọi hoạt động cũng nhƣ trong những quan hệ xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển dân chủ XHCN là quá trình mang
tính biện chứng sâu sắc. Nó kế thừa những giá trị và kinh nghiệm về dân chủ
mà loài ngƣời đã tích lũy đƣợc trong lịch sử, đặc biệt là những giá trị và kinh
nghiệm trong nền dân chủ tƣ sản. Đồng thời, khi hoàn thiện, nền dân chủ
XHCN lại là sự phát triển mang tính cách mạng so với các nền dân chủ trong
lịch sử.
Dân chủ XHCN là thành quả của quá trình hoạt động tự giác của quần
chúng nhân dân, nó với tƣ cách là quyền lực của nhân dân lao động, đồng
thời với tƣ cách là chế độ chính trị, dân chủ XHCN sẽ đƣợc từng bƣớc xây
dựng và hoàn thiện, phát huy vai trò là động lực to lớn trong tiến trình cách
mạng, dƣới sự lãnh đạo duy nhất của đảng mácxít. Tuy nhiên, trình độ chín
muồi của dân chủ XHCN tùy thuộc vào trình độ trƣởng thành về tính xã hội
chủ nghĩa của các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó quan hệ
kinh tế có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ cuối cùng trong lịch sử, khi
tất cả mọi ngƣời đã tự học đƣợc cách quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội,
không còn sự quản lý giữa ngƣời với ngƣời mà chỉ còn là sự quản lý ngƣời
với vật. Chế độ dân chủ XHCN sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu vong của nhà
nƣớc. Khi đó, dân chủ với tƣ cách là quyền lực của con ngƣời trong việc sử
dụng mọi sức mạnh để thực hiện quyền lực và lợi ích của chính mình sẽ hiện
hữu một cách đích thực nhƣ bản chất vốn có của nó, trở thành giá trị nhân
văn, đóng vai trò cho sự phát triển bền vững của xã hội.
14
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho nhân dân lao động, phục
vụ lợi ích cho số đông. Dân chủ thực sự đƣợc thống nhất giữa quyền đƣợc
ghi trong hiến pháp, pháp luật với quyền lực ở thực tế. Nhà nƣớc có nghĩa vụ
tạo đầy đủ điều kiện vật chất để có thể thực hiện dân chủ nhƣ trong luật quy
định. Nền dân chủ XHCN là nền dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa. Nhƣng dân chủ không thể vƣợt qua trình độ phát triển kinh
tế, đồng thời sự phát triển của kinh tế, văn hóa cũng không thể tách ra khỏi
dân chủ. Theo V.I. Lênin: “Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ đƣợc
thắng lợi của mình và sẽ không dẫn đƣợc nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà
nƣớc, nếu không thực hiện đƣợc đầy đủ chế độ dân chủ”[33, tr 167].
Để phát huy đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, V. I. Lênin đặc biệt
nhấn mạnh quyền tham gia quản lý nhà nƣớc của ngƣời lao động, coi sự tham
gia của những ngƣời lao động là mục đích của chính quyền Xô viết, Ngƣời
viết: “Việc thu hút đƣợc ngƣời lao động tham gia quản lý là một trong những
ƣu thế quyết định của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa… Vì rằng, một thiểu số
ngƣời, tức là Đảng không thể thực hiện đƣợc chủ nghĩa xã hội”[34, tr 67,68].
Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách thực
sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của ngƣời lao động vào quản lý công việc
của nhà nƣớc và của xã hội. Chính sự tham gia ấy đã tạo nên chất lƣợng mới
của nền dân chủ, làm thay đổi căn bản đời sống chính trị - xã hội, từ vai trò
làm chủ của nhân dân, tính chất nhà nƣớc kiểu mới đến sự thống nhất giữa
quyền và nghĩa vụ của công dân. Từ đó dân chủ trở thành mục tiêu và động
lực của sự phát triển xã hội. Theo V. I. Lênin, “Chủ nghĩa xã hội sẽ không có
nếu không có dân chủ với hai ý nghĩa: 1. Giai cấp vô sản không thể hoàn
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu không có sự chuyển bị dân chủ cho
mình thông qua cuộc đấu tranh vì dân chủ. 2. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể
giữ đƣợc thắng lợi và không dẫn đến sự tiêu vong của nhà nƣớc nếu thiếu
thực hiện dân chủ một cách trọn vẹn”[33, tr 28].
15
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, khi lực lƣợng sản xuất chƣa phát
triển cao, trình độ dân trí của ngƣời dân còn thấp, bên cạnh đó là sự chống
phá mạnh mẽ của các thế lực thù địch thì cần phải thấy vai trò và phải biết kết
hợp giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp, nhằm phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động. Theo V.I. Lênin, tính chất của chế độ vô sản, “nếu áp
dụng một cách cụ thể và nhất định là ở chỗ: Trƣớc hết các cử tri đều phải là
quần chúng lao động và bị bóc lột, còn giai cấp tƣ sản thì bị loại ra; hai là,
mọi thủ tục và những chế độ có tính chất quan liêu đều bị xóa bỏ, quần chúng
tự quy định lấy thể thức và thời hạn bầu cử, hoàn toàn có quyền tự do bãi
miễn những ngƣời mà họ đã bầu ra; ba là, hình thành một tổ chức quần chúng
tốt nhất của đội tiền phong của những ngƣời lao động - giai cấp vô sản đại
công nghiệp, tổ chức đó giúp cho đội tiền phong có thể lãnh đạo đƣợc đại đa
số quần chúng bị bóc lột, có thể thu hút số quần chúng đó độc lập tham gia và
sinh hoạt chính trị, và do đó có thể bắt tay, lần đầu tiên, vào việc thi hành
nhiệm vụ sau đây: làm thế nào cho thực sự toàn thể nhân dân đều học tập
đƣợc công tác quản lý và bắt đầu đảm nhận công tác quản lý”[35, tr 240].
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng cầm quyền nhƣng dân là chủ. Mọi
“quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[42, tr 698]. Ngƣời luôn nhấn mạnh
vấn đề quyền lực thuộc về dân là vấn đề nguyên tắc, là bản chất chế độ mới
mà Đảng ta, nhân dân ta đang ra sức xây dựng. Đảng lãnh đạo cách mạng,
lãnh đạo chính quyền là nhằm thiết lập và củng cố quyền làm chủ của dân,
mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân.
Dân làm chủ - mọi quyền hành, mọi lực lƣợng ở dân. Nhân dân thực sự
tham gia vào việc quản lý nhà nƣớc. Hồ Chí Minh dạy rằng: “Dân chủ là thế
nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trƣởng, thứ trƣởng, ủy
viên này khác làm gì? Làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan
cách mạng”[44, tr 375]. Nền dân chủ chúng ta đã và đang phấn đấu xây dựng
16
là nền dân chủ triệt để, trong đó nội dung cơ bản nhất của nền dân chủ là toàn
bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Mặt khác, không thể tách rời là dân chủ phải
đi liền với kỷ luật, kỷ cƣơng, pháp chế. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự
kết hợp hài hoà giữa quyền và trách nhiệm, gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của
sự phát triển xã hội.
Vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về dân chủ, về mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nƣớc, giữa Đảng
và nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bƣớc xây dựng nền dân chủ
XHCN và qua đó phát huy quyền lực của nhân dân trong mọi hoạt động đời
sống xã hội.
Nhìn chung, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ rộng rãi
nhất, toàn diện nhất và phổ biến nhất, đặc điểm nổi bật nhất của chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa là nó đƣợc mở rộng đến tất cả các tầng lớp trong nhân
dân lao động. Nói đến dân chủ xã hội chủ nghĩa không phải là nói đến một
nền dân chủ hình thức, mà là dân chủ trong thực tế, quyền lực của nhân dân
từng bƣớc đƣợc thực thi trong hiện thực.
1.1.2. Cấp cơsở và vị trí, vai trò của cấp cơ sở
Cấp cơ sở và cấu trúc của cấp cơ sở
Trong tiếng Việt, khái niệm cơ sở rất phong phú, sinh động, đƣợc sử
dụng trong khá nhiều trƣờng hợp và biểu đạt những nghĩa không hoàn toàn
nhƣ nhau. Cơ sở có khi đƣợc hiểu là chỗ dựa, là căn cứ của một tổ chức, lực
lƣợng, một phong trào. Có khi cơ sở lại đƣợc hiểu là nền móng, nền tảng.
Thuật ngữ cơ sở trong luận văn này đƣợc hiểu là một cấp trong hệ thống bốn
cấp quản lý của tổ chức hành chính nƣớc ta hiện nay.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, xét theo cấu trúc dọc, bao gồm
cấp Trung ƣơng, cấp Tỉnh (Thành phố), cấp Quận (Huyện) và cấp cơ sở. Cấp
cơ sở bao gồm Xã, Phƣờng, Thị trấn.
17
Cấp cơ sở cũng là cấp tiếp xúc trực tiếp với nhân dân. Nói cách khác là
“nơi chính quyền trong lòng dân” [8, tr177] là cấp thấp nhất trong hệ thống
quản lý nhà nƣớc nhƣng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã
hội, là nơi diễn ra cuộc sống của dân, đồng thời là cấp cụ thể hóa mọi chủ
trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc.
Cấu trúc của hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm: Tổ chức Đảng cơ sở
(Đảng ủy cơ sở); Chính quyền cấp cơ sở (Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân) và các tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở (Mặt trận Tổ quốc, Hội nông
dân, Liên hiệp Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Cựu
chiến binh, Công đoàn). Hệ thống này đóng vai trò rất quan trọng trong tổ
chức thực hiện dân chủ ở cơ sở, đây là nơi hƣớng dẫn thực hiện, triển khai,
thực hiện và giám sát toàn bộ quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở.
Tổ chức Đảng cấp cơ sở bao gồm và đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở. Tổ
chức Đảng cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, bao gồm
Đảng ủy xã, phƣờng, thị trấn, chi bộ thôn (xóm).
Chính quyền cấp cơ sở bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phƣơng bầu ra, chịu trách nhiệm trƣớc nhân dân địa phƣơng và cơ quan nhà
nƣớc cấp trên.
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu, là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nƣớc ở địa phƣơng, chịu trách
nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật pháp và các văn bản của cơ quan nhà nƣớc
cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Ở cấp cơ sở, chính quyền cơ sở có vai trò quan trọng đặc biệt, là trụ cột
của hệ thống chính trị cơ sở. Chính quyền cơ sở thực hiện quản lý, điều hành
các hoạt động kinh tế - xã hội cũng nhƣ mọi mặt đời sống của nhân dân theo
18
thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ đƣợc quy định. Do đó, tổ chức bộ máy và
phƣơng thức hoạt động của chính quyền cơ sở phải gắn bó với nhân dân, gần
gũi với dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Thực tiễn cho thấy, việc chính
quyền cơ sở gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sức
mạnh của chính quyền cơ sở.
Các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể cấp cơ sở, gồm Mặt trận Tổ
quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Cựu chiến binh, Liên
hiệp Hội Phụ nữ, Hội nông dân và Công đoàn.
Trong đó, Mặt trận Tổ quốc là một thành viên chiến lƣợc, có vị trí vô
cùng quan trọng trong hệ thống chính trị nƣớc ta. Trong Điều 9, Hiến Pháp
năm 2013 đã quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính
trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc,
tôn giáo, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập
hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cƣờng đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nƣớc, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc là nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng, tập hợp khối
đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện các
đƣờng lối chủ trƣơng chính sách của đảng và nhà nƣớc, giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nƣớc, đại biểu dân cử, cán bộ công chức, đảng viên
nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật. Mặt trận Tổ quốc cùng nhà
nƣớc chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
19
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội
của thanh niên. Trong xã hội, thanh niên là một lực lƣợng trẻ, đông đảo trong
dân cƣ, với các đặc điểm khỏe, thông minh, năng động, sáng tạo, dám nghĩ
dám làm; họ là một lực lƣợng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đƣợc thành lập để tập hợp,
giáo dục và phát huy vai trò của lực lƣợng trẻ này. Đoàn Thanh niên có vai
trò quan trọng trọng việc nâng cao nhận thức, giáo dục truyền thống cho thanh
niên, khơi dậy trong họ tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, lòng tự hào dân tộc.
Đoàn Thanh niên còn là tổ chức vận động, tổ chức thực hiện các phong trào
“Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nƣớc”. Đoàn Thanh niên là tổ chức
chính trị - xã hội đƣợc tổ chức từ Trung ƣơng đến cơ sở.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức đƣợc tổ chức chặt chẽ từ
Trung ƣơng tới cơ sở, là nơi thu hút toàn bộ phụ nữ Việt Nam, không phân
biệt tuổi tác, nghề nghiệp, dân tộc cũng nhƣ địa vị xã hội. Hội Phụ nữ có vai
trò quan trọng trong tập hợp, tổ chức, hƣớng dẫn phụ nữ tham gia các hoạt
động sản xuất, phát triển đời sống xã hội, giúp cho sự phát triển của bản thân
mình, trẻ em, gia đình và toàn xã hội.
Hội cựu Chiến binh đƣợc thành lập 1990, là tổ chức đƣợc cơ cấu từ
Trung ƣơng đến cơ sở dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Cựu chiến binh là lực
lƣợng đông đảo trong dân cƣ. Đây là những ngƣời lính đã đƣợc tôi luyện
trong đấu tranh cách mạng và trong cuộc sống, là những ngƣời hết tuổi phục
vụ trong quân đội đã trở về địa phƣơng tham gia sản xuất phát triển kinh tế,
giữ gìn an ninh trật tự. Họ là những ngƣời có ý thức kỷ luật cao, có niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc.
Lực lƣợng cựu chiến binh gồm nhiều thế hệ, có độ tuổi tƣơng đối cao,
từ 50 tuổi trở lên, song họ là những ngƣời có kiến thức, trình độ văn hóa nhất
định và có nhiều ngƣời rất giỏi trong một số lĩnh vực.
20
Hội Nông dân Việt Nam: Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, nông dân
chiếm gần 80% dân số và là đội quân chủ lực trong các cuộc cách mạng.
Ngày 14/ 10/ 1930, tại Hội nghị lần thứ nhất khóa I, tổ chức “Nông hội
đỏ”, tiền thân của Hội Nông dân Việt Nam, đƣợc thành lập dƣới sự lãnh đạo
của Đảng. Hội là cầu nối trong việc tuyên truyền, phổ biến đƣờng lối, chính
sách của Đảng cho nông dân, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện đƣờng
lối đó. Hội Nông dân là nơi nông dân phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng đối với
Đảng, là đại diện cho lợi ích chính đáng của giai cấp nông dân.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
và của ngƣời lao động đƣợc thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho ngƣời
lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của ngƣời lao
động; tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra,
thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức, đơn vị, doanh
nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của ngƣời lao động;
tuyên truyền, vận động ngƣời lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đặc điểm của cấp cơ sở
Thứ nhất, cấp cơ sở là cấp đƣợc nhân dân bầu ra, gần dân nhất, là nơi
chính quyền trong lòng dân.
Cấp cơ sở là cấp chính quyền gần dân nhất, đƣợc nhân dân trực tiếp
bầu ra, các cán bộ chủ chốt hoàn toàn phụ thuộc vào lá phiếu trong các kỳ bầu
cử. Đặc điểm này vừa mang tính chất thể chế, vừa mang tính chất thực tế. Cấp
cơ sở nƣớc ta từ sau Cách mạng Tháng Tám cho đến nay, về cơ bản cũng
mang đặc điểm đó. Nó là cấp gần dân nhất và thể hiện rõ nhất tính nhân dân.
Nhà nƣớc xác định cấp cơ sở là một cấp chính quyền, song khác với các cấp
chính quyền trên nó, Nhà nƣớc cho phép nhân dân ở cấp cơ sở tự lựa chọn
những ngƣời xứng đáng lãnh đạo chính quyền thông qua bầu cử. Nếu đƣợc
21
bầu thì một cá nhân trở thành cán bộ chính quyền, cán bộ đảng và đoàn thể.
Khi không đƣợc tái cử, thì ngƣời đó trở lại làm công dân bình thƣờng.
Chính vì đặc điểm này có thể nói cấp cơ sở là mắt khâu trung gian, là
bƣớc chuyển tiếp giữa chế độ tự quản làng xã sang chế độ nhà nƣớc đầy đủ.
Đây là đặc điểm nên duy trì trong hệ thống chính quyền cấp cơ sở.
Cơ sở là nơi diễn ra cuộc sống của ngƣời dân, nơi mà chính quyền và
các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức cuộc sống, hoạt động và phong trào của
cộng đồng thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của ngƣời dân và
thông qua các hình thức thực hiện dân chủ mà cơ sở là nơi chính quyền và
nhân dân gần gũi và gắn bó chặt chẽ với nhau nhất.
Thứ hai, cấp cơ sở là cấp thấp nhất nhƣng là cấp trực tiếp hành động, tổ
chức hành động, đƣa đƣờng lối, nghị quyết của Đảng, chủ trƣơng, chính
sách, pháp luật của Nhà nƣớc vào cuộc sống.
Cơ sở tuy là cấp thấp nhất nhƣng lại có tầm quan trọng đặc biệt, là một
trong những vấn đề ảnh hƣởng đến sự sống còn, thành bại của chế độ. Cơ sở
là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, mất dân chủ ở cơ sở dẫn đến mất miền tin của
nhân dân vào chế độ vào Đảng, Nhà nƣớc, đó là khởi đầu của sự mất dân chủ,
mất niềm tin trong xã hội.
Cấp cơ sở là cấp trực tiếp hành động, thực hiện mọi chủ trƣơng, đƣờng
lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc nên cán bộ cơ sở phải gần dân, hiểu và
thấu cảm với nhân dân, phải làm cho nhân dân tin vào đƣờng lối, chính sách
của Đảng, Nhà nƣớc chính là nhằm mục đích phục vụ cho nhân dân. Vì thế
cán bộ cơ sở phải tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng và tự bản thân
phải làm gƣơng cho quần chúng.
Thứ ba, cấp cơ sở là cấp có bộ máy gọn nhẹ, nhà nƣớc chi phí ít nhất Do
là cấp thấp nhất nên tổ chức bộ máy đơn giản nhất và biên chế đƣợc
hƣởng sinh hoạt phí ít nhất. Chính quyền chỉ có 5 ủy viên ủy ban, cộng cả chủ
22
tịch và phó chủ tịch là 7 ngƣời. Hội đồng nhân dân tối đa có 25 ngƣời. Toàn
bộ số ngƣời đƣợc hƣởng sinh hoạt phí theo quy định kể cả đảng, đoàn thể
không quá 25 ngƣời.
Cấp cơ sở là cấp mà chi phí của Nhà nƣớc tính trên đầu cán bộ thấp
nhất vì nhân sự ít và quan niệm cán bộ không cần chuyên môn cao và ít việc,
nên chi phí của Nhà nƣớc cho bộ máy và hoạt động của cán bộ ở mức thấp
nhất (xem Phụ lục 1).
Bộ máy gọn nhẹ, đơn giản là cần thiết để tránh cồng kềnh, tốn kém
nhƣng phải làm cho nó “thà ít mà tốt” và nên tiếp tục duy trì tính chất gọn
nhẹ, đơn giản này, nhƣng đơn giản phải đi đôi với hiệu quả, song mức sinh
hoạt phí thấp là điều cần xem xét lại, cần phải có phƣơng án nâng mức thu
nhập của cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở cấp cơ sở để họ yên tâm công tác.
Thứ tƣ, các yếu tố có tính truyền thống, văn hóa, dòng họ có ảnh
hƣởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở.
Ở nhiều địa phƣơng đặc trƣng này là một thực tiễn phổ biến. Tình
trạng “chi bộ họ ta”, “chính quyền họ ta” ở cấp cơ sở là không ít. Tình trạng
thành viên cấp ủy và chính quyền đƣợc phân bổ theo dòng họ, theo cánh, theo
làng vẫn còn. Quan hệ anh em, họ hàng, chú bác… trong chính quyền xã, giữa
các cán bộ xã không phải hiếm.
Điều này ảnh hƣởng đáng kể tới quan hệ trong nội bộ tổ chức. Có khi
vì quan hệ họ hàng, chú bác, anh em mà nể nang, né tránh đấu tranh. Ngƣợc
lại, có khi vì quan hệ dòng họ mà đấu tranh phe cánh kịch liệt, vƣợt qua mức
cần thiết, dẫn đến làm tê liệt tổ chức.
Các yếu tố này có ảnh hƣởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của cấp
chính quyền và trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đây là một đặc
điểm lớn, cần phải tìm cách khắc phục bằng các biện pháp nâng cao năng lực,
23
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và ngƣời dân trên nguyên tắc giải
quyết công việc “có lý, có tình”.
Vị trí, vai trò của cấp cơ sở
Cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng vì nó liên quan đến mọi mặt trong
đời sống xã hội của ngƣời dân. Sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân
ta có thành công hay không trƣớc hết phải xuất phát từ cấp cơ sở. Vị trí, vai
trò quan trọng của cấp cơ sở thể hiện trên các khía cạnh sau:
Cấp cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân. Đây là cấp thấp nhất
trong cấp độ quản lý của hệ thống chính quyền Nhà nƣớc nhƣng lại là nền
tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội nhƣ Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Nền tảng của mọi công tác là cấp xã”. Cấp cơ sở là cấp chính quyền cuối
cùng gần gũi nhất. Nó là cấp trực tiếp điều hành việc nhân dân triển khai thực
hiện đƣờng lối, các chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc; theo dõi,
giám sát, kiểm tra việc công dân thực hiện các nghĩa vụ, pháp luật. Đây cũng
là nơi dân thể hiện vai trò là ngƣời chủ và quyền làm chủ của mình. Đó là
mối quan hệ giữa nhà nƣớc và nhân dân. Chính sách của Đảng, Nhà nƣớc
đều đƣợc thực hiện ở khâu này. Qua chính quyền xã, phƣờng, thị trấn mà
chính quyền Trung ƣơng có những điều chỉnh sát, đúng trong quản lý vĩ mô
và hoạch định chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội.
Cấp cơ sở là nơi diễn ra cuộc sống của nhân dân, nơi chính quyền và
các đoàn thể tổ chức cuộc sống, các hoạt động, các phong trào của cộng đồng
dân cƣ để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính
mình. Do vậy, mấu chốt của cơ sở là cán bộ, là hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị, làm sao cho ổn định, cho dân yên ổn, phấn khởi làm ăn, cố kết
cộng đồng, quan tâm và bảo vệ thể chế, phát triển xã hội, phát triển sức dân.
Theo Hồ Chí Minh: “Cấp xã là cấp gần gũi nhất, là nền tảng của hành chính.
Cấp xã làm đƣợc việc thì mọi việc đều xong xuôi” [44, tr7]. Xã, phƣờng, thị
24
trấn là đơn vị hành chính của cấp cơ sở, lãnh đạo và quản lý nhân dân - lực
lƣợng hùng hậu vốn quý nhất của đất nƣớc. Nhân dân là chỗ dựa của chính
quyền, đặc biệt là chính quyền cấp cơ sở.
Cấp cơ sở không phải là cấp hoạch định đƣờng lối, chính sách mà là
cấp hành động, tổ chức hành động, đƣa đƣờng lối chính sách, nghị quyết vào
cuộc sống. Cấp cơ sở là tầng lớp sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ vĩ
mô phải tác động tới. Nó là địa chỉ quan trọng cuối cùng và quyết định mọi
chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc phải tìm
đến.Tuy là cấp chính quyền thấp nhất nhƣng xã, phƣờng, thị trấn có tầm quan
trọng đặc biệt, là vấn đề sống còn, thành bại của chế độ. Mất cơ sở là mất dân,
mất dân là mất nƣớc mà khởi đầu là sự xa dân của cán bộ, sự rệu rã của tổ
chức bộ máy và sự hoành hành của nạn quan liêu tham nhũng làm dân đói khổ
bần cùng. Do đó, xây dựng cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ bức
thiết hiện nay.
Đối với nhân dân, cấp cơ sở chính là nơi họ sinh sống, nơi diễn ra mọi
hoạt động của đời sống xã hội.Nơi mọi chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà
nƣớc đƣợc thực hiện. Nhân dân chính là những ngƣời thực hiện những chủ
trƣơng, chính sách đó nhƣng hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò định
hƣớng, hƣớng dẫn họ thực hiện những công việc đó.
Cấp cơ sở có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống của nhân dân,
nó còn có vai trò quản lý và tự quản lý trong mỗi đơn vị nhỏ hơn (làng, thôn,
xóm). Vai trò quản lý của cấp cơ sở đƣợc thể hiện trong vai trò của hệ thống
chính trị ở cơ sở đƣợc thể hiện ở chính quyền cơ sở có hệ thống quyền lực
trực tiếp nhất với cuộc sống của nhân dân, tất cả các tổ chức quyền lực
nhànƣớc cấp trên đều phải thông qua vai trò của hệ thống chính quyền cơ sở
để thực thi quyền lực ấy.
25
Vai trò tự quản lý của nhân dân ở cấp cơ sở đƣợc thể hiện thông qua
việc tự quản của từng gia đình, thôn, xóm, làng. Đây là nét đặc thù ở cơ sở
nên việc thực hiện dân chủ ở cơ sở phải phát huy đƣợc sức mạnh, năng lực tự
quản của nhân dân để nhân dân tham gia trực tiếp vào việc kiểm tra, giám sát
của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Thực tế cho chúng ta thấy cấp cơ sở có một vị trí, vai trò hết sức quan
trọng trong sự phát triển của xã hội. Điều đó đƣợc thể hiện khái quát ở nhiều
phƣơng diện. Thứ nhất, cấp cơ sở là nơi cung cấp nguồn lao động cho xã hội
và là nơi giải quyết vấn đề lao động, việc làm cho nhân dân. Thứ hai, cấp cơ
sở là nơi thực hiện một cách rộng rãi nhất và trực tiếp nhất quyền làm chủ của
nhân dân. Thứ ba, cấp cơ sở là cầu nối giữa dân với Đảng, Nhà nƣớc, là nơi
trực tiếp thực hiện mọi chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nƣớc và tiếp thu ý kiến phản hồi của nhân dân. Thứ tƣ, cấp cơ
sở là nơi trực tiếp giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc.
1.1.3 Dân chủ ở cấp cơ sở
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đƣợc thực hiện trong cơ chế
“Đảng lãnh đạo, nhà nƣớc quản lý, nhân dân làm chủ” và nguyên tắc “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Về hình thức, dân chủ đƣợc thực hiện
dƣới hai hình thức là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhƣng chủ yếu là
dân chủ trực tiếp. Trong đó, dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ mà ở đó,
nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nƣớc, tức là, nhân dân thể hiện
một cách trực tiếp ý chí, quyền lực của mình với tƣ cách là chủ thể quyền lực
nhà nƣớc, về một vấn đề nào đó mà không cần thông qua tổ chức hay cá nhân
thay mặt mình. Cụ thể, nhân dân trực tiếp ứng cử, bầu cử Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, trƣng cầu dân ý. Hoặc việc nhân
dân đối thoại trực tiếp với cơ quan nhà nƣớc ở các cấp cũng là hình thức biểu
hiện của dân chủ trực tiếp. Ƣu điểm của hình thức dân chủ trực tiếp là nhân
26
dân trực tiếp quyết định, phản ảnh đúng ý chí, nguyện vọng của mình. Dân
chủ đại diện là hình thức dân chủ mà nhân dân thông qua các cơ quan nhà
nƣớc, các cá nhân đƣợc nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của nhân dân.
Dân chủ đại diện là phƣơng thức chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân.
Dân chủ đại diện có hạn chế nhất định, bởi đôi khi, ý chí, nguyện vọng của
ngƣời dân phải qua trung gian của ngƣời đại diện, có thể bị méo mó bởi trình
độ nhận thức, quan điểm, lợi ích...
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản để thực
hiện quyền lực của nhân dân, đều có vai trò quan trọng trong xây dựng và
thực thi dân chủ. Để nhân dân thực sự là chủ thể của quyền lực nhà nƣớc thì
phải thực hiện tốt cả dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ ở cơ sở là một cấp độ của chế độ dân chủ XHCN.Thực hiện,
củng cố và mở rộng dân chủ XHCN ở cơ sở là quá trình nâng cao sức mạnh
và hiệu quả của cơ quan chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn. Thực hiện dân
chủ ở cấp cơ sở chính là làm cho mọi ngƣời dân đƣợc biết, đƣợc tham gia
bàn bạc và quyết định các công việc chung ở địa phƣơng.
Trong Hội thảo “Thực hiện dân chủ ở cơ sở: Qua thực tiễn Việt Nam và
Trung Quốc”, GS. TS Lê Hữu Nghĩa đã đƣa ra một cách khái quát: “Thực
hiện dân chủ ở cơ sở là động lực mạnh mẽ để đảm bảo và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, để chống quan liêu, tham những, độc đoán, chuyên quyền -
những hiện tƣợng trái với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa” [46]. Dân
chủ cấp cơ sở cũng đƣợc thực hiện bằng hai hình thức dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện. Ở Luận văn này, chúng tôi tập trung bàn đến dân chủ trực
tiếp ở cấp cơ sở, thông qua Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị
trấn, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội thông qua ngày 20/4/2007 và có hiệu lực từ
ngày 01/7/2007.
27
Theo tôi, dân chủ ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là quyền làm chủ
của nhân dân,đượcthể hiện qua phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với tổ chức hoạt
động của bộ máy nhà nước cấp cơ sở được thông qua hình thức dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ ở cơ sở là quá trình hiện thực hóa cơ chế hoạt động của hệ
thống tổ chức quyền lực ở cơ sở sao cho nhân dân đƣợc đảm bảo một cách
trực tiếp và rộng rãi nhất những quyền đƣợc biết, đƣợc bàn, đƣợc làm, đƣợc
kiểm tra tại nơi họ sinh sống và làm việc hàng ngày.
Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở là xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh
nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân để thúc đầy mạnh mẽ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Do đó, thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở có
vai trò quan trọng, phản ánh nền dân chủ XHCN của chế độ ta.
Dân chủ ở cơ sở phải dựa trên cơ sở Hiến Pháp và Pháp luật, Pháp lệnh.
Thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn nhằm đảm bảo các yêu cầu tăng
cƣờng khối đại đoàn kết cộng đồng, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của mọi thành viên vào xây dựng cộng đồng dân cƣ đoàn kết văn minh,
tiến bộ; phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân;
thúc đẩy cải cách hành chính, tham gia tích cực vào việc kiểm tra, giám sát tổ
chức cơ sở Đảng và chính quyền cơ sở.
Ở Việt Nam, nhằm giải quyết kịp thời những vấn đề yếu kém trong việc
phát huy dân chủ ở cơ sở, cũng nhƣ đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ sở
trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trƣờng và nhà nƣớc Pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nắm bắt đƣợc yêu cầu của thực tiễn,
ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị (Khóa VIII) đã ra Chỉ thị số 30 - CT/TƢ về
“Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”. Trên cơ sở đó, ngày
28
11/5/1998 Chính phủ ra Nghị định số 29 NĐ - CP về “Ban hành quy chế thực
hiện dân chủ ở xã” (áp dụng với cả phƣờng, thị trấn), cùng với Chỉ thị số 22/
CT - TTg ngày 15/5/1998 “Vềtriển khai quy chế thực hiện dân chủ ở xã”, Chỉ
thị số 24/ CT - TTg ngày 19/6/1998 “Về việc xây dựng và thực hiện hương
ước, quyước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư” của Thủ tƣớng Chính phủ.
Tiếp đó, ngày 28/03/2002 Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng ra Chỉ thị số 10 -
CT/ TƢ về “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quychế dân chủ ở
cơ sở” nhằm đánh giá, tổng kết quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,
trong đó có quy chế dân chủ ở xã trong mấy năm đầu triển khai, đồng thời để
đƣa ra những nhiệm vụ cần làm trong những năm tiếp theo, để phù hợp với
thực tiễn phát triển của đất nƣớc. Ngày 07/7/2003 Chính phủ ban hành Nghị
định số 79/ NĐ- CP về “Về ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã” thay
thế Nghị định số 29/NĐ- CP. Đây là những văn bản quan trọng của Đảng,
Nhà nƣớc ban hành. Tinh thần căn bản của những Chỉ thị, Nghị định là làm
sao cho dân chủ xã hội chủ nghĩa đƣợc mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân
đƣợc phát huy. Đó cũng chính là mục tiêu, động lực đảm bảo cho sự thắng
lợi, của cách mạng, của công cuộc đổi mới.
Theo Nghị định 79 NĐ - CP do Chính phủ ban hành ngày 07/7/2003 thì
quy chế dân chủ ở xã bao gồm 7 chƣơng với 25 điều, trong đó có 4 điều là
những quy định chung; 2 điều quy định những điều cần thông báo để dân biết;
3 điều quy định những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; 2 điều quy
định những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, hội đồng nhân dân, ủy ban
nhân dân xã quyết định; 3 điều quy định những việc nhân dân giám sát, kiểm
tra; 5 điều quy định về việc xây dựng cộng đồng dân cƣ thôn; và 6 điều khoản
thi hành.
Để nâng cao hiệu quả phát huy dân chủ ở cơ sở xã, phƣờng, thị trấn,
ngày 04/5/ 2007 Chủ tịch nƣớc đã cho công bố ban hành Pháp lệnh số
29
34/2007/PL - UBTVQH về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn do Ủy
ban Thƣờng vụ Quốc hội thông qua ngày 20/4/2007 và có hiệu lực từ ngày
01/7/2007.
Nội dung cơ bản của dân chủ ở cơ sở đƣợc thể hiện trong Pháp lệnh về
thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn. Sau đây tôi xin gọi tắt là Pháp lệnh
dân chủ. Pháp lệnh dân chủ gồm 6 chƣơng 28 điều, trong đó đề cập đến bốn
nội dung chính thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, gồm:
những nội dung công khai để dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết
định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trƣớc khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát.
Thứ nhất, những nội dung công khai để nhân dân biết.
Pháp lệnh dân chủ quy định 11 nội dung chính quyền cấp cơ sở phải
công khai cho nhân dân biết, đây là những nội dung liên quan trực tiếp đến
ngƣời dân, gắn liền đến quyền và lợi ích của nhân dân, đƣợc nhân dân quan
tâm, bao gồm những nhóm nội dung chính sau:
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phƣơng án chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp cơ sở.
Các dự án, công trình đầu tƣ và thứ tự ƣu tiên, tiến độ thực hiện,
phƣơng án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cƣ liên quan đến dự
án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và
phƣơng án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cƣ trên địa bàn cấp xã , phƣờng,
thị trấn.
Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã, phƣờng, thị trấn
trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân.
Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tƣ, tài trợ theo
chƣơng trình, dự án đối với cấp xã, phƣờng, thị trấn; các khoản huy động
nhân dân đóng góp.
30
Chủ trƣơng, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá
đói, giảm nghèo; phƣơng thức và kết quả bình xét hộ nghèo đƣợc vay vốn
phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thƣơng, cấp thẻ bảo
hiểm y tế.
Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới
hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã, phƣờng, thị trấn.
Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng
của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu
tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, phƣờng, thị trấn.
Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề
thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã, phƣờng, thị trấn mà chính quyền
đƣa ra lấy ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.
Đối tƣợng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn trực tiếp thu.
Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công
việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn trực tiếp
thực hiện.
Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn thấy
cần thiết.
Pháp lệnh dân chủ quy định rõ các hành thức công khai, bao gồm:
Niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã,
phƣờng, thị trấn; Công khai trên hệ thống truyền thanh của xã, phƣờng, thị
trấn; Công khai thông qua Trƣởng thôn; Tổ trƣởng dân phố để thông báo đến
nhân dân.
31
Ngoài ra, nhằm tạo ra nhiều kênh thông tin để nhân dân nắm bắt rõ hơn
việc công khai, Pháp lệnh còn quy định chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn
có thể áp dụng đồng thời nhiều hình thức công khai cho cùng một nội dung;
thực hiện việc cung cấp theo quy định tại Điều 32 của Luật Phòng, Chống
tham nhũng.
Đối với những nội dung đƣợc nhân dân quan tâm nhất, liên quan trực
tiếp nhất đến quyền lợi của nhân dân thì Pháp lệnh còn quy định bắt buộc phải
đƣợc công khai bằng hình thức niêm yết tại trụ sở Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân cấp xã, phƣờng, thị trấn trong thời gian chậm nhất là hai ngày,
kể từ ngày văn bản đƣợc thông qua, ký ban hành đối với những việc thuộc
thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp xã hoặc kể từ ngày nhận đƣợc
văn bản đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà
nƣớc cấp trên, bao gồm:
Các dự án, các công trình đầu tƣ, phƣơng án đền bù, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng, tái định cƣ liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã,
phƣờng, thị trấn; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và các phƣơng án
điều chỉnh, quy hoạch khu dân cƣ trên địa bàn cấp xã, phƣờng, thị trấn; Đối
tƣợng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền
cấp xã trực tiếp thu. Đối với các nội dung này, thời gian niêm yết là 30 ngày
liên tục kể từ ngày niêm yết.
Thứ hai, những nội dung nhân dân bàn và quyết định.
Những nội dung nhândân bàn và quyết định trực tiếp
Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về các chủ trƣơng và mức đóng
góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi
cấp xã, phƣờng, thị trấn, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc
một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cƣ phù
hợp với quy định của pháp luật.
32
Những nội dung, hình thức nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm
quyền quyết định, bao gồm: Hƣơng ƣớc, quy ƣớc của thôn, tổ dân phố; Bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm Trƣởng thôn, Tổ trƣởng tổ dân phố; Bầu, bãi nhiệm
thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tƣ của cộng đồng.
Có 2 hình thức để nhân dân bàn và quyết định trực tiếp hoặc biểu
quyết, gồm: Tổ chức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn
từng thôn, tổ dân phố; Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ
gia đình.
Thứ ba, những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trƣớc khi cơ quan có
thẩm quyền quyết định.
Pháp lệnh quy định 5 nội dung phảiđưa ra lấy ý kiến của nhân dân khi
chính quyền cấp xã, phường, thịtrấn hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định,
bao gồm:
Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phƣơng án
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cƣ, vùng
kinh tế mới và phƣơng án phát triển ngành nghề của cấp xã, phƣờng, thị trấn.
Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phƣơng án điều
chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã, phƣờng, thị trấn.
Dự thảo kế hoạch triển khai các chƣơng trình, dự án trên địa bàn cấp
xã, phƣờng, thị trấn; chủ trƣơng, phƣơng án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cƣ; phƣơng án quy hoạch khu dân cƣ.
Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh
địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã, phƣờng, thị trấn.
Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của
pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền hoặc chính
quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn thấy cần thiết.
33
Những hình thức để nhân dân tham gia ý kiến bao gồm: Họp cử tri hoặc
cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; Phát phiếu lấy ý
kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình; Thông qua hòm thƣ góp ý.
Thứ tƣ, những nội dung nhân dân giám sát.
Nhân dân đƣợc quyền giám sát các nội dung: Những nội dung công
khai; Nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; Những nội dung nhân
dân bàn, biểu quyết; Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến.
Hình thức để thực hiện việc giám sát của nhân dân: Bao gồm hai hình
thức là Giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp.
Lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, phƣờng, thị trấn.
Pháp lệnh quy định hai năm một lần trong mỗi nhiệm kỳ của Hội đồng
nhân dân cấp xã, Ban Thƣờng trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng
cấp tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân
dân và Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, phƣờng, thị trấn.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở với chủ thể của dân chủ là nhân dân, dân
làm chủ. Ở đây, dân có vai trò cực kỳ quan trọng. Dân chủ ở cơ sở diễn ra
theo phƣơng châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và nhân dân
đánh giá. Đây không phải là toàn bộ dân chủ ở cơ sở nhƣng đây là quy trình
thực hiện dân chủ đƣợc diễn đạt cô đọng, xúc tích, dễ hiểu, dễ nhớ với sự sắp
xếp hợp lý, là quy trình từ nhận thức đến hành động và đánh giá, nhận thức.
1.2. Khái quát về cấp cơ sở và các yếu tố tác động đến thực hiện
dân chủ ở cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình
1.2.1. Khái quátvềcấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình
Về địa bàn hoạtđộng của cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía nam của đồng bằng Bắc Bộ, phía Bắc
giáp tỉnh Hà Nam, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Nam Định, phía Tây và
34
Tây nam giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hòa Bình. Ninh Bình là
cửa ngõ đi vào miền Trung, đi ra vùng Duyên Hải và lên vùng Tây Bắc. Đặc
điểm tự nhiên và địa hình của tỉnh Ninh Bình khá đa dạng, phong phú, có cả
rừng núi, đồng bằng, vùng bán sơn địa và vùng biển. Trong đó, Kim Sơn là vùng
đất mở, hàng năm đất luôn đƣợc bồi đắp thêm ra biển, nên diện tích tự nhiên có
điều kiện mở rộng. Do vậy, Ninh Bình vừa là vùng đất cổ, vừa là vùng đất mới.
Trƣớc đây, Ninh Bình là một tỉnh thuần nông. Có tới 80% dân số sống
bằng nghề nông, lâm, thủy sản. So với các tỉnh ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, Ninh
Bình khó khăn hơn trong phát triển nông nghiệp. Diện tích đất thuận lợi cho việc
trồng lúa không nhiều. Ngoài phần diện tích đất trồng lúa nƣớc thuận lợi là phần
đất trũng hoặc là gò đồi, rất khó khăn cho canh tác cây lúa và hoa màu khác. Địa
hình của tỉnh Ninh Bình đa dạng, do vậy, kinh tế nông nghiệp
ở đây phát triển theo phƣơng thức đa canh. Vừa trồng lúa nƣớc, vừa trồng lúa
nƣơng và nhiều loại cây ra màu khác.
Là tỉnh thuần nông, nên cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chủ yếu
là đơn vị xã. Hiện nay, trên toàn tỉnh có 146 xã, phƣờng, thị trấn. Trong đó có
16 phƣờng (chiếm 10,9%), 7 thị trấn (chiếm 4,9%) và 123 xã (chiếm 84,2%)
(xem Phụ lục 7). Nhƣ vậy, đơn vị cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình chủ yếu hoạt
động trên địa bàn sản xuất nông, lâm nghiệp, dân cƣ chủ yếu là nông dân.
Mặt khác, giữa các vùng, miền trên địa bàn tỉnh lại có sự khác nhau về
điều kiện tự nhiên, địa hình, đặc điểm dân tộc và tôn giáo, đặc điểm kinh tế,
do vậy, hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình cũng phải
đối mặt với những khó khăn, thách thức cũng nhƣ có những thuận lợi riêng.
Về đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh Ninh Bình
Cũng nhƣ hệ thống chính trị cấp cơ sở ở các địa phƣơng trên cả nƣớc,
hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Ninh Bình gồm tổ chức đảng cơ sở, chính
quyền cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể cơ sở.
35
Về tổ chức Đảng cơ sở, toàn tỉnh Ninh Bình có 3.068 chi bộ với hơn
58.000 đảng viên, chiếm 6.4% dân số. Đảng viên của các chi bộ cơ sở phần
đông là nông dân, cán bộ hƣu trí và cựu chiến binh, số chi bộ có dƣới 30
đảng viên chiếm đa số, có ít số chi bộ từ 31 - 50 đảng viên và hơn 50 đảng
viên. Hiện nay, Ninh Bình không còn thôn, xóm nào trắng đảng viên. Tổ chức
cơ sở Đảng rộng khắp, gần gũi, sâu sát với nhân dân là điều kiện thuận lợi để
xây dựng Đảng, giữ vũng ổn định kinh tế - xã hội ở địa phƣơng.
Việc phát triển các tổ chức Đảng cấp cơ sở đƣợc Ninh Bình kiên trì
triển khai, hàng năm bình quân thành lập thêm 10 tổ chức cơ sở đảng và hàng
chục chi bộ mới, trong đó, có các tổ chức đảng của doanh nghiệp tƣ nhân. Chỉ
riêng 3 năm 2008 - 2010 đã thành lập mới 36 tổ chức cơ sở đảng, trong đó 7
tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tƣ nhân. [57, tr.87].
Ninh Bình là điểm sáng trong việc phát triển đảng viên là ngƣời có đạo,
đảng viên là chủ doanh nghiệp tƣ nhân. Trong 3 năm từ 2008 - 2010, toàn
Đảng bộ đã kết nạp đƣợc 220 đảng viên là ngƣời có đạo, 8 đảng viên là chủ
doanh nghiệp tƣ nhân đƣa đảng viên là ngƣời có đạo trong toàn Đảng bộ lên
trên 1000 đảng viên. Hiện Đảng bộ có 194 đảng viên là chủ doanh nghiệp tƣ
nhân, 48 đảng viên là chủ tịch hội đồng quản trị của công ty cổ phần.
Tƣơng ứng với 146 đơn vị cấp cơ sở, là 146 tổ chức chính quyền (Hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân) và các tổ chức chính trị xã hội (Mặt trận Tổ
quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Nông dân …) cấp cơ sở.
Do đặc điểm của cơ chế lựa chọn, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở, nên đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh Ninh Bình, về cơ bản, không đƣợc đào
tạo hệ thống, bài bản về quản lý Nhà nƣớc. Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở hình
thành từ nhiều nguồn cán bộ khác nhau (cán bộ nghỉ hƣu, quân nhân xuất
ngũ…), cán bộ trƣởng thành từ hoạt động cơ sở, làm việc chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm.
36
Những năm gần đây, phần lớn cán bộ cơ sở đã đƣợc chuẩn hóa về trình
độ chuyên môn, quản lý. Năm 2002, số cán bộ công chức có trình độ đại học,
cao đẳng chỉ có 106 ngƣời, thì đến năm 2011, số ngƣời có trình độ đại học,
cao đẳng tăng lên 13.455 ngƣời, tăng 118.3%; số ngƣời có trình độ trung cấp
năm 2002 là 456 ngƣời, năm 2011 là 1.337 ngƣời, tăng 193,2%; số ngƣời có
trình độ sơ cấp năm 2002 là 142 ngƣời đến năm 2011 là 171 ngƣời, tăng
20,4%; đặc biệt số ngƣời chƣa qua đào tạo giảm 71,4% so với năm 2002. [57,
tr. 329]. Tiếp tục thực hiện chủ trƣơng “Nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán
bộ”, đến năm 2015,”… tổng số cán bộ công chức của Tỉnh có trên 21.000
ngƣời, trong đó 18 ngƣời có trình độ tiến sĩ, trên 400 ngƣời có trình độ thạc
sĩ, trên 13.000 ngƣời có trình độ đại học, trên 4.000 ngƣời có trình độ cao
đẳng, trên 2.600 ngƣời có trình độ công nhân kỹ thuật bậc 5-7, trên 1.800
ngƣời có trình độ cao cấp, cử nhân lý luận chính trị”[56, tr 50 - 54]. Tuy
nhiên, việc đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, nhất là độingũ cán bộ cấp cơ sở, về cơ
bản, vẫn còn mang tính chắp vá, do vậy, hiệu quả công tác chƣa cao.
1.2.2. Những yếu tố tác động đến thực hiện dân chủ cấp cơ sở ở tỉnh
Ninh Bình hiện nay
Thực hiện dân chủ cấp cơ sở là việc tổ chức để ngƣời dân tham gia đầy
đủ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, đảm bảo trên thực tế nguyên tắc
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Chủ thể tham gia vào việc tổ chức thực hiện dân chủ cấp cơ sở là đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị cấp cơ sở và chính bản thân nhân
dân địa phƣơng. Quá trình tổ chức thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình phụ thuộc vào một số yếu tố sau đây.
Sự pháttriển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình
Xây dựng và thực hiện dân chủ cấp cơ sở là thực hiện quyền làm chủ
của ngƣời dân trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
37
nƣớc, thực hiện mực tiêu “Dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Yếu tố kinh tế - xã hội có tác động, ảnh hƣởng quan trọng trong quá
trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở. Dân là chủ và dân làm chủ là nhân dân
phải làm chủ tƣ liệu sản xuất, làm chủ trong việc tổ chức, quản lý sản xuất
cũng nhƣ phân phối sản phẩm lao động. Làm chủ trên lĩnh vực kinh là cở sở,
nền tảng để nhân dân làm chủ về chính trị, văn hóa, xã hội.
Để tạo lập vững chắc cơ sở kinh tế để thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình vấn đề mấu chốt là phát triển lực lƣợng sản xuất,
trên cơ sở sự phát triển của lực lƣợng sản xuất mà tạo ra những hình thức,
những trình độ tƣơng ứng của quan hệ sản xuất mới. Quan hệ sản xuất mới xã
hội chủ nghĩa mà hạt nhân là chế độ sở hữu xã hội đƣợc hình thành và phát
triển là điều kiện đảm bảo quyền làm chủ kinh tế của ngƣời dân ở đây.
Ninh Bình là nơi tiếp nối giao lƣu kinh tế và văn hóa giữa lƣu vực
sông Hồng với lƣu vực sông Mã, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng rừng
núi Tây Bắc, nằm gần các địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc với tuyến hành
lang Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Địa hình của tỉnh khá đa dạng gồm:
Vùng núi, vùng đồng bằng và vùng ven biển. Tỉnh Ninh Bình có hệ thống
giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt và đƣờng thủy từ cấp địa phƣơng đến cấp
quốc gia thuận tiện cho giao thƣơng và phát triển kinh tế.
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi về giao thông, vị trí địa lý, tỉnh Ninh
Bình có nhiều tài nguyên thích hợp để pháp triển các vùng nhiên liệu cho các
ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản, hoa quả xuất khẩu hay các loại nông
sản, đồ thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là tài nguyên đá vôi và các loại khoáng sản
phù hợp để phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng.
Hiện nay, trong quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng, đẩy mạnh công
nghiệp nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Ninh Bình đã có sự
38
chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế của tỉnh. Từ một tỉnh thuần nông, sản xuất
nhỏ, tự cung, tự cấp chuyển sang cơ cấu kinh tế đa dạng, trong đó, cùng với
công nghiệp, du lịch, dịch vụ đã và đang phát triển theo hƣớng trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Ninh Bình có nhiều di tích lịch sử - văn hoá
với các loại hình kiến trúc, nghệ thuật, lịch sử, tín ngƣỡng, tôn giáo và di tích
lịch sử cách mạng rất phong phú. Sự đa dạng đƣợc thể hiện ở các loại hình du
lịch: du lịch sinh thái, văn hoá, nghỉ dƣỡng, mạo hiểm, thể thao. Nhiều di tích
danh thắng đã trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn du khách trong nƣớc
và quốc tế. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế đó đã hƣớng tới việc khai thác tiềm
năng thế mạnh của tỉnh. Nhờ vậy, sự phát triển của tỉnh và đời sống kinh tế-xã
hội của nhân dân đƣợc nâng cao. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Ninh Bình
trong 20 năm qua luôn ở mức cao so với cả nƣớc, bình quân đạt trên 13%,
thời kỳ 2006 - 2011 tăng trƣởng kinh tế đạt 15.7%. Nền kinh tế của tỉnh Ninh
Bìnhvới cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ chiếm 85%, nông - lâm - ngƣ
chiếm có 15%.
Gắn liền với quá trình phát triển kinh tế, đời sống nhân dân ổn định và
đƣợc cải thiện đáng kể về nhiều mặt, đặc biệt về kinh tế. Quyền sở hữu tƣ
liệu sản xuất của ngƣời lao động nông thôn Ninh Bình ngày càng đƣợc đảm
bảo, nhất là từ khi Nhà nƣớc ban hành Luật đất đai. Theo Luật Đất đai, ngƣời
lao động (nông dân), có quyền:
+ Đƣợc cấp giấy chứng nhận sử dụng đất
+ Đƣợc hƣởng hoa lợi phụ thêm;
+ Đƣợc bảo hộ khi quyền sử dụng đất bị vi phạm
+ Khiếu nại, tố cáo khi quyền sử dụng đất bị vi phạm;
+ Chuyển đổi;
+ Chuyển nhƣợng;
+ Cho thuê
39
+ Cho thuê lại;
+ Thừa kế;
+ Tặng cho;
+ Thế chấp;
+ Bảo lãnh;
+ Góp vốn bằng quyền sử dụng đất;
+ Đƣợc bồi thƣờng khi nhà nƣớc thu hồi.
Với việc mở rộng quyền sử dụng đất đai, ngƣời dân từng bƣớc đƣợc
làm chủ về kinh tế. Làm chủ về kinh tế là yếu tố quyết định đến quyền làm
chủ của nhân dân trên các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Hơn nữa, khi kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại, cơ sở vật chất và các
phƣơng tiện truyền thông ngày càng đa dạng, cũng tạo điều kiện cho ngƣời
dân có nhiều cơ hội hơn trong tiếp cận, nắm bắt đầy đủ, chính xác thông tin về
quyền làm chủ của nhân dân. Điều đó tạo điều kiện để ngƣời dân chủ động và
thực thi đúng, đầy đủ quyền đó trong thực tiễn.
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế của Tỉnh cũng cho thấy, tốc độ tăng
trƣởng kinh tế chƣa ổn định, bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
Quản lý kinh tế, quản lý đất đai trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chƣa
chặt chẽ, còn nhiều thiếu sót, lúng túng. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội
bức xúc nhƣ việc làm cho ngƣời lao động, vệ sinh môi trƣờng còn nhiều khó
khăn, kết quả còn hạn chế. Sự phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng, các
lĩnh vực trong Tỉnh chƣa đồng đều. Điều này tạo ra lực cản trong thực hiện
dân chủ cấp cơ sở. Hiệu quả việc triển khai thực hiện dân chủ cấp cơ sở giữa
các vùng cũng khác nhau. Mặt khác, chính những thiếu sót, hạn chế trong
quản lý kinh tế, xã hội, đất đai lại là nguyên nhân dẫn đến những hiện tƣợng
phản ứng tiêu cực của nhân dân địa phƣơng.
40
Cơ chế thực hiện dân chủ cấp cơ sở - Cơ cấu, tổ chức và năng lực hoạt
động của hệ thống chính trị cấp cơ sở
Cơ chế thực hiện dân chủ cấp cơ sở là sự sắp xếp, phân công vị trí,
chức năng nhiệm vụ và sự phối hợp của các tổ chức trong hệ thống chính trị
cấp sơ sở thành nguyên tắc thống nhất chỉ đạo hoạt động của nó nhằm đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân. Nói cụ thể, cơ chế thực hiện dân chủ cấp cơ
sở chính là sự phân công và phối hợp giữa tổ chức đảng, chính quyền và các
tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể cấp cơ sở thành nguyên tắc trong triển
khai, tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, nhằm đảm bảo “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hƣởng”.
Một cơ chế càng hoàn thiện, ở đó có sự phân công rõ ràng chức năng,
nhiệm vụ và sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động của các tổ chức trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở, thì mức độ dân chủ đạt đƣợc càng cao. Ngƣợc lại,
nếu hệ thống chính trị cấp cơ sở không có sự phân công rõ ràng về chức năng,
nhiệm vụ của các tổ chức, hoặc tạo ra khoảng trống, hoặc lại có sự chồng
chéo trong vận hành, đội ngũ cán bộ chƣa chuyên nghiệp trong thực hiện
chức trách, nhiệm vụ, chắc chắn sẽ hạn chế hiệu quả thực hiện dân chủ cấp cơ
sở, thậm chí vi phạm đến quyền làm chủ của nhân dân.
Hiện nay, trong xu thế đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt động của
hệ thống chính trị từ Trung ƣơng đến cơ sở ở Việt Nam, tỉnh Ninh Bình đang
thực hiện đổi mới và kiện toàn, nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị các
cấp theo phƣơng hƣớng “…xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và năng lực chỉ đạo điều
hành, sự phối hợp chặt, đồng bộ giữa các ngành, các cấp…” [59, tr.58]. Việc
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và giải quyết mối quan hệ giữa Đảng với
nhà nƣớc với các đoàn thể nhân dân là căn bản. Để thực hiện tốt cơ chế
“Đảng lãnh đạo, Nhà nƣớc quản lý, nhân dân làm chủ”, Ninh Bình đã tập
41
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY

Mais conteúdo relacionado

Semelhante a BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY

Semelhante a BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY (20)

Luận văn: Dân chủ trực tiếp ở cơ sở huyện Phú Hoà, Phú Yên
Luận văn: Dân chủ trực tiếp ở cơ sở huyện Phú Hoà, Phú YênLuận văn: Dân chủ trực tiếp ở cơ sở huyện Phú Hoà, Phú Yên
Luận văn: Dân chủ trực tiếp ở cơ sở huyện Phú Hoà, Phú Yên
 
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân phường quận Đống Đa
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân phường quận Đống ĐaLuận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân phường quận Đống Đa
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân phường quận Đống Đa
 
Luận văn: Quy chế dân chủ cơ sở ở phường Tân Định, Quận 1, HAY
Luận văn: Quy chế dân chủ cơ sở ở phường Tân Định, Quận 1, HAYLuận văn: Quy chế dân chủ cơ sở ở phường Tân Định, Quận 1, HAY
Luận văn: Quy chế dân chủ cơ sở ở phường Tân Định, Quận 1, HAY
 
Luận văn: Quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT tỉnh Đồng NaiLuận văn: Quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Quyền tham gia quản lý nhà nước cấp xã tại Nình Thuận - Gửi miễn ph...
Luận văn: Quyền tham gia quản lý nhà nước cấp xã tại Nình Thuận - Gửi miễn ph...Luận văn: Quyền tham gia quản lý nhà nước cấp xã tại Nình Thuận - Gửi miễn ph...
Luận văn: Quyền tham gia quản lý nhà nước cấp xã tại Nình Thuận - Gửi miễn ph...
 
Đề tài: Tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc phường, HOT
Đề tài: Tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc phường, HOTĐề tài: Tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc phường, HOT
Đề tài: Tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc phường, HOT
 
Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
 
Luận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAY
Luận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAYLuận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAY
Luận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAY
 
Luận văn: Tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc, HAY
Luận văn: Tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc, HAYLuận văn: Tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc, HAY
Luận văn: Tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc, HAY
 
Tổ chức và hoạt động của chính quyền phường quận Phú Nhuận, 9đ
Tổ chức và hoạt động của chính quyền phường quận Phú Nhuận, 9đTổ chức và hoạt động của chính quyền phường quận Phú Nhuận, 9đ
Tổ chức và hoạt động của chính quyền phường quận Phú Nhuận, 9đ
 
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà NẵngLuận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
 
Đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOT
Đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOTĐề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOT
Đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOT
 
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân phường, HAY
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân phường, HAYLuận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân phường, HAY
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân phường, HAY
 
Tổ chức và hoạt động của UBND cấp xã huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa
Tổ chức và hoạt động của UBND cấp xã huyện Yên Định, tỉnh Thanh HóaTổ chức và hoạt động của UBND cấp xã huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa
Tổ chức và hoạt động của UBND cấp xã huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa
 
Bài mẫu Luận văn thạc sĩ hội đồng nhân dân, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn thạc sĩ hội đồng nhân dân, 9 ĐIỂMBài mẫu Luận văn thạc sĩ hội đồng nhân dân, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn thạc sĩ hội đồng nhân dân, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình Thuận
Luận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình ThuậnLuận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình Thuận
Luận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình Thuận
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
 

Mais de Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default

Mais de Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default (20)

Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAYKhóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAYBài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDVBài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
 
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAYBáo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
 
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAYKhóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAYBài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAYBài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAYTiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAYBài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAYBài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAYBài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAYBài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAYTiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAYBài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂMBài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
 
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAYBài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAYBài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAYBài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAYTiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
 

Último

26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 

Último (20)

TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 

BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ MINH NAM THỰC HIỆN DÂN Ở CẤP CƠ SỞ (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình) TẢI MIỄN PHÍ KẾT BẠN ZALO:0917 193 864 DỊCH VỤ VIẾT LUẬN VĂN CHẤT LƯỢNG WEBSITE: LUANVANTRUST.COM ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864 MAIL: BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ MINH NAM THỰC HIỆN DÂN Ở CẤP CƠ SỞ (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 60 22 03 08 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. Ngô Thị Phƣợng
  • 4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình)” do tôi thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ Ngô Thị Phƣợng. Các số liệu, kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực, chƣa từng công bố trong công trình nghiên cứu nào trƣớc đó. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đƣợc trích dẫn đầy đủ, chính xác từ các sách, báo, tạp chí. Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2015 Tác giả Lê Minh Nam
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNTB CNXH CSCN TBCN UBND XHCN Chủ nghĩa tƣ bản Chủ nghĩa xã hội Cộng sản chủ nghĩa Tƣ bản chủ nghĩa Ủy ban nhân dân Xã hội chủ nghĩa
  • 6. MỤC LỤC MỞ ĐẦU...................................................................................................2 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NINH BÌNH .......................................................................................................10 1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ cấp cơ sở .........................10 1.2. Khái quát về cấp cơ sở và các yếu tố tác động đến thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình.....................................................34 Chƣơng 2: THỰC HIỆN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NINH BÌNH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ..............................................................48 2.1. Thực trạng thực hiện dân chủ cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình...........48 2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cƣờng việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tình Ninh Bình hiện nay ..............................80 KẾT LUẬN.............................................................................................92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................94 1
  • 7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần tích cực vào việc thúc đẩy, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh trật tự ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và chất lƣợng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Trung ƣơng, các cấp ủy đảng, chính quyền đã chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy định, quy trình dân chủ, công khai, bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác đảng. Việc các cấp ủy đảng, chính quyền tổ chức đối thoại trực tiếp với dân, lấy ý kiến nhân dân tham gia các công việc đã góp phần nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cấp ủy và chất lƣợng đảng viên, từng bƣớc xây dựng tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng, nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc và nhất là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở cơ sở đang là nhu cầu bức xúc hiện nay. Những năm qua, việc thông báo công khai và truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn, công khai kết quả hoạt động giám sát và các kiến nghị của cử tri tại các kỳ họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đã thu hút sự quan tâm, theo dõi của nhân dân, nâng cao trách nhiệm của cơ quan đại diện và của ngƣời đại biểu nhân dân. Việc thực hiện công khai, dân chủ đã trở thành phƣơng thức quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nƣớc và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với nhân dân; đồng thời, khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nƣớc, góp ý cho cán bộ, công chức về đạo đức lối sống, phong cách làm việc và tôn trọng nhân dân. 2
  • 8. Quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở đã làm chuyển biến đáng kể nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể, phát huy đƣợc quyền làm chủ trực tiếp của cán bộ, công chức, ngƣời lao động, góp phần tích cực, hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, xây dựng khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở, tạo động lực quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Bên cạnh những thành tựu bƣớc đầu đạt đƣợc, việc thực hiện dân chủ ở từng địa phƣơng còn có những hạn chế, thiếu sót, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của nhân dân chƣa đƣợc tôn trọng thậm chí vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Các chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở chƣa thực sự làm tròn vai trò, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Việc tổng kết quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở là một việc làm cấp bách mang tính thƣờng xuyên, liên tục để đánh giá những mặt tích cực, hạn chế… để sửa chữa hoặc khuyến khích, nhân rộng những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn cả nƣớc. Ninh Bình là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, trong những năm qua, đặc biệt từ năm 1998 đến nay có Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở kế đến là các Nghị định của Chính phủ, Pháp lệnh của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn. Các địa phƣơng trên toàn tỉnh đã tích cực triển khai thực hiện dân chủ nhằm góp phần dân chủ hóa đời sống xã hội. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đặc biệt là về nhận thức chƣa đầy đủ của đội ngũ cán bộ và nhân dân ở cơ sở. Triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở còn nhiều lúng túng. Do vậy, quyền lực và lợi ích hợp pháp của một bộ phận nhân dân chƣa đƣợc đảm 3
  • 9. bảo.Với những lý do đó, tôi đã chọn vấn đề sởhiện nay (Qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình) chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. Thực hiện dân chủ ở cấp cơ làm đề tài luận văn thạc sĩ, 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Liên quan đến đề tài luận văn, ở Việt Nam đã có nhiều công trình đƣợc công bố, những năm gần đây các công trình đó đƣợc phân chia theo ba nhóm vấn đề sau. Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về dân chủ TS. Đoàn Minh Huấn: “Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 8- 2004; Tác giả đã làm rõ đặc trƣng của hai hình thức dân chủ là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, đồng thời làm rõ vai trò, ƣu thế của mỗi hình thức cũng nhƣ sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân chủ này trong quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nƣớc ta hiện nay. GS. TS. Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ và dân chủ ở nông thôn trong tiến trình đổi mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008; Trong công trình này tác giả đã nêu lên tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, nhất là tầm quan trọng của thực hiện dân chủ ở nông thôn; thực trạng và những hạn chế trong thực hiện dân chủ ở nông thôn trong thời gian qua. Qua đó tác giả đề ra các giải pháp thực hiện dân chủ trong tiến trình đổi mới ở nông thôn. PGS. TS. Nguyễn Văn Mạnh - Th.s. Tào Thị Quyên: “Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2010. Đây là kỷ yếu Hội thảo Công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và dân chủ trực tiếp của một số nƣớc và Việt Nam, các tác giả đã đánh giá thực trạng thực hiện dân chủ trực tiếp và nêu ra các giải pháp nhằm phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp. 4
  • 10. Đào Trí Úc (Chủ biên), Trịnh Đức Thảo, Vũ Công Giao...: “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam”, Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014; Trình bày một loạt vấn đề về lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và Việt Nam. Đề xuất những quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm dân chủ trực tiếp và dân chủ cơ sở ở nƣớc ta trong thời gian tới. Thứ hai, các công trình nghiên cứu về dân chủ ở cấp cơ sở Phạm Ngọc Trâm: “Nhìn lạiquá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 1998 - 2012”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11/ 2012. Bài viết trên bổ sung nhận thức mới, đề xuất cách làm mới để xây dựng, thực hiện dân chủ phù hợp với đặc điểm lịch sử, truyền thống của dân tộc, đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Nguyễn Hồng Chuyên: “Thựchiện pháp luậtvề dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới”, Nxb: Tƣ pháp, Hà nội, 2013. Đây là cuốn sách chuyên khảo giới thiệu một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới.Trình bày chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính quyền, pháp luật của Nhà nƣớc về thực hiện dân chủ ở cấp xã và xây dựng nông thôn mới. Phân tích lý luận vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới qua thực tế của tỉnh Thái Bình. Đề xuất các giải pháp đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới ở nƣớc ta hiện nay. Nguyễn Văn Phƣơng: “Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh trong thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay”, Luận án Tiến sĩ khoa học Chính trị bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014. Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực tiễn hoạt động của Mặt trận tổ quốc (MTTQ) trong thực hiện 5
  • 11. dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng MTTQ xã, phƣờng, thị trấn tỉnh Bắc Ninh vững mạnh, tăng cƣờng hoạt động của MTTQ xã, phƣờng, thị trấn trong thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay. Thứ ba, các công trình nghiên cứu về thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở tỉnh Ninh Bình “Ninh Bình phát huy quyền làm chủ của nhân dân, rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở” của Đinh Văn Hùng, Tạp chí Cộng sản, Chuyên đề cơ sở, số 30/2009. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá mặt đƣợc và mặt chƣa đƣợc trong thực hiện Pháp lệnh dân chủ, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện tốt hơn Pháp lệnh dân chủ gắn với rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức. “Ninh Bình thực hiện quy chế dân chủ” của Đỗ Tấn, đăng trên Báo Nhân dân điện tử, ngày 22-8-2013. Tác giả khẳng định những thành công trong thực hiện Quy chế dân chủ Ninh Bình, rút ra kinh nghiệm của Ninh Bình là tạo ra nhiều kênh để ngƣời dân thực hiện quyền làm chủ. Quy chế dân chủ chính là cầu nối giữa nhân dân với cấp ủy đảng và chính quyền để qua đó tạo sự đồng thuận giúp cho việc thực hiện thắng lợi các chƣơng trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng, khơi thông mọi nguồn lực nhằm xóa đói, giảm nghèo, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. “KhiQuy chế dân chủ đi vào đời sống” của Quốc Khang, đăng trên báo Ninh Bình điện tử, ngày 24 - 9-2013. Qua khảo sát các quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, tác giả nhận định: Thời gian qua, việc thực hiện Quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở trên địa bàn tỉnh đã đạt đƣợc nhiều kết quả rõ nét, quyền làm chủ của ngƣời dân ngày càng đƣợc phát huy, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Những nội dung cơ bản của QCDC đã và đang trở thành phƣơng châm hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở và góp phần tăng thêm sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và tạo sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân... Tác giả trình 6
  • 12. bày các sáng kiến thực thi quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, đề xuất những giải pháp tiếp tục nâng cao chất lƣợng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Nhìn chung, các công trình khoa học trên cho thấy, chƣa có một công trình độc lập nào đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình triển khai thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Tuy nhiên, đó là những tài liệu quý để tác giả tham khảo trong nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về dân chủ và dân chủ cấp cơ sở, Luận văn trình bày thành tựu và hạn chế việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, từ đó đƣa ra các giải pháp tăng cƣờng hơn nữa hiệu quả việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn này. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt đƣợc mục đíchtrên luận văn thực hiện các nhiệm vụ: - Trình bày khái niệm và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa - Những nội dung cơ bản của dân chủ cấp cơ sở. - Nêu những yếu tố tác động đến thực hiện dân chủ cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình. - Phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. - Đề xuất một số giải pháp tăng cƣờng hơn nữa hiệu quả của việc thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn đƣợc tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc, nhất là chỉ thị 30- CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị Định 29 NĐ- CP của Chính phủ ban hành 7
  • 13. kèm theo quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn; Pháp lệnh số 34/2007/PL - UBTVQH của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn. Đồng thời ngƣời viết cũng kế thừa có chọn lọc các công trình và các bài viết khác của một số tác giả đã công bố. 4.2. Cơ sở thực tiễn Những hoạt động triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bản tỉnh Ninh Bình. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: phƣơng pháp lịch sử và logic, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh, điều tra xã hội học, nghiên cứu tài liệu… 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 5.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Dân chủ cấp cơ sở đƣợc thực hiện bằng hai hình thức, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại điện. Luận văn tập trung nghiên cứu dân chủ trực tiếp, thông qua “Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn” trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 5.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Tiến hành nghiên cứu việc thực hiện dân chủ ở cơ sở chỉ bao gồm xã, phƣờng, thị trấn trên một số địa bàn Ninh Bình từ năm 1998 nay (từ khi có Quy chế dân chủ cơ sở đến nay). 6. Đóng góp của luận văn Làm rõ thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế, xác định các vấn đề đặt trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 8
  • 14. Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi phù hợp với quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay. 7. Ý nghĩa của luận văn 7.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở để phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phƣờng, thị trấn ở nƣớc ra nói chung, ở Ninh Bình nói riêng. 7.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy và học tập về dân chủ cơ sở, là tài liệu tham khảo đối với cơ quan chức năng của tỉnh trong việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh. 8. Kết cấucủa luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chƣơng, 4 tiết. 9
  • 15. Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÂN CHỦ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NINH BÌNH 1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ cấp cơ sở 1.1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa Thuật ngữ dân chủ có gốc từ tiếng Hy lạp cổ: Demokratos đƣợc ghép từ hai chữ demos có nghĩa là dân chúng, nhân dân và kratos có nghĩa là quyền lực. Và nghĩa khởi thủy của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Cho đến ngày nay, cùng với lịch sử phát triển của xã hội, thuật ngữ dân chủ đƣợc dùng với nhiều nội dung khác nhau, tùy theo từng góc độ tiếp cận nhất định. Ở góc độ chính trị - xã hội, dân chủ là một hiện tƣợng chính trị - xã hội, gắn liền với nhà nƣớc, dân chủ cũng dùng để chỉ một hình thức tổ chức nhà nƣớc. Ở góc độ văn hóa, dân chủ là một hiện tƣợng, một yếu tố cấu thành đời sống văn hóa của xã hội - văn hóa dân chủ. Dân chủ còn đƣợc xem xét nhƣ một giá trị xã hội, mọi cuộc đấu tranh giành dân chủ đều hƣớng tới giải phóng con ngƣời, nâng cao vị trí của con ngƣời trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con ngƣời ý thức, năng lực làm chủ xã hội. Do vậy, dân chủ là một lý tƣởng nhân đạo, một giá trị nhân văn. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân; dân chủ là hình thức tổ chức của các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, một hình thức nhà nƣớc. Với tính cách là một hình thức tổ chức nhà nƣớc, dân chủ là sự thống nhất biện chứng của hai mặt. Thứ nhất, dân chủ đảm bảo quyền lực cho giai cấp thống trị xã hội, giai cấp mà nó đại diện. Thứ hai, dân chủ cũng chính là thực hiện chuyên chính với các lực lƣợng đối lập. Dân chủ và chuyên chính là hai mặt thống nhất trong bất cứ một hình thức nhà nƣớc nào. Theo cách tiếp cận này, dân chủ là một phạm trù 10
  • 16. lịch sử. Dân chủ ra đời, tồn tại và phát triển trong một giai đoạn lịch sử nhất định, khi xã hội có sự phân chia giai cấp. Gắn với mỗi giai đoạn lịch sử, một xã hội có giai cấp, xã hội tồn tại một hình thức dân chủ khác nhau. Mỗi hình thức dân chủ lại có bản chất, hình thức tổ chức khác nhau nhằm thể hiện và thực hiện quyền lực của giai cấp cầm quyền. Khi giai cấp công nhân giành đƣợc chính quyền, thiết lập nhà nƣớc chuyên chính vô sản (nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa), một hình thức dân chủ mới ra đời - Dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đa số nhân dân lao động (giai cấp công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác) bảo vệ quyền, lợi ích của đa số nhân dân lao động, đồng thời trấn áp mọi sự phản kháng của giai cấp bóc lột - giai cấp có lợi ích đối kháng với lợi ích của nhân dân lao động. Để thực hiện mục tiêu ấy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện bản chất của giai cấp công nhân của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nói lên tính chất nhất nguyên của dân chủ xã hội chủ nghĩa đồng thời là điều kiện hàng đầu thể hiện tính định hƣớng trong tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa và tính tự giác của toàn thể nhân dân lao động trong quá trình xây dựng, củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và tham gia vào công việc quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội nói riêng. Chế độ dân chủ XHCN, trong bản chất của nó, gắn chặt với cuộc đấu tranh vì dân chủ nhằm giải phóng con ngƣời khỏi áp bức, bóc lột. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Giai cấp vô sản mỗi nƣớc trƣớc hết phải tự mình giành lấy chính quyền, phải tự vƣơn lên thành giai cấp dân tộc”[39, tr 623,624], phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa là trực tiếp giành lấy quyền lực nhà nƣớc (quyền lực dân chủ về chính trị) và tổ chức quyền lực đã giành đƣợc đó thành nhà nƣớc dân chủ 11
  • 17. vô sản. Chế độ dân chủ vô sản “chế độ sẽ tự thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc rễ chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá bỏ chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ nhân dân”[34,tr 135]. Chỉ có chế độ dân chủ vô sản, chế độ dân chủ đƣợc thiết lập trên cơ sở của chế độ kinh tế mà ở đó các tƣ liệu sản xuất thuộc về toàn xã hội, lực lƣợng sản xuất không ngừng tăng lên, sự đối kháng giai cấp bị thủ tiêu thì quyền làm chủ của nhân dân lao động mới đƣợc thực hiện đầy đủ. V. I. Lênin đã chỉ rõ: “Dƣới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên thủy tất nhiên sẽ sống lại, vì lần đầu tiên trong lịch sử những xã hội văn minh, quần chúng nhân dân đang vƣơn lên tham gia một cách độc lập không những vào việc bầu cử và tuyển cử, mà cả vào việc quản lý hàng ngày nữa”[34, tr 143]. Với ý nghĩa đó, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đóng vai trò to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con ngƣời. Tƣ tƣởng về dân chủ xã hội chủ nghĩa còn đƣợc V.I. Lênin cụ thể hoá hơn nữa khi đề cập đến quyền của công dân. Ngƣời viết: “Tính chất xã hội chủ nghĩa của chính quyền Xô viết - tức là dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa) nếu đƣợc áp dụng một cách cụ thể là: Các cử tri đều là quần chúng bị bóc lột, phải xoá bỏ mọi hạn chế có tính chất quan liêu, quần chúng hoàn toàn có quyền bãi miễn những ngƣời mà họ bầu ra, dƣới sự lãnh đạo của đội tiền phong của giai cấp công nhân, toàn dân đều học tập quản lý và bắt đầu đảm nhận công tác quản lý” [37, tr 259] và “nhà nƣớc - Xô viết - đảm bảo cho họ tham gia quản lý nhà nƣớc”[38, tr 116]. Để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân thì phải chống chủ nghĩa quan liêu, chống tính bảo thủ, trì trệ và cuộc đấu tranh ấy chỉ có thể thắng lợi một khi có sự tham gia của đông đảo nhân dân. V. I. Lênin khẳng định: “Chỉ khi 12
  • 18. nào toàn thể nhân dân đều tham gia quản lý thì khi ấy mới có thể đả phá chủ nghĩa quan liêu đến cùng, đến thắng lợi hoàn toàn đƣợc”[37, tr 205] t38. V. I. Lênin chỉ rõ: “Để chống các bệnh lề mề, quan liêu, xa hoa, lãng phí, ăn hối lộ, thực hành tiết kiệm và phát hiện tốt hơn nữa các hiện tƣợng lạm dụng, cũng nhƣ để vạch mặt và sa thải các công chức bất lƣơng đã chui vào các cơ quan Xô viết, nay đặt ra các quy tắc sau: Quy chế về ngày giờ mở cửa tiếp công chúng cần phải đƣợc yết thị ở từng cơ quan chẳng những ở trong mà cònở ngoài nữa để ai cũng có thể đến các cơ quan Xô viết mà không cần có giấy phép gì cả… Trong mỗi cơ quan Xô viết, phải có một quyển sổ để ghi hết sức vắn tắt tên ngƣời có việc yêu cầu, tính chất yêu cầu và chuyển việc ấy đến đâu”[36, tr 449]. V. I. Lênin cũng đặt ra yêu cầu với nhà nƣớc về việc mở các lớp học đào tạo cán bộ của nhà nƣớc về quản lý. Biên soạn giáo trình quản lý nhà nƣớc, cử ngƣời sang Anh, sang Đức học về khoa học quản lý. Vì theo V. I. Lênin: “Muốn quản lý đƣợc phải hiểu công việc. Không thể quản lý đƣợc nếu không có kiến thức đầy đủ, nếu không tinh thông khoa học quản lý”[37, tr 257] “Cán bộ phải học tập, học tập nữa, học tập mãi. Phải làm cho việc học không hình thức, không nằm trên giấy, hoặc chỉ là lời nói theo mốt nữa, phải làm cho việc học ăn sâu vào trí não, trở thành bộ phận khăng khít của cuộc sống”[38, tr 444]. Một trong nhiều điều kiện để thực hiện dân chủ là phải thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra.V. I. Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Ngƣời cho rằng phải cải tổ “bộ dân uỷ thanh tra công nông” để có thể hoàn thành nhiệm vụ thanh tra hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc, đồng thời phải phát động và tạo điều kiện để chính nhân dân có thể kiểm tra công việc của nhân viên nhà nƣớc. Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân chủ, quyền lực của nhân dân đƣợc thể chế hóa thành pháp luật, thành 13
  • 19. nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển xã hội nói chung và thành hệ thống chính trị trong CNXH nói riêng. Các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm nhập và chi phối mọi hoạt động xã hội. Mọi công dân và tổ chức có khả năng nhận thức, vận dụng các giá trị dân chủ và biến thành những nguyên tắc phổ biến trong mọi hoạt động cũng nhƣ trong những quan hệ xã hội. Quá trình hình thành và phát triển dân chủ XHCN là quá trình mang tính biện chứng sâu sắc. Nó kế thừa những giá trị và kinh nghiệm về dân chủ mà loài ngƣời đã tích lũy đƣợc trong lịch sử, đặc biệt là những giá trị và kinh nghiệm trong nền dân chủ tƣ sản. Đồng thời, khi hoàn thiện, nền dân chủ XHCN lại là sự phát triển mang tính cách mạng so với các nền dân chủ trong lịch sử. Dân chủ XHCN là thành quả của quá trình hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân, nó với tƣ cách là quyền lực của nhân dân lao động, đồng thời với tƣ cách là chế độ chính trị, dân chủ XHCN sẽ đƣợc từng bƣớc xây dựng và hoàn thiện, phát huy vai trò là động lực to lớn trong tiến trình cách mạng, dƣới sự lãnh đạo duy nhất của đảng mácxít. Tuy nhiên, trình độ chín muồi của dân chủ XHCN tùy thuộc vào trình độ trƣởng thành về tính xã hội chủ nghĩa của các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó quan hệ kinh tế có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ cuối cùng trong lịch sử, khi tất cả mọi ngƣời đã tự học đƣợc cách quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, không còn sự quản lý giữa ngƣời với ngƣời mà chỉ còn là sự quản lý ngƣời với vật. Chế độ dân chủ XHCN sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu vong của nhà nƣớc. Khi đó, dân chủ với tƣ cách là quyền lực của con ngƣời trong việc sử dụng mọi sức mạnh để thực hiện quyền lực và lợi ích của chính mình sẽ hiện hữu một cách đích thực nhƣ bản chất vốn có của nó, trở thành giá trị nhân văn, đóng vai trò cho sự phát triển bền vững của xã hội. 14
  • 20. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho nhân dân lao động, phục vụ lợi ích cho số đông. Dân chủ thực sự đƣợc thống nhất giữa quyền đƣợc ghi trong hiến pháp, pháp luật với quyền lực ở thực tế. Nhà nƣớc có nghĩa vụ tạo đầy đủ điều kiện vật chất để có thể thực hiện dân chủ nhƣ trong luật quy định. Nền dân chủ XHCN là nền dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. Nhƣng dân chủ không thể vƣợt qua trình độ phát triển kinh tế, đồng thời sự phát triển của kinh tế, văn hóa cũng không thể tách ra khỏi dân chủ. Theo V.I. Lênin: “Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ đƣợc thắng lợi của mình và sẽ không dẫn đƣợc nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nƣớc, nếu không thực hiện đƣợc đầy đủ chế độ dân chủ”[33, tr 167]. Để phát huy đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, V. I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh quyền tham gia quản lý nhà nƣớc của ngƣời lao động, coi sự tham gia của những ngƣời lao động là mục đích của chính quyền Xô viết, Ngƣời viết: “Việc thu hút đƣợc ngƣời lao động tham gia quản lý là một trong những ƣu thế quyết định của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa… Vì rằng, một thiểu số ngƣời, tức là Đảng không thể thực hiện đƣợc chủ nghĩa xã hội”[34, tr 67,68]. Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách thực sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của ngƣời lao động vào quản lý công việc của nhà nƣớc và của xã hội. Chính sự tham gia ấy đã tạo nên chất lƣợng mới của nền dân chủ, làm thay đổi căn bản đời sống chính trị - xã hội, từ vai trò làm chủ của nhân dân, tính chất nhà nƣớc kiểu mới đến sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của công dân. Từ đó dân chủ trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Theo V. I. Lênin, “Chủ nghĩa xã hội sẽ không có nếu không có dân chủ với hai ý nghĩa: 1. Giai cấp vô sản không thể hoàn thành cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu không có sự chuyển bị dân chủ cho mình thông qua cuộc đấu tranh vì dân chủ. 2. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể giữ đƣợc thắng lợi và không dẫn đến sự tiêu vong của nhà nƣớc nếu thiếu thực hiện dân chủ một cách trọn vẹn”[33, tr 28]. 15
  • 21. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, khi lực lƣợng sản xuất chƣa phát triển cao, trình độ dân trí của ngƣời dân còn thấp, bên cạnh đó là sự chống phá mạnh mẽ của các thế lực thù địch thì cần phải thấy vai trò và phải biết kết hợp giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Theo V.I. Lênin, tính chất của chế độ vô sản, “nếu áp dụng một cách cụ thể và nhất định là ở chỗ: Trƣớc hết các cử tri đều phải là quần chúng lao động và bị bóc lột, còn giai cấp tƣ sản thì bị loại ra; hai là, mọi thủ tục và những chế độ có tính chất quan liêu đều bị xóa bỏ, quần chúng tự quy định lấy thể thức và thời hạn bầu cử, hoàn toàn có quyền tự do bãi miễn những ngƣời mà họ đã bầu ra; ba là, hình thành một tổ chức quần chúng tốt nhất của đội tiền phong của những ngƣời lao động - giai cấp vô sản đại công nghiệp, tổ chức đó giúp cho đội tiền phong có thể lãnh đạo đƣợc đại đa số quần chúng bị bóc lột, có thể thu hút số quần chúng đó độc lập tham gia và sinh hoạt chính trị, và do đó có thể bắt tay, lần đầu tiên, vào việc thi hành nhiệm vụ sau đây: làm thế nào cho thực sự toàn thể nhân dân đều học tập đƣợc công tác quản lý và bắt đầu đảm nhận công tác quản lý”[35, tr 240]. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng cầm quyền nhƣng dân là chủ. Mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[42, tr 698]. Ngƣời luôn nhấn mạnh vấn đề quyền lực thuộc về dân là vấn đề nguyên tắc, là bản chất chế độ mới mà Đảng ta, nhân dân ta đang ra sức xây dựng. Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo chính quyền là nhằm thiết lập và củng cố quyền làm chủ của dân, mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân. Dân làm chủ - mọi quyền hành, mọi lực lƣợng ở dân. Nhân dân thực sự tham gia vào việc quản lý nhà nƣớc. Hồ Chí Minh dạy rằng: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trƣởng, thứ trƣởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng”[44, tr 375]. Nền dân chủ chúng ta đã và đang phấn đấu xây dựng 16
  • 22. là nền dân chủ triệt để, trong đó nội dung cơ bản nhất của nền dân chủ là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Mặt khác, không thể tách rời là dân chủ phải đi liền với kỷ luật, kỷ cƣơng, pháp chế. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hoà giữa quyền và trách nhiệm, gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của sự phát triển xã hội. Vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nƣớc, giữa Đảng và nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bƣớc xây dựng nền dân chủ XHCN và qua đó phát huy quyền lực của nhân dân trong mọi hoạt động đời sống xã hội. Nhìn chung, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ rộng rãi nhất, toàn diện nhất và phổ biến nhất, đặc điểm nổi bật nhất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là nó đƣợc mở rộng đến tất cả các tầng lớp trong nhân dân lao động. Nói đến dân chủ xã hội chủ nghĩa không phải là nói đến một nền dân chủ hình thức, mà là dân chủ trong thực tế, quyền lực của nhân dân từng bƣớc đƣợc thực thi trong hiện thực. 1.1.2. Cấp cơsở và vị trí, vai trò của cấp cơ sở Cấp cơ sở và cấu trúc của cấp cơ sở Trong tiếng Việt, khái niệm cơ sở rất phong phú, sinh động, đƣợc sử dụng trong khá nhiều trƣờng hợp và biểu đạt những nghĩa không hoàn toàn nhƣ nhau. Cơ sở có khi đƣợc hiểu là chỗ dựa, là căn cứ của một tổ chức, lực lƣợng, một phong trào. Có khi cơ sở lại đƣợc hiểu là nền móng, nền tảng. Thuật ngữ cơ sở trong luận văn này đƣợc hiểu là một cấp trong hệ thống bốn cấp quản lý của tổ chức hành chính nƣớc ta hiện nay. Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, xét theo cấu trúc dọc, bao gồm cấp Trung ƣơng, cấp Tỉnh (Thành phố), cấp Quận (Huyện) và cấp cơ sở. Cấp cơ sở bao gồm Xã, Phƣờng, Thị trấn. 17
  • 23. Cấp cơ sở cũng là cấp tiếp xúc trực tiếp với nhân dân. Nói cách khác là “nơi chính quyền trong lòng dân” [8, tr177] là cấp thấp nhất trong hệ thống quản lý nhà nƣớc nhƣng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội, là nơi diễn ra cuộc sống của dân, đồng thời là cấp cụ thể hóa mọi chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc. Cấu trúc của hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm: Tổ chức Đảng cơ sở (Đảng ủy cơ sở); Chính quyền cấp cơ sở (Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân) và các tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở (Mặt trận Tổ quốc, Hội nông dân, Liên hiệp Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Cựu chiến binh, Công đoàn). Hệ thống này đóng vai trò rất quan trọng trong tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở, đây là nơi hƣớng dẫn thực hiện, triển khai, thực hiện và giám sát toàn bộ quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở. Tổ chức Đảng cấp cơ sở bao gồm và đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở. Tổ chức Đảng cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, bao gồm Đảng ủy xã, phƣờng, thị trấn, chi bộ thôn (xóm). Chính quyền cấp cơ sở bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phƣơng bầu ra, chịu trách nhiệm trƣớc nhân dân địa phƣơng và cơ quan nhà nƣớc cấp trên. Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nƣớc ở địa phƣơng, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật pháp và các văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ở cấp cơ sở, chính quyền cơ sở có vai trò quan trọng đặc biệt, là trụ cột của hệ thống chính trị cơ sở. Chính quyền cơ sở thực hiện quản lý, điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội cũng nhƣ mọi mặt đời sống của nhân dân theo 18
  • 24. thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ đƣợc quy định. Do đó, tổ chức bộ máy và phƣơng thức hoạt động của chính quyền cơ sở phải gắn bó với nhân dân, gần gũi với dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Thực tiễn cho thấy, việc chính quyền cơ sở gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sức mạnh của chính quyền cơ sở. Các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể cấp cơ sở, gồm Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Cựu chiến binh, Liên hiệp Hội Phụ nữ, Hội nông dân và Công đoàn. Trong đó, Mặt trận Tổ quốc là một thành viên chiến lƣợc, có vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống chính trị nƣớc ta. Trong Điều 9, Hiến Pháp năm 2013 đã quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cƣờng đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nƣớc, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc là nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện các đƣờng lối chủ trƣơng chính sách của đảng và nhà nƣớc, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, đại biểu dân cử, cán bộ công chức, đảng viên nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật. Mặt trận Tổ quốc cùng nhà nƣớc chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. 19
  • 25. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên. Trong xã hội, thanh niên là một lực lƣợng trẻ, đông đảo trong dân cƣ, với các đặc điểm khỏe, thông minh, năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm; họ là một lực lƣợng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đƣợc thành lập để tập hợp, giáo dục và phát huy vai trò của lực lƣợng trẻ này. Đoàn Thanh niên có vai trò quan trọng trọng việc nâng cao nhận thức, giáo dục truyền thống cho thanh niên, khơi dậy trong họ tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, lòng tự hào dân tộc. Đoàn Thanh niên còn là tổ chức vận động, tổ chức thực hiện các phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nƣớc”. Đoàn Thanh niên là tổ chức chính trị - xã hội đƣợc tổ chức từ Trung ƣơng đến cơ sở. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức đƣợc tổ chức chặt chẽ từ Trung ƣơng tới cơ sở, là nơi thu hút toàn bộ phụ nữ Việt Nam, không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, dân tộc cũng nhƣ địa vị xã hội. Hội Phụ nữ có vai trò quan trọng trong tập hợp, tổ chức, hƣớng dẫn phụ nữ tham gia các hoạt động sản xuất, phát triển đời sống xã hội, giúp cho sự phát triển của bản thân mình, trẻ em, gia đình và toàn xã hội. Hội cựu Chiến binh đƣợc thành lập 1990, là tổ chức đƣợc cơ cấu từ Trung ƣơng đến cơ sở dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Cựu chiến binh là lực lƣợng đông đảo trong dân cƣ. Đây là những ngƣời lính đã đƣợc tôi luyện trong đấu tranh cách mạng và trong cuộc sống, là những ngƣời hết tuổi phục vụ trong quân đội đã trở về địa phƣơng tham gia sản xuất phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh trật tự. Họ là những ngƣời có ý thức kỷ luật cao, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc. Lực lƣợng cựu chiến binh gồm nhiều thế hệ, có độ tuổi tƣơng đối cao, từ 50 tuổi trở lên, song họ là những ngƣời có kiến thức, trình độ văn hóa nhất định và có nhiều ngƣời rất giỏi trong một số lĩnh vực. 20
  • 26. Hội Nông dân Việt Nam: Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, nông dân chiếm gần 80% dân số và là đội quân chủ lực trong các cuộc cách mạng. Ngày 14/ 10/ 1930, tại Hội nghị lần thứ nhất khóa I, tổ chức “Nông hội đỏ”, tiền thân của Hội Nông dân Việt Nam, đƣợc thành lập dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Hội là cầu nối trong việc tuyên truyền, phổ biến đƣờng lối, chính sách của Đảng cho nông dân, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện đƣờng lối đó. Hội Nông dân là nơi nông dân phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng đối với Đảng, là đại diện cho lợi ích chính đáng của giai cấp nông dân. Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của ngƣời lao động đƣợc thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho ngƣời lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của ngƣời lao động; tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của ngƣời lao động; tuyên truyền, vận động ngƣời lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc điểm của cấp cơ sở Thứ nhất, cấp cơ sở là cấp đƣợc nhân dân bầu ra, gần dân nhất, là nơi chính quyền trong lòng dân. Cấp cơ sở là cấp chính quyền gần dân nhất, đƣợc nhân dân trực tiếp bầu ra, các cán bộ chủ chốt hoàn toàn phụ thuộc vào lá phiếu trong các kỳ bầu cử. Đặc điểm này vừa mang tính chất thể chế, vừa mang tính chất thực tế. Cấp cơ sở nƣớc ta từ sau Cách mạng Tháng Tám cho đến nay, về cơ bản cũng mang đặc điểm đó. Nó là cấp gần dân nhất và thể hiện rõ nhất tính nhân dân. Nhà nƣớc xác định cấp cơ sở là một cấp chính quyền, song khác với các cấp chính quyền trên nó, Nhà nƣớc cho phép nhân dân ở cấp cơ sở tự lựa chọn những ngƣời xứng đáng lãnh đạo chính quyền thông qua bầu cử. Nếu đƣợc 21
  • 27. bầu thì một cá nhân trở thành cán bộ chính quyền, cán bộ đảng và đoàn thể. Khi không đƣợc tái cử, thì ngƣời đó trở lại làm công dân bình thƣờng. Chính vì đặc điểm này có thể nói cấp cơ sở là mắt khâu trung gian, là bƣớc chuyển tiếp giữa chế độ tự quản làng xã sang chế độ nhà nƣớc đầy đủ. Đây là đặc điểm nên duy trì trong hệ thống chính quyền cấp cơ sở. Cơ sở là nơi diễn ra cuộc sống của ngƣời dân, nơi mà chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức cuộc sống, hoạt động và phong trào của cộng đồng thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của ngƣời dân và thông qua các hình thức thực hiện dân chủ mà cơ sở là nơi chính quyền và nhân dân gần gũi và gắn bó chặt chẽ với nhau nhất. Thứ hai, cấp cơ sở là cấp thấp nhất nhƣng là cấp trực tiếp hành động, tổ chức hành động, đƣa đƣờng lối, nghị quyết của Đảng, chủ trƣơng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc vào cuộc sống. Cơ sở tuy là cấp thấp nhất nhƣng lại có tầm quan trọng đặc biệt, là một trong những vấn đề ảnh hƣởng đến sự sống còn, thành bại của chế độ. Cơ sở là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, mất dân chủ ở cơ sở dẫn đến mất miền tin của nhân dân vào chế độ vào Đảng, Nhà nƣớc, đó là khởi đầu của sự mất dân chủ, mất niềm tin trong xã hội. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp hành động, thực hiện mọi chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc nên cán bộ cơ sở phải gần dân, hiểu và thấu cảm với nhân dân, phải làm cho nhân dân tin vào đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc chính là nhằm mục đích phục vụ cho nhân dân. Vì thế cán bộ cơ sở phải tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng và tự bản thân phải làm gƣơng cho quần chúng. Thứ ba, cấp cơ sở là cấp có bộ máy gọn nhẹ, nhà nƣớc chi phí ít nhất Do là cấp thấp nhất nên tổ chức bộ máy đơn giản nhất và biên chế đƣợc hƣởng sinh hoạt phí ít nhất. Chính quyền chỉ có 5 ủy viên ủy ban, cộng cả chủ 22
  • 28. tịch và phó chủ tịch là 7 ngƣời. Hội đồng nhân dân tối đa có 25 ngƣời. Toàn bộ số ngƣời đƣợc hƣởng sinh hoạt phí theo quy định kể cả đảng, đoàn thể không quá 25 ngƣời. Cấp cơ sở là cấp mà chi phí của Nhà nƣớc tính trên đầu cán bộ thấp nhất vì nhân sự ít và quan niệm cán bộ không cần chuyên môn cao và ít việc, nên chi phí của Nhà nƣớc cho bộ máy và hoạt động của cán bộ ở mức thấp nhất (xem Phụ lục 1). Bộ máy gọn nhẹ, đơn giản là cần thiết để tránh cồng kềnh, tốn kém nhƣng phải làm cho nó “thà ít mà tốt” và nên tiếp tục duy trì tính chất gọn nhẹ, đơn giản này, nhƣng đơn giản phải đi đôi với hiệu quả, song mức sinh hoạt phí thấp là điều cần xem xét lại, cần phải có phƣơng án nâng mức thu nhập của cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở cấp cơ sở để họ yên tâm công tác. Thứ tƣ, các yếu tố có tính truyền thống, văn hóa, dòng họ có ảnh hƣởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở. Ở nhiều địa phƣơng đặc trƣng này là một thực tiễn phổ biến. Tình trạng “chi bộ họ ta”, “chính quyền họ ta” ở cấp cơ sở là không ít. Tình trạng thành viên cấp ủy và chính quyền đƣợc phân bổ theo dòng họ, theo cánh, theo làng vẫn còn. Quan hệ anh em, họ hàng, chú bác… trong chính quyền xã, giữa các cán bộ xã không phải hiếm. Điều này ảnh hƣởng đáng kể tới quan hệ trong nội bộ tổ chức. Có khi vì quan hệ họ hàng, chú bác, anh em mà nể nang, né tránh đấu tranh. Ngƣợc lại, có khi vì quan hệ dòng họ mà đấu tranh phe cánh kịch liệt, vƣợt qua mức cần thiết, dẫn đến làm tê liệt tổ chức. Các yếu tố này có ảnh hƣởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của cấp chính quyền và trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đây là một đặc điểm lớn, cần phải tìm cách khắc phục bằng các biện pháp nâng cao năng lực, 23
  • 29. trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và ngƣời dân trên nguyên tắc giải quyết công việc “có lý, có tình”. Vị trí, vai trò của cấp cơ sở Cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng vì nó liên quan đến mọi mặt trong đời sống xã hội của ngƣời dân. Sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân ta có thành công hay không trƣớc hết phải xuất phát từ cấp cơ sở. Vị trí, vai trò quan trọng của cấp cơ sở thể hiện trên các khía cạnh sau: Cấp cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân. Đây là cấp thấp nhất trong cấp độ quản lý của hệ thống chính quyền Nhà nƣớc nhƣng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội nhƣ Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nền tảng của mọi công tác là cấp xã”. Cấp cơ sở là cấp chính quyền cuối cùng gần gũi nhất. Nó là cấp trực tiếp điều hành việc nhân dân triển khai thực hiện đƣờng lối, các chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc; theo dõi, giám sát, kiểm tra việc công dân thực hiện các nghĩa vụ, pháp luật. Đây cũng là nơi dân thể hiện vai trò là ngƣời chủ và quyền làm chủ của mình. Đó là mối quan hệ giữa nhà nƣớc và nhân dân. Chính sách của Đảng, Nhà nƣớc đều đƣợc thực hiện ở khâu này. Qua chính quyền xã, phƣờng, thị trấn mà chính quyền Trung ƣơng có những điều chỉnh sát, đúng trong quản lý vĩ mô và hoạch định chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội. Cấp cơ sở là nơi diễn ra cuộc sống của nhân dân, nơi chính quyền và các đoàn thể tổ chức cuộc sống, các hoạt động, các phong trào của cộng đồng dân cƣ để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình. Do vậy, mấu chốt của cơ sở là cán bộ, là hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, làm sao cho ổn định, cho dân yên ổn, phấn khởi làm ăn, cố kết cộng đồng, quan tâm và bảo vệ thể chế, phát triển xã hội, phát triển sức dân. Theo Hồ Chí Minh: “Cấp xã là cấp gần gũi nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm đƣợc việc thì mọi việc đều xong xuôi” [44, tr7]. Xã, phƣờng, thị 24
  • 30. trấn là đơn vị hành chính của cấp cơ sở, lãnh đạo và quản lý nhân dân - lực lƣợng hùng hậu vốn quý nhất của đất nƣớc. Nhân dân là chỗ dựa của chính quyền, đặc biệt là chính quyền cấp cơ sở. Cấp cơ sở không phải là cấp hoạch định đƣờng lối, chính sách mà là cấp hành động, tổ chức hành động, đƣa đƣờng lối chính sách, nghị quyết vào cuộc sống. Cấp cơ sở là tầng lớp sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ vĩ mô phải tác động tới. Nó là địa chỉ quan trọng cuối cùng và quyết định mọi chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc phải tìm đến.Tuy là cấp chính quyền thấp nhất nhƣng xã, phƣờng, thị trấn có tầm quan trọng đặc biệt, là vấn đề sống còn, thành bại của chế độ. Mất cơ sở là mất dân, mất dân là mất nƣớc mà khởi đầu là sự xa dân của cán bộ, sự rệu rã của tổ chức bộ máy và sự hoành hành của nạn quan liêu tham nhũng làm dân đói khổ bần cùng. Do đó, xây dựng cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ bức thiết hiện nay. Đối với nhân dân, cấp cơ sở chính là nơi họ sinh sống, nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội.Nơi mọi chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc đƣợc thực hiện. Nhân dân chính là những ngƣời thực hiện những chủ trƣơng, chính sách đó nhƣng hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò định hƣớng, hƣớng dẫn họ thực hiện những công việc đó. Cấp cơ sở có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống của nhân dân, nó còn có vai trò quản lý và tự quản lý trong mỗi đơn vị nhỏ hơn (làng, thôn, xóm). Vai trò quản lý của cấp cơ sở đƣợc thể hiện trong vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở đƣợc thể hiện ở chính quyền cơ sở có hệ thống quyền lực trực tiếp nhất với cuộc sống của nhân dân, tất cả các tổ chức quyền lực nhànƣớc cấp trên đều phải thông qua vai trò của hệ thống chính quyền cơ sở để thực thi quyền lực ấy. 25
  • 31. Vai trò tự quản lý của nhân dân ở cấp cơ sở đƣợc thể hiện thông qua việc tự quản của từng gia đình, thôn, xóm, làng. Đây là nét đặc thù ở cơ sở nên việc thực hiện dân chủ ở cơ sở phải phát huy đƣợc sức mạnh, năng lực tự quản của nhân dân để nhân dân tham gia trực tiếp vào việc kiểm tra, giám sát của hệ thống chính trị ở cơ sở. Thực tế cho chúng ta thấy cấp cơ sở có một vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Điều đó đƣợc thể hiện khái quát ở nhiều phƣơng diện. Thứ nhất, cấp cơ sở là nơi cung cấp nguồn lao động cho xã hội và là nơi giải quyết vấn đề lao động, việc làm cho nhân dân. Thứ hai, cấp cơ sở là nơi thực hiện một cách rộng rãi nhất và trực tiếp nhất quyền làm chủ của nhân dân. Thứ ba, cấp cơ sở là cầu nối giữa dân với Đảng, Nhà nƣớc, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc và tiếp thu ý kiến phản hồi của nhân dân. Thứ tƣ, cấp cơ sở là nơi trực tiếp giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc. 1.1.3 Dân chủ ở cấp cơ sở Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đƣợc thực hiện trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nƣớc quản lý, nhân dân làm chủ” và nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Về hình thức, dân chủ đƣợc thực hiện dƣới hai hình thức là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhƣng chủ yếu là dân chủ trực tiếp. Trong đó, dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ mà ở đó, nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nƣớc, tức là, nhân dân thể hiện một cách trực tiếp ý chí, quyền lực của mình với tƣ cách là chủ thể quyền lực nhà nƣớc, về một vấn đề nào đó mà không cần thông qua tổ chức hay cá nhân thay mặt mình. Cụ thể, nhân dân trực tiếp ứng cử, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, trƣng cầu dân ý. Hoặc việc nhân dân đối thoại trực tiếp với cơ quan nhà nƣớc ở các cấp cũng là hình thức biểu hiện của dân chủ trực tiếp. Ƣu điểm của hình thức dân chủ trực tiếp là nhân 26
  • 32. dân trực tiếp quyết định, phản ảnh đúng ý chí, nguyện vọng của mình. Dân chủ đại diện là hình thức dân chủ mà nhân dân thông qua các cơ quan nhà nƣớc, các cá nhân đƣợc nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của nhân dân. Dân chủ đại diện là phƣơng thức chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân. Dân chủ đại diện có hạn chế nhất định, bởi đôi khi, ý chí, nguyện vọng của ngƣời dân phải qua trung gian của ngƣời đại diện, có thể bị méo mó bởi trình độ nhận thức, quan điểm, lợi ích... Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân, đều có vai trò quan trọng trong xây dựng và thực thi dân chủ. Để nhân dân thực sự là chủ thể của quyền lực nhà nƣớc thì phải thực hiện tốt cả dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ ở cơ sở là một cấp độ của chế độ dân chủ XHCN.Thực hiện, củng cố và mở rộng dân chủ XHCN ở cơ sở là quá trình nâng cao sức mạnh và hiệu quả của cơ quan chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn. Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở chính là làm cho mọi ngƣời dân đƣợc biết, đƣợc tham gia bàn bạc và quyết định các công việc chung ở địa phƣơng. Trong Hội thảo “Thực hiện dân chủ ở cơ sở: Qua thực tiễn Việt Nam và Trung Quốc”, GS. TS Lê Hữu Nghĩa đã đƣa ra một cách khái quát: “Thực hiện dân chủ ở cơ sở là động lực mạnh mẽ để đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, để chống quan liêu, tham những, độc đoán, chuyên quyền - những hiện tƣợng trái với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa” [46]. Dân chủ cấp cơ sở cũng đƣợc thực hiện bằng hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Ở Luận văn này, chúng tôi tập trung bàn đến dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở, thông qua Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội thông qua ngày 20/4/2007 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2007. 27
  • 33. Theo tôi, dân chủ ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là quyền làm chủ của nhân dân,đượcthể hiện qua phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước cấp cơ sở được thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ ở cơ sở là quá trình hiện thực hóa cơ chế hoạt động của hệ thống tổ chức quyền lực ở cơ sở sao cho nhân dân đƣợc đảm bảo một cách trực tiếp và rộng rãi nhất những quyền đƣợc biết, đƣợc bàn, đƣợc làm, đƣợc kiểm tra tại nơi họ sinh sống và làm việc hàng ngày. Thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở là xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân để thúc đầy mạnh mẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Do đó, thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở có vai trò quan trọng, phản ánh nền dân chủ XHCN của chế độ ta. Dân chủ ở cơ sở phải dựa trên cơ sở Hiến Pháp và Pháp luật, Pháp lệnh. Thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn nhằm đảm bảo các yêu cầu tăng cƣờng khối đại đoàn kết cộng đồng, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi thành viên vào xây dựng cộng đồng dân cƣ đoàn kết văn minh, tiến bộ; phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân; thúc đẩy cải cách hành chính, tham gia tích cực vào việc kiểm tra, giám sát tổ chức cơ sở Đảng và chính quyền cơ sở. Ở Việt Nam, nhằm giải quyết kịp thời những vấn đề yếu kém trong việc phát huy dân chủ ở cơ sở, cũng nhƣ đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ sở trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trƣờng và nhà nƣớc Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nắm bắt đƣợc yêu cầu của thực tiễn, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị (Khóa VIII) đã ra Chỉ thị số 30 - CT/TƢ về “Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”. Trên cơ sở đó, ngày 28
  • 34. 11/5/1998 Chính phủ ra Nghị định số 29 NĐ - CP về “Ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã” (áp dụng với cả phƣờng, thị trấn), cùng với Chỉ thị số 22/ CT - TTg ngày 15/5/1998 “Vềtriển khai quy chế thực hiện dân chủ ở xã”, Chỉ thị số 24/ CT - TTg ngày 19/6/1998 “Về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quyước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư” của Thủ tƣớng Chính phủ. Tiếp đó, ngày 28/03/2002 Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng ra Chỉ thị số 10 - CT/ TƢ về “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quychế dân chủ ở cơ sở” nhằm đánh giá, tổng kết quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, trong đó có quy chế dân chủ ở xã trong mấy năm đầu triển khai, đồng thời để đƣa ra những nhiệm vụ cần làm trong những năm tiếp theo, để phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nƣớc. Ngày 07/7/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 79/ NĐ- CP về “Về ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã” thay thế Nghị định số 29/NĐ- CP. Đây là những văn bản quan trọng của Đảng, Nhà nƣớc ban hành. Tinh thần căn bản của những Chỉ thị, Nghị định là làm sao cho dân chủ xã hội chủ nghĩa đƣợc mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân đƣợc phát huy. Đó cũng chính là mục tiêu, động lực đảm bảo cho sự thắng lợi, của cách mạng, của công cuộc đổi mới. Theo Nghị định 79 NĐ - CP do Chính phủ ban hành ngày 07/7/2003 thì quy chế dân chủ ở xã bao gồm 7 chƣơng với 25 điều, trong đó có 4 điều là những quy định chung; 2 điều quy định những điều cần thông báo để dân biết; 3 điều quy định những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; 2 điều quy định những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân xã quyết định; 3 điều quy định những việc nhân dân giám sát, kiểm tra; 5 điều quy định về việc xây dựng cộng đồng dân cƣ thôn; và 6 điều khoản thi hành. Để nâng cao hiệu quả phát huy dân chủ ở cơ sở xã, phƣờng, thị trấn, ngày 04/5/ 2007 Chủ tịch nƣớc đã cho công bố ban hành Pháp lệnh số 29
  • 35. 34/2007/PL - UBTVQH về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn do Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội thông qua ngày 20/4/2007 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2007. Nội dung cơ bản của dân chủ ở cơ sở đƣợc thể hiện trong Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn. Sau đây tôi xin gọi tắt là Pháp lệnh dân chủ. Pháp lệnh dân chủ gồm 6 chƣơng 28 điều, trong đó đề cập đến bốn nội dung chính thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, gồm: những nội dung công khai để dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trƣớc khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát. Thứ nhất, những nội dung công khai để nhân dân biết. Pháp lệnh dân chủ quy định 11 nội dung chính quyền cấp cơ sở phải công khai cho nhân dân biết, đây là những nội dung liên quan trực tiếp đến ngƣời dân, gắn liền đến quyền và lợi ích của nhân dân, đƣợc nhân dân quan tâm, bao gồm những nhóm nội dung chính sau: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phƣơng án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp cơ sở. Các dự án, công trình đầu tƣ và thứ tự ƣu tiên, tiến độ thực hiện, phƣơng án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cƣ liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phƣơng án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cƣ trên địa bàn cấp xã , phƣờng, thị trấn. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã, phƣờng, thị trấn trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tƣ, tài trợ theo chƣơng trình, dự án đối với cấp xã, phƣờng, thị trấn; các khoản huy động nhân dân đóng góp. 30
  • 36. Chủ trƣơng, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo; phƣơng thức và kết quả bình xét hộ nghèo đƣợc vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thƣơng, cấp thẻ bảo hiểm y tế. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã, phƣờng, thị trấn. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, phƣờng, thị trấn. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã, phƣờng, thị trấn mà chính quyền đƣa ra lấy ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này. Đối tƣợng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn trực tiếp thu. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn trực tiếp thực hiện. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn thấy cần thiết. Pháp lệnh dân chủ quy định rõ các hành thức công khai, bao gồm: Niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã, phƣờng, thị trấn; Công khai trên hệ thống truyền thanh của xã, phƣờng, thị trấn; Công khai thông qua Trƣởng thôn; Tổ trƣởng dân phố để thông báo đến nhân dân. 31
  • 37. Ngoài ra, nhằm tạo ra nhiều kênh thông tin để nhân dân nắm bắt rõ hơn việc công khai, Pháp lệnh còn quy định chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn có thể áp dụng đồng thời nhiều hình thức công khai cho cùng một nội dung; thực hiện việc cung cấp theo quy định tại Điều 32 của Luật Phòng, Chống tham nhũng. Đối với những nội dung đƣợc nhân dân quan tâm nhất, liên quan trực tiếp nhất đến quyền lợi của nhân dân thì Pháp lệnh còn quy định bắt buộc phải đƣợc công khai bằng hình thức niêm yết tại trụ sở Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã, phƣờng, thị trấn trong thời gian chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày văn bản đƣợc thông qua, ký ban hành đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp xã hoặc kể từ ngày nhận đƣợc văn bản đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nƣớc cấp trên, bao gồm: Các dự án, các công trình đầu tƣ, phƣơng án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cƣ liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã, phƣờng, thị trấn; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và các phƣơng án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cƣ trên địa bàn cấp xã, phƣờng, thị trấn; Đối tƣợng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu. Đối với các nội dung này, thời gian niêm yết là 30 ngày liên tục kể từ ngày niêm yết. Thứ hai, những nội dung nhân dân bàn và quyết định. Những nội dung nhândân bàn và quyết định trực tiếp Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về các chủ trƣơng và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, phƣờng, thị trấn, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cƣ phù hợp với quy định của pháp luật. 32
  • 38. Những nội dung, hình thức nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định, bao gồm: Hƣơng ƣớc, quy ƣớc của thôn, tổ dân phố; Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trƣởng thôn, Tổ trƣởng tổ dân phố; Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tƣ của cộng đồng. Có 2 hình thức để nhân dân bàn và quyết định trực tiếp hoặc biểu quyết, gồm: Tổ chức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình. Thứ ba, những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trƣớc khi cơ quan có thẩm quyền quyết định. Pháp lệnh quy định 5 nội dung phảiđưa ra lấy ý kiến của nhân dân khi chính quyền cấp xã, phường, thịtrấn hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định, bao gồm: Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phƣơng án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cƣ, vùng kinh tế mới và phƣơng án phát triển ngành nghề của cấp xã, phƣờng, thị trấn. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phƣơng án điều chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã, phƣờng, thị trấn. Dự thảo kế hoạch triển khai các chƣơng trình, dự án trên địa bàn cấp xã, phƣờng, thị trấn; chủ trƣơng, phƣơng án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cƣ; phƣơng án quy hoạch khu dân cƣ. Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã, phƣờng, thị trấn. Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã, phƣờng, thị trấn thấy cần thiết. 33
  • 39. Những hình thức để nhân dân tham gia ý kiến bao gồm: Họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; Phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình; Thông qua hòm thƣ góp ý. Thứ tƣ, những nội dung nhân dân giám sát. Nhân dân đƣợc quyền giám sát các nội dung: Những nội dung công khai; Nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; Những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết; Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến. Hình thức để thực hiện việc giám sát của nhân dân: Bao gồm hai hình thức là Giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp. Lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, phƣờng, thị trấn. Pháp lệnh quy định hai năm một lần trong mỗi nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cấp xã, Ban Thƣờng trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, phƣờng, thị trấn. Thực hiện dân chủ ở cơ sở với chủ thể của dân chủ là nhân dân, dân làm chủ. Ở đây, dân có vai trò cực kỳ quan trọng. Dân chủ ở cơ sở diễn ra theo phƣơng châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và nhân dân đánh giá. Đây không phải là toàn bộ dân chủ ở cơ sở nhƣng đây là quy trình thực hiện dân chủ đƣợc diễn đạt cô đọng, xúc tích, dễ hiểu, dễ nhớ với sự sắp xếp hợp lý, là quy trình từ nhận thức đến hành động và đánh giá, nhận thức. 1.2. Khái quát về cấp cơ sở và các yếu tố tác động đến thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình 1.2.1. Khái quátvềcấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình Về địa bàn hoạtđộng của cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía nam của đồng bằng Bắc Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Nam Định, phía Tây và 34
  • 40. Tây nam giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hòa Bình. Ninh Bình là cửa ngõ đi vào miền Trung, đi ra vùng Duyên Hải và lên vùng Tây Bắc. Đặc điểm tự nhiên và địa hình của tỉnh Ninh Bình khá đa dạng, phong phú, có cả rừng núi, đồng bằng, vùng bán sơn địa và vùng biển. Trong đó, Kim Sơn là vùng đất mở, hàng năm đất luôn đƣợc bồi đắp thêm ra biển, nên diện tích tự nhiên có điều kiện mở rộng. Do vậy, Ninh Bình vừa là vùng đất cổ, vừa là vùng đất mới. Trƣớc đây, Ninh Bình là một tỉnh thuần nông. Có tới 80% dân số sống bằng nghề nông, lâm, thủy sản. So với các tỉnh ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, Ninh Bình khó khăn hơn trong phát triển nông nghiệp. Diện tích đất thuận lợi cho việc trồng lúa không nhiều. Ngoài phần diện tích đất trồng lúa nƣớc thuận lợi là phần đất trũng hoặc là gò đồi, rất khó khăn cho canh tác cây lúa và hoa màu khác. Địa hình của tỉnh Ninh Bình đa dạng, do vậy, kinh tế nông nghiệp ở đây phát triển theo phƣơng thức đa canh. Vừa trồng lúa nƣớc, vừa trồng lúa nƣơng và nhiều loại cây ra màu khác. Là tỉnh thuần nông, nên cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chủ yếu là đơn vị xã. Hiện nay, trên toàn tỉnh có 146 xã, phƣờng, thị trấn. Trong đó có 16 phƣờng (chiếm 10,9%), 7 thị trấn (chiếm 4,9%) và 123 xã (chiếm 84,2%) (xem Phụ lục 7). Nhƣ vậy, đơn vị cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình chủ yếu hoạt động trên địa bàn sản xuất nông, lâm nghiệp, dân cƣ chủ yếu là nông dân. Mặt khác, giữa các vùng, miền trên địa bàn tỉnh lại có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, địa hình, đặc điểm dân tộc và tôn giáo, đặc điểm kinh tế, do vậy, hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức cũng nhƣ có những thuận lợi riêng. Về đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh Ninh Bình Cũng nhƣ hệ thống chính trị cấp cơ sở ở các địa phƣơng trên cả nƣớc, hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Ninh Bình gồm tổ chức đảng cơ sở, chính quyền cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể cơ sở. 35
  • 41. Về tổ chức Đảng cơ sở, toàn tỉnh Ninh Bình có 3.068 chi bộ với hơn 58.000 đảng viên, chiếm 6.4% dân số. Đảng viên của các chi bộ cơ sở phần đông là nông dân, cán bộ hƣu trí và cựu chiến binh, số chi bộ có dƣới 30 đảng viên chiếm đa số, có ít số chi bộ từ 31 - 50 đảng viên và hơn 50 đảng viên. Hiện nay, Ninh Bình không còn thôn, xóm nào trắng đảng viên. Tổ chức cơ sở Đảng rộng khắp, gần gũi, sâu sát với nhân dân là điều kiện thuận lợi để xây dựng Đảng, giữ vũng ổn định kinh tế - xã hội ở địa phƣơng. Việc phát triển các tổ chức Đảng cấp cơ sở đƣợc Ninh Bình kiên trì triển khai, hàng năm bình quân thành lập thêm 10 tổ chức cơ sở đảng và hàng chục chi bộ mới, trong đó, có các tổ chức đảng của doanh nghiệp tƣ nhân. Chỉ riêng 3 năm 2008 - 2010 đã thành lập mới 36 tổ chức cơ sở đảng, trong đó 7 tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tƣ nhân. [57, tr.87]. Ninh Bình là điểm sáng trong việc phát triển đảng viên là ngƣời có đạo, đảng viên là chủ doanh nghiệp tƣ nhân. Trong 3 năm từ 2008 - 2010, toàn Đảng bộ đã kết nạp đƣợc 220 đảng viên là ngƣời có đạo, 8 đảng viên là chủ doanh nghiệp tƣ nhân đƣa đảng viên là ngƣời có đạo trong toàn Đảng bộ lên trên 1000 đảng viên. Hiện Đảng bộ có 194 đảng viên là chủ doanh nghiệp tƣ nhân, 48 đảng viên là chủ tịch hội đồng quản trị của công ty cổ phần. Tƣơng ứng với 146 đơn vị cấp cơ sở, là 146 tổ chức chính quyền (Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân) và các tổ chức chính trị xã hội (Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Nông dân …) cấp cơ sở. Do đặc điểm của cơ chế lựa chọn, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, nên đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh Ninh Bình, về cơ bản, không đƣợc đào tạo hệ thống, bài bản về quản lý Nhà nƣớc. Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở hình thành từ nhiều nguồn cán bộ khác nhau (cán bộ nghỉ hƣu, quân nhân xuất ngũ…), cán bộ trƣởng thành từ hoạt động cơ sở, làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. 36
  • 42. Những năm gần đây, phần lớn cán bộ cơ sở đã đƣợc chuẩn hóa về trình độ chuyên môn, quản lý. Năm 2002, số cán bộ công chức có trình độ đại học, cao đẳng chỉ có 106 ngƣời, thì đến năm 2011, số ngƣời có trình độ đại học, cao đẳng tăng lên 13.455 ngƣời, tăng 118.3%; số ngƣời có trình độ trung cấp năm 2002 là 456 ngƣời, năm 2011 là 1.337 ngƣời, tăng 193,2%; số ngƣời có trình độ sơ cấp năm 2002 là 142 ngƣời đến năm 2011 là 171 ngƣời, tăng 20,4%; đặc biệt số ngƣời chƣa qua đào tạo giảm 71,4% so với năm 2002. [57, tr. 329]. Tiếp tục thực hiện chủ trƣơng “Nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ”, đến năm 2015,”… tổng số cán bộ công chức của Tỉnh có trên 21.000 ngƣời, trong đó 18 ngƣời có trình độ tiến sĩ, trên 400 ngƣời có trình độ thạc sĩ, trên 13.000 ngƣời có trình độ đại học, trên 4.000 ngƣời có trình độ cao đẳng, trên 2.600 ngƣời có trình độ công nhân kỹ thuật bậc 5-7, trên 1.800 ngƣời có trình độ cao cấp, cử nhân lý luận chính trị”[56, tr 50 - 54]. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, nhất là độingũ cán bộ cấp cơ sở, về cơ bản, vẫn còn mang tính chắp vá, do vậy, hiệu quả công tác chƣa cao. 1.2.2. Những yếu tố tác động đến thực hiện dân chủ cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay Thực hiện dân chủ cấp cơ sở là việc tổ chức để ngƣời dân tham gia đầy đủ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, đảm bảo trên thực tế nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chủ thể tham gia vào việc tổ chức thực hiện dân chủ cấp cơ sở là đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị cấp cơ sở và chính bản thân nhân dân địa phƣơng. Quá trình tổ chức thực hiện dân chủ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình phụ thuộc vào một số yếu tố sau đây. Sự pháttriển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình Xây dựng và thực hiện dân chủ cấp cơ sở là thực hiện quyền làm chủ của ngƣời dân trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 37
  • 43. nƣớc, thực hiện mực tiêu “Dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Yếu tố kinh tế - xã hội có tác động, ảnh hƣởng quan trọng trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở. Dân là chủ và dân làm chủ là nhân dân phải làm chủ tƣ liệu sản xuất, làm chủ trong việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng nhƣ phân phối sản phẩm lao động. Làm chủ trên lĩnh vực kinh là cở sở, nền tảng để nhân dân làm chủ về chính trị, văn hóa, xã hội. Để tạo lập vững chắc cơ sở kinh tế để thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình vấn đề mấu chốt là phát triển lực lƣợng sản xuất, trên cơ sở sự phát triển của lực lƣợng sản xuất mà tạo ra những hình thức, những trình độ tƣơng ứng của quan hệ sản xuất mới. Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa mà hạt nhân là chế độ sở hữu xã hội đƣợc hình thành và phát triển là điều kiện đảm bảo quyền làm chủ kinh tế của ngƣời dân ở đây. Ninh Bình là nơi tiếp nối giao lƣu kinh tế và văn hóa giữa lƣu vực sông Hồng với lƣu vực sông Mã, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng rừng núi Tây Bắc, nằm gần các địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc với tuyến hành lang Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Địa hình của tỉnh khá đa dạng gồm: Vùng núi, vùng đồng bằng và vùng ven biển. Tỉnh Ninh Bình có hệ thống giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt và đƣờng thủy từ cấp địa phƣơng đến cấp quốc gia thuận tiện cho giao thƣơng và phát triển kinh tế. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi về giao thông, vị trí địa lý, tỉnh Ninh Bình có nhiều tài nguyên thích hợp để pháp triển các vùng nhiên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản, hoa quả xuất khẩu hay các loại nông sản, đồ thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là tài nguyên đá vôi và các loại khoáng sản phù hợp để phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng. Hiện nay, trong quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng, đẩy mạnh công nghiệp nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Ninh Bình đã có sự 38
  • 44. chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế của tỉnh. Từ một tỉnh thuần nông, sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp chuyển sang cơ cấu kinh tế đa dạng, trong đó, cùng với công nghiệp, du lịch, dịch vụ đã và đang phát triển theo hƣớng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Ninh Bình có nhiều di tích lịch sử - văn hoá với các loại hình kiến trúc, nghệ thuật, lịch sử, tín ngƣỡng, tôn giáo và di tích lịch sử cách mạng rất phong phú. Sự đa dạng đƣợc thể hiện ở các loại hình du lịch: du lịch sinh thái, văn hoá, nghỉ dƣỡng, mạo hiểm, thể thao. Nhiều di tích danh thắng đã trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn du khách trong nƣớc và quốc tế. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế đó đã hƣớng tới việc khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Nhờ vậy, sự phát triển của tỉnh và đời sống kinh tế-xã hội của nhân dân đƣợc nâng cao. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Ninh Bình trong 20 năm qua luôn ở mức cao so với cả nƣớc, bình quân đạt trên 13%, thời kỳ 2006 - 2011 tăng trƣởng kinh tế đạt 15.7%. Nền kinh tế của tỉnh Ninh Bìnhvới cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ chiếm 85%, nông - lâm - ngƣ chiếm có 15%. Gắn liền với quá trình phát triển kinh tế, đời sống nhân dân ổn định và đƣợc cải thiện đáng kể về nhiều mặt, đặc biệt về kinh tế. Quyền sở hữu tƣ liệu sản xuất của ngƣời lao động nông thôn Ninh Bình ngày càng đƣợc đảm bảo, nhất là từ khi Nhà nƣớc ban hành Luật đất đai. Theo Luật Đất đai, ngƣời lao động (nông dân), có quyền: + Đƣợc cấp giấy chứng nhận sử dụng đất + Đƣợc hƣởng hoa lợi phụ thêm; + Đƣợc bảo hộ khi quyền sử dụng đất bị vi phạm + Khiếu nại, tố cáo khi quyền sử dụng đất bị vi phạm; + Chuyển đổi; + Chuyển nhƣợng; + Cho thuê 39
  • 45. + Cho thuê lại; + Thừa kế; + Tặng cho; + Thế chấp; + Bảo lãnh; + Góp vốn bằng quyền sử dụng đất; + Đƣợc bồi thƣờng khi nhà nƣớc thu hồi. Với việc mở rộng quyền sử dụng đất đai, ngƣời dân từng bƣớc đƣợc làm chủ về kinh tế. Làm chủ về kinh tế là yếu tố quyết định đến quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Hơn nữa, khi kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại, cơ sở vật chất và các phƣơng tiện truyền thông ngày càng đa dạng, cũng tạo điều kiện cho ngƣời dân có nhiều cơ hội hơn trong tiếp cận, nắm bắt đầy đủ, chính xác thông tin về quyền làm chủ của nhân dân. Điều đó tạo điều kiện để ngƣời dân chủ động và thực thi đúng, đầy đủ quyền đó trong thực tiễn. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế của Tỉnh cũng cho thấy, tốc độ tăng trƣởng kinh tế chƣa ổn định, bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Quản lý kinh tế, quản lý đất đai trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chƣa chặt chẽ, còn nhiều thiếu sót, lúng túng. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc nhƣ việc làm cho ngƣời lao động, vệ sinh môi trƣờng còn nhiều khó khăn, kết quả còn hạn chế. Sự phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng, các lĩnh vực trong Tỉnh chƣa đồng đều. Điều này tạo ra lực cản trong thực hiện dân chủ cấp cơ sở. Hiệu quả việc triển khai thực hiện dân chủ cấp cơ sở giữa các vùng cũng khác nhau. Mặt khác, chính những thiếu sót, hạn chế trong quản lý kinh tế, xã hội, đất đai lại là nguyên nhân dẫn đến những hiện tƣợng phản ứng tiêu cực của nhân dân địa phƣơng. 40
  • 46. Cơ chế thực hiện dân chủ cấp cơ sở - Cơ cấu, tổ chức và năng lực hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở Cơ chế thực hiện dân chủ cấp cơ sở là sự sắp xếp, phân công vị trí, chức năng nhiệm vụ và sự phối hợp của các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp sơ sở thành nguyên tắc thống nhất chỉ đạo hoạt động của nó nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Nói cụ thể, cơ chế thực hiện dân chủ cấp cơ sở chính là sự phân công và phối hợp giữa tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể cấp cơ sở thành nguyên tắc trong triển khai, tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, nhằm đảm bảo “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hƣởng”. Một cơ chế càng hoàn thiện, ở đó có sự phân công rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở, thì mức độ dân chủ đạt đƣợc càng cao. Ngƣợc lại, nếu hệ thống chính trị cấp cơ sở không có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, hoặc tạo ra khoảng trống, hoặc lại có sự chồng chéo trong vận hành, đội ngũ cán bộ chƣa chuyên nghiệp trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, chắc chắn sẽ hạn chế hiệu quả thực hiện dân chủ cấp cơ sở, thậm chí vi phạm đến quyền làm chủ của nhân dân. Hiện nay, trong xu thế đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt động của hệ thống chính trị từ Trung ƣơng đến cơ sở ở Việt Nam, tỉnh Ninh Bình đang thực hiện đổi mới và kiện toàn, nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị các cấp theo phƣơng hƣớng “…xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và năng lực chỉ đạo điều hành, sự phối hợp chặt, đồng bộ giữa các ngành, các cấp…” [59, tr.58]. Việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và giải quyết mối quan hệ giữa Đảng với nhà nƣớc với các đoàn thể nhân dân là căn bản. Để thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nƣớc quản lý, nhân dân làm chủ”, Ninh Bình đã tập 41