SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 23
Baixar para ler offline
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 1
VỘI VÀNG
(Xuân Diệu)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Cuộc sống là một mũi tên lao thẳng về phía cái chết. Khi lớn lên, chúng ta bị cuốn theo sự bận bịu
thường ngày mà dần quên đi nỗi lo thường trực về sự tàn phá của thời gian. Mỗi phút trôi qua là một
khoảnh khắc của cuộc đời lại mất đi, mất đi... Cách con người đối diện với thời gian đã sinh ra rất nhiều
tác phẩm nghệ thuật. Ở Việt Nam, thời kì 1930 – 1945, có một tác giả đã bước vào làng thơ với đôi tay bám
riết lấy cuộc đời trần gian và đôi mắt dõi nhìn từng bước chân tàn nhẫn của thời gian. Nhà thơ đó chính là
Xuân Diệu, thi sĩ của nỗi ám ảnh thời gian, của tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ.
MỞ RỘNG
“Tôi như con bướm đắm
tình thương/ Bay vòng hoa
đẹp để vây hương/ Phấn
con bướm mỏng mà hương
rộng/ Tham chiếm hồn ai,
chỉ đoạn trường.” (Phơi
trải, Xuân Diệu); “Yêu
ngẩn ngơ rồi đau xót xa/
Số anh là khổ, số anh là/
Suốt đời nuốt lệ vào trong
ngực/ Đem ái tình dâng kẻ
phụ ta.” (Muộn màng,
Xuân Diệu)
Ở các nhà thơ lãng mạn, cá
tính được giải phóng, tâm
hồn được mở rộng và trí
tưởng tượng được khai
thác tối đa. Con người
trong thơ lãng mạn là con
người của cảm nhận và
giãi bày những cảm xúc,
khát khao, dục vọng, đam
mê của mình… Các nhà
thơ lãng mạn dùng nhịp
đập sôi nổi của trái tim
1. TÌM HIỂU CHUNG:
- Tên thật: Ngô Xuân Diệu. Bút danh: Trảo Nha.
a. Quê hương và gia đình
- Quê Cha: Hà Tĩnh. Quê Mẹ: Bình Định.
- Lớn lên ở Qui Nhơn – vùng biển, có nhiều cảnh sắc thiên nhiên đẹp, đặc biệt
là ngọn gió nồm nam.
- Thừa hưởng những đức tính cần cù, nhẫn nại, chăm chỉ của người cha là ông
đồ xứ Nghệ.
- Là con vợ lẽ, sớm phải sống xa cha mẹ, thường bị hắt hủi... nên luôn khao
khát tình thương và sự cảm thông.
" Xa gia đình từ nhỏ, sống ở nhiều nơi, mỗi vùng đất có ảnh hưởng nhất định
đến hồn thơ của ông.
b. Con người và thời đại
- Đỗ tú tài và đi dạy học tư, làm viên chức: Ông là một trí thức Tây học chịu
ảnh hưởng và hấp thụ văn hoá Pháp; đồng thời cũng thừa hưởng truyền thống
văn hoá phương Đông.
- Thời đại nhiều biến động, trong đó Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước
thay đổi quan trọng trong cảm hứng sáng tác của Xuân Diệu.
c. Sự nghiệp văn học
- Xuân Diệu là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn để lại cho đời khối lượng tác
phẩm đồ sộ với một đam mê sáng tạo như muốn chạy đua với thời gian.
- Sáng tác của ông chia làm 2 giai đoạn: trước và sau Cách mạng tháng Tám.
Các tác phẩm chính: (khoảng trên 500 bài thơ) Thơ thơ (1938), Gửi hương cho
gió (1945), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962), Hai đợt sóng
(1967)...; các tập văn xuôi: Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945)…
- Ông hoàng của thơ tình yêu: Phong cách thơ: sôi nổi, đắm say, yêu đời, yêu
cuộc sống thắm thiết, cuồng nhiệt.
- Vài nét đặc trưng trong thơ ca Xuân Diệu:
+ Tư tưởng chi phối toàn bộ sáng tác của Xuân Diệu là “niềm khao khát giao
cảm với đời”. Ông muốn chia sẻ, giao hoà tâm hồn sôi nổi và tinh tế của mình
với muôn người, với hôm nay và mai sau. Đồng thời ông cũng luôn muốn
khẳng định “cái tôi” cá nhân độc đáo, mạnh mẽ và đầy nhiệt huyết của mình.
+ Thế giới thiên nhiên và con người trong thơ ca Xuân Diệu là một thế giới
tràn đầy sự sống với bao vẻ đẹp trần thế rất bình dị, gần gũi mà đắm say vô
tận, vô cùng. “Xuân Diệu là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình giữa con
người và con người, một phát hiện về niềm hạnh phúc tuyệt vời mà cuộc sống
trần thế này đã ban phát cho nhân loại.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Một thế giới
như thế luôn kêu gọi, mời chào con người sống hết mình, sống mãnh liệt –
“Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn...”. Và vì thế phải sống nhanh, sống
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 2
mình để tìm thấy cái tươi
mới, trẻ trung trong vạn
vật bên ngoài.
Thơ ca lãng mạn chính là
“cuốn nhật kí của những
cảm xúc” (Girmunsky)
Lời tựa tập Gửi hương cho
gió: “Người hãy mở tay,
người hãy mở lòng mà đón
lấy! Đây là lòng tôi đương
thời sôi nổi, đây là hồn tôi
vừa lúc vang ngân; và đây
là tuổi xuân, là sự sống
của tôi nữa, tôi đem mà
tặng cho người trong mấy
bài thơ đây.”
Nên nhớ chính Xuân Diệu
cũng là người ý thức rất rõ
sự cô đơn của mình giữa
thế giới. Nhưng ông
không trốn tránh, cũng
không chối bỏ thế giới này
mà ngược lại nhà thơ
muốn dùng cái ăm ắp đầy
tràn trong tâm hồn để sưởi
ấm cuộc đời, khoả lấp hố
thẳm giữa nội tâm và
ngoại giới.
Tôi vốn biết cuộc đời
thường đạm bạc
Nên mang theo từng suối
rượu nguồn tình
Đem mến yêu làm cho
cảnh thêm xinh
Cứ phong nhã để cho
người bớt tục
Để lây lửa chuyển những
lòng giá đúc
Phải ấm lên vì bắt chước
tôi nồng.
(Chỉ ở lòng ta, Xuân Diệu)
gấp, phải “Vội vàng”, “giục giã” chứ không thể dửng dưng lạnh nhạt với thời
gian đang một đi không trở lại.
+ Mảng thơ đặc sắc nhất của Xuân Diệu là thơ tình. Đây cũng là mảng thơ giúp
ông thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời một cách mãnh liệt nhất, sâu sắc
và toàn vẹn nhất. Với ông, tình yêu bao giờ cũng đòi hỏi sự khát khao vô biên,
vô cùng và vĩnh viễn. Một tình yêu như thế, ông không thể tìm thấy ở cuộc
sống thị dân, ích kỉ tính toán, chật hẹp và tù túng trước đây. Vì thế nội dung
chính trong thơ tình Xuân Diệu là những nỗi đau đớn của một trái tim đầy nhiệt
huyết mà không được đáp đền; một nỗi cô đơn, giá lạnh trước tình người và
tình đời nhạt nhẽo. “…chính ngay nơi ấm cúng này (tình yêu) lại thấm thía nỗi
cô đơn và con người vẫn tự chia sẻ ra nhiều ngăn cách.” (Hà Minh Đức).
+ Tạo nên cái tân kì trong thơ Xuân Diệu thực ra không phải ở thể loại mà là
ở cách nhìn nhận và cảm thụ thế giới. Ảnh hưởng sâu đậm thơ ca hiện đại
phương Tây, đặc biệt là thơ tượng trưng Pháp, Xuân Diệu đã tìm được cách
chiếm lĩnh thế giới, mô tả, thể hiện cuộc sống và tâm hồn con người một cách
tinh vi, màu nhiệm bằng cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo, đề cao
nhạc tính và tăng cường sự cảm nhận của các giác quan.
a Xuân Diệu: là một nhà thơ mới, “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài
Thanh), được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
1996.
1.2. Tác phẩm: “Vội vàng”:
a. Xuất xứ: In trong tập “Thơ thơ”, là một trong những bài thơ tiêu biểu
nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám.
b. Bố cục: 3 đoạn:
+ Đoạn 1: 13 câu đầu:
"Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ.
+ Đoạn 2: 16 câu tiếp:
" Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời.
+ Đoạn 3: 9 câu cuối:
" Khát vọng sống, khát vọng yêu cuồng nhiệt, hối hả.
• Mạch cảm xúc và tâm trạng thi nhân:
- Phần 1 (đoạn 1 + 2): Lập thuyết: Tác giả xưng “tôi” để bày tỏ quan niệm
của mình. Nội dung nghiêng về lí thuyết:
+ Bắt đầu từ những khát khao tưởng như phi lí, muốn đi ngược lại quy luật tạo
hoá
+ Nguyên nhân: Cuộc sống trần gian đầy hương sắc;
+ Điều đó dẫn đến nhận thức: Nhưng cuộc sống ấy không thể tồn tại mãi mãi.
Mùa xuân của đất trời tuần hoàn còn tuổi xuân con người một đi không trở lại.
- Phần hai (còn lại): Thi sĩ xưng “ta” là muốn đối diện với toàn thể sự sống
trần gian – đối tượng cần tận hưởng. Nội dung cảm xúc thể hiện rõ ở những
hành động vô vập, chếnh choáng của một cái tôi đầy ham muốn, đang muốn
tận hưởng cho thật nhiều, thật đã đầy những hương sắc trần thế. Nội dung
nghiêng về “thực hành”: Vội vàng là phải thế nào?
- Hai phần này chuyển tiếp rất tự nhiên về cảm xúc, rất chặt chẽ về luận lí. Nó
khiến cho bài thơ liền mạch và hoàn chỉnh cứ như một dòng chảy ào ạt, hoàn
toàn hồn nhiên của tâm trạng. Ngỡ như thi sĩ không phải dụng công trong việc
cấu tạo, thiết lập, sắp xếp gì vậy. Đây chính là một thành công đáng kể của thi
phẩm.
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 3
§ Nhận xét:
- “Giá trị của tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó.
Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc tình cảm, chứ không phải
cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy…” (Nguyễn Khải)
- “Bài thơ là một bản tuyên ngôn cho một tư tưởng nhân sinh của Xuân Diệu,
nhưng tuyên ngôn ấy được thể hiện bằng hình tượng thơ ca sinh động và đầy
xúc cảm, giàu tính nghệ thuật, chứ không phải là sự minh hoạ giản đơn cho
triết lí nhân sinh của nhà thơ.” (Nguyễn Đăng Mạnh)
2. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:
2.1. Đoạn 1: Tình yêu cuộc sống say mê tha thiết của nhà thơ:
a. 4 câu đầu:
- Cách xưng hô: đại từ “TÔI”.
+ Nhấn mạnh khao khát cá nhân, cá thể: đó là cơ sở của cảm xúc và suy tưởng
trong bài thơ này.
+ Thi sĩ muốn bộc bạch với mọi người, với cuộc đời.
+ So sánh:
Văn học trung đại Thơ mới
Nhấn mạnh cái “ta”, cái chung, tiếng
nói của cá thể hoà nhập với tiếng nói
của cộng đồng.
Khai thác cái “tôi”, tìm về những
cảm xúc, suy tưởng, khát khao…
riêng tư của từng cá thể.
- Khát vọng: “Tắt nắng”, “buộc gió”:
+ Những điều không thể làm được vì nó đi ngược lại tạo hoá: thi sĩ muốn níu
giữ lại dòng chảy nghiệt ngã của thời gian đang chuyển di trên từng tạo vật.
+ Nhà thơ chấp nhận tắt nắng ngay lúc nó còn đẹp đẽ, chấp nhận buộc gió ngay
lúc nó còn tỏa hương để giữ lại cho mình khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của hương
sắc cuộc đời chứ không muốn chứng kiến sự tàn phai của tạo vật.
" Khẳng định ước muốn táo bạo, mãnh liệt, muốn ngự trị thiên nhiên, thay
quyền tạo hóa. + Ý tưởng mới lạ, độc đáo, in dấu ấn những cách tân nghệ thuật
thơ Mới và dấu ấn cá tính sáng tạo của Xuân Diệu.
- Tác giả không dùng “không” mà là “đừng”: khát khao nhưng cũng hiểu rằng
đó là sự khát khao trong bất lực bởi con người đâu thể cưỡng nổi bước đi của
thời gian vô tình.
ð Bốn câu thơ gửi trọn cảm xúc và ý tưởng chủ đạo của cả bài thơ nên có
giá trị như một lời đề từ: Tình yêu tha thiết, say mê dành cho vẻ đẹp
cuộc đời + Nỗi ám ảnh thời gian.
ð Nghệ thuật: Câu thơ 5 chữ; Điệp từ ngữ, cấu trúc câu; Kiểu câu khẳng
định mạnh; Động từ “tắt”, “buộc”: rất Xuân Diệu;
b. Vẻ đẹp cuộc sống trần gian
- Nhận xét chung:
+ Xuân Diệu là một nhà thơ Mới, là một cây bút lãng mạn chủ nghĩa. Nói như
Bielinsky: “Các nhà lãng mạn có một mối thâm thù với thực tại”. Trong giai
đoạn văn học lãng mạn của Việt Nam, hầu như các tác giả lãng mạn đều tìm
cách trốn tránh thực tại: Chế Lan Viên tìm về thế giới của Chiêm thành đổ nát,
Vũ Hoàng Chương tìm đến rượu và thuốc phiện… Chỉ riêng Xuân Diệu lại
không những không trốn tránh cuộc đời mà còn tìm đến những vẻ đẹp tươi mới
của nó. Lầu thơ Xuân Diệu “xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”
(Thế Lữ). Điều đó thể hiện rất đậm nét trong đoạn thơ đầu:
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 4
“Này là đoá hoa, thơm
như tình ái; này là hạt
sương, này là con bướm,
này nữa đàn chim… Anh
giao cho em mây sớm an
lành; anh giao cho em
nắng vàng thương nhớ. Và
giao cho em cả gió, cả
trăng… Yêu đi em, hưởng
đi em! Đó là tất cả cái kho
của tuổi xuân; mở ra mà
thưởng thức.” (Trường ca,
Xuân Diệu).
“Vườn cười bằng bướm,
hót bằng chim
Dưới nhánh không còn
một chút đêm
Những tiếng tung hô bằng
ánh sáng
Ca đời hưng phục trẻ
trung thêm.”
(Lạc quan, Xuân Diệu)
“Thời gian đương đi qua,
đôi cặp môi người đóng
dấu vào nhau để lấy một
phút giây cực lạc, cùng
khắn ép một quãng nhỏ
không gian; và từ ấy,
trong kỉ niệm trăm năm,
còn mãi một điểm hồng.
Điểm hồng trong trí nhớ,
làn điện tê buốt ở đầu
môi.” (Xuân Diệu).
+ Đoạn thơ “của ong bướm… hoài xuân”: Tác giả giãi bày cho cái ước muốn
tưởng như “ngông cuồng” của mình bằng một bức tranh tràn đầy sinh lực, ngồn
ngộn sức xuân, sắc xuân, hương xuân và tình xuân.
- HÌNH ẢNH: “Ong bướm”, “hoa”, “lá”, “yến anh”:
+ Những tạo vật thiên nhiên bình thường trong mùa xuân, qua đôi mắt Xuân
Diệu trở nên đẹp đẽ, mới lạ.
+ Gợi nên những vẻ đẹp hoàn thiện, lộng lẫy và tươi mới, thanh tân của
mùa xuân + Các tạo vật đều đi thành đôi, thành cặp: Ong bướm quấn quýt,
dập dìu; hoa nở nộ trên đồng nội; ngay cả đồng nội cũng xanh rì sắc cỏ; lá là
lá của cành tơ phơ phất – cái lá non tơ đầu mùa, chữ “tơ” thay vì “non” cũng
gợi lên một cái gì tươi mới, trẻ trung. “Yến anh” tức chim yến và chim oanh
là hình ảnh lứa đôi viên mãn.
ð Cách tổ chức không gian đặc biệt:
Biểu hiện Tính chất
+ Sự vật đa dạng (từ nhỏ - ong
bướm, đến rất lớn – hoa của đồng
nội, đến rất cụ thể - lá của cành
tơ,…);
+ Đồng loạt xuất hiện.
+ Có cùng một tính chất, đặc điểm
chung: tươi mới, đẹp đẽ, hạnh phúc,
giàu sức sống.
+ Cùng tôn nhau lên tạo thành một
chỉnh thể mùa xuân tràn đầy sức sống
+ “Áng sáng chớp hàng mi”: Xuân Diệu hình dung bình minh như một người
con gái vừa tỉnh dậy sau đêm dài, chớp hàng mi để rồi bừng ra muôn ánh sáng.
Liên hệ: Trong “Trường ca”: “Mi của ánh sáng thật dài, tia của ánh sáng thật
đượm […]. Con mắt điện quang thấu suốt muôn trùng.” (Xuân Diệu). Ánh
sáng của bình minh kéo theo niềm vui trần thế. Xuân Diệu đã hình tượng hoá
niềm vui thành một vị thần – Thần Vui. “Ánh sáng bắn tin truyền hịch, đưa
lệnh khắp hang cùng núi hẻm, báo rằng: “Sắp sửa tin vui!” (Trường ca). Mỗi
ngày mới bắt đầu là một ngày hạnh phúc mới. Mỗi buổi sáng là một lần tái
sinh của thiên đường trần gian.
+ Đặc biệt nhất: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” – Tác giả đã hình
tượng hóa, hình thể hóa vẻ đẹp mùa xuân trong một phép so sánh, một tính từ
“ngon” và trong một hình tượng giàu giá trị biểu đạt: “cặp môi gần”. Vẻ
đẹp mùa xuân trở nên quyến rũ, đầy sức hấp dẫn trong sự viên mãn và căng
đầy của nó. Hình ảnh cặp môi gần cũng khơi gợi cho người ta cái cảm giác
muốn được đến để chiêm ngưỡng và cảm nhận vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên,
đất trời trong mùa xuân. Khoảnh khắc mãnh liệt nhất của khát khao chính là
khi kề cận điều mình khao khát mà vẫn chưa chạm được đến nó (hay sắp chạm
được đến nó) – cặp môi gần. Nụ hôn trong quan niệm của Xuân Diệu mang ý
nghĩa đặc biệt: Đẹp nhất của tuổi trẻ là tình yêu mà biểu hiện cao nhất của tình
yêu là nụ hôn.
" Lối diễn đạt độc đáo, mới lạ + Vật chất hóa khái niệm thời gian “tháng
giêng” bằng “cặp môi gần”. Truyền cảm giác đến người đọc bằng tính từ
“ngon, gần”; Có ý nghĩa bao quát cả đoạn vừa gợi hình thể vừa gợi cả hương
thơm và vị ngọt khiến ta say đắm, ngây ngất.
" Thi sĩ chào đón, chiêm ngưỡng cuộc sống bằng “cặp mắt xanh non” của
tuổi trẻ, vừa ngỡ ngàng, vừa say đắm ngây ngất. Thế giới đó, cái nhìn đó là
kho báu của tuổi trẻ mà hơn một lần ông mời gọi con người, nhất là những
người trẻ, phải mở hết lòng mình để tận hưởng nó.
- TỪ NGỮ:
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 5
Cái tôi say sưa bỗng
thoáng hiện sự bất an. Đó
là một cảm thức rất chung
của thế hệ thanh niên Việt
Nam thời đó. Cái thiên
đường trần gian chỉ là lâu
+ Hàng loạt từ “Này đây…” mở đầu + Liệt kê theo chiều tăng tiến. “Này
đây…” là một cụm từ dùng để giới thiệu, cũng là một cụm từ thể hiện niềm
say sưa và sự phát hiện. Tác giả như hào hứng kéo tay người đọc để chỉ cho
họ thấy từng phương diện khác nhau trong vẻ đẹp của mùa xuân mà ông đã
phát hiện ra bằng cặp mắt yêu đời say đắm. Điệp cấu trúc “Này đây…” cũng
góp phần làm cho mạch thơ thêm mạnh mẽ, giọng thơ thêm sôi nổi, thiết tha
tỏ rõ tấm lòng thi sĩ.
+ Các từ ngữ đặc tả mùa xuân liên tiếp xuất hiện: “tuần tháng mật” (tuần trăng
mật hay tuần tháng mùa xuân ngọt ngào như mật); Màu xanh “rì” của cỏ nội
tạo thành một phông nền êm mát; “khúc tình si” là khúc hát của mùa xuân,
khúc hát của những nỗi lòng giao hòa giao cảm, khúc hát đắm say của tình yêu
đôi lứa. Từ láy (phơ phất), từ ghép (xanh rì).
- NHỊP ĐIỆU: gấp gáp, khẩn trương.
" Sự sung sướng, ngây ngất vừa có gì như hối thúc, giục giã: cuộc sống là
thiên đường trần gian, hãy tận hưởng, tận hưởng và tận hưởng…
MÙA XUÂN + TÌNH YÊU + TUỔI TRẺ = Thiên đường trên mặt đất của
Xuân Diệu. Linh hồn của thiên đường ấy nằm trong hai chữ “xuân tình”:
+ Xuân Diệu đã làm sống dậy nét quyến rũ, sự tình tứ, vẻ kì thú ngay trong
những cảnh sắc sự vật tự nhiên quen thuộc, đem đến những cảm nhận tinh
vi về thời gian, không gian, làm sống dậy vẻ thơ mộng và cả những tình thái
tế nhị thật bất ngờ trong thiên nhiên mà bao trùm lên tất cả là cái nhìn tình
tứ về sự vật. Nhờ đó mà từng cảnh sắc đều tình tứ, mọi cảnh vật đều tràn
ngập xuân tình. Từ những hình sắc cụ thể theo lối đặc tả cận cảnh đến toàn
thể thiên nhiên rộng lớn theo lối bao quát toàn cảnh thường hiện ra trong
dáng nét của giai nhân, tình nhân tràn trề xuân sắc.
+ Xuân Diệu nhìn sự tươi mới, thanh tân của sự vật bằng cái nhìn luyến ái
đầy khát khao chiếm hữu. Xuân Diệu dùng cái xuân tình trong lòng mình
để cảm nhận vẻ xuân tình trong vạn vật: Tình là nội dung, xuân là hình
thức; Tình dậy men bên trong, phát lộ thành mùa xuân bên ngoài; Vẻ
xuân của vạn vật là hiện thân của tình.
ð Xuân Diệu ý thức sâu sắc: Giá trị lớn nhất của đời người là tuổi trẻ
mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ là tình yêu: Cách nhìn tích cực,
tinh thần nhân văn mới.
§ Quan niệm thẩm mỹ mới:
- Xuân Diệu ngơ ngác, vui sướng như lần đầu tiên thấy cảnh hoa lá, bướm
ong; “cái gì cũng lạ, cũng đẹp, cũng non tươi, cái gì cũng mê, cũng say…
Nhưng đối với Xuân Diệu, thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có
con người, con người giữa tuổi trẻ và tình yêu.”
- Thơ xưa lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người, Xuân
Diệu đưa ra một quan niệm mới: Con người khi đang độ thanh xuân, khi
đang yêu đương chính là hình ảnh đẹp nhất. Đó mới là chuẩn mực cho cái
đẹp trên thế gian này. Con người trở thành thước đo thẩm mỹ của vũ trụ.
2.2. Đoạn 2: Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời:
- Xuân Diệu yêu đời, nhưng cái nhìn của ông không thuần tuý chỉ có tình yêu.
Đó là cái nhìn mang tính lưỡng cực: vừa khắc hoạ thiên nhiên trong “thời tươi”
lại vừa cảm nhận sâu sắc “độ phai tàn” của nó: “Tôi sung sướng. Nhưng vội
vàng một nửa”:
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 6
đài cát chóng tan. Thời
gian đi qua đã tiêu huỷ tất
cả những gì là đẹp đẽ nhất
trong cuộc đời.
Vừa mới khi mai tôi cảm
thấy
Trong tay ôm một bó hoa
cười
Ngọn gió thời gian không
ngớt thổi
Giờ tàn như những cánh
hoa rơi.
(Giờ tàn, Xuân Diệu)
Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết
Bèo hợp để mà tan
Người gần để li biệt
Hoa thu không nắng cũng
phai màu
Trên mặt người kia in nét
đau.
(Hoa nở để mà tàn, Xuân
Diệu)
Thật ra đó là cảm quan đã
không ít lần xuất hiện
trong thơ cổ “Nhãn khan
xuân sắc như lưu thuỷ/
Kim nhật tàn hoa tạc nhật
khai” (Kìa trông màu xuân
trôi qua như nước chảy/
Bông hoa hôm kia nở,
hôm nay đã tàn rồi, Yến
Đông Thành trang,
Trương Nhược Hư).
Nhưng ở Xuân Diệu nó trở
thành một niềm ám ảnh
không dứt, nó ăn sâu vào
trong mọi cảm nhận ở tâm
hồn thi sĩ mà phổ lên mọi
+ Đây là câu bản lề trong cả bài thơ này, nó là chỗ gãy khúc của tâm trạng:
một mặt khép lại tâm trạng say sưa của tác giả với vẻ đẹp của mùa xuân, tình
yêu và tuổi trẻ; mặt khác mở ra tâm trạng hoài nghi, chán nản của thi sĩ trước
những thực tế nghiệt ngã của cuộc đời.
Khép lại tâm trạng say sưa Mở ra niềm hoài nghi, lo lắng
“Tôi sung sướng”: đây là sự kết
luận, một câu tổng kết lại cảm xúc
của Xuân Diệu trước vẻ đẹp tuyệt mỹ
của mùa xuân mà ông đã say sưa tô
vẽ ra cho người đọc.
“Nhưng vội vàng một nửa”: tâm
trạng đang lên cao bỗng nhiên bị
chặn lại, bởi một dấu chấm câu phân
tách câu thơ thành hai nửa, cũng bởi
từ “nhưng” dự báo một điều gì
không thật trọn vẹn sẽ đến ở phía sau.
ð Thi sĩ say riết trước cuộc đời nhưng vẫn tự nhủ lòng phải vội vàng một
nửa: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Hoài xuân là nhớ xuân,
tiếc xuân khi mùa xuân chỉ mới bắt đầu; Giữa âm điệu hoan lạc, vui
tươi bỗng thoáng ngỡ ngàng, hụt hẫng: Tác giả không đợi mùa xuân
qua đi mới hoài xuân, mới biết tiếc nhớ mùa xuân mà ông luyến tiếc
mùa xuân chính cả khi nó đang còn hiện diện đẹp đẽ nơi đây. Niềm
luyến tiếc này là một dự cảm về tương lai, bộc lộ nỗi ám ảnh sâu sắc
của thi nhân trước sự hữu hạn của mùa xuân tuổi trẻ.
§ “Xuân đương tới… cũng mất”:
- Quan niệm về thời gian: Giọng thơ chuyển sang buồn thương, triết lí. Tác
giả sử dụng phép liệt kê, phép điệp kết hợp cách diễn đạt mang tính định nghĩa
(nghĩa là), là đặc trưng của lối thơ triết luận, để đưa ra quan niệm của mình về
thời gian. Đó không phải là những mệnh đề rút ra từ lí trí mà là những triết lí
được đúc kết từ chính cảm nhận sâu sắc, thấm thía của tác giả về nhân sinh.
+ “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua”: Xuân Diệu cảm nhận được
bước đi của thời gian trên từng tạo vật, ông hiểu điều muôn đời không thể đổi
thay: cái đang tới, cái đang sinh sôi cũng chính là cái đang đi về cõi chết, cái
đang lụi tàn và hoại diệt. Cuộc sống trong thơ Xuân Diệu không tĩnh tại, nó là
sự sống đang thành hình, đang chuyển động, cũng có nghĩa là đang đi về phía
cái chết và sự tàn phai như lẽ tất yếu của sinh – trụ – hoại – diệt.
+ “Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”: Vế thứ nhất (xuân còn non) là nhận
thức về thế giới tươi trẻ trong hiện tại. Vế thứ hai (xuân sẽ già) là tiên cảm về
điều sẽ xảy ra: mùa xuân sẽ lụi tàn. Xuân Diệu say sưa với cuộc đời nhưng
cũng không quên rằng đằng sau vẻ tươi mới đó chính là cái bóng của tuổi già,
sự héo mòn. Cặp đối ngẫu “non” – “già” càng tô đậm thêm nữa sự nghiệt ngã
của quy luật thời gian đối với cuộc đời của con người và hình sắc của tự nhiên.
+ “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”: Thi sĩ gắn mùa xuân với chính cuộc
đời mình. Xuân không còn, tuổi trẻ không còn thì “tôi” cũng không còn bởi
cái tôi ấy sống với mùa xuân, với tuổi trẻ. Tâm hồn ông hòa nhập và giao cảm
với vẻ đẹp của cuộc đời, vẻ đẹp của tuổi xuân. Mùa xuân không còn, tuổi xuân
qua đi, tình yêu mất mát cũng đồng nghĩa với cái chết tâm hồn của tác giả.
ð Tiểu kết: Kết hợp liệt kê, lặp cấu trúc câu với các cặp tương ứng
“đương tới – đương qua, còn non - sẽ già, xuân hết – tôi cũng mất”:
Nhấn mạnh điều tất yếu có tính qui luật của tự nhiên. Từ đó cho thấy
nỗi day dứt, niềm tiếc nuối khôn nguôi của một trái tim vốn rất nhạy
cảm, yêu đời, khát khao giao cảm với đời.
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 7
vật xung quanh ở độ tinh
vi nhất.
“Không còn ngươi, thôi
cái gì cũng mất
Tài năng chi, danh vọng
kể làm chi
Kể chi tiền với một kẻ mê
si
Chỉ thấy nghĩa trong ái
tình vĩnh viễn…”
(Thanh niên, Xuân Diệu)
“Ý thức hoàn toàn mới mẻ
về cá nhân, niềm mong
muốn khẳng định cái tôi
cá thể giữa cuộc đời trở
thành động lực sáng tạo.
Bởi vậy sự tự ý thức về
thân phận, niềm mong
muốn giải trình những
nhận thức riêng về cuộc
đời, những đam mê và bi
kịch của mình đã khiến
Xuân Diệu tìm đến kiểu
§ Quan niệm mới về thời gian:
- Cần hiểu rằng thời gian trong vũ trụ này thì muôn đời vẫn thế. Chỉ có quan
niệm của con người về thời gian thì đổi thay. Sự đổi thay này có thể do trình
độ nhận thức khoa học, ý thức triết học, ý thức thẩm mỹ... của mỗi thời một
khác.
- Trong “Vội vàng”, Xuân Diệu đã đưa ra một quan niệm mới của mình về
thời gian.
+ Cách thức trình bày của Xuân Diệu là “chống đối”, “tranh cãi” lại quan
niệm xưa, đồng thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một cảm xúc sôi
nổi, cuồng nhiệt – nghĩa là bằng một dạng ý thức triết học đã được thấm
nhuần cảm xúc.
Quan niệm cũ Quan niệm của Xuân Diệu
- Quan niệm cũ về thời gian mà
Xuân Diệu muốn chống đối là thời
gian tuần hoàn. Nghĩa là thời gian
được hình dung như một vòng
tròn liên tục tái diễn, hết một vòng
quay lại về điểm xuất phát, cứ trở
đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là
vòng tuần hoàn thì những thời
khắc, thời đoạn của nó có ra đi rồi
cũng sẽ quay trở về.
- Người xưa dùng vũ trụ làm
thước đo thời gian. Thời gian vũ
trụ và thời gian của đời người hoà
nhập vào nhau.
- Xuân Diệu đã lựa chọn cho mình một
quan niệm khác: thời gian tuyến tính.
Nghĩa là thời gian được hình dung như
dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở
lại. Vì thế, mỗi khoảnh khắc trôi qua là
mất đi vĩnh viễn. Quan niệm này xuất
phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về
vũ trụ, về thời gian.
- Xuân Diệu dùng sinh mệnh cá thể làm
thước đo thời gian, tức là lấy cái hữu
hạn của sinh mệnh để đo đếm thời gian
trong vũ trụ. Thời gian vũ trụ và thời
gian của đời người không trùng nhau.
- Nghịch lý của đời người:
+ “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật/ Không cho dài thời trẻ của nhân
gian”:
ü “Lòng tôi rộng”: Tâm hồn con người rộng mở và đầy khao khát: khát
khao giao cảm, khát khao hòa nhập, khát khao tận hưởng cuộc sống…
Với Xuân Diệu, một người bám riết cõi đời bằng niềm mê say tha thiết,
nỗi khát khao ấy lại càng sâu sắc hơn nữa. Và hơn nữa cuộc đời này cũng
quá đẹp để sống, để yêu và tận hưởng.
ü “Lượng trời cứ chật”: Thời gian mà tạo hoá ban cho đời người là ngắn
ngủi, hữu hạn.
ü Đây là nghịch lí mà cũng là điều tất yếu đối với một tâm hồn như Xuân
Diệu: biết bao nhiêu thời gian cho vừa với khát khao giao cảm mãnh liệt
đến cuồng nhiệt của ông? – “Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ.” (Thanh
niên, Xuân Diệu).
+ “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm
lại!”:
ü Mùa xuân rồi sẽ tuần hoàn, thời gian vô thủy vô chung sẽ còn lặp lại trăm
vạn lần nữa trong nhân gian này. Nhưng cái tuần hoàn không thôi của
thiên nhiên chỉ làm đau đớn thêm lòng người khao khát sống.
ü Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Chẳng có tuần hoàn nào cho tuổi trẻ của
chúng ta. Vậy thì mùa xuân có trở lại trăm vạn lần nữa cũng không còn ý
nghĩa gì. Bởi mùa xuân chỉ có ý nghĩa khi nó gắn với tình yêu và tuổi trẻ
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 8
câu thơ định nghĩa.” (Lê
Quang Hưng)
cũng như tình yêu và tuổi trẻ sẽ làm nên mùa xuân. Tình yêu, tuổi trẻ và
mùa xuân là một thể thống nhất. Thậm chí sự trở lại của mùa xuân còn là
lời loan báo cho sự ra đi của tuổi xuân.
+ “Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,/ Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất
trời;”: Tác giả ngậm ngùi nhận thức về quy luật không thể khác của hóa sinh:
“tiếc cả đất trời”, tiếc cả cuộc đời mà rồi đây mình sẽ bỏ lại.
§ Liên hệ: Ngay cả những dòng thơ gửi lại trước khi chết, Xuân Diệu vẫn
chưa thôi yêu thương cuộc đời, yêu quý tình người: “Hãy để cho tôi
được giã từ/ Vẫy chào cõi thực để vào hư/ Trong hơi thở chót dâng trời
đất/ Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.” (Chấp nhận). Một trái tim yêu mãnh
liệt đến như thế sao không khỏi bâng khuâng, tức giận khi nghĩ đến việc
mình sẽ phải rời xa thế giới này?
" Tiểu kết: Nghệ thuật: Sử dụng biện pháp đối lập; Dùng nhiều phụ từ và từ
quan hệ: nhưng, làm chi, nếu, chẳng, chẳng còn, nên,…; Có giá trị biểu đạt -
lý luận từ trái tim, đó là luận đề thấm đẫm cảm xúc. Nội dung: Nỗi bâng
khuâng, tiếc nuối ám ảnh cái nhìn vạn vật của nhà thơ: Thái độ tức giận trước
hiện thực thô bạo, phũ phàng của thời gian. Đó là cách giải thích của nhà thơ
khi nhận ra giới hạn của cuộc đời.
- Cảm nhận về thời gian – cảm thức chia phôi: Lòng đã sẵn nỗi buồn thương
trước sự chia lìa của mình và vạn vật, Xuân Diệu dùng đôi mắt ấy để soi chiếu
vào thế giới và từ đó ông nhận ra cảm thức chia phôi hiện diện trong trời đất.
Cảm nhận thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy mất mát, đó chính là một
phần đời trong sinh mệnh cá thể đã mất đi vĩnh viễn, thấm thía hơn, là một
phần vô cùng quý giá của tuổi trẻ đã mất đi vĩnh viễn.
+ “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,/ Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn
biệt…”:
ü Mở rộng: Câu thơ là một đại diện tiêu biểu cho sự ảnh hưởng của thơ
tượng trưng Pháp đối với thơ Xuân Diệu. Thơ tượng trưng tin rằng đằng
sau thế giới có thể cảm nhận bằng các giác quan riêng lẻ có một thế giới
thực ẩn giấu. Các nhà thơ tượng trưng có khả năng cùng lúc phân tán và
hội tụ các năng lực cảm biến: họ nghe ánh sáng, thấy được mùi vị, biết
hương của âm thanh… Riêng trong câu thơ này, Xuân Diệu cảm nhận sự
chia phôi bằng nhiều giác quan: “mùi tháng năm” (khứu giác) – “rớm”
(thị giác) – “vị” (vị giác). Chính vì thế, nhà thơ cảm nhận được cảm giác
chia biệt trên mọi góc độ, mọi phương diện của thiên nhiên – một cảm
nhận tinh vi.
ü Mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình
dung như một cuộc chia lìa và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi
vô tận của những chia phôi, cho nên thời gian đậm vị chia lìa. Riêng từ
“rớm” nối tiếp hình ảnh của “hàng mi” ở đoạn đầu, từ đôi mắt của ánh
sáng và niềm vui, thi sĩ cảm nhận được nỗi buồn chia biệt hiện diện trong
thiên nhiên.
ü Nỗi buồn ấy không chỉ rơm rớm mà đã chuyển thành một lời than: “khắp
sông núi” – muôn vật, muôn nơi, “vẫn” – đã, đang và có lẽ sẽ còn tiếp tục
mãi, “than thầm” – lời than lặng lẽ, ẩn sau vẻ đẹp trù phú của thiên nhiên.
+”Con gió xinh thì thào trong lá biếc,/ Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?/
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,/ Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”:
Cặp câu hỏi tu từ “Phải chăng sợ…” tạo thành điệp khúc của sự ly biệt. Sự
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 9
Hệ thống động từ là một
trong những cách thức
quan trọng tạo nên sự
biệt li mang tính phổ quát (khắp sông núi) đã được cụ thể hoá trong từng hình
ảnh cụ thể. Dù là gió hay hoa cũng man mác nỗi sợ độ tàn phai sắp đến. Phép
nhân hoá khắc sâu thêm cảm giác lo âu vì sự chia lìa. Hoá ra không chỉ có con
người mà bất cứ tạo vật nào, dù nhỏ bé đến đâu cũng mang trong mình nỗi ám
ảnh thời gian.
" Mỗi tạo vật của tự nhiên đang ngậm ngùi tiễn biệt nhau, và thấm thía hơn,
đau xót hơn là tiễn biệt một phần của nó. Những phần của sinh mệnh đang rời
đi không cách nào ngừng được, tạo nên sự phôi pha của từng cá thể từ đó đã
góp nên cái hồn tàn phai chung của toàn vũ trụ.
+ “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…/ Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều
hôm,”: Lời hối thúc con người phải sống gấp, sống vội vang lên đã khép lại
chuỗi tâm trạng hoài nghi, man mác buồn của tác giả. Chính vì nhận ra tuổi trẻ
là hữu hạn mà vẻ đẹp của cuộc đời, của mùa xuân, của tình yêu là vô tận nên
nhà thơ kêu gọi con người phải sống hết mình, sống trọn từng giây phút bởi
chẳng bao giờ chúng ta có thêm một lần nào nữa giữa cõi nhân sinh này để trải
nghiệm vẻ đẹp của thế gian.
" Nhận xét chung: Cách cảm nhận thời gian như thế xét đến cùng là xuất
phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời
cá thể đều vô cùng quý giá. Nó quý giá chính vì một khi đã mất đi là mất đi
vĩnh viễn. Từ đó gợi nên lời khuyên cho mỗi người hãy biết quý trọng từng
giây phút của cuộc đời mình, phải làm cho từng giây phút trở thành bất tử. Như
thế mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “vội vàng”.
2.3. Đoạn 3: Khát vọng sống, khát vọng yêu cuồng nhiệt, hối hả:
- Nhận xét chung: Quy luật nghiệt ngã của thời gian đặt cho con người câu
hỏi lớn: Làm sao vượt thắng được quy luật đó? Làm sao sống tròn đầy cuộc
đời hữu hạn của mình? Ở đoạn thơ này, Xuân Diệu đã đưa ra câu trả lời của
mình.
+ “Ta muốn ôm”: Câu thơ được tách riêng ra như để đánh dấu một bước biến
chuyển mới trong tâm trạng tác giả. Bắt đầu từ đây, đã hết phần lập thuyết,
Xuân Diệu tìm đến với quan niệm sống của mình, cái quan niệm sống có thể
giúp ông tận hưởng được nhiều nhất những vẻ đẹp mà ông mong muốn được
hưởng lấy từ cuộc đời. Quan niệm nhân sinh thể hiện trong đoạn này là kết quả
tất yếu của những phần trước.
+ Điệp cấu trúc “Ta muốn…” tạo cho đoạn thơ giọng điệu say riết, sôi nổi,
thiết tha. Đó là tâm trạng của người muốn bám riết lấy cuộc đời trần thế. Khác
với đoạn thơ đề từ bắt đầu bằng “tôi”, thi nhân chọn đại từ “ta”. Về mặt ngữ
nghĩa, ta hướng đến cái chung, hướng đến cái rộng trong khi tôi hướng về bản
ngã của chính mình. Cất lên tuyên ngôn sống của mình, Xuân Diệu đang hướng
đến cuộc đời cao rộng.
* Điều đặc sắc nhất trong đoạn thơ này thể hiện trong nghệ thuật ngôn ngữ:
+ Các động từ mạnh: “ôm, riết, say, thâu” thể hiện sự mê say mãnh liệt của
tác giả đối với vẻ đẹp cuộc đời. Các từ này xuất hiện liên tiếp, cùng với sắc
thái nghĩa của nó đã bộc lộ cường độ sống mãnh liệt của chính Xuân Diệu.
Đây chính là nét thứ nhất trong quan niệm của Xuân Diệu về cách thức sống
để phần nào cưỡng lại được bước đi tàn nhẫn của thời gian: tăng lên cường độ
sống – sống càng say sưa, càng sâu sắc, càng mê đắm đối với vẻ đẹp trần gian
thì càng níu giữ được nhiều vẻ đẹp trong dòng chảy bất tận của thời gian.
- Những điều mà tác giả muốn giữ lấy, ôm trọn lấy:
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 10
mãnh liệt trong khát khao
giao cảm của Xuân Diệu.
Những động từ thường
thấy được Lê Quang Hưng
thống kê bao gồm:
+ Ôm, ghì: “Giơ tay muốn
ôm cả Trái Đất/ Ghì trước
trái tim, ghì trước ngực.”
+ Riết: “Những cánh tay
hãy quấn riết đôi vai/ Hãy
dâng cả tình yêu lên sóng
mắt.”
+ Cắn, bấu: “Tôi kẻ đưa
răng bấu mặt trời/ Kẻ
đựng trái tim trìu máu đất/
Hai tay chín móng bám
vào đời.”…
Ta muốn
Động
từ
Đối tượng Phân tích
Ôm
“cả sự sống
mới bắt đầu
mơn mởn”
Khát khao ôm lấy tất cả vẻ đẹp trinh nguyên của
thế giới. “Mới bắt đầu” + từ láy “mơn mởn” là thế
giới trong sự non tơ, tinh khiết của nó.
Riết
“mây đưa và
gió lượn”
Khát khao ôm lấy vẻ đẹp của những gì đang chuyển
động trong thế gian; vẻ đẹp của thế giới đang thành
hình, đang vận động, đang sinh sôi.
Say
“cánh bướm
với tình yêu”
Hình ảnh cánh bướm được sánh cùng tình yêu là
hai vẻ đẹp của thời trẻ thiên nhiên và tuổi xuân con
người. Hoa bướm đại diện cho những điều lộng lẫy,
đẹp đẽ. Tình yêu lại là cõi mênh mông những cảm
xúc mà dù ở cung bậc nào cũng đi đến tận cùng của
nó.
Thâu
“một cái hôn
nhiều”
Sự thể hiện, trao tặng và nối kết cái tôi. Nó là một
biểu hiện của sự hòa điệu tâm hồn, là hiện thân của
tình yêu say đắm. “Cái hôn nhiều” – chỉ một lần
thôi nhưng đến tận cùng, tận độ của mê say.
- “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”: Phép điệp liên từ “và” + phép liệt kê
trong cùng một câu đã biến dòng thơ trở thành một câu mang giá trị khái
quát, bao trùm tất cả những gì đẹp đẽ nhất mà tác giả muốn tận hưởng: non
nước, cây, cỏ rạng.
- “Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh sắc
của thời tươi”: Các từ tính từ láy “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” cho
thấy trạng thái say sưa, mê đắm của con người sống trong cái tận cùng của
sự tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Loạt từ này còn tạo cho người ta cảm giác
của một tâm hồn đang ngất ngây trong men đời dịu ngọt.
- “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”: Câu thơ biểu lộ khát khao giao
hòa, tận hưởng được đẩy đến tận độ trở thành một thứ khao khát giao hòa
mang đầy tính nhục cảm, đầy khát khao chiếm hữu. Tác giả đã vật chất hoá,
nhục cảm hoá “xuân hồng” – vẻ đẹp của mùa xuân – để có thể tận hưởng
nó, giao hoà, giao cảm, hoá thành một với nó.
• Liên hệ: Đây là cách thể hiện khát khao giao cảm “rất Xuân Diệu”:
“Nên lúc môi ta kề miệng thắm,/ Trời ơi, ta muốn uống hồn em.” (Vô
biên), “Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời,/ Kẻ đựng trái tim trìu máu đất,/
Hai tay chín móng bám vào đời.” (Hư vô).
• Tiểu kết:
- Nghệ thuật:
+ Nhịp thơ hối hả, gấp gáp để chuyển tải cả một dòng cảm xúc say sưa, ào
ạt (tạo nên bởi những câu thơ dài ngắn đan xen, nhiều điệp từ tạo nhịp và
ngắt nhịp nhanh mạnh). Hình ảnh thơ đa dạng, tươi mới, giàu sức sống (Sự
sống mơn mởn; Mây đưa, gió lượn, cánh bướm với tình yêu; Cái hôn nhiều,
non nước, cây cỏ, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng); mới mẻ, độc
đáo: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Ngôn từ: động từ, tính từ
mạnh, táo bạo rất trần tục. Điệp khúc “ta muốn”: dồn dập, khẩn thiết. Cách
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 11
xưng hô: Từ “Tôi” sang “Ta” như lớn hơn để ôm trọn cuộc sống - chất người
Xuân Diệu.
+ Những làn sóng ngôn từ đan xen nhau, cộng hưởng với nhau theo chiều
tăng tiến, càng lúc càng lên cao trào, phối hợp hệ thống trùng điệp. Toàn bộ
đoạn thơ là tiếng lòng khao khát mãnh liệt. Tiếng lòng ấy là một chuỗi điệp
cú, hình thái thì điệp nguyên vẹn, còn động thái và cảm xúc thì tăng tiến.
Sự hỗ trợ của hệ thống điệp từ khác: điệp liên từ, gắn với trạng thái cảm xúc
ngày càng mãnh liệt. Hệ thống từ chỉ xuân sắc, động từ chỉ động thái đắm
say, danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân tươi trẻ...
- Nội dung – quan niệm sống: Cách sống tốt nhất, cũng là cách kéo dài
tuổi thanh xuân chính là tăng tốc độ sống, và quan trọng hơn là cường độ
sống, để có thể sống mãnh liệt hơn, tận hiến nhiều hơn và tận hưởng nhiều
hơn. Tất cả khát vọng đó cuộn chảy trong trái tim rạo rực của thi sĩ để rồi
cất lên thành những câu từ có sức biểu đạt lớn.
2.4 Khái quát về cái tôi của Xuân Diệu thể hiện trong bài thơ: Cái tôi
Xuân Diệu là đại diện tiêu biểu cho thời đại thơ mới:
- Đó là một cái tôi có ý thức ráo riết về giá trị đời sống của cá thể. Ông dùng
con người làm thước đo vẻ đẹp tự nhiên; lấy thời gian hữu hạn của đời người
để soi chiếu thời gian vũ trụ; đề cao những khát khao yêu đương, khát khao
tận hưởng… của con người. Đó là một ý thức nhân bản, nhân văn rất cao.
- Đó là một cái tôi chứa đựng quan niệm táo bạo đầy tính cách mạng trước
những quan niệm cũ kĩ vốn cản trở việc giải phóng con người cá thể, đặc biệt
là lề thói của xã hội phong kiến vốn đòi hỏi con người phải từ bỏ khát vọng cá
nhân để sống theo khuôn thước, quy chuẩn do người xưa áp đặt. Đây cũng là
xu hướng chung của các tác giả Tự lực văn đoàn và thơ Mới nói chung.
- Tình yêu thiết tha với cuộc sống trần thế: Xuân Diệu không trốn tránh cuộc
đời, không tìm quên trong quá khứ, mộng tưởng như nhiều nhà thơ cùng thời
mà xây dựng thiên đường trên mặt đất.
- Một khát khao sống mãnh liệt và một tâm thế sống tích cực. Thái độ sống
“vội vàng” mà Xuân Diệu đề xuất không phải là sống hối hả, sống nhanh theo
kiểu lướt qua cuộc đời mà đó là lối sống với cả tốc độ và cường độ. Sống sâu
sắc trong từng giây phút, tận dụng từng khoảnh khắc của cuộc đời để sống, để
tận hiến và tận hưởng.
ð Thực ra Xuân Diệu giục giã, Xuân Diệu muốn sống vội vàng nhưng đó
là sự vội vàng có chiều sâu, cùng một lúc tăng tốc độ sống lẫn cưởng
độ sống. Đặt vào bối cảnh văn học đương thời, khi mà tầng lớp thanh
niên đang như “đứa con bơ vơ đi tìm mẹ”, đang ngủ quên giữa cuộc
đời, đang thoát li, tìm phương thuốc ở tinh cầu xa xôi nào đó... thì lối
sống vội vàng của Xuân Diệu chính là một lời cảnh tỉnh, một cách sống
nhân văn. Hãy tìm vẻ đẹp từ chính cuộc đời này.
3. TỔNG KẾT
3.1. Nội dung:
Lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây,
từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một hồn
thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt.
3.2. Nghệ thuật:
- Kết hợp cảm xúc + luân lý;
- Giọng điệu say mê, sôi nổi;
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 12
- Sáng tạo độc đáo ngôn từ và hình ảnh thơ.
II. HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI NÂNG CAO
Hãy nêu một vài nét chính trong phong cách thơ của Xuân Diệu.
TRẢ LỜI
- Được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, Xuân Diệu là tiếng thơ thể hiện đầy đủ
nhất cho ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới đồng thời mang đậm bản sắc riêng. Trước hết, nó hiện ra
trong hình tượng một cái tôi tích cực mãnh liệt. Cái tôi ấy bám riết lấy trần gian, chạy đua với thời
gian, lúc nào cũng thèm yêu khát sống, với triết lí “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ
không thương một kẻ nào”, với chủ trương “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói
suốt trăm năm”. Vì thế, lúc nào cái tôi ấy cũng khát khao tận hưởng và tận hiến ngay trên thiên đường
trần thế này. Đồng thời, nó còn hiện ra trong một giọng điệu sôi nổi, bồng bột, vồ vập, cuống quýt, cả
khi vui lẫn khi buồn.
- Cái nhìn của Xuân Diệu về thiên nhiên là cái nhìn tình tứ, nên thiên nhiên thường hiện ra với vẻ đẹp
xuân tình. Cụ thể là những sự vật, hiện tượng, cảnh sắc thiên nhiên đều trẻ trung, xuân sắc và gợi cảm.
Vạn vật đều tình tứ - “Vạn vật nức xuân tâm”, “Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới”. Mà cảnh vật
thường được quy chiếu về vẻ đẹp của những giai nhân, tình nhân và thành những cặp đôi. Ví như vầng
trăng: “Trăng từ viễn xứ/ Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn” (Lời kĩ nữ), hay mùa thu đến: “Đây
mùa thu tới, mùa thu tới/ Với áo mơ phai dệt lá vàng” (Đây mùa thu tới), hoặc con đường: “Con đường
nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu/ Lả lả cành hoang nắng trở chiều” (Thơ duyên)…
- Thơ Xuân Diệu cũng rất tiêu biểu cho tinh thần lãng mạn ở chỗ mỗi tiếng thơ như một cơn lũ cảm xúc
tuôn chảy ào ạt, lôi cuốn. Tuy nhiên, mỗi thi phẩm của Xuân Diệu đều có một cấu tứ khá chặt chẽ.
Không chỉ giãi bày cảm xúc, phơi trải tâm tình một cách đơn thuần, thi sĩ còn nêu ra những quan niệm,
những triết lí. Quan niệm về tuổi trẻ, hạnh phúc, tình yêu, về thời gian, trần gian, về thi ca, thi sĩ, về
sắc đẹp, cái đẹp… Mỗi quan niệm và triết lí ấy đều được triển khai một cách hệ thống, lớp lang, thành
một mạch triết luận song hành với mạch cảm xúc. Cả hai mạch này thường quyện chặt với nhau, xuyên
thấm vào nhau.
(Trần Đình Sử)
III. TƯ LIỆU
1. “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân
Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quít, muốn tận hưởng cuộc đời
ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết. Nhưng sự sống muôn
hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần
phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm
mới là sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những
rung động tinh vi.” (Hoài Thanh)
2. “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh
phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới.” (Hoài Thanh)
3. “Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng
quá sôi nổi không thể đi theo những đường có sẵn. Ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu văn phải lung lay.”
(Hoài Thanh)
4. “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới.” (Hoài Thanh)
5. “Bởi cái lõi của mùa xuân là tình. Mùa xuân đối với vạn vật chẳng phải là mùa tình sao?” (Chu Văn
Sơn)
6. “Cuộc cách tân hùng hậu trong nghệ thuật của thơ Mới bắt nguồn từ một cuộc đổi thay vĩ đại trong
quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ.” (Chu Văn Sơn)
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 13
7. “Chưa bao giờ như lúc này, người ta mới thấy quý cái nhân thân, nhân dạng, nhân vị và nhất là nhân
cách của mình đến thế. Người ta mới thấy tiếc mình, mới thấy khuất mình trong bóng tối ngàn năm là
vô lí, hòa tan đến mức tan biến vào đám đông không tên là bi kịch, trở thành những phiên bản phi căn
cước là đau khổ.” (Chu Văn Sơn)
8. “Con người thấu rõ hơn bao giờ hết cái hữu hạn, cái mong manh, cái phù du đến tàn nhẫn của nhân
sinh. Càng đối diện với sự vô nghĩa của kiếp người, người ta càng muốn gia tăng ý nghĩa cho đời
người.” (Chu Văn Sơn)
9. “Muốn ‘tắt nắng’, muốn ‘buộc gió’ thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao
cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái
ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ với cái thế giới thắm sắc
đượm hương này.” (Chu Văn Sơn)
10. “Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần hoàn.”
(Chu Văn Sơn)
11. “Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy, phải sống vội vàng. Thế là, Vội vàng chính là cách
duy nhất để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường như cũng là cái giá phải trả cho hạnh
phúc vậy! Xuân Diệu quả đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ của nguồn sống
trẻ.” (Chu Văn Sơn)
12. “Đó là một tâm sự nồng nàn mà kín đáo, một linh hồn rạng rỡ và say mê, đằm thắm hiện ở trong
những điệu thơ êm dịu và ái ân, thiết tha và bồng bột. Cảnh sắc của sự vật, nỗi âm thầm của tình ái,
dáng tươi cười của mùa xuân, nỗi tiếc thương lạnh lẽo của mùa thu, lời van xin, khuyên nhủ của tấm
lòng yêu thấm thía nhưng rụt rè; tất cả những tình cảm ấy đều tả trong thơ Xuân Diệu một cách mới
lạ, ý nhị, vừa đơn giản, vừa đầy đủ, gợi cho ta thấy những hình ảnh, những tư tưởng bát ngát và tươi
đẹp không ngờ.” (Thế Lữ)
13. “Xuân Diệu là một con người của đời, một con người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng
trên đất của một tấm lòng trần gian, ông không trốn tránh mà lại còn quyến luyến cõi đời, và lời
nguyền ước của ông có bao nhiêu sức mạnh.” (Thế Lữ)
14. “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động
với bướm chim, chất đầy trong bầu tim mây trời thanh sắc.” (Thế Lữ)
15. “Nhưng xuân không dài dặc, tình có bền đâu! Xuân với tình cũng vô định như sự thực không bền, và
lại còn mong manh hơn cuộc đời chảy trôi. Bởi thế, Xuân Diệu vội vàng, bao giờ cũng lo âu thắc mắc.
Luôn luôn tận tâm, siêng năng mà sống, ông mau mau đem hết cả tâm hồn mà tặng cho đời, và ông
cũng đòi hết cả tâm hồn của người yêu dấu, của trời đất, của mọi sự vật trên thế gian này,” (Thế Lữ)
16. “Sở dĩ Xuân Diệu tham lam tình yêu, chất chứa vào lòng không chán, không đủ, không nguôi là bởi
thi sĩ rất sợ cô độc. Ông muốn biến ra nhiều thân, hóa thành muôn ức, triệu, vì ông thấy người ta đều
chỉ trơ trọi một mình. Ông tìm gần gụi vì ông quá riêng tây, ông thấy nỗi mênh mông của tâm hồn nên
ông muốn thành một cây kim để hút vào mình thiên hạ.” (Thế Lữ)
17. “Trong một tác phẩm văn học, cái mà người ta yêu trước hết là cuộc sống, chân lí cuối cùng và cao
nhất của nghệ thuật là cuộc sống. Nghệ thuật không thể là một thế giới riêng ở ngoài đời.” (Xuân
Diệu)
18. “Nhà thi sĩ đã huy động các giác quan mà tạo hóa đã ban cho để tận hưởng những giây phút kì diệu
của đời sống.” (Nguyễn Đức Quyền)
19. “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như
Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo nảo như Huy
Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên, và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân
Diệu.” (Hoài Thanh)
20. “Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới
giữa chúng ta với một với một y phục tối tân và chúng ta rụt rè không muốn làm thân với con người
ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người ấy cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.” (Hoài Thanh)
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 14
21. “Với Thế Lữ thi nhân còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất say sưa. Xuân Diệu đốt cảnh
bồng lai và đưa ai nấy về hạ giới.” (Hoài Thanh)
22. “Nhà thi sĩ ấy là một chàng trai trẻ hiền hậu và say mê, tóc như mây vướng trên đài trán ngây thơ,
mắt như lưu luyến mọi người, và miệng cười mở rộng như một tấm lòng sẵn sàng ân ái. Chàng đi trên
đường thơ, hái những bông hoa gặp dưới bước chân, những hương sắc nảy ra bởi ánh sáng của lòng
chàng hái tặng cho nhân gian. Và từ đây chúng ta có Xuân Diệu.” (Thế Lữ)
23. “Đây là lòng tôi đang thời sôi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân, và đây là tuổi xuân, là sự sống
của đời tôi nữa: tôi đem tặng cho người trong mấy bài thơ đây.” (Xuân Diệu)
24. “Tôi sợ mất sự sống của tôi, tôi không muốn nó rơi rớt chảy trôi theo dòng ngày tháng. Tôi đã ráng
bỏ từng mảnh đời tôi trong hàng chữ, để gửi đi, gửi đi cho người bốn phương.” (Xuân Diệu)
25. “Vội vàng tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi trong Thơ Mới, tiêu biểu cho sự cách tân táo
bạo độc đáo trong thơ Xuân Diệu.” (Nguyễn Đăng Mạnh).
26. “Thoát khỏi hệ thống ước lệ của thơ cũ, cặp mắt xanh Xuân Diệu vui sướng, ngơ ngác như lần đầu
tiên thấy trời xanh, hoa lá. Cái gì cũng đẹp, tươi mới, mê say…” (Nguyễn Đăng Mạnh).
27. “Thiên đường hương sắc là mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, như mâm tiệc với thực
đơn hấp dẫn, như người tình với ánh mắt lả lơi. Nhà thơ hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình.
Yêu thiên nhiên mà như đang tình tự với thiên nhiên.” (Nguyễn Đăng Mạnh)
28. “Xuân Diệu như một con ong hút mật nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi, hay như một tình lang đang
chếnh choáng men say một cuộc tình nồng nàn.” (Nguyễn Đăng Mạnh).
29. “Nói đến Xuân Diệu là nói đến nhà thơ của sự vội vàng. Đó không chỉ là tư tưởng, mà còn là nguồn
thi hứng dồi dào cho thơ ông.” (Lê Tiến Dũng).
30. “Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ không chỉ sống hay ham sống mà ông say sống, sống mãnh liệt,
hối hả. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước thanh sắc trần gian, một ngày xuân của một trái tim chưa
bao giờ chán sống.” (Nguyễn Thành Thi).
31. “Người đọc cảm nhận ra cái tôi của Xuân Diệu muốn chiếm lĩnh, tận hiến cái đoạn ngon nhất, tinh
túy nhất của thiên nhiên, vũ trụ: tắt nắng để giữ màu, buộc gió để lưu hương.” (Nguyễn Trọng Hoàn).
32. “Không có bài thơ nào của anh không ngợi ca một hương thơm, một thanh sắc.” (Mireil Ganchene).
Một số bài thơ của Xuân Diệu:
33.
Làm thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.
[…] Đôi giếng mắt đã chứa trời vạn hộc
Đôi bờ tai nào ngăn cản thanh âm
Của vu vơ nghe mãi tiếng kêu thầm…
Của xanh thẳm thấy luôn màu nói sẽ…
[…] Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
Nếu hương đêm say dậy với trăng rằm
Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
(Cảm xúc)
34.
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non đã già rồi;
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 15
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa,
Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ,
Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết!
Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt:
Những vườn xưa nay đoạn tuyệt dấu hài
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn.
[…] Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
(Giục giã)
35.
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh;
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…
Bốn bề ánh nhạc biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở:
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
(Nguyệt cầm)
36.
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ,
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 16
Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
(Đây mùa thu tới)
37.
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh,
Cho gió du dương điệu múa cành;
Cho gió đượm buồn, thôi náo động
Linh hồn yểu điệu của đêm thanh.
Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ,
Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ.
Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá!
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ.
(Trăng)
38.
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.
(Yêu)
39.
Đôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm!
Ôi trời xa, vừng trán của người yêu!
Ta thấy gì đâu sau nhan sắc yêu kiều
Mà ta riết giữa đôi tay thất vọng.
Dầu tin tưởng: chung một đời, một mộng.
Em là em, anh vẫn cứ là anh.
Có thể nào qua Vạn Lí Trường thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.
(Xa cách)
40.
Ta ôm bó, cánh tay làm rắn
Làm dây da quấn quít cả mình xuân;
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần,
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.
[…] Sống toàn tim, toàn trí, toàn hồn!
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan,
Và thức cả trong giấc nồng phải ngủ;
Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ.
(Thanh niên)
41.
Tôi vẫn biết rằng tôi chẳng xứng người;
Mùa xuân tôi chưa hề có hoa tươi
Tôi như chiếc thuyền hư, không bến đỗ;
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 17
Tôi là một con chim không tổ.
Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi,
Nhặt nụ cười của thiên hạ, than ôi,
Để tự nhủ: ‘Ta được yêu đấy chứ’.
Tôi chỉ sống để hoài hoài thương nhớ,
Mãi mãi yêu nhưng giấu giếm luôn luôn;
Mà người thì, lơ đãng, giận thêm buồn,
Bận đi hái những cành vui xanh thắm.
[…] Vì vội kiếm tìm nhau, tôi sẽ
Chỉ thấy người thương nhưng chẳng thấy tình thương,
Và như màu, theo nắng nhạt, như hương
Theo gió mất, tình người đả tản mác.
Tôi sẽ trốn, thẫn thờ, ngơ ngác,
Trái tim buồn như một bãi tha ma,
Gượng mỉm cười: ‘Người quên nghĩ rằng ta
Sẽ đau đớn bởi một lời nói vội’.
[…] Mà trái tim đã ghê dáng hững hờ
Sẽ chung phận của tro tàn bếp lạnh.
Tôi giấu sẵn một linh hồn hiu quạnh,
Cho nên, liền chiều đó tôi hết vui.
Không thấy người bằng không thấy mặt trời,
Tôi ôm ngực thử tìm xem biên giới
Của sầu tủi. Nhưng hỡi người yêu hỡi!
Nó mênh mông, vô ảnh, bủa vây tôi;
Yên ổn đi, thắc mắc đến đây rồi,
Mơ ước tới, mà chán chường cũng lại.
Và mơn trớn cả một kho ân ái,
Tôi một mình đối diện với tình không
Để lắng nghe tiếng khóc mất trong lòng.
(Dối trá)
PHÂN TÍCH VỘI VÀNG (XUÂN DIỆU)
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em, em ơi, tình non đã già rồi;
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi.”
Có một thi sĩ với tình yêu cuộc sống tha thiết đã cất lên những câu thơ như thế, người thi sĩ ấy là Xuân
Diệu. Ông là đỉnh cao nhất, ngôi sao sáng nhất của phong trào thơ Mới với những vần thơ đong đầy sự lãng
mạn nhưng cũng không kém phần “thiết tha, rạo rực, băn khoăn” (Hoài Thanh). Hồn thơ ấy luôn gắn bó tha
thiết với thiên nhiên và cuộc sống, luôn rạo rực, cuồng nhiệt đến vội vàng trong cách sống, cách yêu và đôi
khi cũng trăn trở, ưu tư trước sự chảy trôi của dòng đời. Bài thơ Vội vàng (in trong tập Thơ thơ năm 1938) của
ông chính là những biểu hiện thuyết phục nhất về cái tôi, về hồn thơ đa cảm rất Xuân Diệu ấy:
“Tôi muốn tắt nắng đi
…
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 18
Bài thơ chính là lòng ham muốn, khát khao mãnh liệt của một tâm hồn thơ dào dạt, trẻ trung nhưng luôn
bị ám ảnh bởi sự hữu hạn của kiếp người. Chính nỗi ám ảnh ấy đã càng đẩy hồn thơ Xuân Diệu lên một tầm
cao hơn, bởi phải biết đau khổ mới biết thế nào là hạnh phúc, khi biết lo sợ về thời gian mới biết cách sống
thế nào để không lãng phí. Xuân Diệu nhìn thấy được cái hữu hạn từ cái vô hình của thời gian nên ông đã
khao khát:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
“Tôi” là nhân vật trữ tình hay chính là Xuân Diệu? “Tôi muốn” là nhân vật trữ tình “muốn” hay chính
Xuân Diệu “muốn”? Có thể là cả hai bởi dù theo nghĩa nào thì ta cũng thấy được ước muốn cháy bỏng của tác
giả: muốn “tắt nắng”, “buộc gió”. Có cái gì đó ngông nghênh, hoang đường khi nhà thơ muốn “tắt”, muốn
“buộc” những sự vật thiên nhiên là nắng và gió nhưng nó cũng rất thật, rất chân thành nếu đó là khát khao
được giữ chân thời gian, kéo dài cuộc sống của một tâm hồn yêu đời da diết. Điệp từ “tôi muốn”, động từ
mạnh “buộc”, “tắt” cùng biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc câu không chỉ là nhấn mạnh khao khát của Xuân
Diệu mà còn mở ra cho người đọc một không gian trữ tình. Ở đó, tâm hồn yêu đời của tác giả đang níu giữ
“màu” của “nắng” để nó “đừng nhạt mất”, đang kìm hãm “hương” của “gió” để nó “đừng bay đi”. Ở một góc
độ nào đó, nắng và gió cũng chính là vẻ đẹp của cuộc sống, nó góp phần tạo nên hương sắc cho cuộc đời, có
nắng tất cả đều trở nên ấm áp, tươi trẻ; có gió thì vạn vật đều rung động, căng đầy nhựa sống. Thật sự nhà thơ
Xuân Diệu như đang đi ngược lại qui luật của tự nhiên, ông muốn giữ lấy mãi mãi vẻ đẹp của cuộc đời trong
từng khoảnh khắc và hơn thế chính là muốn bất tử hoá vẻ đẹp ấy nhưng nhà thơ lại thể hiện bằng thể thơ ngũ
ngôn cổ điển cùng nhịp thơ gấp gáp, vồ vập. Ắt hẳn đây là cảm xúc của nhà thơ: mãnh liệt và cuồn cuộn. Chỉ
với bốn câu thơ đầu, người đọc đã thấy được ước muốn ngông cuồng của “ông hoàng thơ tình Việt Nam” khi
muốn ngự trị thiên nhiên, thay quyền tạo hoá. Nó ngông cuồng nhưng không khiến ta thấy kệch cỡm bởi nó
xuất phát từ tình yêu tha thiết cuộc đời trần thế trong tâm hồn thi sĩ. Và từ tình yêu đó, ông đã thấy được một
thiên đường mùa xuân đầy màu sắc ngay xung quanh ông: không hề xa lạ, không hề quá tầm tay với mà đều
rất gần, rất đỗi quen thuộc với chúng ta.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”
Với đoạn thơ trên, ta như thấy được một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, một thiên đường nơi trần thế
với tất cả những gì non tơ, trinh nguyên, tinh khôi nhất hiện ra. Xuân Diệu có lẽ đã dùng tất cả giác quan của
mình để vẽ nên kiệt tác này. Ta có thể thấy được những hình ảnh thân quen: “ong bướm”, “hoa”, “lá”, “ánh
sáng”. Ta cũng cảm nhận được cái cuồn cuộn của sự sống căng tràn trong vạn vật với “đồng nội xanh rì”,
“cành tơ phơ phất”. Cũng trong bức tranh ấy, ta có thể nghe đâu đó âm thanh của tình yêu đôi lứa – “khúc
tình si” và tất nhiên không thể thiếu sự ngọt ngào hương vị ái ân của “tuần tháng mật”. Thế mới thấy con mắt
thơ của Xuân Diệu thật tài tình, từ những gì bình thường, quen thuộc, ông vẫn có thể phù phép để nó trở nên
đẹp đẽ, quyến rũ đầy mời gọi. Điệp từ “Này đây” lặp lại đến năm lần đầy ấn tượng. Nhà thơ như đang đứng
giữa không gian rộng lớn của thiên nhiên, đưa tay chỉ cho người đọc thấy thiên đường chính là thế giới quanh
ta. Ông liệt kê từng sự vật rất tự nhiên và hấp dẫn, mỗi lần “Này đây” là mỗi lần ông cho chúng ta thấy được
một vẻ đẹp khác của vườn tình ái mà ông dựng lên. Ở lần điệp từ cuối cùng, ông dùng cụm từ “Và này đây…”
như một lần nữa nhấn mạnh sự phong phú, đa dạng của bữa tiệc trần gian mà ông đã bày sẵn để chúng ta
thưởng thức. Thiên nhiên, vạn vật như đang say trong hạnh phúc. “Ong bướm” thì có “tuần tháng mật”, “đồng
nội” đã có “hoa”, “cành tơ” cũng có “lá”, “yến anh” thì cũng không thể thiếu “khúc tình si”… Thế mới thấy,
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 19
dưới con mắt nhà thơ, mọi hình ảnh đều trở nên độc đáo, mới lạ, cũng như cách dùng từ ngữ gợi cảm, tinh tế
và các biện pháp tu từ đầy sáng tạo rất riêng. Và trên nền bức tranh ấy là “mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ
cửa”. Với nhà thơ, thiên đường tất nhiên không thể thiếu niềm vui, thế là ông tô điểm lên nó chút niềm vui
thần thánh đón chờ vào mỗi buổi sớm. Đến đây, ta thấy được hình ảnh táo bạo nhất khi nhà thơ ví von “tháng
giêng ngon như một cặp môi gần”. Lúc này, nhà thơ không chỉ hưởng thụ thiên nhiên mà còn là hưởng thụ ái
tình, yêu thiên nhiên nhưng thực chất là tình tự với thiên nhiên. Nếu ở 4 câu đầu, ông dùng thể thơ ngũ ngôn
cổ điển thì giờ đây ông lại đi ngược hoàn toàn phong cách thơ cổ điển. Ông không lấy thiên nhiên làm chuẩn
mực để phân định vẻ đẹp con người như Tố Như. Ngược lại, nhà thơ đưa con người lên làm chuẩn mực, làm
thước đo vẻ đẹp thiên nhiên. Tháng giêng thì phải ngon như một cặp môi gần, cũng như lá liễu dài thì cũng
phải dài như một nét mi. Hình ảnh so sánh thật gợi cảm: tháng giêng – mùa xuân – chính là thời gian đẹp nhất
trong năm được đặt chung với cặp môi gần – tình yêu, tuổi trẻ, giai đoạn đẹp nhất của đời người. Nó gợi lên
cảm xúc rất trần thế, rất nồng nàn của con người nhưng cũng rất trong sáng, thanh cao; không hề dung tục.
Chính cái nhìn trẻ trung, rất riêng, luôn lấy con người, mùa xuân, tuổi trẻ làm chuẩn mực cho cái đẹp này đã
nâng vẻ đẹp của thiên nhiên lên một tầm cao mới. Giữa lúc “ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong
trường tình cũng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… nhưng động tiên đã khép,
tình yêu không bền, điên cuồng rồi lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ…” thì “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua
ai nấy về hạ giới.” (Hoài Thanh). Ông chứng minh cho mọi người thấy rằng thiên đường không cần phải tìm
kiếm trong xa vời hư ảo, nó hiển hiện ngay trước mắt với hơi thở nồng nàn; nó tồn tại giữa trần thế với tâm
trạng tươi trẻ, mời gọi chúng ta. Xuân Diệu phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu ấy và thổi vào đó một tình yêu rạo rực,
đắm say, ngây ngất. Thế rồi trong cơn sung sướng ấy, ông bừng tỉnh:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Đang “sung sướng” nhưng nhà thơ lại đặt vào dấu chấm giữa dòng, một nét phá cách độc đáo về nghệ
thuật trong thơ mới và cũng đem đến một ý nghĩa khác. Dù là “sung sướng” trước bữa tiệc ngọt ngào của mình
nhưng Xuân Diệu cũng “vội vàng một nửa”. Chính sự “vội vàng” ấy đã nói lên được đặc trưng rất riêng của
nhà thơ, luôn sôi nổi, cuồng nhiệt yêu và sống, luôn hết mình tận hưởng cuộc đời. Ông “vội vàng” từng giây
phút, ông quý trọng từng khoảnh khắc sống. Có lẽ Xuân Diệu ý thức được sự hữu hạn của kiếp người, của cái
vẻ đẹp thiên nhiên non tơ trước mắt, những thứ rồi sẽ tàn phai ngay khi rực rỡ, ông không muốn phải hối tiếc,
phải hoài niệm về một thời xuân sắc, không muốn “nắng hạ” rồi mới “hoài xuân”. Qua hai câu thơ này, ta
thấy được giọng điệu đầy tính triết lí nơi Xuân Diệu, phải chăng đó chính là nhân sinh quan của ông về cách
sống: phải đoạt lấy sự sống, tranh lấy thời gian, tận hưởng cuộc sống thật trọn vẹn. Từ đầu bài thơ đến đây,
bằng giọng thơ sôi nổi, hình ảnh, từ ngữ đẹp, gợi cảm, Xuân Diệu đã thổi vào tâm tưởng người đọc một chút
tinh tế, một chút nồng nàn, tha thiết với cuộc sống trần thế, cảnh tỉnh người đọc để họ nhận ra chân trời hạnh
phúc luôn rất gần với họ. Nhưng cũng từ đây, ông đã gửi vào đó một chút băn khoăn, ưu tư:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
Hoa nở rồi sẽ tàn; sinh, lão, bệnh rồi tử; Mặt trời mọc đằng Đông và lặn đằng Tây; mọi thứ đều có qui
luật trôi chảy riêng của nó vì thời gian luôn cuốn trôi tất cả, mọi thứ rồi cũng sẽ tàn phai. Với một tâm hồn đa
cảm, Xuân Diệu đã thấy được điều đó nhưng ông không quan niệm xuân, hạ, thu, đông rồi lại xuân mà ông
còn có một cách nghĩ khác. Điệp từ “xuân” phải chăng chính là để nhấn mạnh tuổi trẻ? Bởi với ông, mùa xuân
và tuổi trẻ, một đi là sẽ không bao giờ trở lại, không còn định nghĩa sự tuần hoàn của thời gian mà chỉ còn lại
sự trôi chảy của thời gian. Nó trôi chảy từng giây, từng phút, nó trở nên tuyến tính, một đi không trở lại. Đây
lại là một nét mới trong thơ, khi con người hiện đại không còn lấy sinh mệnh vũ trụ để đo thời gian, họ không
còn tin vào sự tuần hoàn của thời gian, sự tồn tại mãi mãi giữa con người với trời đất. Với các nhà thơ mới,
vũ trụ không ngừng vận động, con người chỉ là một hạt cát bé nhỏ trong hệ thống ấy, không thể nào chống cự
hoặc đi ngược lại qui luật của thời gian. Ấy vậy, “xuân đương tới”, mọi thứ đang mơn mởn, tròn đầy đấy
nhưng cũng chính trong khoảnh khắc ấy là “xuân đương qua”. “Xuân còn non”, theo dòng thời gian khắc
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 20
nghiệt rồi “sẽ già”. Nhưng đau đớn nhất, bi kịch nhất chính là “xuân hết”, xuân đã qua thì cũng chính là lúc
“tôi cũng mất”. Xuân chính là tuổi trẻ, tuổi trẻ chính là xuân, giá trị của cuộc sống không ở vào chiều dài của
năm tháng kiếp người mà chỉ ở trong những năm tháng tuổi trẻ. Với điệp từ “nghĩa là”, nhà thơ say sưa tranh
luận, đưa ra những định nghĩa mới về thời gian để rồi tự kết luận: Dù thời gian có thể mãi trôi, vũ trụ sẽ là
vĩnh hằng nhưng “xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Từ nhận thức về sự giới hạn của cuộc đời, ông tự cảm thấy
buồn thương:
“Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.”
Những lời bộc bạch có phần đau đớn, xót xa của một tâm hồn yêu đời da diết như những dẫn chứng
thuyết phục hơn cho sự trôi chảy vô thuỷ vô chung của thời gian. Dù có khát khao sống, dù “lòng tôi rộng”
thì “lượng trời cứ chật”, cái tôi nhỏ bé như được đem ra so sánh với cái qui luật tuần hoàn của vũ trụ vĩnh
hằng. Làm sao có thể được, “lượng trời” đã là thế, mọi thứ đã có số phận cho riêng mình, làm sao có thể “cho
dài thời trẻ của nhân gian” khi kiếp người là hữu hạn. Đã thế, Xuân Diệu đành nồng nàn gửi gắm ý thơ “Nói
làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!”. Nếu tuổi trẻ đã không có lần thứ hai,
xuân có tuần hoàn hay không liệu có còn quan trọng? Nếu tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì liệu xuân trở lại
có còn ý nghĩa? Nhưng thật đau đớn, Xuân Diệu một lần nữa nhận thấy trời đất, vũ trụ sẽ còn theo năm tháng
nhưng “chẳng còn tôi mãi”. Từ đó, nhà thơ “bâng khuâng tiếc cả đất trời”, một nỗi đau mà hẳn những ai ham
sống, khát khao được sống đều có thể nhận ra. Xuyên suốt đoạn thơ trên ta thấy nhà thơ đã sử dụng phép đối
như để khẳng định sự đối lập giữa tuổi trẻ mùa xuân với thời gian vũ trụ. Những cụm từ “nhưng… không”,
“nói làm chi… nếu…”, “còn… chẳng còn…” thật sự đã phát huy tác dụng to lớn khi nhấn mạnh vào mạch
thơ một chút day dứt, suy tư. Xuân Diệu nhận ra rằng tuổi xuân qua đi sẽ không trở lại, nên từ góc nhìn của
mình, ông đã cảm nhận được nhiều điều:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…”
Thật kì lạ, vẫn biết là thời gian trôi mãi, tháng năm là vô hình, nhưng Xuân Diệu vẫn cảm nhận được
“mùi tháng năm”. Thời gian mà lại có mùi hương, ấy thế mà nhà thơ muốn buộc gió để hương đừng bay.
Nhưng “mùi tháng năm” ở đây lại rất đặc biệt, nó “rớm”, nó mang trong mình một tâm sự buồn bởi “rớm” là
động từ thuộc về thị giác, và giờ đã thành vị giác. Thật sự quá tài tình, quá sáng tạo khi “vị” ấy lại là “vị chia
phôi” – một thứ vô hình vô dạng. Xuân Diệu đã tạo nên hình ảnh ẩn hiện của giọt lệ chia phôi ngay trong câu
thơ. Với Xuân Diệu, “mùi tháng năm” mang hình dạng của giọt lệ chia phôi ấy. Từ “đều” như khẳng định mỗi
khoảnh khắc của “tháng năm” đều là từng cuộc chia phôi, tiễn biệt của nó với con người, với không gian và
với cả chính nó. Để rồi từ đó, ông nghe thấy cá thể khác “vẫn than thầm tiễn biệt”. Biện pháp nhân hoá được
sử dụng như thổi một luồng gió vào đất trời, nơi mà ở đó vạn vật đang chia ly với một phần đời của mình
trong từng tích tắc. Tất cả như day dứt, đau đáu một niềm đau về sự mất mát đang diễn ra từng khoảnh khắc.
Không chỉ thế, Xuân Diệu còn nhận ra nhiều điều khác đang diễn ra xung quanh:
“Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
Xuân Diệu dùng phép liệt kê, từ “tháng năm”, “sông núi” thì giờ đây là “con gió xinh”, “lá biếc”,
“chim rộn ràng”, có lẽ nhà thơ đã cảm giác được sự chia lìa bao trùm cả không gian và thời gian. Bức tranh
thiên nhiên, thiên đường trần thế giờ đây đều đượm buồn, nhuốm màu chia ly. “Con gió” vẫn còn “xinh”,
“lá” vẫn còn “biếc”, “chim” vẫn đang “rộn ràng” nhưng ẩn sâu trong đó vẫn là sự trôi chảy khắc nghiệt của
thời gian. Gió rồi sẽ phải bay đi, chim rồi cũng phai tàn sắp sửa, tất cả rồi cũng bị thời gian tàn phá. Phép
Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708
Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 21
nhân hoá lại được Xuân Diệu sử dụng kết hợp với câu hỏi tu từ đã gợi lên một tâm trạng lo lắng, tiếc nuối và
có cả sự sợ hãi, hoang mang không chỉ của thiên nhiên mà còn của con người khi thời gian trôi qua không thể
giữ lại. Đến đây, ta dường như thấy được một khía cạnh khác nơi tâm hồn thi sĩ. Ông không chỉ cuồng nhiệt,
sôi nổi, trẻ trung mà cũng biết “hờn”, biết “sợ”, biết buồn đau. Có lẽ vì quá yêu cuộc sống nên sợ cuộc sống
tàn tạ, vì quá yêu đời nên sợ đời chấm dứt. Đó dường như chính là mặt trái của tình yêu cuộc sống nhưng nó
cũng đẩy tình yêu cuộc sống nơi Xuân Diệu thêm thăng hoa và ý nghĩa. Chính Xuân Diệu cũng đã thốt lên:
“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
Mọi thứ trôi qua sẽ “chẳng bao giờ” trở lại, điệp ngữ “chẳng bao giờ” chính là để nhấn mạnh điều đó.
Một sự đau đớn, ngỡ ngàng hiện lên trong mạch cảm xúc của bài thơ. “Ôi!”, một từ cảm thán đã đẩy mọi thứ
lên đỉnh điểm. Sự tiếc nuối, buồn bã trong tâm tưởng của nhà thơ đã biến thành sự chán nản, tuyệt vọng đến
cùng cực. Ông dường như đang bất lực nhìn thời gian trôi qua, ngậm ngùi và chua xót. Tất cả chính là do sự
thức tỉnh sâu sắc của “cái tôi” cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Sau tất cả, sau nỗi
mất mát về tuổi trẻ và mùa xuân, Xuân Diệu hiểu rằng không “tắt nắng”, không “buộc gió”, không kìm hãm
được vòng xoay của vũ trụ thì chỉ còn một cách khả thi nhất: phải chạy đua với thời gian, sống trọn từng giây
phút, phải tranh thủ sống:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”
Ngay trong lúc chán nản và tuyệt vọng nhất, nhà thơ của chúng ta đã thấy được ánh sáng của cuộc
sống. Ông đưa ra lời giục giã “mau đi thôi!”, kêu gọi mọi người hãy sống nhanh hơn, mãnh liệt hơn, cố gắng
hết mình hơn. Ông hiểu rằng một khi không thể nắm giữ mùa xuân thì hãy tận hưởng nó, cảm nhận trọn vẹn
nó ngay khi nó tươi non nhất, khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”. Đến đây, ta lại bắt gặp một giọng điệu sôi
nổi, tươi vui của một hồn thơ yêu đời mãnh liệt đang tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;”
Xuân Diệu đột ngột dùng nghệ thuật vắt dòng, đẩy cụm từ “ta muốn ôm” vào giữa dòng thật bất ngờ
và ấn tượng. Ở đây, đại từ “tôi” biến thành “ta”, cái tôi cá nhân đã trở thành cái ta to lớn. Ông không còn đứng
ở góc để nhìn mùa xuân và tuổi trẻ, không còn thu mình vào để chán nản, tuyệt vọng mà đứng lên hiên ngang,
kiêu hãnh với quyền được sống, quyền được đòi hỏi. “Ta muốn ôm” đặt giữa dòng thơ như hình ảnh con người
đang hoà nhập vào thiên nhiên, dang tay đón nhận đất trời. Ông không còn dùng “tôi muốn” mà là “ta muốn”,
một giọng điệu tự tin, hào sảng của một tâm hồn đẹp. Tâm hồn ấy dù nhỏ bé so với vũ trụ này nhưng vẫn hiện
lên thật đẹp đẽ và ý vị. Đặc biệt hơn, nếu ở đầu bài, nhà thơ dùng động từ mạnh “buộc”, “tắt” thì giờ đây lại
là động từ nhẹ nhàng hơn, lãng mạn hơn – ôm. Một cái “ôm” nồng nàn, ấm áp như dành cho người thương,
“người tình trăm năm”. Đó chẳng phải là sự lãng mạn, bay bổng rất Xuân Diệu sao! Nhưng lạ thay, cái “ôm”
của Xuân Diệu là dành tặng cho một thứ phi vật chất – “sự sống”. Tình yêu tha thiết cuộc sống trần thế của
nhà thơ lại được khẳng định lần nữa, khi mà sự sống với ông chính là người tình, là lòng yêu sâu sắc. “Sự
sống” ấy là phải “mơn mởn”, phải trinh nguyên, tinh khôi và đầy nhựa sống. Không chỉ như vậy, với Xuân
Diệu, ông “muốn ôm” sự sống nhưng phải là “ôm” “cả sự sống”. Cụm từ “mới bắt đầu” lại cho thấy ông
muốn hưởng không phải là khi sự sống đã mơn mởn mà phải là lúc mới bắt đầu mơn mởn. Ông dường như
muốn chiếm đoạt, muốn hưởng trọn vẹn tất cả cuộc sống này với những gì non tơ nhất, trẻ trung nhất của nó.
Nhịp thơ đã bắt đầu gấp gáp, cuồng nhiệt hơn nhưng cũng đầy nồng nàn và lãng mạn khi nhà thơ dành cho
“người thương” của mình những lời lẽ ngọt ngào nhất:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.”
“Ta muốn” được lặp lại ba lần đã bày tỏ cái tham lam, vồ vập của thi sĩ khi muốn hưởng hết cái này
đến cái khác. Nhà thơ tận hưởng từ thiên nhiên “mây”, “gió” cho đến “tình yêu”, “nụ hôn nhiều” rồi trở lại
cùng thiên nhiên “non nước”, “cây”, “cỏ rạng”. Nếu ban đầu, nhà thơ sợ mây bay đi, sợ “hương bay đi” mà
phải “buộc gió” thì giờ đây nhà thơ thả mình vào “mây” và “gió”. Qua câu thơ, Xuân Diệu như đang bay cao
Vội vàng.pdf
Vội vàng.pdf

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.
Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.
Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.Jackson Linh
 
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdfAI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdfngTrang74
 
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ PhủThanh Cong Ma
 
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.An Tran
 
SO SÁNH THI PHÁP TRUYỆN THƠ TUM TIÊU CỦA DÂN TỘC KHƠME CAMPUCHIA VỚI VƯỢT BIỂ...
SO SÁNH THI PHÁP TRUYỆN THƠ TUM TIÊU CỦA DÂN TỘC KHƠME CAMPUCHIA VỚI VƯỢT BIỂ...SO SÁNH THI PHÁP TRUYỆN THƠ TUM TIÊU CỦA DÂN TỘC KHƠME CAMPUCHIA VỚI VƯỢT BIỂ...
SO SÁNH THI PHÁP TRUYỆN THƠ TUM TIÊU CỦA DÂN TỘC KHƠME CAMPUCHIA VỚI VƯỢT BIỂ...phamhieu56
 
Tuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
Tuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang DũngTuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
Tuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang DũngDavidjames6789
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX nataliej4
 
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdfNgười lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdfngTrang74
 
MÙA XUÂN NHO NHỎ.ppt
MÙA XUÂN NHO NHỎ.pptMÙA XUÂN NHO NHỎ.ppt
MÙA XUÂN NHO NHỎ.pptThyHong43096
 
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.ppt
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.pptBai 6 Chi em Thuy Kieu.ppt
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.pptssuser7f9f6a
 
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.comKhái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 

Mais procurados (20)

Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.
Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.
Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdfAI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
 
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
 
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.
 
Thi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người Tày
Thi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người TàyThi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người Tày
Thi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người Tày
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAYLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
 
Tố hữu
Tố hữuTố hữu
Tố hữu
 
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
 
Nguyễn Du.pptx
Nguyễn Du.pptxNguyễn Du.pptx
Nguyễn Du.pptx
 
SO SÁNH THI PHÁP TRUYỆN THƠ TUM TIÊU CỦA DÂN TỘC KHƠME CAMPUCHIA VỚI VƯỢT BIỂ...
SO SÁNH THI PHÁP TRUYỆN THƠ TUM TIÊU CỦA DÂN TỘC KHƠME CAMPUCHIA VỚI VƯỢT BIỂ...SO SÁNH THI PHÁP TRUYỆN THƠ TUM TIÊU CỦA DÂN TỘC KHƠME CAMPUCHIA VỚI VƯỢT BIỂ...
SO SÁNH THI PHÁP TRUYỆN THƠ TUM TIÊU CỦA DÂN TỘC KHƠME CAMPUCHIA VỚI VƯỢT BIỂ...
 
Tuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
Tuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang DũngTuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
Tuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdfNgười lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
 
MÙA XUÂN NHO NHỎ.ppt
MÙA XUÂN NHO NHỎ.pptMÙA XUÂN NHO NHỎ.ppt
MÙA XUÂN NHO NHỎ.ppt
 
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạnLuận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
 
VIỆT BẮC
VIỆT BẮCVIỆT BẮC
VIỆT BẮC
 
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.ppt
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.pptBai 6 Chi em Thuy Kieu.ppt
Bai 6 Chi em Thuy Kieu.ppt
 
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.comKhái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
 

Semelhante a Vội vàng.pdf

Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân DiệuBài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệuhongchau206306
 
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liênNghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liênnataliej4
 
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...jackjohn45
 
đề Cương ôn tập môn ngữ văn 11truonghocso.com
đề Cương ôn tập môn ngữ văn 11truonghocso.comđề Cương ôn tập môn ngữ văn 11truonghocso.com
đề Cương ôn tập môn ngữ văn 11truonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Tuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.pptTuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.pptthao299200
 
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)PhcCtTngNguyn
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC nataliej4
 
pdf_20230226_192247_0000.pdf
pdf_20230226_192247_0000.pdfpdf_20230226_192247_0000.pdf
pdf_20230226_192247_0000.pdf10CNgDng
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 
De on thi thpt (sưu tầm)
De on thi thpt (sưu tầm)De on thi thpt (sưu tầm)
De on thi thpt (sưu tầm)Chu Choa
 
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....nqh21102005z
 
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docxCẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx16LChungKin
 

Semelhante a Vội vàng.pdf (20)

Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân DiệuBài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
 
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liênNghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
 
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
 
Vội vàng
Vội vàngVội vàng
Vội vàng
 
đề Cương ôn tập môn ngữ văn 11truonghocso.com
đề Cương ôn tập môn ngữ văn 11truonghocso.comđề Cương ôn tập môn ngữ văn 11truonghocso.com
đề Cương ôn tập môn ngữ văn 11truonghocso.com
 
Tuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.pptTuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.ppt
 
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
 
Câu 1
Câu 1Câu 1
Câu 1
 
pdf_20230226_192247_0000.pdf
pdf_20230226_192247_0000.pdfpdf_20230226_192247_0000.pdf
pdf_20230226_192247_0000.pdf
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 
Bang
BangBang
Bang
 
De on thi thpt (sưu tầm)
De on thi thpt (sưu tầm)De on thi thpt (sưu tầm)
De on thi thpt (sưu tầm)
 
Chan dung thi nhan hp tap2.doc
Chan dung thi nhan hp tap2.docChan dung thi nhan hp tap2.doc
Chan dung thi nhan hp tap2.doc
 
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....
sónsssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssssg 12....
 
Thi nhan hai phong tap 2
Thi nhan hai phong tap 2Thi nhan hai phong tap 2
Thi nhan hai phong tap 2
 
Song
SongSong
Song
 
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docxCẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx
 
Day thon-vi-da-han-mac-tu
Day thon-vi-da-han-mac-tuDay thon-vi-da-han-mac-tu
Day thon-vi-da-han-mac-tu
 

Último

Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Último (20)

Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 

Vội vàng.pdf

  • 1. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 1 VỘI VÀNG (Xuân Diệu) I. KIẾN THỨC CƠ BẢN Cuộc sống là một mũi tên lao thẳng về phía cái chết. Khi lớn lên, chúng ta bị cuốn theo sự bận bịu thường ngày mà dần quên đi nỗi lo thường trực về sự tàn phá của thời gian. Mỗi phút trôi qua là một khoảnh khắc của cuộc đời lại mất đi, mất đi... Cách con người đối diện với thời gian đã sinh ra rất nhiều tác phẩm nghệ thuật. Ở Việt Nam, thời kì 1930 – 1945, có một tác giả đã bước vào làng thơ với đôi tay bám riết lấy cuộc đời trần gian và đôi mắt dõi nhìn từng bước chân tàn nhẫn của thời gian. Nhà thơ đó chính là Xuân Diệu, thi sĩ của nỗi ám ảnh thời gian, của tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ. MỞ RỘNG “Tôi như con bướm đắm tình thương/ Bay vòng hoa đẹp để vây hương/ Phấn con bướm mỏng mà hương rộng/ Tham chiếm hồn ai, chỉ đoạn trường.” (Phơi trải, Xuân Diệu); “Yêu ngẩn ngơ rồi đau xót xa/ Số anh là khổ, số anh là/ Suốt đời nuốt lệ vào trong ngực/ Đem ái tình dâng kẻ phụ ta.” (Muộn màng, Xuân Diệu) Ở các nhà thơ lãng mạn, cá tính được giải phóng, tâm hồn được mở rộng và trí tưởng tượng được khai thác tối đa. Con người trong thơ lãng mạn là con người của cảm nhận và giãi bày những cảm xúc, khát khao, dục vọng, đam mê của mình… Các nhà thơ lãng mạn dùng nhịp đập sôi nổi của trái tim 1. TÌM HIỂU CHUNG: - Tên thật: Ngô Xuân Diệu. Bút danh: Trảo Nha. a. Quê hương và gia đình - Quê Cha: Hà Tĩnh. Quê Mẹ: Bình Định. - Lớn lên ở Qui Nhơn – vùng biển, có nhiều cảnh sắc thiên nhiên đẹp, đặc biệt là ngọn gió nồm nam. - Thừa hưởng những đức tính cần cù, nhẫn nại, chăm chỉ của người cha là ông đồ xứ Nghệ. - Là con vợ lẽ, sớm phải sống xa cha mẹ, thường bị hắt hủi... nên luôn khao khát tình thương và sự cảm thông. " Xa gia đình từ nhỏ, sống ở nhiều nơi, mỗi vùng đất có ảnh hưởng nhất định đến hồn thơ của ông. b. Con người và thời đại - Đỗ tú tài và đi dạy học tư, làm viên chức: Ông là một trí thức Tây học chịu ảnh hưởng và hấp thụ văn hoá Pháp; đồng thời cũng thừa hưởng truyền thống văn hoá phương Đông. - Thời đại nhiều biến động, trong đó Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước thay đổi quan trọng trong cảm hứng sáng tác của Xuân Diệu. c. Sự nghiệp văn học - Xuân Diệu là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn để lại cho đời khối lượng tác phẩm đồ sộ với một đam mê sáng tạo như muốn chạy đua với thời gian. - Sáng tác của ông chia làm 2 giai đoạn: trước và sau Cách mạng tháng Tám. Các tác phẩm chính: (khoảng trên 500 bài thơ) Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962), Hai đợt sóng (1967)...; các tập văn xuôi: Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945)… - Ông hoàng của thơ tình yêu: Phong cách thơ: sôi nổi, đắm say, yêu đời, yêu cuộc sống thắm thiết, cuồng nhiệt. - Vài nét đặc trưng trong thơ ca Xuân Diệu: + Tư tưởng chi phối toàn bộ sáng tác của Xuân Diệu là “niềm khao khát giao cảm với đời”. Ông muốn chia sẻ, giao hoà tâm hồn sôi nổi và tinh tế của mình với muôn người, với hôm nay và mai sau. Đồng thời ông cũng luôn muốn khẳng định “cái tôi” cá nhân độc đáo, mạnh mẽ và đầy nhiệt huyết của mình. + Thế giới thiên nhiên và con người trong thơ ca Xuân Diệu là một thế giới tràn đầy sự sống với bao vẻ đẹp trần thế rất bình dị, gần gũi mà đắm say vô tận, vô cùng. “Xuân Diệu là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình giữa con người và con người, một phát hiện về niềm hạnh phúc tuyệt vời mà cuộc sống trần thế này đã ban phát cho nhân loại.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Một thế giới như thế luôn kêu gọi, mời chào con người sống hết mình, sống mãnh liệt – “Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn...”. Và vì thế phải sống nhanh, sống
  • 2. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 2 mình để tìm thấy cái tươi mới, trẻ trung trong vạn vật bên ngoài. Thơ ca lãng mạn chính là “cuốn nhật kí của những cảm xúc” (Girmunsky) Lời tựa tập Gửi hương cho gió: “Người hãy mở tay, người hãy mở lòng mà đón lấy! Đây là lòng tôi đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân; và đây là tuổi xuân, là sự sống của tôi nữa, tôi đem mà tặng cho người trong mấy bài thơ đây.” Nên nhớ chính Xuân Diệu cũng là người ý thức rất rõ sự cô đơn của mình giữa thế giới. Nhưng ông không trốn tránh, cũng không chối bỏ thế giới này mà ngược lại nhà thơ muốn dùng cái ăm ắp đầy tràn trong tâm hồn để sưởi ấm cuộc đời, khoả lấp hố thẳm giữa nội tâm và ngoại giới. Tôi vốn biết cuộc đời thường đạm bạc Nên mang theo từng suối rượu nguồn tình Đem mến yêu làm cho cảnh thêm xinh Cứ phong nhã để cho người bớt tục Để lây lửa chuyển những lòng giá đúc Phải ấm lên vì bắt chước tôi nồng. (Chỉ ở lòng ta, Xuân Diệu) gấp, phải “Vội vàng”, “giục giã” chứ không thể dửng dưng lạnh nhạt với thời gian đang một đi không trở lại. + Mảng thơ đặc sắc nhất của Xuân Diệu là thơ tình. Đây cũng là mảng thơ giúp ông thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời một cách mãnh liệt nhất, sâu sắc và toàn vẹn nhất. Với ông, tình yêu bao giờ cũng đòi hỏi sự khát khao vô biên, vô cùng và vĩnh viễn. Một tình yêu như thế, ông không thể tìm thấy ở cuộc sống thị dân, ích kỉ tính toán, chật hẹp và tù túng trước đây. Vì thế nội dung chính trong thơ tình Xuân Diệu là những nỗi đau đớn của một trái tim đầy nhiệt huyết mà không được đáp đền; một nỗi cô đơn, giá lạnh trước tình người và tình đời nhạt nhẽo. “…chính ngay nơi ấm cúng này (tình yêu) lại thấm thía nỗi cô đơn và con người vẫn tự chia sẻ ra nhiều ngăn cách.” (Hà Minh Đức). + Tạo nên cái tân kì trong thơ Xuân Diệu thực ra không phải ở thể loại mà là ở cách nhìn nhận và cảm thụ thế giới. Ảnh hưởng sâu đậm thơ ca hiện đại phương Tây, đặc biệt là thơ tượng trưng Pháp, Xuân Diệu đã tìm được cách chiếm lĩnh thế giới, mô tả, thể hiện cuộc sống và tâm hồn con người một cách tinh vi, màu nhiệm bằng cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo, đề cao nhạc tính và tăng cường sự cảm nhận của các giác quan. a Xuân Diệu: là một nhà thơ mới, “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh), được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 1996. 1.2. Tác phẩm: “Vội vàng”: a. Xuất xứ: In trong tập “Thơ thơ”, là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám. b. Bố cục: 3 đoạn: + Đoạn 1: 13 câu đầu: "Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ. + Đoạn 2: 16 câu tiếp: " Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời. + Đoạn 3: 9 câu cuối: " Khát vọng sống, khát vọng yêu cuồng nhiệt, hối hả. • Mạch cảm xúc và tâm trạng thi nhân: - Phần 1 (đoạn 1 + 2): Lập thuyết: Tác giả xưng “tôi” để bày tỏ quan niệm của mình. Nội dung nghiêng về lí thuyết: + Bắt đầu từ những khát khao tưởng như phi lí, muốn đi ngược lại quy luật tạo hoá + Nguyên nhân: Cuộc sống trần gian đầy hương sắc; + Điều đó dẫn đến nhận thức: Nhưng cuộc sống ấy không thể tồn tại mãi mãi. Mùa xuân của đất trời tuần hoàn còn tuổi xuân con người một đi không trở lại. - Phần hai (còn lại): Thi sĩ xưng “ta” là muốn đối diện với toàn thể sự sống trần gian – đối tượng cần tận hưởng. Nội dung cảm xúc thể hiện rõ ở những hành động vô vập, chếnh choáng của một cái tôi đầy ham muốn, đang muốn tận hưởng cho thật nhiều, thật đã đầy những hương sắc trần thế. Nội dung nghiêng về “thực hành”: Vội vàng là phải thế nào? - Hai phần này chuyển tiếp rất tự nhiên về cảm xúc, rất chặt chẽ về luận lí. Nó khiến cho bài thơ liền mạch và hoàn chỉnh cứ như một dòng chảy ào ạt, hoàn toàn hồn nhiên của tâm trạng. Ngỡ như thi sĩ không phải dụng công trong việc cấu tạo, thiết lập, sắp xếp gì vậy. Đây chính là một thành công đáng kể của thi phẩm.
  • 3. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 3 § Nhận xét: - “Giá trị của tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc tình cảm, chứ không phải cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy…” (Nguyễn Khải) - “Bài thơ là một bản tuyên ngôn cho một tư tưởng nhân sinh của Xuân Diệu, nhưng tuyên ngôn ấy được thể hiện bằng hình tượng thơ ca sinh động và đầy xúc cảm, giàu tính nghệ thuật, chứ không phải là sự minh hoạ giản đơn cho triết lí nhân sinh của nhà thơ.” (Nguyễn Đăng Mạnh) 2. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN: 2.1. Đoạn 1: Tình yêu cuộc sống say mê tha thiết của nhà thơ: a. 4 câu đầu: - Cách xưng hô: đại từ “TÔI”. + Nhấn mạnh khao khát cá nhân, cá thể: đó là cơ sở của cảm xúc và suy tưởng trong bài thơ này. + Thi sĩ muốn bộc bạch với mọi người, với cuộc đời. + So sánh: Văn học trung đại Thơ mới Nhấn mạnh cái “ta”, cái chung, tiếng nói của cá thể hoà nhập với tiếng nói của cộng đồng. Khai thác cái “tôi”, tìm về những cảm xúc, suy tưởng, khát khao… riêng tư của từng cá thể. - Khát vọng: “Tắt nắng”, “buộc gió”: + Những điều không thể làm được vì nó đi ngược lại tạo hoá: thi sĩ muốn níu giữ lại dòng chảy nghiệt ngã của thời gian đang chuyển di trên từng tạo vật. + Nhà thơ chấp nhận tắt nắng ngay lúc nó còn đẹp đẽ, chấp nhận buộc gió ngay lúc nó còn tỏa hương để giữ lại cho mình khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của hương sắc cuộc đời chứ không muốn chứng kiến sự tàn phai của tạo vật. " Khẳng định ước muốn táo bạo, mãnh liệt, muốn ngự trị thiên nhiên, thay quyền tạo hóa. + Ý tưởng mới lạ, độc đáo, in dấu ấn những cách tân nghệ thuật thơ Mới và dấu ấn cá tính sáng tạo của Xuân Diệu. - Tác giả không dùng “không” mà là “đừng”: khát khao nhưng cũng hiểu rằng đó là sự khát khao trong bất lực bởi con người đâu thể cưỡng nổi bước đi của thời gian vô tình. ð Bốn câu thơ gửi trọn cảm xúc và ý tưởng chủ đạo của cả bài thơ nên có giá trị như một lời đề từ: Tình yêu tha thiết, say mê dành cho vẻ đẹp cuộc đời + Nỗi ám ảnh thời gian. ð Nghệ thuật: Câu thơ 5 chữ; Điệp từ ngữ, cấu trúc câu; Kiểu câu khẳng định mạnh; Động từ “tắt”, “buộc”: rất Xuân Diệu; b. Vẻ đẹp cuộc sống trần gian - Nhận xét chung: + Xuân Diệu là một nhà thơ Mới, là một cây bút lãng mạn chủ nghĩa. Nói như Bielinsky: “Các nhà lãng mạn có một mối thâm thù với thực tại”. Trong giai đoạn văn học lãng mạn của Việt Nam, hầu như các tác giả lãng mạn đều tìm cách trốn tránh thực tại: Chế Lan Viên tìm về thế giới của Chiêm thành đổ nát, Vũ Hoàng Chương tìm đến rượu và thuốc phiện… Chỉ riêng Xuân Diệu lại không những không trốn tránh cuộc đời mà còn tìm đến những vẻ đẹp tươi mới của nó. Lầu thơ Xuân Diệu “xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” (Thế Lữ). Điều đó thể hiện rất đậm nét trong đoạn thơ đầu:
  • 4. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 4 “Này là đoá hoa, thơm như tình ái; này là hạt sương, này là con bướm, này nữa đàn chim… Anh giao cho em mây sớm an lành; anh giao cho em nắng vàng thương nhớ. Và giao cho em cả gió, cả trăng… Yêu đi em, hưởng đi em! Đó là tất cả cái kho của tuổi xuân; mở ra mà thưởng thức.” (Trường ca, Xuân Diệu). “Vườn cười bằng bướm, hót bằng chim Dưới nhánh không còn một chút đêm Những tiếng tung hô bằng ánh sáng Ca đời hưng phục trẻ trung thêm.” (Lạc quan, Xuân Diệu) “Thời gian đương đi qua, đôi cặp môi người đóng dấu vào nhau để lấy một phút giây cực lạc, cùng khắn ép một quãng nhỏ không gian; và từ ấy, trong kỉ niệm trăm năm, còn mãi một điểm hồng. Điểm hồng trong trí nhớ, làn điện tê buốt ở đầu môi.” (Xuân Diệu). + Đoạn thơ “của ong bướm… hoài xuân”: Tác giả giãi bày cho cái ước muốn tưởng như “ngông cuồng” của mình bằng một bức tranh tràn đầy sinh lực, ngồn ngộn sức xuân, sắc xuân, hương xuân và tình xuân. - HÌNH ẢNH: “Ong bướm”, “hoa”, “lá”, “yến anh”: + Những tạo vật thiên nhiên bình thường trong mùa xuân, qua đôi mắt Xuân Diệu trở nên đẹp đẽ, mới lạ. + Gợi nên những vẻ đẹp hoàn thiện, lộng lẫy và tươi mới, thanh tân của mùa xuân + Các tạo vật đều đi thành đôi, thành cặp: Ong bướm quấn quýt, dập dìu; hoa nở nộ trên đồng nội; ngay cả đồng nội cũng xanh rì sắc cỏ; lá là lá của cành tơ phơ phất – cái lá non tơ đầu mùa, chữ “tơ” thay vì “non” cũng gợi lên một cái gì tươi mới, trẻ trung. “Yến anh” tức chim yến và chim oanh là hình ảnh lứa đôi viên mãn. ð Cách tổ chức không gian đặc biệt: Biểu hiện Tính chất + Sự vật đa dạng (từ nhỏ - ong bướm, đến rất lớn – hoa của đồng nội, đến rất cụ thể - lá của cành tơ,…); + Đồng loạt xuất hiện. + Có cùng một tính chất, đặc điểm chung: tươi mới, đẹp đẽ, hạnh phúc, giàu sức sống. + Cùng tôn nhau lên tạo thành một chỉnh thể mùa xuân tràn đầy sức sống + “Áng sáng chớp hàng mi”: Xuân Diệu hình dung bình minh như một người con gái vừa tỉnh dậy sau đêm dài, chớp hàng mi để rồi bừng ra muôn ánh sáng. Liên hệ: Trong “Trường ca”: “Mi của ánh sáng thật dài, tia của ánh sáng thật đượm […]. Con mắt điện quang thấu suốt muôn trùng.” (Xuân Diệu). Ánh sáng của bình minh kéo theo niềm vui trần thế. Xuân Diệu đã hình tượng hoá niềm vui thành một vị thần – Thần Vui. “Ánh sáng bắn tin truyền hịch, đưa lệnh khắp hang cùng núi hẻm, báo rằng: “Sắp sửa tin vui!” (Trường ca). Mỗi ngày mới bắt đầu là một ngày hạnh phúc mới. Mỗi buổi sáng là một lần tái sinh của thiên đường trần gian. + Đặc biệt nhất: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” – Tác giả đã hình tượng hóa, hình thể hóa vẻ đẹp mùa xuân trong một phép so sánh, một tính từ “ngon” và trong một hình tượng giàu giá trị biểu đạt: “cặp môi gần”. Vẻ đẹp mùa xuân trở nên quyến rũ, đầy sức hấp dẫn trong sự viên mãn và căng đầy của nó. Hình ảnh cặp môi gần cũng khơi gợi cho người ta cái cảm giác muốn được đến để chiêm ngưỡng và cảm nhận vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên, đất trời trong mùa xuân. Khoảnh khắc mãnh liệt nhất của khát khao chính là khi kề cận điều mình khao khát mà vẫn chưa chạm được đến nó (hay sắp chạm được đến nó) – cặp môi gần. Nụ hôn trong quan niệm của Xuân Diệu mang ý nghĩa đặc biệt: Đẹp nhất của tuổi trẻ là tình yêu mà biểu hiện cao nhất của tình yêu là nụ hôn. " Lối diễn đạt độc đáo, mới lạ + Vật chất hóa khái niệm thời gian “tháng giêng” bằng “cặp môi gần”. Truyền cảm giác đến người đọc bằng tính từ “ngon, gần”; Có ý nghĩa bao quát cả đoạn vừa gợi hình thể vừa gợi cả hương thơm và vị ngọt khiến ta say đắm, ngây ngất. " Thi sĩ chào đón, chiêm ngưỡng cuộc sống bằng “cặp mắt xanh non” của tuổi trẻ, vừa ngỡ ngàng, vừa say đắm ngây ngất. Thế giới đó, cái nhìn đó là kho báu của tuổi trẻ mà hơn một lần ông mời gọi con người, nhất là những người trẻ, phải mở hết lòng mình để tận hưởng nó. - TỪ NGỮ:
  • 5. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 5 Cái tôi say sưa bỗng thoáng hiện sự bất an. Đó là một cảm thức rất chung của thế hệ thanh niên Việt Nam thời đó. Cái thiên đường trần gian chỉ là lâu + Hàng loạt từ “Này đây…” mở đầu + Liệt kê theo chiều tăng tiến. “Này đây…” là một cụm từ dùng để giới thiệu, cũng là một cụm từ thể hiện niềm say sưa và sự phát hiện. Tác giả như hào hứng kéo tay người đọc để chỉ cho họ thấy từng phương diện khác nhau trong vẻ đẹp của mùa xuân mà ông đã phát hiện ra bằng cặp mắt yêu đời say đắm. Điệp cấu trúc “Này đây…” cũng góp phần làm cho mạch thơ thêm mạnh mẽ, giọng thơ thêm sôi nổi, thiết tha tỏ rõ tấm lòng thi sĩ. + Các từ ngữ đặc tả mùa xuân liên tiếp xuất hiện: “tuần tháng mật” (tuần trăng mật hay tuần tháng mùa xuân ngọt ngào như mật); Màu xanh “rì” của cỏ nội tạo thành một phông nền êm mát; “khúc tình si” là khúc hát của mùa xuân, khúc hát của những nỗi lòng giao hòa giao cảm, khúc hát đắm say của tình yêu đôi lứa. Từ láy (phơ phất), từ ghép (xanh rì). - NHỊP ĐIỆU: gấp gáp, khẩn trương. " Sự sung sướng, ngây ngất vừa có gì như hối thúc, giục giã: cuộc sống là thiên đường trần gian, hãy tận hưởng, tận hưởng và tận hưởng… MÙA XUÂN + TÌNH YÊU + TUỔI TRẺ = Thiên đường trên mặt đất của Xuân Diệu. Linh hồn của thiên đường ấy nằm trong hai chữ “xuân tình”: + Xuân Diệu đã làm sống dậy nét quyến rũ, sự tình tứ, vẻ kì thú ngay trong những cảnh sắc sự vật tự nhiên quen thuộc, đem đến những cảm nhận tinh vi về thời gian, không gian, làm sống dậy vẻ thơ mộng và cả những tình thái tế nhị thật bất ngờ trong thiên nhiên mà bao trùm lên tất cả là cái nhìn tình tứ về sự vật. Nhờ đó mà từng cảnh sắc đều tình tứ, mọi cảnh vật đều tràn ngập xuân tình. Từ những hình sắc cụ thể theo lối đặc tả cận cảnh đến toàn thể thiên nhiên rộng lớn theo lối bao quát toàn cảnh thường hiện ra trong dáng nét của giai nhân, tình nhân tràn trề xuân sắc. + Xuân Diệu nhìn sự tươi mới, thanh tân của sự vật bằng cái nhìn luyến ái đầy khát khao chiếm hữu. Xuân Diệu dùng cái xuân tình trong lòng mình để cảm nhận vẻ xuân tình trong vạn vật: Tình là nội dung, xuân là hình thức; Tình dậy men bên trong, phát lộ thành mùa xuân bên ngoài; Vẻ xuân của vạn vật là hiện thân của tình. ð Xuân Diệu ý thức sâu sắc: Giá trị lớn nhất của đời người là tuổi trẻ mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ là tình yêu: Cách nhìn tích cực, tinh thần nhân văn mới. § Quan niệm thẩm mỹ mới: - Xuân Diệu ngơ ngác, vui sướng như lần đầu tiên thấy cảnh hoa lá, bướm ong; “cái gì cũng lạ, cũng đẹp, cũng non tươi, cái gì cũng mê, cũng say… Nhưng đối với Xuân Diệu, thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người, con người giữa tuổi trẻ và tình yêu.” - Thơ xưa lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người, Xuân Diệu đưa ra một quan niệm mới: Con người khi đang độ thanh xuân, khi đang yêu đương chính là hình ảnh đẹp nhất. Đó mới là chuẩn mực cho cái đẹp trên thế gian này. Con người trở thành thước đo thẩm mỹ của vũ trụ. 2.2. Đoạn 2: Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời: - Xuân Diệu yêu đời, nhưng cái nhìn của ông không thuần tuý chỉ có tình yêu. Đó là cái nhìn mang tính lưỡng cực: vừa khắc hoạ thiên nhiên trong “thời tươi” lại vừa cảm nhận sâu sắc “độ phai tàn” của nó: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”:
  • 6. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 6 đài cát chóng tan. Thời gian đi qua đã tiêu huỷ tất cả những gì là đẹp đẽ nhất trong cuộc đời. Vừa mới khi mai tôi cảm thấy Trong tay ôm một bó hoa cười Ngọn gió thời gian không ngớt thổi Giờ tàn như những cánh hoa rơi. (Giờ tàn, Xuân Diệu) Hoa nở để mà tàn Trăng tròn để mà khuyết Bèo hợp để mà tan Người gần để li biệt Hoa thu không nắng cũng phai màu Trên mặt người kia in nét đau. (Hoa nở để mà tàn, Xuân Diệu) Thật ra đó là cảm quan đã không ít lần xuất hiện trong thơ cổ “Nhãn khan xuân sắc như lưu thuỷ/ Kim nhật tàn hoa tạc nhật khai” (Kìa trông màu xuân trôi qua như nước chảy/ Bông hoa hôm kia nở, hôm nay đã tàn rồi, Yến Đông Thành trang, Trương Nhược Hư). Nhưng ở Xuân Diệu nó trở thành một niềm ám ảnh không dứt, nó ăn sâu vào trong mọi cảm nhận ở tâm hồn thi sĩ mà phổ lên mọi + Đây là câu bản lề trong cả bài thơ này, nó là chỗ gãy khúc của tâm trạng: một mặt khép lại tâm trạng say sưa của tác giả với vẻ đẹp của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ; mặt khác mở ra tâm trạng hoài nghi, chán nản của thi sĩ trước những thực tế nghiệt ngã của cuộc đời. Khép lại tâm trạng say sưa Mở ra niềm hoài nghi, lo lắng “Tôi sung sướng”: đây là sự kết luận, một câu tổng kết lại cảm xúc của Xuân Diệu trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của mùa xuân mà ông đã say sưa tô vẽ ra cho người đọc. “Nhưng vội vàng một nửa”: tâm trạng đang lên cao bỗng nhiên bị chặn lại, bởi một dấu chấm câu phân tách câu thơ thành hai nửa, cũng bởi từ “nhưng” dự báo một điều gì không thật trọn vẹn sẽ đến ở phía sau. ð Thi sĩ say riết trước cuộc đời nhưng vẫn tự nhủ lòng phải vội vàng một nửa: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Hoài xuân là nhớ xuân, tiếc xuân khi mùa xuân chỉ mới bắt đầu; Giữa âm điệu hoan lạc, vui tươi bỗng thoáng ngỡ ngàng, hụt hẫng: Tác giả không đợi mùa xuân qua đi mới hoài xuân, mới biết tiếc nhớ mùa xuân mà ông luyến tiếc mùa xuân chính cả khi nó đang còn hiện diện đẹp đẽ nơi đây. Niềm luyến tiếc này là một dự cảm về tương lai, bộc lộ nỗi ám ảnh sâu sắc của thi nhân trước sự hữu hạn của mùa xuân tuổi trẻ. § “Xuân đương tới… cũng mất”: - Quan niệm về thời gian: Giọng thơ chuyển sang buồn thương, triết lí. Tác giả sử dụng phép liệt kê, phép điệp kết hợp cách diễn đạt mang tính định nghĩa (nghĩa là), là đặc trưng của lối thơ triết luận, để đưa ra quan niệm của mình về thời gian. Đó không phải là những mệnh đề rút ra từ lí trí mà là những triết lí được đúc kết từ chính cảm nhận sâu sắc, thấm thía của tác giả về nhân sinh. + “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua”: Xuân Diệu cảm nhận được bước đi của thời gian trên từng tạo vật, ông hiểu điều muôn đời không thể đổi thay: cái đang tới, cái đang sinh sôi cũng chính là cái đang đi về cõi chết, cái đang lụi tàn và hoại diệt. Cuộc sống trong thơ Xuân Diệu không tĩnh tại, nó là sự sống đang thành hình, đang chuyển động, cũng có nghĩa là đang đi về phía cái chết và sự tàn phai như lẽ tất yếu của sinh – trụ – hoại – diệt. + “Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”: Vế thứ nhất (xuân còn non) là nhận thức về thế giới tươi trẻ trong hiện tại. Vế thứ hai (xuân sẽ già) là tiên cảm về điều sẽ xảy ra: mùa xuân sẽ lụi tàn. Xuân Diệu say sưa với cuộc đời nhưng cũng không quên rằng đằng sau vẻ tươi mới đó chính là cái bóng của tuổi già, sự héo mòn. Cặp đối ngẫu “non” – “già” càng tô đậm thêm nữa sự nghiệt ngã của quy luật thời gian đối với cuộc đời của con người và hình sắc của tự nhiên. + “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”: Thi sĩ gắn mùa xuân với chính cuộc đời mình. Xuân không còn, tuổi trẻ không còn thì “tôi” cũng không còn bởi cái tôi ấy sống với mùa xuân, với tuổi trẻ. Tâm hồn ông hòa nhập và giao cảm với vẻ đẹp của cuộc đời, vẻ đẹp của tuổi xuân. Mùa xuân không còn, tuổi xuân qua đi, tình yêu mất mát cũng đồng nghĩa với cái chết tâm hồn của tác giả. ð Tiểu kết: Kết hợp liệt kê, lặp cấu trúc câu với các cặp tương ứng “đương tới – đương qua, còn non - sẽ già, xuân hết – tôi cũng mất”: Nhấn mạnh điều tất yếu có tính qui luật của tự nhiên. Từ đó cho thấy nỗi day dứt, niềm tiếc nuối khôn nguôi của một trái tim vốn rất nhạy cảm, yêu đời, khát khao giao cảm với đời.
  • 7. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 7 vật xung quanh ở độ tinh vi nhất. “Không còn ngươi, thôi cái gì cũng mất Tài năng chi, danh vọng kể làm chi Kể chi tiền với một kẻ mê si Chỉ thấy nghĩa trong ái tình vĩnh viễn…” (Thanh niên, Xuân Diệu) “Ý thức hoàn toàn mới mẻ về cá nhân, niềm mong muốn khẳng định cái tôi cá thể giữa cuộc đời trở thành động lực sáng tạo. Bởi vậy sự tự ý thức về thân phận, niềm mong muốn giải trình những nhận thức riêng về cuộc đời, những đam mê và bi kịch của mình đã khiến Xuân Diệu tìm đến kiểu § Quan niệm mới về thời gian: - Cần hiểu rằng thời gian trong vũ trụ này thì muôn đời vẫn thế. Chỉ có quan niệm của con người về thời gian thì đổi thay. Sự đổi thay này có thể do trình độ nhận thức khoa học, ý thức triết học, ý thức thẩm mỹ... của mỗi thời một khác. - Trong “Vội vàng”, Xuân Diệu đã đưa ra một quan niệm mới của mình về thời gian. + Cách thức trình bày của Xuân Diệu là “chống đối”, “tranh cãi” lại quan niệm xưa, đồng thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi, cuồng nhiệt – nghĩa là bằng một dạng ý thức triết học đã được thấm nhuần cảm xúc. Quan niệm cũ Quan niệm của Xuân Diệu - Quan niệm cũ về thời gian mà Xuân Diệu muốn chống đối là thời gian tuần hoàn. Nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng quay lại về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì những thời khắc, thời đoạn của nó có ra đi rồi cũng sẽ quay trở về. - Người xưa dùng vũ trụ làm thước đo thời gian. Thời gian vũ trụ và thời gian của đời người hoà nhập vào nhau. - Xuân Diệu đã lựa chọn cho mình một quan niệm khác: thời gian tuyến tính. Nghĩa là thời gian được hình dung như dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thế, mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ, về thời gian. - Xuân Diệu dùng sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian, tức là lấy cái hữu hạn của sinh mệnh để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thời gian vũ trụ và thời gian của đời người không trùng nhau. - Nghịch lý của đời người: + “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật/ Không cho dài thời trẻ của nhân gian”: ü “Lòng tôi rộng”: Tâm hồn con người rộng mở và đầy khao khát: khát khao giao cảm, khát khao hòa nhập, khát khao tận hưởng cuộc sống… Với Xuân Diệu, một người bám riết cõi đời bằng niềm mê say tha thiết, nỗi khát khao ấy lại càng sâu sắc hơn nữa. Và hơn nữa cuộc đời này cũng quá đẹp để sống, để yêu và tận hưởng. ü “Lượng trời cứ chật”: Thời gian mà tạo hoá ban cho đời người là ngắn ngủi, hữu hạn. ü Đây là nghịch lí mà cũng là điều tất yếu đối với một tâm hồn như Xuân Diệu: biết bao nhiêu thời gian cho vừa với khát khao giao cảm mãnh liệt đến cuồng nhiệt của ông? – “Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ.” (Thanh niên, Xuân Diệu). + “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!”: ü Mùa xuân rồi sẽ tuần hoàn, thời gian vô thủy vô chung sẽ còn lặp lại trăm vạn lần nữa trong nhân gian này. Nhưng cái tuần hoàn không thôi của thiên nhiên chỉ làm đau đớn thêm lòng người khao khát sống. ü Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Chẳng có tuần hoàn nào cho tuổi trẻ của chúng ta. Vậy thì mùa xuân có trở lại trăm vạn lần nữa cũng không còn ý nghĩa gì. Bởi mùa xuân chỉ có ý nghĩa khi nó gắn với tình yêu và tuổi trẻ
  • 8. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 8 câu thơ định nghĩa.” (Lê Quang Hưng) cũng như tình yêu và tuổi trẻ sẽ làm nên mùa xuân. Tình yêu, tuổi trẻ và mùa xuân là một thể thống nhất. Thậm chí sự trở lại của mùa xuân còn là lời loan báo cho sự ra đi của tuổi xuân. + “Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,/ Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”: Tác giả ngậm ngùi nhận thức về quy luật không thể khác của hóa sinh: “tiếc cả đất trời”, tiếc cả cuộc đời mà rồi đây mình sẽ bỏ lại. § Liên hệ: Ngay cả những dòng thơ gửi lại trước khi chết, Xuân Diệu vẫn chưa thôi yêu thương cuộc đời, yêu quý tình người: “Hãy để cho tôi được giã từ/ Vẫy chào cõi thực để vào hư/ Trong hơi thở chót dâng trời đất/ Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.” (Chấp nhận). Một trái tim yêu mãnh liệt đến như thế sao không khỏi bâng khuâng, tức giận khi nghĩ đến việc mình sẽ phải rời xa thế giới này? " Tiểu kết: Nghệ thuật: Sử dụng biện pháp đối lập; Dùng nhiều phụ từ và từ quan hệ: nhưng, làm chi, nếu, chẳng, chẳng còn, nên,…; Có giá trị biểu đạt - lý luận từ trái tim, đó là luận đề thấm đẫm cảm xúc. Nội dung: Nỗi bâng khuâng, tiếc nuối ám ảnh cái nhìn vạn vật của nhà thơ: Thái độ tức giận trước hiện thực thô bạo, phũ phàng của thời gian. Đó là cách giải thích của nhà thơ khi nhận ra giới hạn của cuộc đời. - Cảm nhận về thời gian – cảm thức chia phôi: Lòng đã sẵn nỗi buồn thương trước sự chia lìa của mình và vạn vật, Xuân Diệu dùng đôi mắt ấy để soi chiếu vào thế giới và từ đó ông nhận ra cảm thức chia phôi hiện diện trong trời đất. Cảm nhận thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy mất mát, đó chính là một phần đời trong sinh mệnh cá thể đã mất đi vĩnh viễn, thấm thía hơn, là một phần vô cùng quý giá của tuổi trẻ đã mất đi vĩnh viễn. + “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,/ Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…”: ü Mở rộng: Câu thơ là một đại diện tiêu biểu cho sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối với thơ Xuân Diệu. Thơ tượng trưng tin rằng đằng sau thế giới có thể cảm nhận bằng các giác quan riêng lẻ có một thế giới thực ẩn giấu. Các nhà thơ tượng trưng có khả năng cùng lúc phân tán và hội tụ các năng lực cảm biến: họ nghe ánh sáng, thấy được mùi vị, biết hương của âm thanh… Riêng trong câu thơ này, Xuân Diệu cảm nhận sự chia phôi bằng nhiều giác quan: “mùi tháng năm” (khứu giác) – “rớm” (thị giác) – “vị” (vị giác). Chính vì thế, nhà thơ cảm nhận được cảm giác chia biệt trên mọi góc độ, mọi phương diện của thiên nhiên – một cảm nhận tinh vi. ü Mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của những chia phôi, cho nên thời gian đậm vị chia lìa. Riêng từ “rớm” nối tiếp hình ảnh của “hàng mi” ở đoạn đầu, từ đôi mắt của ánh sáng và niềm vui, thi sĩ cảm nhận được nỗi buồn chia biệt hiện diện trong thiên nhiên. ü Nỗi buồn ấy không chỉ rơm rớm mà đã chuyển thành một lời than: “khắp sông núi” – muôn vật, muôn nơi, “vẫn” – đã, đang và có lẽ sẽ còn tiếp tục mãi, “than thầm” – lời than lặng lẽ, ẩn sau vẻ đẹp trù phú của thiên nhiên. +”Con gió xinh thì thào trong lá biếc,/ Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?/ Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,/ Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”: Cặp câu hỏi tu từ “Phải chăng sợ…” tạo thành điệp khúc của sự ly biệt. Sự
  • 9. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 9 Hệ thống động từ là một trong những cách thức quan trọng tạo nên sự biệt li mang tính phổ quát (khắp sông núi) đã được cụ thể hoá trong từng hình ảnh cụ thể. Dù là gió hay hoa cũng man mác nỗi sợ độ tàn phai sắp đến. Phép nhân hoá khắc sâu thêm cảm giác lo âu vì sự chia lìa. Hoá ra không chỉ có con người mà bất cứ tạo vật nào, dù nhỏ bé đến đâu cũng mang trong mình nỗi ám ảnh thời gian. " Mỗi tạo vật của tự nhiên đang ngậm ngùi tiễn biệt nhau, và thấm thía hơn, đau xót hơn là tiễn biệt một phần của nó. Những phần của sinh mệnh đang rời đi không cách nào ngừng được, tạo nên sự phôi pha của từng cá thể từ đó đã góp nên cái hồn tàn phai chung của toàn vũ trụ. + “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…/ Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”: Lời hối thúc con người phải sống gấp, sống vội vang lên đã khép lại chuỗi tâm trạng hoài nghi, man mác buồn của tác giả. Chính vì nhận ra tuổi trẻ là hữu hạn mà vẻ đẹp của cuộc đời, của mùa xuân, của tình yêu là vô tận nên nhà thơ kêu gọi con người phải sống hết mình, sống trọn từng giây phút bởi chẳng bao giờ chúng ta có thêm một lần nào nữa giữa cõi nhân sinh này để trải nghiệm vẻ đẹp của thế gian. " Nhận xét chung: Cách cảm nhận thời gian như thế xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời cá thể đều vô cùng quý giá. Nó quý giá chính vì một khi đã mất đi là mất đi vĩnh viễn. Từ đó gợi nên lời khuyên cho mỗi người hãy biết quý trọng từng giây phút của cuộc đời mình, phải làm cho từng giây phút trở thành bất tử. Như thế mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “vội vàng”. 2.3. Đoạn 3: Khát vọng sống, khát vọng yêu cuồng nhiệt, hối hả: - Nhận xét chung: Quy luật nghiệt ngã của thời gian đặt cho con người câu hỏi lớn: Làm sao vượt thắng được quy luật đó? Làm sao sống tròn đầy cuộc đời hữu hạn của mình? Ở đoạn thơ này, Xuân Diệu đã đưa ra câu trả lời của mình. + “Ta muốn ôm”: Câu thơ được tách riêng ra như để đánh dấu một bước biến chuyển mới trong tâm trạng tác giả. Bắt đầu từ đây, đã hết phần lập thuyết, Xuân Diệu tìm đến với quan niệm sống của mình, cái quan niệm sống có thể giúp ông tận hưởng được nhiều nhất những vẻ đẹp mà ông mong muốn được hưởng lấy từ cuộc đời. Quan niệm nhân sinh thể hiện trong đoạn này là kết quả tất yếu của những phần trước. + Điệp cấu trúc “Ta muốn…” tạo cho đoạn thơ giọng điệu say riết, sôi nổi, thiết tha. Đó là tâm trạng của người muốn bám riết lấy cuộc đời trần thế. Khác với đoạn thơ đề từ bắt đầu bằng “tôi”, thi nhân chọn đại từ “ta”. Về mặt ngữ nghĩa, ta hướng đến cái chung, hướng đến cái rộng trong khi tôi hướng về bản ngã của chính mình. Cất lên tuyên ngôn sống của mình, Xuân Diệu đang hướng đến cuộc đời cao rộng. * Điều đặc sắc nhất trong đoạn thơ này thể hiện trong nghệ thuật ngôn ngữ: + Các động từ mạnh: “ôm, riết, say, thâu” thể hiện sự mê say mãnh liệt của tác giả đối với vẻ đẹp cuộc đời. Các từ này xuất hiện liên tiếp, cùng với sắc thái nghĩa của nó đã bộc lộ cường độ sống mãnh liệt của chính Xuân Diệu. Đây chính là nét thứ nhất trong quan niệm của Xuân Diệu về cách thức sống để phần nào cưỡng lại được bước đi tàn nhẫn của thời gian: tăng lên cường độ sống – sống càng say sưa, càng sâu sắc, càng mê đắm đối với vẻ đẹp trần gian thì càng níu giữ được nhiều vẻ đẹp trong dòng chảy bất tận của thời gian. - Những điều mà tác giả muốn giữ lấy, ôm trọn lấy:
  • 10. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 10 mãnh liệt trong khát khao giao cảm của Xuân Diệu. Những động từ thường thấy được Lê Quang Hưng thống kê bao gồm: + Ôm, ghì: “Giơ tay muốn ôm cả Trái Đất/ Ghì trước trái tim, ghì trước ngực.” + Riết: “Những cánh tay hãy quấn riết đôi vai/ Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt.” + Cắn, bấu: “Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời/ Kẻ đựng trái tim trìu máu đất/ Hai tay chín móng bám vào đời.”… Ta muốn Động từ Đối tượng Phân tích Ôm “cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn” Khát khao ôm lấy tất cả vẻ đẹp trinh nguyên của thế giới. “Mới bắt đầu” + từ láy “mơn mởn” là thế giới trong sự non tơ, tinh khiết của nó. Riết “mây đưa và gió lượn” Khát khao ôm lấy vẻ đẹp của những gì đang chuyển động trong thế gian; vẻ đẹp của thế giới đang thành hình, đang vận động, đang sinh sôi. Say “cánh bướm với tình yêu” Hình ảnh cánh bướm được sánh cùng tình yêu là hai vẻ đẹp của thời trẻ thiên nhiên và tuổi xuân con người. Hoa bướm đại diện cho những điều lộng lẫy, đẹp đẽ. Tình yêu lại là cõi mênh mông những cảm xúc mà dù ở cung bậc nào cũng đi đến tận cùng của nó. Thâu “một cái hôn nhiều” Sự thể hiện, trao tặng và nối kết cái tôi. Nó là một biểu hiện của sự hòa điệu tâm hồn, là hiện thân của tình yêu say đắm. “Cái hôn nhiều” – chỉ một lần thôi nhưng đến tận cùng, tận độ của mê say. - “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”: Phép điệp liên từ “và” + phép liệt kê trong cùng một câu đã biến dòng thơ trở thành một câu mang giá trị khái quát, bao trùm tất cả những gì đẹp đẽ nhất mà tác giả muốn tận hưởng: non nước, cây, cỏ rạng. - “Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh sắc của thời tươi”: Các từ tính từ láy “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” cho thấy trạng thái say sưa, mê đắm của con người sống trong cái tận cùng của sự tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Loạt từ này còn tạo cho người ta cảm giác của một tâm hồn đang ngất ngây trong men đời dịu ngọt. - “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”: Câu thơ biểu lộ khát khao giao hòa, tận hưởng được đẩy đến tận độ trở thành một thứ khao khát giao hòa mang đầy tính nhục cảm, đầy khát khao chiếm hữu. Tác giả đã vật chất hoá, nhục cảm hoá “xuân hồng” – vẻ đẹp của mùa xuân – để có thể tận hưởng nó, giao hoà, giao cảm, hoá thành một với nó. • Liên hệ: Đây là cách thể hiện khát khao giao cảm “rất Xuân Diệu”: “Nên lúc môi ta kề miệng thắm,/ Trời ơi, ta muốn uống hồn em.” (Vô biên), “Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời,/ Kẻ đựng trái tim trìu máu đất,/ Hai tay chín móng bám vào đời.” (Hư vô). • Tiểu kết: - Nghệ thuật: + Nhịp thơ hối hả, gấp gáp để chuyển tải cả một dòng cảm xúc say sưa, ào ạt (tạo nên bởi những câu thơ dài ngắn đan xen, nhiều điệp từ tạo nhịp và ngắt nhịp nhanh mạnh). Hình ảnh thơ đa dạng, tươi mới, giàu sức sống (Sự sống mơn mởn; Mây đưa, gió lượn, cánh bướm với tình yêu; Cái hôn nhiều, non nước, cây cỏ, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng); mới mẻ, độc đáo: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Ngôn từ: động từ, tính từ mạnh, táo bạo rất trần tục. Điệp khúc “ta muốn”: dồn dập, khẩn thiết. Cách
  • 11. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 11 xưng hô: Từ “Tôi” sang “Ta” như lớn hơn để ôm trọn cuộc sống - chất người Xuân Diệu. + Những làn sóng ngôn từ đan xen nhau, cộng hưởng với nhau theo chiều tăng tiến, càng lúc càng lên cao trào, phối hợp hệ thống trùng điệp. Toàn bộ đoạn thơ là tiếng lòng khao khát mãnh liệt. Tiếng lòng ấy là một chuỗi điệp cú, hình thái thì điệp nguyên vẹn, còn động thái và cảm xúc thì tăng tiến. Sự hỗ trợ của hệ thống điệp từ khác: điệp liên từ, gắn với trạng thái cảm xúc ngày càng mãnh liệt. Hệ thống từ chỉ xuân sắc, động từ chỉ động thái đắm say, danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân tươi trẻ... - Nội dung – quan niệm sống: Cách sống tốt nhất, cũng là cách kéo dài tuổi thanh xuân chính là tăng tốc độ sống, và quan trọng hơn là cường độ sống, để có thể sống mãnh liệt hơn, tận hiến nhiều hơn và tận hưởng nhiều hơn. Tất cả khát vọng đó cuộn chảy trong trái tim rạo rực của thi sĩ để rồi cất lên thành những câu từ có sức biểu đạt lớn. 2.4 Khái quát về cái tôi của Xuân Diệu thể hiện trong bài thơ: Cái tôi Xuân Diệu là đại diện tiêu biểu cho thời đại thơ mới: - Đó là một cái tôi có ý thức ráo riết về giá trị đời sống của cá thể. Ông dùng con người làm thước đo vẻ đẹp tự nhiên; lấy thời gian hữu hạn của đời người để soi chiếu thời gian vũ trụ; đề cao những khát khao yêu đương, khát khao tận hưởng… của con người. Đó là một ý thức nhân bản, nhân văn rất cao. - Đó là một cái tôi chứa đựng quan niệm táo bạo đầy tính cách mạng trước những quan niệm cũ kĩ vốn cản trở việc giải phóng con người cá thể, đặc biệt là lề thói của xã hội phong kiến vốn đòi hỏi con người phải từ bỏ khát vọng cá nhân để sống theo khuôn thước, quy chuẩn do người xưa áp đặt. Đây cũng là xu hướng chung của các tác giả Tự lực văn đoàn và thơ Mới nói chung. - Tình yêu thiết tha với cuộc sống trần thế: Xuân Diệu không trốn tránh cuộc đời, không tìm quên trong quá khứ, mộng tưởng như nhiều nhà thơ cùng thời mà xây dựng thiên đường trên mặt đất. - Một khát khao sống mãnh liệt và một tâm thế sống tích cực. Thái độ sống “vội vàng” mà Xuân Diệu đề xuất không phải là sống hối hả, sống nhanh theo kiểu lướt qua cuộc đời mà đó là lối sống với cả tốc độ và cường độ. Sống sâu sắc trong từng giây phút, tận dụng từng khoảnh khắc của cuộc đời để sống, để tận hiến và tận hưởng. ð Thực ra Xuân Diệu giục giã, Xuân Diệu muốn sống vội vàng nhưng đó là sự vội vàng có chiều sâu, cùng một lúc tăng tốc độ sống lẫn cưởng độ sống. Đặt vào bối cảnh văn học đương thời, khi mà tầng lớp thanh niên đang như “đứa con bơ vơ đi tìm mẹ”, đang ngủ quên giữa cuộc đời, đang thoát li, tìm phương thuốc ở tinh cầu xa xôi nào đó... thì lối sống vội vàng của Xuân Diệu chính là một lời cảnh tỉnh, một cách sống nhân văn. Hãy tìm vẻ đẹp từ chính cuộc đời này. 3. TỔNG KẾT 3.1. Nội dung: Lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. 3.2. Nghệ thuật: - Kết hợp cảm xúc + luân lý; - Giọng điệu say mê, sôi nổi;
  • 12. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 12 - Sáng tạo độc đáo ngôn từ và hình ảnh thơ. II. HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI NÂNG CAO Hãy nêu một vài nét chính trong phong cách thơ của Xuân Diệu. TRẢ LỜI - Được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, Xuân Diệu là tiếng thơ thể hiện đầy đủ nhất cho ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới đồng thời mang đậm bản sắc riêng. Trước hết, nó hiện ra trong hình tượng một cái tôi tích cực mãnh liệt. Cái tôi ấy bám riết lấy trần gian, chạy đua với thời gian, lúc nào cũng thèm yêu khát sống, với triết lí “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào”, với chủ trương “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Vì thế, lúc nào cái tôi ấy cũng khát khao tận hưởng và tận hiến ngay trên thiên đường trần thế này. Đồng thời, nó còn hiện ra trong một giọng điệu sôi nổi, bồng bột, vồ vập, cuống quýt, cả khi vui lẫn khi buồn. - Cái nhìn của Xuân Diệu về thiên nhiên là cái nhìn tình tứ, nên thiên nhiên thường hiện ra với vẻ đẹp xuân tình. Cụ thể là những sự vật, hiện tượng, cảnh sắc thiên nhiên đều trẻ trung, xuân sắc và gợi cảm. Vạn vật đều tình tứ - “Vạn vật nức xuân tâm”, “Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới”. Mà cảnh vật thường được quy chiếu về vẻ đẹp của những giai nhân, tình nhân và thành những cặp đôi. Ví như vầng trăng: “Trăng từ viễn xứ/ Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn” (Lời kĩ nữ), hay mùa thu đến: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới/ Với áo mơ phai dệt lá vàng” (Đây mùa thu tới), hoặc con đường: “Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu/ Lả lả cành hoang nắng trở chiều” (Thơ duyên)… - Thơ Xuân Diệu cũng rất tiêu biểu cho tinh thần lãng mạn ở chỗ mỗi tiếng thơ như một cơn lũ cảm xúc tuôn chảy ào ạt, lôi cuốn. Tuy nhiên, mỗi thi phẩm của Xuân Diệu đều có một cấu tứ khá chặt chẽ. Không chỉ giãi bày cảm xúc, phơi trải tâm tình một cách đơn thuần, thi sĩ còn nêu ra những quan niệm, những triết lí. Quan niệm về tuổi trẻ, hạnh phúc, tình yêu, về thời gian, trần gian, về thi ca, thi sĩ, về sắc đẹp, cái đẹp… Mỗi quan niệm và triết lí ấy đều được triển khai một cách hệ thống, lớp lang, thành một mạch triết luận song hành với mạch cảm xúc. Cả hai mạch này thường quyện chặt với nhau, xuyên thấm vào nhau. (Trần Đình Sử) III. TƯ LIỆU 1. “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quít, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết. Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi.” (Hoài Thanh) 2. “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới.” (Hoài Thanh) 3. “Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể đi theo những đường có sẵn. Ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu văn phải lung lay.” (Hoài Thanh) 4. “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới.” (Hoài Thanh) 5. “Bởi cái lõi của mùa xuân là tình. Mùa xuân đối với vạn vật chẳng phải là mùa tình sao?” (Chu Văn Sơn) 6. “Cuộc cách tân hùng hậu trong nghệ thuật của thơ Mới bắt nguồn từ một cuộc đổi thay vĩ đại trong quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ.” (Chu Văn Sơn)
  • 13. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 13 7. “Chưa bao giờ như lúc này, người ta mới thấy quý cái nhân thân, nhân dạng, nhân vị và nhất là nhân cách của mình đến thế. Người ta mới thấy tiếc mình, mới thấy khuất mình trong bóng tối ngàn năm là vô lí, hòa tan đến mức tan biến vào đám đông không tên là bi kịch, trở thành những phiên bản phi căn cước là đau khổ.” (Chu Văn Sơn) 8. “Con người thấu rõ hơn bao giờ hết cái hữu hạn, cái mong manh, cái phù du đến tàn nhẫn của nhân sinh. Càng đối diện với sự vô nghĩa của kiếp người, người ta càng muốn gia tăng ý nghĩa cho đời người.” (Chu Văn Sơn) 9. “Muốn ‘tắt nắng’, muốn ‘buộc gió’ thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.” (Chu Văn Sơn) 10. “Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần hoàn.” (Chu Văn Sơn) 11. “Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy, phải sống vội vàng. Thế là, Vội vàng chính là cách duy nhất để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường như cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc vậy! Xuân Diệu quả đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ của nguồn sống trẻ.” (Chu Văn Sơn) 12. “Đó là một tâm sự nồng nàn mà kín đáo, một linh hồn rạng rỡ và say mê, đằm thắm hiện ở trong những điệu thơ êm dịu và ái ân, thiết tha và bồng bột. Cảnh sắc của sự vật, nỗi âm thầm của tình ái, dáng tươi cười của mùa xuân, nỗi tiếc thương lạnh lẽo của mùa thu, lời van xin, khuyên nhủ của tấm lòng yêu thấm thía nhưng rụt rè; tất cả những tình cảm ấy đều tả trong thơ Xuân Diệu một cách mới lạ, ý nhị, vừa đơn giản, vừa đầy đủ, gợi cho ta thấy những hình ảnh, những tư tưởng bát ngát và tươi đẹp không ngờ.” (Thế Lữ) 13. “Xuân Diệu là một con người của đời, một con người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông không trốn tránh mà lại còn quyến luyến cõi đời, và lời nguyền ước của ông có bao nhiêu sức mạnh.” (Thế Lữ) 14. “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong bầu tim mây trời thanh sắc.” (Thế Lữ) 15. “Nhưng xuân không dài dặc, tình có bền đâu! Xuân với tình cũng vô định như sự thực không bền, và lại còn mong manh hơn cuộc đời chảy trôi. Bởi thế, Xuân Diệu vội vàng, bao giờ cũng lo âu thắc mắc. Luôn luôn tận tâm, siêng năng mà sống, ông mau mau đem hết cả tâm hồn mà tặng cho đời, và ông cũng đòi hết cả tâm hồn của người yêu dấu, của trời đất, của mọi sự vật trên thế gian này,” (Thế Lữ) 16. “Sở dĩ Xuân Diệu tham lam tình yêu, chất chứa vào lòng không chán, không đủ, không nguôi là bởi thi sĩ rất sợ cô độc. Ông muốn biến ra nhiều thân, hóa thành muôn ức, triệu, vì ông thấy người ta đều chỉ trơ trọi một mình. Ông tìm gần gụi vì ông quá riêng tây, ông thấy nỗi mênh mông của tâm hồn nên ông muốn thành một cây kim để hút vào mình thiên hạ.” (Thế Lữ) 17. “Trong một tác phẩm văn học, cái mà người ta yêu trước hết là cuộc sống, chân lí cuối cùng và cao nhất của nghệ thuật là cuộc sống. Nghệ thuật không thể là một thế giới riêng ở ngoài đời.” (Xuân Diệu) 18. “Nhà thi sĩ đã huy động các giác quan mà tạo hóa đã ban cho để tận hưởng những giây phút kì diệu của đời sống.” (Nguyễn Đức Quyền) 19. “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo nảo như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên, và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.” (Hoài Thanh) 20. “Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một với một y phục tối tân và chúng ta rụt rè không muốn làm thân với con người ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người ấy cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.” (Hoài Thanh)
  • 14. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 14 21. “Với Thế Lữ thi nhân còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất say sưa. Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và đưa ai nấy về hạ giới.” (Hoài Thanh) 22. “Nhà thi sĩ ấy là một chàng trai trẻ hiền hậu và say mê, tóc như mây vướng trên đài trán ngây thơ, mắt như lưu luyến mọi người, và miệng cười mở rộng như một tấm lòng sẵn sàng ân ái. Chàng đi trên đường thơ, hái những bông hoa gặp dưới bước chân, những hương sắc nảy ra bởi ánh sáng của lòng chàng hái tặng cho nhân gian. Và từ đây chúng ta có Xuân Diệu.” (Thế Lữ) 23. “Đây là lòng tôi đang thời sôi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân, và đây là tuổi xuân, là sự sống của đời tôi nữa: tôi đem tặng cho người trong mấy bài thơ đây.” (Xuân Diệu) 24. “Tôi sợ mất sự sống của tôi, tôi không muốn nó rơi rớt chảy trôi theo dòng ngày tháng. Tôi đã ráng bỏ từng mảnh đời tôi trong hàng chữ, để gửi đi, gửi đi cho người bốn phương.” (Xuân Diệu) 25. “Vội vàng tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi trong Thơ Mới, tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo độc đáo trong thơ Xuân Diệu.” (Nguyễn Đăng Mạnh). 26. “Thoát khỏi hệ thống ước lệ của thơ cũ, cặp mắt xanh Xuân Diệu vui sướng, ngơ ngác như lần đầu tiên thấy trời xanh, hoa lá. Cái gì cũng đẹp, tươi mới, mê say…” (Nguyễn Đăng Mạnh). 27. “Thiên đường hương sắc là mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, như mâm tiệc với thực đơn hấp dẫn, như người tình với ánh mắt lả lơi. Nhà thơ hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà như đang tình tự với thiên nhiên.” (Nguyễn Đăng Mạnh) 28. “Xuân Diệu như một con ong hút mật nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi, hay như một tình lang đang chếnh choáng men say một cuộc tình nồng nàn.” (Nguyễn Đăng Mạnh). 29. “Nói đến Xuân Diệu là nói đến nhà thơ của sự vội vàng. Đó không chỉ là tư tưởng, mà còn là nguồn thi hứng dồi dào cho thơ ông.” (Lê Tiến Dũng). 30. “Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ không chỉ sống hay ham sống mà ông say sống, sống mãnh liệt, hối hả. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước thanh sắc trần gian, một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.” (Nguyễn Thành Thi). 31. “Người đọc cảm nhận ra cái tôi của Xuân Diệu muốn chiếm lĩnh, tận hiến cái đoạn ngon nhất, tinh túy nhất của thiên nhiên, vũ trụ: tắt nắng để giữ màu, buộc gió để lưu hương.” (Nguyễn Trọng Hoàn). 32. “Không có bài thơ nào của anh không ngợi ca một hương thơm, một thanh sắc.” (Mireil Ganchene). Một số bài thơ của Xuân Diệu: 33. Làm thi sĩ nghĩa là ru với gió Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến. […] Đôi giếng mắt đã chứa trời vạn hộc Đôi bờ tai nào ngăn cản thanh âm Của vu vơ nghe mãi tiếng kêu thầm… Của xanh thẳm thấy luôn màu nói sẽ… […] Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ Mà vạn vật là muôn đá nam châm Nếu hương đêm say dậy với trăng rằm Sao lại trách người thơ tình lơi lả? (Cảm xúc) 34. Mau với chứ, vội vàng lên với chứ Em, em ơi, tình non đã già rồi; Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
  • 15. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 15 Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa, Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ, Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết! Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt: Những vườn xưa nay đoạn tuyệt dấu hài Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn. […] Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. (Giục giã) 35. Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần. Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm! Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân. Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh; Linh lung bóng sáng bỗng rung mình Vì nghe nương tử trong câu hát Đã chết đêm rằm theo nước xanh. Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi… Long lanh tiếng sỏi vang vang hận: Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người… Bốn bề ánh nhạc biển pha lê Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề. Sương bạc làm thinh, khuya nín thở: Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê. (Nguyệt cầm) 36. Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng; Đây mùa thu tới – mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng. Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh; Những luồng run rẩy rung rinh lá… Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ, Non xa khởi sự nhạt sương mờ… Đã nghe rét mướt luồn trong gió, Đã vắng người sang những chuyến đò…
  • 16. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 16 Mây vẩn từng không, chim bay đi, Khí trời u uất hận chia li. Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì. (Đây mùa thu tới) 37. Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh, Cho gió du dương điệu múa cành; Cho gió đượm buồn, thôi náo động Linh hồn yểu điệu của đêm thanh. Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ, Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ. Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá! Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ. (Trăng) 38. Yêu là chết ở trong lòng một ít Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu? Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu: Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết. (Yêu) 39. Đôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm! Ôi trời xa, vừng trán của người yêu! Ta thấy gì đâu sau nhan sắc yêu kiều Mà ta riết giữa đôi tay thất vọng. Dầu tin tưởng: chung một đời, một mộng. Em là em, anh vẫn cứ là anh. Có thể nào qua Vạn Lí Trường thành Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật. (Xa cách) 40. Ta ôm bó, cánh tay làm rắn Làm dây da quấn quít cả mình xuân; Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần, Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất. […] Sống toàn tim, toàn trí, toàn hồn! Sống toàn thân và thức nhọn giác quan, Và thức cả trong giấc nồng phải ngủ; Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ. (Thanh niên) 41. Tôi vẫn biết rằng tôi chẳng xứng người; Mùa xuân tôi chưa hề có hoa tươi Tôi như chiếc thuyền hư, không bến đỗ;
  • 17. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 17 Tôi là một con chim không tổ. Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi, Nhặt nụ cười của thiên hạ, than ôi, Để tự nhủ: ‘Ta được yêu đấy chứ’. Tôi chỉ sống để hoài hoài thương nhớ, Mãi mãi yêu nhưng giấu giếm luôn luôn; Mà người thì, lơ đãng, giận thêm buồn, Bận đi hái những cành vui xanh thắm. […] Vì vội kiếm tìm nhau, tôi sẽ Chỉ thấy người thương nhưng chẳng thấy tình thương, Và như màu, theo nắng nhạt, như hương Theo gió mất, tình người đả tản mác. Tôi sẽ trốn, thẫn thờ, ngơ ngác, Trái tim buồn như một bãi tha ma, Gượng mỉm cười: ‘Người quên nghĩ rằng ta Sẽ đau đớn bởi một lời nói vội’. […] Mà trái tim đã ghê dáng hững hờ Sẽ chung phận của tro tàn bếp lạnh. Tôi giấu sẵn một linh hồn hiu quạnh, Cho nên, liền chiều đó tôi hết vui. Không thấy người bằng không thấy mặt trời, Tôi ôm ngực thử tìm xem biên giới Của sầu tủi. Nhưng hỡi người yêu hỡi! Nó mênh mông, vô ảnh, bủa vây tôi; Yên ổn đi, thắc mắc đến đây rồi, Mơ ước tới, mà chán chường cũng lại. Và mơn trớn cả một kho ân ái, Tôi một mình đối diện với tình không Để lắng nghe tiếng khóc mất trong lòng. (Dối trá) PHÂN TÍCH VỘI VÀNG (XUÂN DIỆU) “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ, Em, em ơi, tình non đã già rồi; Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi, Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi.” Có một thi sĩ với tình yêu cuộc sống tha thiết đã cất lên những câu thơ như thế, người thi sĩ ấy là Xuân Diệu. Ông là đỉnh cao nhất, ngôi sao sáng nhất của phong trào thơ Mới với những vần thơ đong đầy sự lãng mạn nhưng cũng không kém phần “thiết tha, rạo rực, băn khoăn” (Hoài Thanh). Hồn thơ ấy luôn gắn bó tha thiết với thiên nhiên và cuộc sống, luôn rạo rực, cuồng nhiệt đến vội vàng trong cách sống, cách yêu và đôi khi cũng trăn trở, ưu tư trước sự chảy trôi của dòng đời. Bài thơ Vội vàng (in trong tập Thơ thơ năm 1938) của ông chính là những biểu hiện thuyết phục nhất về cái tôi, về hồn thơ đa cảm rất Xuân Diệu ấy: “Tôi muốn tắt nắng đi … - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
  • 18. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 18 Bài thơ chính là lòng ham muốn, khát khao mãnh liệt của một tâm hồn thơ dào dạt, trẻ trung nhưng luôn bị ám ảnh bởi sự hữu hạn của kiếp người. Chính nỗi ám ảnh ấy đã càng đẩy hồn thơ Xuân Diệu lên một tầm cao hơn, bởi phải biết đau khổ mới biết thế nào là hạnh phúc, khi biết lo sợ về thời gian mới biết cách sống thế nào để không lãng phí. Xuân Diệu nhìn thấy được cái hữu hạn từ cái vô hình của thời gian nên ông đã khao khát: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi.” “Tôi” là nhân vật trữ tình hay chính là Xuân Diệu? “Tôi muốn” là nhân vật trữ tình “muốn” hay chính Xuân Diệu “muốn”? Có thể là cả hai bởi dù theo nghĩa nào thì ta cũng thấy được ước muốn cháy bỏng của tác giả: muốn “tắt nắng”, “buộc gió”. Có cái gì đó ngông nghênh, hoang đường khi nhà thơ muốn “tắt”, muốn “buộc” những sự vật thiên nhiên là nắng và gió nhưng nó cũng rất thật, rất chân thành nếu đó là khát khao được giữ chân thời gian, kéo dài cuộc sống của một tâm hồn yêu đời da diết. Điệp từ “tôi muốn”, động từ mạnh “buộc”, “tắt” cùng biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc câu không chỉ là nhấn mạnh khao khát của Xuân Diệu mà còn mở ra cho người đọc một không gian trữ tình. Ở đó, tâm hồn yêu đời của tác giả đang níu giữ “màu” của “nắng” để nó “đừng nhạt mất”, đang kìm hãm “hương” của “gió” để nó “đừng bay đi”. Ở một góc độ nào đó, nắng và gió cũng chính là vẻ đẹp của cuộc sống, nó góp phần tạo nên hương sắc cho cuộc đời, có nắng tất cả đều trở nên ấm áp, tươi trẻ; có gió thì vạn vật đều rung động, căng đầy nhựa sống. Thật sự nhà thơ Xuân Diệu như đang đi ngược lại qui luật của tự nhiên, ông muốn giữ lấy mãi mãi vẻ đẹp của cuộc đời trong từng khoảnh khắc và hơn thế chính là muốn bất tử hoá vẻ đẹp ấy nhưng nhà thơ lại thể hiện bằng thể thơ ngũ ngôn cổ điển cùng nhịp thơ gấp gáp, vồ vập. Ắt hẳn đây là cảm xúc của nhà thơ: mãnh liệt và cuồn cuộn. Chỉ với bốn câu thơ đầu, người đọc đã thấy được ước muốn ngông cuồng của “ông hoàng thơ tình Việt Nam” khi muốn ngự trị thiên nhiên, thay quyền tạo hoá. Nó ngông cuồng nhưng không khiến ta thấy kệch cỡm bởi nó xuất phát từ tình yêu tha thiết cuộc đời trần thế trong tâm hồn thi sĩ. Và từ tình yêu đó, ông đã thấy được một thiên đường mùa xuân đầy màu sắc ngay xung quanh ông: không hề xa lạ, không hề quá tầm tay với mà đều rất gần, rất đỗi quen thuộc với chúng ta. “Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;” Với đoạn thơ trên, ta như thấy được một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, một thiên đường nơi trần thế với tất cả những gì non tơ, trinh nguyên, tinh khôi nhất hiện ra. Xuân Diệu có lẽ đã dùng tất cả giác quan của mình để vẽ nên kiệt tác này. Ta có thể thấy được những hình ảnh thân quen: “ong bướm”, “hoa”, “lá”, “ánh sáng”. Ta cũng cảm nhận được cái cuồn cuộn của sự sống căng tràn trong vạn vật với “đồng nội xanh rì”, “cành tơ phơ phất”. Cũng trong bức tranh ấy, ta có thể nghe đâu đó âm thanh của tình yêu đôi lứa – “khúc tình si” và tất nhiên không thể thiếu sự ngọt ngào hương vị ái ân của “tuần tháng mật”. Thế mới thấy con mắt thơ của Xuân Diệu thật tài tình, từ những gì bình thường, quen thuộc, ông vẫn có thể phù phép để nó trở nên đẹp đẽ, quyến rũ đầy mời gọi. Điệp từ “Này đây” lặp lại đến năm lần đầy ấn tượng. Nhà thơ như đang đứng giữa không gian rộng lớn của thiên nhiên, đưa tay chỉ cho người đọc thấy thiên đường chính là thế giới quanh ta. Ông liệt kê từng sự vật rất tự nhiên và hấp dẫn, mỗi lần “Này đây” là mỗi lần ông cho chúng ta thấy được một vẻ đẹp khác của vườn tình ái mà ông dựng lên. Ở lần điệp từ cuối cùng, ông dùng cụm từ “Và này đây…” như một lần nữa nhấn mạnh sự phong phú, đa dạng của bữa tiệc trần gian mà ông đã bày sẵn để chúng ta thưởng thức. Thiên nhiên, vạn vật như đang say trong hạnh phúc. “Ong bướm” thì có “tuần tháng mật”, “đồng nội” đã có “hoa”, “cành tơ” cũng có “lá”, “yến anh” thì cũng không thể thiếu “khúc tình si”… Thế mới thấy,
  • 19. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 19 dưới con mắt nhà thơ, mọi hình ảnh đều trở nên độc đáo, mới lạ, cũng như cách dùng từ ngữ gợi cảm, tinh tế và các biện pháp tu từ đầy sáng tạo rất riêng. Và trên nền bức tranh ấy là “mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa”. Với nhà thơ, thiên đường tất nhiên không thể thiếu niềm vui, thế là ông tô điểm lên nó chút niềm vui thần thánh đón chờ vào mỗi buổi sớm. Đến đây, ta thấy được hình ảnh táo bạo nhất khi nhà thơ ví von “tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Lúc này, nhà thơ không chỉ hưởng thụ thiên nhiên mà còn là hưởng thụ ái tình, yêu thiên nhiên nhưng thực chất là tình tự với thiên nhiên. Nếu ở 4 câu đầu, ông dùng thể thơ ngũ ngôn cổ điển thì giờ đây ông lại đi ngược hoàn toàn phong cách thơ cổ điển. Ông không lấy thiên nhiên làm chuẩn mực để phân định vẻ đẹp con người như Tố Như. Ngược lại, nhà thơ đưa con người lên làm chuẩn mực, làm thước đo vẻ đẹp thiên nhiên. Tháng giêng thì phải ngon như một cặp môi gần, cũng như lá liễu dài thì cũng phải dài như một nét mi. Hình ảnh so sánh thật gợi cảm: tháng giêng – mùa xuân – chính là thời gian đẹp nhất trong năm được đặt chung với cặp môi gần – tình yêu, tuổi trẻ, giai đoạn đẹp nhất của đời người. Nó gợi lên cảm xúc rất trần thế, rất nồng nàn của con người nhưng cũng rất trong sáng, thanh cao; không hề dung tục. Chính cái nhìn trẻ trung, rất riêng, luôn lấy con người, mùa xuân, tuổi trẻ làm chuẩn mực cho cái đẹp này đã nâng vẻ đẹp của thiên nhiên lên một tầm cao mới. Giữa lúc “ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cũng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ…” thì “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới.” (Hoài Thanh). Ông chứng minh cho mọi người thấy rằng thiên đường không cần phải tìm kiếm trong xa vời hư ảo, nó hiển hiện ngay trước mắt với hơi thở nồng nàn; nó tồn tại giữa trần thế với tâm trạng tươi trẻ, mời gọi chúng ta. Xuân Diệu phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu ấy và thổi vào đó một tình yêu rạo rực, đắm say, ngây ngất. Thế rồi trong cơn sung sướng ấy, ông bừng tỉnh: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” Đang “sung sướng” nhưng nhà thơ lại đặt vào dấu chấm giữa dòng, một nét phá cách độc đáo về nghệ thuật trong thơ mới và cũng đem đến một ý nghĩa khác. Dù là “sung sướng” trước bữa tiệc ngọt ngào của mình nhưng Xuân Diệu cũng “vội vàng một nửa”. Chính sự “vội vàng” ấy đã nói lên được đặc trưng rất riêng của nhà thơ, luôn sôi nổi, cuồng nhiệt yêu và sống, luôn hết mình tận hưởng cuộc đời. Ông “vội vàng” từng giây phút, ông quý trọng từng khoảnh khắc sống. Có lẽ Xuân Diệu ý thức được sự hữu hạn của kiếp người, của cái vẻ đẹp thiên nhiên non tơ trước mắt, những thứ rồi sẽ tàn phai ngay khi rực rỡ, ông không muốn phải hối tiếc, phải hoài niệm về một thời xuân sắc, không muốn “nắng hạ” rồi mới “hoài xuân”. Qua hai câu thơ này, ta thấy được giọng điệu đầy tính triết lí nơi Xuân Diệu, phải chăng đó chính là nhân sinh quan của ông về cách sống: phải đoạt lấy sự sống, tranh lấy thời gian, tận hưởng cuộc sống thật trọn vẹn. Từ đầu bài thơ đến đây, bằng giọng thơ sôi nổi, hình ảnh, từ ngữ đẹp, gợi cảm, Xuân Diệu đã thổi vào tâm tưởng người đọc một chút tinh tế, một chút nồng nàn, tha thiết với cuộc sống trần thế, cảnh tỉnh người đọc để họ nhận ra chân trời hạnh phúc luôn rất gần với họ. Nhưng cũng từ đây, ông đã gửi vào đó một chút băn khoăn, ưu tư: “Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.” Hoa nở rồi sẽ tàn; sinh, lão, bệnh rồi tử; Mặt trời mọc đằng Đông và lặn đằng Tây; mọi thứ đều có qui luật trôi chảy riêng của nó vì thời gian luôn cuốn trôi tất cả, mọi thứ rồi cũng sẽ tàn phai. Với một tâm hồn đa cảm, Xuân Diệu đã thấy được điều đó nhưng ông không quan niệm xuân, hạ, thu, đông rồi lại xuân mà ông còn có một cách nghĩ khác. Điệp từ “xuân” phải chăng chính là để nhấn mạnh tuổi trẻ? Bởi với ông, mùa xuân và tuổi trẻ, một đi là sẽ không bao giờ trở lại, không còn định nghĩa sự tuần hoàn của thời gian mà chỉ còn lại sự trôi chảy của thời gian. Nó trôi chảy từng giây, từng phút, nó trở nên tuyến tính, một đi không trở lại. Đây lại là một nét mới trong thơ, khi con người hiện đại không còn lấy sinh mệnh vũ trụ để đo thời gian, họ không còn tin vào sự tuần hoàn của thời gian, sự tồn tại mãi mãi giữa con người với trời đất. Với các nhà thơ mới, vũ trụ không ngừng vận động, con người chỉ là một hạt cát bé nhỏ trong hệ thống ấy, không thể nào chống cự hoặc đi ngược lại qui luật của thời gian. Ấy vậy, “xuân đương tới”, mọi thứ đang mơn mởn, tròn đầy đấy nhưng cũng chính trong khoảnh khắc ấy là “xuân đương qua”. “Xuân còn non”, theo dòng thời gian khắc
  • 20. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 20 nghiệt rồi “sẽ già”. Nhưng đau đớn nhất, bi kịch nhất chính là “xuân hết”, xuân đã qua thì cũng chính là lúc “tôi cũng mất”. Xuân chính là tuổi trẻ, tuổi trẻ chính là xuân, giá trị của cuộc sống không ở vào chiều dài của năm tháng kiếp người mà chỉ ở trong những năm tháng tuổi trẻ. Với điệp từ “nghĩa là”, nhà thơ say sưa tranh luận, đưa ra những định nghĩa mới về thời gian để rồi tự kết luận: Dù thời gian có thể mãi trôi, vũ trụ sẽ là vĩnh hằng nhưng “xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Từ nhận thức về sự giới hạn của cuộc đời, ông tự cảm thấy buồn thương: “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại! Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.” Những lời bộc bạch có phần đau đớn, xót xa của một tâm hồn yêu đời da diết như những dẫn chứng thuyết phục hơn cho sự trôi chảy vô thuỷ vô chung của thời gian. Dù có khát khao sống, dù “lòng tôi rộng” thì “lượng trời cứ chật”, cái tôi nhỏ bé như được đem ra so sánh với cái qui luật tuần hoàn của vũ trụ vĩnh hằng. Làm sao có thể được, “lượng trời” đã là thế, mọi thứ đã có số phận cho riêng mình, làm sao có thể “cho dài thời trẻ của nhân gian” khi kiếp người là hữu hạn. Đã thế, Xuân Diệu đành nồng nàn gửi gắm ý thơ “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!”. Nếu tuổi trẻ đã không có lần thứ hai, xuân có tuần hoàn hay không liệu có còn quan trọng? Nếu tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì liệu xuân trở lại có còn ý nghĩa? Nhưng thật đau đớn, Xuân Diệu một lần nữa nhận thấy trời đất, vũ trụ sẽ còn theo năm tháng nhưng “chẳng còn tôi mãi”. Từ đó, nhà thơ “bâng khuâng tiếc cả đất trời”, một nỗi đau mà hẳn những ai ham sống, khát khao được sống đều có thể nhận ra. Xuyên suốt đoạn thơ trên ta thấy nhà thơ đã sử dụng phép đối như để khẳng định sự đối lập giữa tuổi trẻ mùa xuân với thời gian vũ trụ. Những cụm từ “nhưng… không”, “nói làm chi… nếu…”, “còn… chẳng còn…” thật sự đã phát huy tác dụng to lớn khi nhấn mạnh vào mạch thơ một chút day dứt, suy tư. Xuân Diệu nhận ra rằng tuổi xuân qua đi sẽ không trở lại, nên từ góc nhìn của mình, ông đã cảm nhận được nhiều điều: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…” Thật kì lạ, vẫn biết là thời gian trôi mãi, tháng năm là vô hình, nhưng Xuân Diệu vẫn cảm nhận được “mùi tháng năm”. Thời gian mà lại có mùi hương, ấy thế mà nhà thơ muốn buộc gió để hương đừng bay. Nhưng “mùi tháng năm” ở đây lại rất đặc biệt, nó “rớm”, nó mang trong mình một tâm sự buồn bởi “rớm” là động từ thuộc về thị giác, và giờ đã thành vị giác. Thật sự quá tài tình, quá sáng tạo khi “vị” ấy lại là “vị chia phôi” – một thứ vô hình vô dạng. Xuân Diệu đã tạo nên hình ảnh ẩn hiện của giọt lệ chia phôi ngay trong câu thơ. Với Xuân Diệu, “mùi tháng năm” mang hình dạng của giọt lệ chia phôi ấy. Từ “đều” như khẳng định mỗi khoảnh khắc của “tháng năm” đều là từng cuộc chia phôi, tiễn biệt của nó với con người, với không gian và với cả chính nó. Để rồi từ đó, ông nghe thấy cá thể khác “vẫn than thầm tiễn biệt”. Biện pháp nhân hoá được sử dụng như thổi một luồng gió vào đất trời, nơi mà ở đó vạn vật đang chia ly với một phần đời của mình trong từng tích tắc. Tất cả như day dứt, đau đáu một niềm đau về sự mất mát đang diễn ra từng khoảnh khắc. Không chỉ thế, Xuân Diệu còn nhận ra nhiều điều khác đang diễn ra xung quanh: “Con gió xinh thì thào trong lá biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?” Xuân Diệu dùng phép liệt kê, từ “tháng năm”, “sông núi” thì giờ đây là “con gió xinh”, “lá biếc”, “chim rộn ràng”, có lẽ nhà thơ đã cảm giác được sự chia lìa bao trùm cả không gian và thời gian. Bức tranh thiên nhiên, thiên đường trần thế giờ đây đều đượm buồn, nhuốm màu chia ly. “Con gió” vẫn còn “xinh”, “lá” vẫn còn “biếc”, “chim” vẫn đang “rộn ràng” nhưng ẩn sâu trong đó vẫn là sự trôi chảy khắc nghiệt của thời gian. Gió rồi sẽ phải bay đi, chim rồi cũng phai tàn sắp sửa, tất cả rồi cũng bị thời gian tàn phá. Phép
  • 21. Ngữ Văn 11 - Trần Thị Ngọc Phượng - THPT Chuyên Lê Hồng Phong - 0914702708 Văn khoa Ngọc Phượng LHP: 684/39 Trần Hưng Đạo, P2, Q 5 - 0981702708 21 nhân hoá lại được Xuân Diệu sử dụng kết hợp với câu hỏi tu từ đã gợi lên một tâm trạng lo lắng, tiếc nuối và có cả sự sợ hãi, hoang mang không chỉ của thiên nhiên mà còn của con người khi thời gian trôi qua không thể giữ lại. Đến đây, ta dường như thấy được một khía cạnh khác nơi tâm hồn thi sĩ. Ông không chỉ cuồng nhiệt, sôi nổi, trẻ trung mà cũng biết “hờn”, biết “sợ”, biết buồn đau. Có lẽ vì quá yêu cuộc sống nên sợ cuộc sống tàn tạ, vì quá yêu đời nên sợ đời chấm dứt. Đó dường như chính là mặt trái của tình yêu cuộc sống nhưng nó cũng đẩy tình yêu cuộc sống nơi Xuân Diệu thêm thăng hoa và ý nghĩa. Chính Xuân Diệu cũng đã thốt lên: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…” Mọi thứ trôi qua sẽ “chẳng bao giờ” trở lại, điệp ngữ “chẳng bao giờ” chính là để nhấn mạnh điều đó. Một sự đau đớn, ngỡ ngàng hiện lên trong mạch cảm xúc của bài thơ. “Ôi!”, một từ cảm thán đã đẩy mọi thứ lên đỉnh điểm. Sự tiếc nuối, buồn bã trong tâm tưởng của nhà thơ đã biến thành sự chán nản, tuyệt vọng đến cùng cực. Ông dường như đang bất lực nhìn thời gian trôi qua, ngậm ngùi và chua xót. Tất cả chính là do sự thức tỉnh sâu sắc của “cái tôi” cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Sau tất cả, sau nỗi mất mát về tuổi trẻ và mùa xuân, Xuân Diệu hiểu rằng không “tắt nắng”, không “buộc gió”, không kìm hãm được vòng xoay của vũ trụ thì chỉ còn một cách khả thi nhất: phải chạy đua với thời gian, sống trọn từng giây phút, phải tranh thủ sống: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” Ngay trong lúc chán nản và tuyệt vọng nhất, nhà thơ của chúng ta đã thấy được ánh sáng của cuộc sống. Ông đưa ra lời giục giã “mau đi thôi!”, kêu gọi mọi người hãy sống nhanh hơn, mãnh liệt hơn, cố gắng hết mình hơn. Ông hiểu rằng một khi không thể nắm giữ mùa xuân thì hãy tận hưởng nó, cảm nhận trọn vẹn nó ngay khi nó tươi non nhất, khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”. Đến đây, ta lại bắt gặp một giọng điệu sôi nổi, tươi vui của một hồn thơ yêu đời mãnh liệt đang tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống: “Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;” Xuân Diệu đột ngột dùng nghệ thuật vắt dòng, đẩy cụm từ “ta muốn ôm” vào giữa dòng thật bất ngờ và ấn tượng. Ở đây, đại từ “tôi” biến thành “ta”, cái tôi cá nhân đã trở thành cái ta to lớn. Ông không còn đứng ở góc để nhìn mùa xuân và tuổi trẻ, không còn thu mình vào để chán nản, tuyệt vọng mà đứng lên hiên ngang, kiêu hãnh với quyền được sống, quyền được đòi hỏi. “Ta muốn ôm” đặt giữa dòng thơ như hình ảnh con người đang hoà nhập vào thiên nhiên, dang tay đón nhận đất trời. Ông không còn dùng “tôi muốn” mà là “ta muốn”, một giọng điệu tự tin, hào sảng của một tâm hồn đẹp. Tâm hồn ấy dù nhỏ bé so với vũ trụ này nhưng vẫn hiện lên thật đẹp đẽ và ý vị. Đặc biệt hơn, nếu ở đầu bài, nhà thơ dùng động từ mạnh “buộc”, “tắt” thì giờ đây lại là động từ nhẹ nhàng hơn, lãng mạn hơn – ôm. Một cái “ôm” nồng nàn, ấm áp như dành cho người thương, “người tình trăm năm”. Đó chẳng phải là sự lãng mạn, bay bổng rất Xuân Diệu sao! Nhưng lạ thay, cái “ôm” của Xuân Diệu là dành tặng cho một thứ phi vật chất – “sự sống”. Tình yêu tha thiết cuộc sống trần thế của nhà thơ lại được khẳng định lần nữa, khi mà sự sống với ông chính là người tình, là lòng yêu sâu sắc. “Sự sống” ấy là phải “mơn mởn”, phải trinh nguyên, tinh khôi và đầy nhựa sống. Không chỉ như vậy, với Xuân Diệu, ông “muốn ôm” sự sống nhưng phải là “ôm” “cả sự sống”. Cụm từ “mới bắt đầu” lại cho thấy ông muốn hưởng không phải là khi sự sống đã mơn mởn mà phải là lúc mới bắt đầu mơn mởn. Ông dường như muốn chiếm đoạt, muốn hưởng trọn vẹn tất cả cuộc sống này với những gì non tơ nhất, trẻ trung nhất của nó. Nhịp thơ đã bắt đầu gấp gáp, cuồng nhiệt hơn nhưng cũng đầy nồng nàn và lãng mạn khi nhà thơ dành cho “người thương” của mình những lời lẽ ngọt ngào nhất: “Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng.” “Ta muốn” được lặp lại ba lần đã bày tỏ cái tham lam, vồ vập của thi sĩ khi muốn hưởng hết cái này đến cái khác. Nhà thơ tận hưởng từ thiên nhiên “mây”, “gió” cho đến “tình yêu”, “nụ hôn nhiều” rồi trở lại cùng thiên nhiên “non nước”, “cây”, “cỏ rạng”. Nếu ban đầu, nhà thơ sợ mây bay đi, sợ “hương bay đi” mà phải “buộc gió” thì giờ đây nhà thơ thả mình vào “mây” và “gió”. Qua câu thơ, Xuân Diệu như đang bay cao