Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh l...
Vật lý 7
1. MỞ ĐẦU
Vật lí (VL) là một bộ môn khoa học thực nghiệm, vì vậy việc sử dụng thí nghiệm (TN)
trong dạy học VL ở trường phổ thông không chỉ là công việc bắt buộc, mà nó còn là một
trong những biện pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực
hoá hoạt động nhận thức của học sinh (HS). Một trong những tác dụng của TN VL là tạo
ra sự trực quan sinh động trước mắt HS và cũng chính vì thế mà sự cần thiết của TN
trong dạy học VL còn được quy định bởi tính chất của quá trình nhận thức của HS dưới
sự hướng dẫn của GV. Thông qua TN VL, có thể tạo ra những tác động có chủ định, có
hệ thống của con người vào các đối tượng của hiện thực khách quan, với sự phân tích các
điều kiện mà trong đó đã diễn ra sự tác động và các kết quả của sự tác động, ta có thể thu
nhận được tri thức mới.
TN VL hiểu theo nghĩa rộng còn là một trong những phương pháp dạy học VL ở trường
phổ thông. Đó là cách thức hoạt động của thầy và trò, giúp cho trò tự chiếm lĩnh kiến
thức kĩ năng, kĩ xảo, đặc biệt là kĩ năng, kĩ xảo thực hành. Thêm vào đó, TN còn có tác
dụng giúp cho việc dạy học VL tránh được tính chất giáo điều hình thức đang phổ biến
trong dạy học hiện nay. Ngoài ra, TN VL còn góp phần giúp cho HS củng cố niềm tin
khoa học nhằm hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho HS.
Cùng với TN VL, việc sử dụng các phương tiện dạy học, nhất là các phương tiện dạy học
hiện đại trong dạy học là hết sức cần thiết, đó cũng chính là điều kiện cần thiết nhằm đạt
được mục đích dạy học.
Sử dụng một cách hợp lí các phương tiện dạy học nói chung là việc làm không thể thiếu
được trong mục tiêu nâng cao hiệu quả dạy học. Đó chính là một trong những cách thức
để cung cấp kiến thức cho HS một cách chắc chắn và chính xác, làm cho nguồn thông tin
họ thu nhận được trở nên đáng tin cậy hơn, cụ thể hơn, từ đó HS tăng thêm khả năng tiếp
thu về những thuộc tính bản chất của các sự vật, hiện tượng và các quá trình phức tạp mà
bình thường họ khó nắm vững được. Đó cũng chính là cách để rút ngắn thời gian lĩnh hội
kiến thức của HS, dễ dàng gây được cảm hứng và sự chú ý của HS, giải phóng GV khỏi
một khối lượng lớn các công việc chân tay. Bằng việc sử dụng phương tiện dạy học, GV
có thể kiểm tra một cách khách quan hơn khả năng tiếp thu kiến thức cũng như sự hình
thành kĩ năng, kĩ xảo của HS.
Có thể nói rằng, trong dạy học cũng như trong nghiên cứu khoa học, TN VL và các
phương tiện dạy học hiện đại có một vai trò hết sức quan trọng và có tác dụng rất lớn.
Tuy vậy, trong các trường phổ thông hiện nay, TN VL vẫn chưa có một vị trí xứng đáng,
các thiết bị dạy học hiện đại được sử dụng chưa nhiều và có phần kém hiệu quả. Nguyên
nhân một phần là do sự thiếu thốn về cơ sở vật chất và thiết bị TN ở các trường phổ
thông. Mặt khác, do TN chưa được đưa vào trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
HS, điều đó đã ảnh hưởng đến thái độ của cả người dạy và người học đối với việc sử
dụng TN trong dạy và học VL. Bởi như chúng ta biết thi cử có tác dụng điều chỉnh việc
dạy và học: thi thế nào thì dạy và học thế đó. Một phần khác không kém phần quan trọng
chính là ở đội ngũ giáo viên (GV), chúng ta chưa mạnh dạn tìm tòi, nghiên cứu sử dụng,
để các TN VL, các phương tiện dạy học hiện đại thực sự mang lại hiệu quả. Ngoài ra,
2. cũng cần phải thừa nhận rằng, khả năng sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại cũng như
thao tác TN của một bộ phận GV hiện nay nói chung còn hạn chế.
Nội dung của chuyên đề này đề cập đến việc sử dụng TN và các phương tiện dạy học
trong dạy học vật lí, đồng thời đề xuất việc kết hợp sử dụng TN và các phương tiện hiện
đại nhằm nâng cao chất lượng dạy và học vật lí ở trường phổ thông.
NỘI DUNG
I. THÍ NGHIỆM TRONG DẠY HỌC VL
1.1. Chức năng của thí nghiệm trong dạy học vật lí
1.1.1. Chức năng của thí nghiệm theo quan điểm lí luận nhận thức
Thí nghiệm là phương tiện thu nhận tri thức
TN là một phương tiện quan trọng của hoạt động nhận thức của con người, thông qua TN
con người đã thu nhận được những tri thức khoa học cần thiết nhằm nâng cao năng lực
của bản thân để có thể tác động và cải tạo thực tiễn. Trong dạy học, TN là phương tiện
của hoạt động nhận thức của HS, nó giúp người học trong việc tìm kiếm và thu nhận kiến
thức khoa học cần thiết.
Vai trò của TN trong mỗi giai đoạn của quá trình nhận thức phụ thuộc vào vốn hiểu biết
của con người về đối tượng cần nghiên cứu. Trong dạy học VL, TN được sử dụng như
một công cụ phân tích hiện thực khách quan, từ đó HS thu nhận tri thức về đối tượng, nếu
ban đầu HS chưa biết hoặc biết một ít về đối tượng cần nghiên cứu, thì TN được sử dụng
để thu nhận những kiến thức đầu tiên về nó, thông qua TN, HS có thể trả lời được các câu
hỏi về hiện tượng xảy ra của đối tượng … Chẳng hạn, khi nghiên cứu hiện tượng khúc xạ
ánh sáng, thông qua TN, HS không những quan sát được hiện tượng khúc xạ ánh sáng (sự
gãy khúc của tia sáng tại mặt phân cách giữa hai môi trường) mà còn thu thập được các
số liệu về góc tới và góc khúc xạ tương ứng, tạo cơ sở để rút ra được nội dung định luật
khúc xạ ánh sáng.
Trong cuộc sống thực tế, các sự vật hiện tượng xung quanh chúng ta vô cùng phức tạp, đa
dạng và đan xen vào nhau. Ta không thể nghiên cứu riêng lẻ một hiện tượng mà không có
sự ảnh hưởng của các hiện tượng khác tác động lên chúng, nghĩa là không thể tách riêng
từng hiện tượng để quan sát, nghiên cứu. Trong tự nhiên cũng thế, các hiện tượng xảy ra
chằng chịt và đan xen lẫn nhau, để nghiên cứu các hiện tượng, sự vật riêng biệt, ta chỉ có
thể sử dụng TN để nghiên cứu riêng cho trường hợp cụ thể đó, và chỉ có thông qua TN thì
sự vật, hiện tượng cần nghiên cứu mới được phơi bày rõ ràng bản chất của nó, và đó cũng
là điều mà chúng ta cần quan tâm.
Thực tế, trong dạy học nói chung và dạy học VL nói riêng, đối với những bài học có liên
quan đến những hiện tượng, nếu GV giảng dạy theo lối thông báo TN thì HS sẽ thụ động
tiếp nhận kiến thức, nhưng nếu dùng TN thì thông qua TN, HS không những tiếp thu kiến
3. thức một cách một cách tự lực, mà qua đó làm cho HS tích cực, sáng tạo hơn trong hoạt
động nhận thức, từ đó họ hăng hái tham gia vào công cuộc khám phá kiến thức mới thông
qua TN.
Có thể nói rằng, TN là nguồn cung cấp thông tin chính xác về các sự vật, hiện tượng và
chỉ có TN thì kiến thức mà HS thu nhận mới đạt chất lượng, hiệu quả và chính việc sử
dụng TN trong dạy học VL mới đem lại cho HS sự tự tin vào kiến thức được lĩnh hội.
Thí nghiệm là phương tiện kiểm tra tính đúng đắn của những tri thức đã thu nhận
Trong khoa học, phương pháp thực nghiệm được coi là “hòn đá thử vàng” của mọi tri
thức chân chính. Bởi vậy, có thể nói TN có chức năng trong việc kiểm tra tính đúng đắn
của tri thức đã thu nhận.
Trong dạy học VL, TN là một trong những phương tiện tốt để kiểm tra kiến thức VL đã
được khái quát hoá từ lí thuyết. Thực tế cho thấy, từ sự khái quát hoá lí thuyết rồi đưa ra
TN để kiểm tra lí thuyết không những làm cho hoạt động nhận thức của HS tích cực hơn
mà còn tạo được niềm tin về sự đúng đắn của kiến thức mà HS đã lĩnh hội. Thông
thường, suy nghĩ của HS luôn có sự khái quát lí thuyết, tuy nhiên, đó chỉ là sự khái quát
hoá, sự tư duy theo lí thuyết suông, mà cần phải được GV kiểm tra bằng TN. Ngoài ra,
những kết luận từ sự tư duy trừu tượng của HS cũng cần phải được kiểm tra tính đúng
đắn thông qua TN. Trong trường hợp này, rõ ràng TN đã góp phần tích cực vào hoạt
động nhận thức của HS, kiểm chứng sự đúng đắn trong suy luận và những kiến thức mà
HS thu nhận được.
Thí nghiệm là phương tiện để vận dụng tri thức vào thực tiễn
Trong quá trình vận dụng kiến thức vào thực tiễn, vào việc thiết kế và chế tạo các thiết bị
kĩ thuật, người ta gặp phải những khó khăn nhất định do tính khái quát và trừu tượng của
các tri thức cần vận dụng, cũng như bởi tính phức tạp của các thiết bị kĩ thuật cần chế tạo.
Trong trường hợp đó TN được sử dụng với tư cách là phương tiện thử nghiệm cho việc
vận dụng tri thức vào thực tiễn.
Chẳng hạn: việc vận dụng kiến thức về lực nâng trong chế tạo máy bay, để có được
phương án tối ưu trong việc thiết kế kiểu dáng cánh máy bay người ta đã làm TN với với
các mô hình máy bay thu nhỏ. Sau đó dựa vào phương pháp tương tự và lí thuyết đồng
dạng để chuyển kết quả thu được qua việc nghiên cứu trên mô hình vào các đối tượng
thực tế cần chế tạo.
Trong dạy học VL, TN không những có vai trò rất lớn trong việc tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS, thể hiện ở khía cạnh cung cấp kiến thức, rèn luyện thao tác chân tay,
tác động đến giác quan của HS ..., mà TN còn có một vai trò rất lớn khác trong việc giúp
HS củng cố và vận dụng kiến thức một cách vững chắc.
Các kiến thức VL được giảng dạy trên lớp cần phải được khắc sâu trong tiềm thức của
HS, theo đó, HS phải thường xuyên củng cố và vận dụng kiến thức đã học vào thực tế
4. cuộc sống, vấn đề này sẽ được thực hiện tốt nếu chúng ta biết vận dụng TN để giải quyết,
TN VL giúp cho HS có điều kiện vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc
sống, từ đó xoá bỏ dần lối học vẹt, lí thuyết suông đã tồn tại nhiều năm trước đây.
Thí nghiệm là một bộ phận của các phương pháp nhận thức
TN luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong các phương pháp nhận thức khoa học,
chẳng hạn:
– Đối với phương pháp thực nghiệm, TN luôn có mặt ở nhiều khâu khác nhau: làm xuất
hiện vấn đề nghiên cứu, kiểm tra tính đúng đắn của các giả thuyết, …
– Trong phương pháp mô hình, TN giúp ta thu thập các thông tin về đối tượng gốc làm cơ
sở cho việc xây dựng mô hình.
Ngoài ra, đối với mô hình vật chất điều bắt buộc là người ta phải tiến hành các TN thực
sự với nó. Cuối cùng, nhờ những kết quả của các TN được tiến hành trên vật gốc tạo cơ
sở để đối chiếu với kết quả thu được từ mô hình, qua đó để có thể kiểm tra tính đúng đắn
của mô hình được xây dựng và chỉ ra giới hạn áp dụng của nó
.1.2. Chức năng của thí nghiệm theo quan điểm lí luận dạy học
Trong dạy học VL, TN đóng một vai trò cực kì quan trọng, dưới quan điểm lí luận dạy
học vai trò đó được thể hiện những mặt sau:
Thí nghiệm có thể được sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của tiến trình
dạy học
TN VL có thể được sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của tiến trình dạy học
như đề xuất vấn đề nghiên cứu, giải quyết vấn đề (hình thành kiến thức, kĩ năng mới...),
củng cố kiến thức và kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng, kĩ xảo của HS.
Thí nghiệm góp phần vào việc phát triển toàn diện học sinh
Việc sử dụng TN trong dạy học góp phần quan trong vào việc hoàn thiện những phẩm
chất và năng lực của HS, đưa đến sự phát triển toàn diện cho người học. Trước hết, TN là
phương tiện nhằm góp phần nâng cao chất lượng kiến thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo
VL cho HS. Nhờ TN HS có thể hiểu sâu hơn bản chất VL của các hiện tượng, định luật,
quá trình... được nghiên cứu và do đó có khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn của
HS sẽ linh hoạt và hiệu quả hơn.
Truyền thụ cho HS những kiến thức phổ thông cơ bản là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của hoạt động dạy học. Để làm được điều đó, GV cần nhận thức rõ việc xây dựng
cho HS một tiềm lực, một bản lĩnh, thể hiện trong cách suy nghĩ, thao tác tư duy và làm
việc để họ tiếp cận với các vấn đề của thực tiễn. Thông qua TN, bản thân HS cần phải tư
duy cao mới có thể khám phá ra được những điều cần nghiên cứu. Thực tế cho thấy,
5. trong dạy học VL, đối với các bài giảng có sử dụng TN, thì HS lĩnh hội kiến thức rộng
hơn và nhanh hơn, HS quan sát và đưa ra những dự đoán, những ý tưởng mới, nhờ đó
hoạt động nhận thức của HS sẽ được tích cực và tư duy của các em sẽ được phát triển tốt
hơn.
Thí nghiệm là phương tiện góp phần quan trọng vào việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp
cho học sinh.
Thông qua việc tiến hành TN, HS có cơ hội trong việc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực
hành, góp phần thiết thực vào việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho HS. TN còn là điều
kiện để HS rèn luyện những phẩm chất của người lao động mới, như: đức tính cẩn thận,
kiên trì, trung thực... Xét trên phương diện thao tác kĩ thuật, chúng ta không thể phủ nhận
vai trò của TN đối với việc rèn luyện sự khéo léo tay chân của HS.
Hoạt động dạy học không chỉ dừng lại ở chỗ truyền thụ cho HS những kiến thức phổ
thông cơ bản đơn thuần mà điều không kém phần quan trọng ở đây là làm thế nào phải
tạo điều kiện cho HS tiếp cận với hoạt động thực tiễn bằng những thao tác của chính bản
thân họ. Trong dạy học VL, đối với những bài giảng có TN thì GV cần phải biết hướng
HS vào việc cho họ tự tiến hành TN, có như vậy kiến thức các em thu nhận được sẽ vững
vàng hơn, rèn luyện được cho các em sự khéo léo chân tay, khả năng quan sát tinh tế, tỉ
mỉ hơn và chính xác hơn. Có như thế, khả năng hoạt động thực tiễn của HS sẽ được nâng
cao.
Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập của học sinh
TN là phương tiện gây hứng thú, là yếu tố kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của HS
học tập, nhờ đó làm cho các em tích cực và sáng tạo hơn trong quá trình nhận thức.
Chính nhờ TN và thông qua TN mà ở đó HS tự tay tiến hành các TN, các em sẽ thực hiện
các thao tác TN một cách thuần thục, khơi dậy ở các em sự say sưa, tò mò để khám phá
ra những điều mới, những điều bí ẩn từ TN và cao hơn là hình thành nên những ý tưởng
cho những TN mới. Đó cũng chính là những tác động cơ bản, giúp cho quá trình hoạt
động nhận thức của HS được tích cực hơn.
Thông qua TN, nhờ vào sự tập trung chú ý, quan sát sự vật, hiện tượng có thể tạo cho HS
sự ham thích tìm hiểu những đặc tính, quy luật diễn biến của hiện tượng đang quan sát.
Khi giác quan của HS bị tác động mạnh, HS phải tư duy cao độ từ sự quan sát TN, chú ý
kĩ TN để có những kết luận, những nhận xét phù hợp.
Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức hoạt động của học sinh
TN là phương tiện tổ chức các hình thức làm việc độc lập hoặc tập thể qua đó góp phần
bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức của HS. Qua TN đòi hỏi HS phải làm việc tự lực hoặc
phối hợp tập thể, nhờ đó có thể phát huy vai trò cá nhân hoặc tính cộng đồng trách nhiệm
trong công việc của các em.
6. Thí nghiệm vật lí góp phần làm đơn giản hoá các hiện tượng và quá trình vật lí
TN VL góp phần đơn giản hoá hiện tượng, tạo trực quan sinh động nhằm hỗ trợ cho tư
duy trừu tượng của HS, giúp cho HS tư duy trên những đối tượng cụ thể, những hiện
tượng và quá trình đang diễn ra trước mắt họ. Các hiện tượng trong tự nhiên xẩy ra vô
cùng phức tạp, có mối quan hệ chằng chịt lấy nhau, do đó không thể cùng một lúc phân
biệt những tính chất đặc trưng của từng hiện tượng riêng lẻ, cũng như không thể cùng
một lúc phân biệt được ảnh hưởng của tính chất này lên tính chất khác. Chính nhờ TN
VL đã góp phần làm đơn giản hoá các hiện tượng, làm nổi bật những khía cạnh cần
nghiên cứu của từng hiện tượng và quá trình VL giúp cho HS dễ quan sát, dễ theo dõi và
dễ tiếp thu bài.
1.2. Thí nghiệm biểu diễn và những yêu cầu cơ bản khi sử dụng
Dựa vào hoạt động của GV và HS, có thể phân TNVL thành hai loại: TN biểu diễn và TN
HS. Đối với thí nghiệm biểu diễn, dựa vào mục đích sử dụng thí nghiệm, có thể phân các
loại như sau:
+ TN mở đầu: là những TN được dùng để đặt vấn đề định hướng bài học. TN mở đầu đòi
hỏi phải hết sức ngắn gọn và cho kết quả ngay.
+ TN nghiên cứu hiện tượng mới: được tiến hành trong khi nghiên cứu bài mới. TN
nghiên cứu hiện tượng mới có thể là TN khảo sát hay TN kiểm chứng.
+ TN củng cố: là những TN được dùng để cũng cố bài học. Cũng như TN mở đầu, TN
cũng cố cũng phải hết sức ngắn gọn và cho kết quả ngay.
Để có thể phát huy tốt vai trò của TN biểu diễn trong dạy học VL GV cần phải quán triệt
các yêu cầu sau đây trong khi tiến hành TN.
Thứ nhất, TN biểu diễn phải gắn liền hữu cơ với bài giảng. TN là một khâu trong tiến
trình dạy học, do đó nó phải luôn gắn liền hữu cơ với bài giảng, phải là một yếu tố tất yếu
trong tiến trình dạy học. Nếu TN biểu diễn không gắn liền hữu cơ với bài giảng thì không
thể phát huy tốt vai trò của nó trong giờ học. Muốn TN gắn liền hữu cơ với bài giảng,
trước hết TN phải xuất hiện đúng lúc trong tiến trình dạy học, đồng thời kết quả TN phải
được khai thác cho mục đích dạy học một cách hợp lí, lôgic và không gượng ép.
Thứ hai, TN biểu diễn phải ngắn ngọn hợp lí. Do thời gian của một tiết học chỉ 45 phút,
trong khi đó TN là một khâu trong tiến trình dạy học, vì vậy nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng
đến các khâu khác, tức là ảnh hưởng đến tiến trình dạy học chung. Bởi vậy, phải căn cứ
vào từng TN cụ thể để GV quyết định thời lượng cho thích hợp.
Thứ ba, TN biểu diễn phải đủ sức thuyết phục. Trước hết TN biểu diễn phải thành công
ngay, có như vậy HS mới tin tưởng, TN mới có sức thuyết phục thuyết phục đối với HS.
Ngoài ra, cần phải chú ý rằng, từ kết quả của TN lập luận đi đến kết luận phải lôgic và tự
7. nhiên, không miễn cưỡng và gượng ép, không bắt HS phải công nhận. Cần phải giải thích
cho HS nguyên nhân khách quan và chủ quan của những sai số trong kết quả TN.
Thứ tư, TN biểu diễn phải đảm bảo cả lớp quan sát được. Phải được bố trí TN để cho cả
lớp có thể quan sát được và phải tập trung được chú ý của HS vào những chi tiết chính,
quan trọng. Muốn vậy, GV cần chú ý từ khâu lựa chọn dụng cụ TN đến việc bố trí sắp
xếp dụng cụ sao cho hợp lí. Nếu cần thiết có thể sử dụng các phương tiện kĩ thuật, như:
Camera, đèn chiếu, máy chiếu qua đầu, máy vi tính... để hỗ trợ.
Thứ năm, TN biểu diễn phải đảm bảo an toàn. Trong khi tiến hành TN biễu diễn không
được để TN gây ảnh hưởng đến sức khỏe của HS. TN phải an toàn, tránh gây cho HS
cảm giác lo sự mỗi khi tiến hành TN.
– Để thực hiện những TN một cách có hiệu quả, cần chú ý đến những kĩ thuật biểu diễn
TN cơ bản sau:
+ Sắp xếp dụng cụ: Các dụng cụ TN phải được bố trí và sắp xếp sao cho lôi cuốn được sự
chú ý của HS và đảm bảo cho cả lớp quan sát được. Muốn vậy phải lựa chọn các dụng cụ
TN có kích thước đủ lớn và phải sắp xếp những dụng cụ này trong cùng một mặt phẳng
thẳng đứng để chúng không che lấp lẫn nhau. Những dụng cụ quan trọng phải đặt ở vị trí
cao nhất, dụng cụ thứ yếu đặt thấp hơn và dụng cụ không cần thiết để HS quan sát thì có
thể che lấp.
+ Dùng vật chỉ thị: Để tăng cường tính trực quan của các TN ta có thể dùng các vật chỉ
thị, chẳng hạn: Dùng màu pha vào nước; dùng khói trong TN truyền thảng ánh sáng, hoặc
trong TN đối lưu của không khí...
+ Dùng các phương tiện hỗ trợ như: Đèn chiếu; Gương phẳng; Video Camera
1.3. Các biện pháp sử dụng thí nghiệm nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của
học sinh
1.3.1. Tăng cường sử dụng thí nghiệm để tạo ra tình huống có vấn đề
Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức, sáng tạo có hiệu quả. Nó quy
định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu và
giải quyết vấn đề.
Thực tế dạy học cho thấy, việc tạo ra tình huống có vấn đề có thể xây dựng theo nhiều
cách, nhiều biện pháp khác nhau tuỳ vào từng nội dung kiến thức. Một trong những biện
pháp đó chính là việc sử dụng TN mở đầu, biện pháp mà lâu nay đa số GV gần như lãng
quên hoặc thực hiện chưa có hiệu quả.
VL là môn khoa học thực nghiệm, do đó việc khai thác các TN nhằm tạo ra tình huống có
vấn đề là một thế mạnh rất cần được phát huy. Sử dụng TN mở đầu để tạo ra tình huống
có vấn đề tạo ra sự hứng thú, thu hút sự chú ý đối với HS, đặt HS vào những tình huống
8. có vấn đề và làm cho HS tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu giải quyết vấn đề. Khi sử
dụng TN trong giai đoạn này, GV cần chú ý phải làm thế nào để thông qua TN, gây được
cho HS sự ngạc nhiên, tạo ra được những sự khó khăn nhất định về mặt nhận thức đối với
vấn đề đặt ra, HS chưa biết cách giải thích hiện tượng, sự vật, quá trình của thực tế, chưa
thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích HS
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Thông qua TN, HS phải thấy được tại sao
những gì các em quan sát được có vẻ khác với những dự đoán trong suy luận của chính
các em, từ đó dần đưa HS vào những bài toán nhận thức để HS tích cực hoạt động hơn,
coi việc giải quyết vấn đề tiếp theo như một nhiệm vụ mà chính các em tự đặt ra, đồng
thời tạo cho các em một niềm vui nhận thức mới.
1.3.2. Sử dụng thí nghiệm đúng lúc để giải quyết vấn đề cụ thể
Ngoài việc sử dụng TN để tạo ra tình huống có vấn đề, TN còn được sử dụng ngay trong
quá trình giải quyết vấn đề.
Thông qua TN, bằng cách quan sát diễn biến của hiện tượng xảy ra, ghi chép số liệu từ
TN, HS có thể thu nhận được một số thông tin nhất định từ những vấn đề đang học. Dựa
trên những thông tin thu được HS có thể sơ bộ dự đoán về tính chất của các sự vật, về
nguyên nhân của hiện tượng … Việc đưa TN ra đúng lúc không những có tác dụng kiểm
tra dự đoán của HS trước một vấn đề đã được nêu ra, mà còn khuyến khích được HS
mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ riêng của mình. Khi những dự đoán suy luận của HS
được TN xác nhận là đúng một cách kịp thời thì HS sẽ rất phấn khởi, tin tưởng hơn vào
bản thân, dần khắc phục tâm lí thường gặp ở HS là sự thiếu tự tin vào bản thân.
1.3.3. Kết hợp thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm học sinh để kích thích
hứng thú và rèn luyện kĩ năng cho học sinh
Cả lí luận và thực tiễn dạy học cho thấy, đối với HS phổ thông, bản thân HS không thể tự
sử dụng thành thạo các TN, lắp ráp tiến hành các TN một cách có hiệu quả nếu không có
sự hỗ trợ, hướng dẫn của GV. Khi làm TN không thành công, HS thường tỏ ra chán nản
và mất đi lòng tự tin vào bản thân. Chính vì vậy mà GV cần phải kiên trì, có kế hoạch tỉ
mỉ và vận dụng kết hợp TN của GV và TN của HS để rèn luyện dần những khả năng tối
thiểu mà một HS cần phải đạt được. Điều này đặc biệt quan trọng với HS, làm cho các
em có điều kiện tiếp xúc với các dụng cụ đo lường, thiết bị kĩ thuật thông dụng trong
cuộc sống hàng ngày.
Việc kết hợp TN biểu diễn của GV và TN của HS còn tạo ra ở các em một tinh thần say
mê học tập, ham hiểu biết khoa học, tìm tòi nghiên cứu và trên cơ sở đó mới có thể nảy
sinh ra những vấn đề hay, những vấn đề lí thú và bổ ích cho các giờ học VL.
Để việc kết hợp thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm học sinh đạt hiệu quả,
nhằm kích thích tính tích cực của HS, GV không nên chỉ cho HS quan sát kết quả cuối
cùng, trước khi đi đến những kết luận, cần biểu diễn TN sao cho HS thấy được quá trình
9. vận động của hiện tượng, cần giới thiệu thí nghiệm dưới dạng phân tích, so sánh, trình
bày thí nghiệm như một quá trình nghiên cứu và tổ chức cho HS tham gia vào quá trình
nghiên cứu đó qua một hệ thống các câu hỏi theo hai dạng cơ bản là dự đoán hiện tượng
sẽ xảy ra và giải thích các hiện tượng đã quan sát được.
1.3.4. Chú trọng đến việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng giải bài tập thí nghiệm
Bài tập TN là loại bài tập đòi hỏi phải làm TN để kiểm chứng lời giải lý thuyết hoặc để
tìm những số liệu cần thiết cho việc giải bài tập.
Bài tập TN có tác dụng tốt về cả ba mặt: giáo dục, giáo dưỡng và giáo dục kĩ thuật tổng
hợp, đặc biệt nó giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lí thuyết và thực tiễn. Thông qua các
bài tập TN, có thể rèn luyện tư duy cho HS, nâng cao khả năng độc lập suy nghĩ, tuy
nhiên, để làm được điều này thì kĩ năng TN của HS phải đạt được trình độ nhất định nào
đó.
Cũng cần chú ý rằng, trong các bài tập TN thì TN chỉ cho các số liệu để giải bài tập, chứ
không cho biết tại sao hiện tượng lại xảy ra như thế, cho nên phần vận dụng các định luật
VL để lí giải các hiện tượng mới là nội dung chính của bài tập TN.
1.3.5. Thảo luận ở lớp về các phương án thiết kế, chế tạo và tiến hành các thí nghiệm
đơn giản nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo cho học sinh
Có thể nói rằng, việc thảo luận ở lớp về các phương án thiết kế, chế tạo và tiến hành các
TN đơn giản là công việc cực kì khó khăn và rất khó thực hiện ở các trường phổ thông
trong điều kiện hiện nay. Ngoài những nguyên nhân chủ quan từ phía GV và HS, thì một
nguyên nhân khác rất kho khắc phục là thời gian dành cho việc thảo luận là khá dài, trong
khi đó thời gian của một giờ học VL là có hạn. Tuy nhiên, nếu thực hiện được thì đây quả
là một biện pháp hữu hiệu nhất, phát huy được tổng lực của tất cả các biện pháp nêu trên.
Việc trao đổi thảo luận sẽ rèn luyện cho HS khả năng diễn đạt tư tưởng rõ ràng, lập luận
chính xác, học tập được kinh nghiệm của các bạn, đồng thời phát triển được tư duy sáng
tạo về mặt kĩ thuật. Khi các TN được hình thành từ chính ý tưởng sáng tạo của các em,
được làm từ chính bàn tay của các em thì các em sẽ có niềm vui lớn lao, sự tự tin về khả
năng của bản thân được nâng cao, từ đó tính chủ động, sáng tạo khoa học của HS được
phát triển hơn.
KẾT LUẬN
Trong dạy học VL, việc khai thác hiệu quả vai trò của TN là một trong những vấn đề hết
sức cần thiết, vì TN có vai trò hết sức quan trọng trong khoa học nói chung và trong dạy
học VL nói riêng. TN là nguồn cung cấp thông tin chính xác, dễ hiểu về các sự vật và
hiện tượng, là phương tiện tốt để kiểm tra tính đúng đắn của các kiến thức VL, là phương
tiện rèn luyện sự khéo léo cho HS. TN góp phần đánh giá năng lực và phát triển khả năng
tư duy, giúp củng cố và vận dụng kiến thức một cách vững chắc cho HS. TN có tác động
mạnh đến giác quan của HS, thông qua TN và bằng TN có thể tạo ra trong HS sự hứng
thú tích cực trong học tập.
10. Để TN phát huy đầy đủ chức năng của nó trong dạy học VL thì việc sử dụng TN phải
tuân theo một số yêu cầu chung về mặt kĩ thuật và về mặt phương pháp dạy học. Theo đó,
việc xác định rõ lôgic của tiến trình dạy học, coi việc sử dụng TN như một bộ phận hữu
cơ của quá trình dạy học nhằm giải quyết một nhiệm vụ cụ thể trong tiến trình nhận thức
là hết sức quan trọng.
Mặc dù TN trực diện chiếm một tỉ lệ cao trong toàn bộ các TN ở trường phổ thông,
nhưng bản thân GV cũng phải ý thức được rằng, thí nghiệm biểu diễn vẫn rất cần thiết
phải sử dụng trong dạy học VL, nhất là đối với các TN quá phức tạp, mất nhiều thời gian
hoặc không đảm bảo an toàn đối với HS. Việc sử dụng TN biểu diễn phải tránh tình trạng
lạm dụng TN, chỉ sử dụng TN như là một sự trình diễn đơn thuần, mà phải tuân thủ các
yêu cầu của việc đặt kế hoạch TN, chuẩn bị TN, bố trí TN, tiến hành và xử lí kết quả TN.
Như đã phân tích ở phần nội dung, cùng với các thiết bị TN, việc sử dụng các phương
tiện dạy học trong dạy học VL là hết sức cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi
khoa học kĩ thuật phát triển thì việc tăng cường sử dụng các phương tiện hiện đại vào quá
trình dạy học VL là một hướng đi đúng đắn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở
trường phổ thông. Về mặt nguyên tắc, chỉ có thể thâu tóm đầy đủ chức năng của phương
tiện dạy học trong dạy học VL nếu xem xét việc sử dụng phương tiện dạy học trên nhiều
quan điểm khác nhau, nhưng dù xét theo quan điểm nào đi nữa, chức năng chủ yếu của
phương tiện dạy học cũng vẫn là tạo điều kiện cho HS nắm vững một cách chính xác, sâu
sắc các kiến thức và phát triển năng lực nhận thức và hình thành nhân cách cho HS.
Trên cơ sở phân tích chức năng của phương tiện dạy học (đã nêu trong phần nội dung) có
thể rút ra một số định hướng chung sau đây về mặt phương pháp cho việc sử dụng
phương tiện dạy học trong dạy học VL ở trường phổ thông:
Thứ nhất, cần sử dụng phối hợp các phương tiện dạy học trên các bình diện khác nhau
của hoạt động nhận thức ở các khâu của quá trình dạy học.
Thứ hai, nên gắn việc sử dụng các phương tiện dạy học với các hoạt động trí tuệ – thực
tiễn của HS, tạo ra kích thích đa dạng về mặt cơ học, âm học, quang học … với mối
tương quan phù hợp trong quá trình thu nhận và chế biến thông tin của HS, kích thích sự
tranh luận tích cực của HS với các đối tượng nhận thức.
Thứ ba, việc sử dụng phương tiện dạy học trong quá trình hình thành và vận dụng kiến
thức phải góp phần làm sáng tỏ tính biện chứng giữa cái chung và những cái riêng; cái
giống nhau và cái khác nhau của các hiện tượng hay các quá trình VL.
Thứ tư, việc sử dụng phương tiện dạy học phải góp phần làm tăng tính chính xác và tính
hệ thống của các kiến thức mà HS lĩnh hội.
Thứ năm, phải xem việc tăng cường sử dụng các phương tiện hiện đại trong dạy học VL
là một trong những nhiệm vụ quan trọng, mang tính chiến lược lâu dài, chú trọng đến
việc phối hợp sử dụng TN với các phương tiện hiện đại để hiện đại hoá các phương tiện
dạy học, từng bước nâng cao chất lượng dạy và học ở trường phổ thông.
11. Điểm qua các xu hướng khai thác và sử dụng TN VL trong dạy học VL, cần phải nhận
thấy rằng, tổ hợp TN với các phương tiện hiện đại đã ngày càng làm cho bộ môn VL
càng hấp dẫn, lôi cuốn và kích thích người học. Đó cũng chính là một trong những mục
tiêu mà chúng ta cần hướng tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tô Xuân Giáp (2000), Phương tiện dạy học, NXB Giáo Dục.
2. Nguyễn Ngọc Hưng (1994), Một số định hướng và phơưng pháp sử dụng thiết bị dạy
học VL, Tạp chí NCGD số 5.
3. Nguyễn Đức Thâm, Nguyễn Ngọc Hưng, Phạm Xuân Quế (2002), Phương pháp dạy
học VL ở trường phổ thông, NXB ĐHSP, Hà nội.
4. Phạm Hữu Tòng, (2005), Lí luận dạy học VL 1, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.
5. Lê Công Triêm (2004), Những vấn đề cơ bản của giáo dục phổ thông hiện nay, Bài
giảng cho học viên cao học, Đại học sư phạm Huế.
6. Nguyễn Thị Hồng Việt (2003), Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh trong dạy
học vật lí ở trường trung học phổ thông, NXB Giáo dục.
7. Trần Đức Vượng (2004), Lí luận dạy học hiện đại, Bài giảng cho học viên cao học,
Đại học sư phạm Huế.
III. Vai trò của dụng cụ thí nghiệm và làm thí nghiệm trong giảng dạy bộ môn Vật
lý.
- Các dụng cụ thí nghiệm là công cụ hữu hiệu giúp học sinh nhận biết một cách trực
quan, dễ nắm bắt nội dung kiến thức, hiểu kiến thức một cách có cơ sở thực tế, khắc phục
những khó khăn do sự suy diễn trừu tượng, gắn liền phương châm “Học đi đôi với hành”,
.
- Làm thí nghiệm giúp học sinh làm quen sử dụng các thiết bị thí nghiệm Vật lí, là một
trong những biện pháp quan trọng để thu thập thông tin từ thực tế, thuyết phục được học
sinh khi đưa ra các kết luận, khái niệm, định luật, quy tắc, công thức... Cũng nhờ thí
nghiệm mà giờ học trở nên trực quan hơn, thực tế hơn, học sinh có hứng thú hơn khi học
Vật lý.
BÀN VỀ TÁC DỤNG CỦA CÁC LOẠI HÌNH THIẾT
BỊ TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ
12. Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của khoa học – công nghệ (KH–
CN) đã ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của mỗi con người, từ kinh
tế – xã hội đến văn hoá truyền thống, tạo nên những đặc điểm mới của
thời đại, theo đó vấn đề đổi mới giáo dục đang diễn ra trên qui mô toàn
cầu, tạo nên những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về
chất lượng giáo dục, đến quá trình tổ chức và hệ thống giáo dục.
Với sự phát triển nhanh của KH–CN, dẫn đến kết quả là xuất hiện
nhanh, nhiều những tri thức, những kĩ năng và những lĩnh vực nghiên cứu mới, đồng thời
những tri thức cũ trở nên lỗi thời, lạc hậu, nảy sinh mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin
với trình độ, thời gian, sức lực của người học quá tải.
Trước những thay đổi ấy nếu con người không tiếp cận được với những tri thức mới,
những hiểu biết mới, họ sẽ trở nên nhanh chóng lạc hậu với thời cuộc và bị đào thải. Xã
hội hiện đại đòi hỏi con người phải nhạy bén với cái mới, nhanh chóng tiếp cận và nắm
bắt các thành tựu KH–CN hiện đại. Để giải quyết vấn đề này, giáo dục phải tiếp cận được
những thành tựu mới nhất của KH–CN bằng cách chọn lọc nội dung, đổi mới phương
pháp dạy học và ứng dụng các phương tiện dạy học hiện đại để giúp cho người học trong
một thời gian ngắn có thể thu nhận được một lượng thông tin lớn.
Vấn đề đổi mới giáo dục hiện nay đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Để làm được
việc lớn đó, chúng ta phải thực sự cầu thị, chuyển biến từ cái nhỏ nhất: đó là cải tiến, đổi
mới phương pháp dạy học trong từng bài học, trong từng giờ học, làm cho quá trình dạy
của Thầy và học của Trò đạt hiệu quả cao nhất trong điều kiện có thể có.
Do những yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học nên các phương tiện kĩ thuật
phục vụ dạy học ở các trường phổ thông hiện nay được trang bị ngày càng nhiều. Mặt
khác, nhờ có sự phát triển nhanh của khoa học kĩ thuật mà giá thành của các thiết bị nghe
nhìn trong những năm qua giảm đáng kể, tạo điều kiện tốt cho các đơn vị Sở Giáo Dục,
các Trường phổ thông mạnh tay trong việc mua sắm các thiết bị dạy học.
Trước đây, nhiều địa phương do những hoàn cảnh và điều kiện khác nhau nên chưa thực
sự coi trọng việc sử dụng các loại hình TBDH vào quá trình dạy học.
Hiện nay, xu hướng phát triển của xã hội, sự thay đổi Sách Giáo Khoa phổ thông ... đã
làm thay đổi một cách cơ bản quan điểm của các cấp lãnh đạo về vấn đề sử dụng các loại
hình TBDH trong dạy học. Nhiều Trường phổ thông đã coi việc sử dụng các TBDH vào
quá trình dạy học như một công việc thường xuyên, thậm chí, điều đó đã trở thành tiêu
chí quan trọng khi xét thi đua, khen thưởng. Thái độ tích cực của các cấp quản lí Ngành
đã có tác động rất lớn đến suy nghĩ và hành động của bản thân mỗi giáo viên, họ đã dần ý
thức được tầm quan trọng của việc sử dụng TBDH và quá trình dạy học của chính mình.
Đó là một động lực rất lớn, trong công cuộc đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm,
nâng cao hiệu quả giáo dục.
13. Vai trò của các giác quan trong quá trình nhận thức
Các nghiên cứu về vai trò của các giác quan trong quá trình nhận thức cho thấy:
* Tỉ lệ kiến thức thu nhận được qua các giác quan:
Qua nếm: 1%. Qua sờ: 1,5%. Qua ngửi: 3,5%. Qua nghe: 11%. Qua nhìn: 83%.
* Tỉ lệ kiến thức nhớ được qua các giác quan:
– Qua những gì nghe được: 20%.
– Qua những gì nhìn được: 30%.
– Qua những gì ta nói được: 80%.
– Qua những gì ta nói và làm được: 90%.
Như vậy, có thể thấy rằng kiến thức sẽ được học sinh thu nhận được, nhớ được càng
nhiều nếu ta biết sử dụng phối hợp các loại hình phương tiện dạy học một cách hợp lí,
đặc biệt là các phương tiện nghe, nhìn và các thiết bị thí nghiệm mà học sinh có thể tự tay
thực hiện, thao tác. Quá trình dạy học là một quá trình nhận thức đặc biệt, được tổ chức ở
mức độ cao, thì thiết bị dạy học là không thể thiếu được trong quá trình dạy học.
Các loại hình thiết bị dạy học hiện nay
TBDH là hệ thống đối tượng vật chất và hệ thống phương tiện kĩ thuật được giáo viên và
học sinh sử dụng trong quá trình dạy học.
Căn cứ vào danh mục thiết bị dạy học mà Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã ban hành thì hiện
nay có 9 loại hình chính sau đây:
1. Tranh, ảnh giáo khoa.
2. Bản đồ, biểu đồ, lược đồ ...
3. Mô hình, vật mẫu, mẫu vật.
4. Các dụng cụ dạy học (Dụng cụ thí nghiệm, dụng cụ luyện tập TDTT...)
5. Phim đèn chiếu (phim Slide), phim chiếu bóng.
6. Bản trong dùng cho máy chiếu qua đầu.
7. Băng, đĩa ghi âm.
14. 8. Băng đĩa ghi hình.
9. Phần mềm dạy học.
Chức năng của TBDH trong quá trình dạy học
Theo lí luận dạy học thì trong quá trình dạy học, TBDH có các chức năng sau:
– TBDH đảm bảo đầy đủ, chính xác các thông tin về các hiện tượng, sự vật, các đối
tượng được nghiên cứu. – TBDH nâng cao được tính trực quan – Cơ sở của tư duy trừu
tượng, mở rộng được khả năng tiếp cận với các đối tượng, hiện tượng.
– TBDH tăng tính hấp dẫn, kích thích lòng ham muốn học tập, kích thích hứng thú học
tập của học sinh. – TBDH giúp gia tăng cường độ lao động, học tập của học sinh, do đó
nâng cao được nhịp độ nghiên cứu tài liệu, giáo khoa.
– TBDH cho phép học sinhcó điều kiện tự lực chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ
xảo. TBDH hợp lí hóa quá trình dạy học, tiết kiệm được thời gian để mô tả, gắn bài học
với thực tế đời sống, học gắn với hành. TBDH giúp hình thành nhân cách, thế giới quan,
nhân sinh quan, rèn luyện tác phong làm việc có khoa học của cả giáo viên lẫn học sinh.
Theo danh mục trên (phần 2), ta thấy có nhiều loại hình TBDH khác nhau, với các chức
năng của chúng như đã phân tích thì có thể nói việc sự dụng TBDH trong dạy học là
không thể thiếu được trong quá trình dạy học. Lẽ đương nhiên, sự kết hợp một cách hợp
lí các loại hình TBDH sẽ làm cho hiệu quả của việc giảng dạy được nâng cao. Nếu trong
quá trình giảng dạy, ta biết phối hợp tốt các loại hình TBDH thì loại hình này sẽ bổ sung,
giải quyết những khiếm khuyết của loại hình kia, như thế quá trình dạy học sẽ đạt được
những hiệu quả như mong muốn.
Vai trò và tác dụng của các loại hình TBDH
Vì sao trong quá trình dạy học, ta phải phối hợp các loại hình TBDH? Câu trả lời tương
đối đơn giản, đó là: Không có loại hình TBDH nào là đa năng, là duy nhất vì mỗi loại
hình TBDH đều có những vai trò và tác dụng riêng, khác nhau, cái nọ không thể thay thế
hoàn toàn cho cái kia. Những phân tích sau đây sẽ làm sáng tỏ điều đó.
a) Đối với tranh, ảnh giáo khoa
* Tác dụng nổi bật là chúng có tính trực quan cao. Dùng tranh, ảnh có thể phóng đại
những sự vật nhỏ, hoặc thu nhỏ những vật rất lớn. Tranh, ảnh có thể mô tả cấu tạo bên
trong của sự vật mà trên vật thật không thể quan sát được. Tuy nhiên, trong một giờ dạy,
nếu chỉ dùng tranh ảnh thôi thì làm sao học sinh có thể nhìn thấy tính chất “động” trong
các sự vật hiện tượng. Khi đó cần phải có các loại hình TBDH khác bổ sung (như mô
hình, thí nghiệm, phần mềm dạy học...).
b) Đối với biểu đồ, bản đồ
15. * Tác dụng nổi bật của chúng là giúp học sinh nhìn thấy một cách tổng quan của một hệ
thống nào đó, thấy được những dấu hiệu cơ bản nhất, đặc trưng nhất, điển hình nhất của
môi trường địa lí ...
* Tuy nhiên, nếu chỉ dùng bản đồ, biểu đồ thì tính thuyết phục trong nhận thức của học
sinh lại không cao. Khi đó lại cần đến các loại hình TBDH khác bổ sung (như băng hình,
đĩa hình ...).
c) Đối với mô hình, vật mẫu, mẫu vật
Loại hình này chỉ sự dụng có hiệu quả trong một số ít nội dung dạy học, nó chỉ thực sự có
tác dụng nếu kết hợp được với các tranh, ảnh có liên quan.
d) Đối với dụng cụ dạy học
Loại hình này có nhiều ưu điểm và có thể sử dụng trong tất cả các loại bài giảng. Tuy
vậy, với những thí nghiệm có tính chất nguy hiểm hoặc không thể thực hiện được trong
điều kiện thực tế, thì việc kết hợp với các loại hình TBDH khác đặc biệt là các phần mềm
dạy học là không thể tránh khỏi.
e) Đối với phần mềm dạy học
Trong điều kiện hiện nay, việc sử dụng phần mềm dạy học vào quá trình giảng dạy là rất
hay, rất hiệu quả. Tuy vậy do điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn, trình độ của nhiều
giáo viên về tin học chưa đạt yêu cầu, do đó việc áp dụng phần mềm dạy học vào giảng
dạy là rất hạn chế, nó mới chỉ là một hình thức bổ trợ cho các loại hình TBDH khác mà
chưa thể thay thế được các loại hình TBDH truyền thống.
Đối với các loại hình TBDH khác như phim đèn chiếu, bản trong, băng đĩa ghi âm, băng
đĩa hình, do tính năng tác dụng của chúng rất khác nhau mà các loại hình này chỉ đóng
vai trò bổ trợ cho các loại hình TBDH khác mà thôi.
Tóm lại, mỗi loại hình TBDH đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định, không thể
có loại nào là đa năng, có thể sử dụng thay thế cho tất cả các loại hình TBDH khác. Muốn
đạt được hiệu quả cao trong giảng dạy, ta phải biết kết hợp tốt, vận dụng một cách hợp lí
các ưu điểm cũa từng loại hình, dùng những ưu điểm đó để bổ sung những khiếm khuyết
của các loại hình TBDH khác.