SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
Chuong 1 vl kinh xd
1. 13
CHƯƠNG 1 VẬT LIỆU KÍNH XÂY DỰNG
1.1.Khái niệm
Thuỷ tinh thường ở thể rắn dạng vô định hình sản xuất bằng cách làm nguội khối silicát nóng
chảy. Quá trình chuyển từ trạng thái lỏng sang rắn là quá trình thuận nghịch. Chính vì vậy mà
việc tái chế lại thuỷ tinh đã qua sử dụng rất kinh tế và có ý nghĩa môi trường cao.
Chế tạo thuỷ tinh bằng cách nấu trong lò đến nhiệt độ 1500- 1600o
C hỗn hợp các nguyên liệu
như: cát thạch anh, đá vôi, sôđa (Na2CO3) và sunphat natri (Na2SO4), đôlômít, tràng thạch và
các phụ gia dùng để làm trong, chất khử, chất tạo màu, chất rút ngắn thời gian nấu, điều chỉnh
tính chất như B2O3, MnO, SnO2, CaO... Chất Na2O làm giảm nhiệt độ chảy, K2O tạo màu sáng
và tăng tính xuyên sáng, Al2O3 làm tăng cường độ...
Thuỷ tinh xây dựng có các thành phần oxit như sau: Si02: 64-73,4%; Na20: 10-15,5%; Ca0:
2,5-2,6% và các oxit khác: K20, Mg0, Al203, Fe203, B203…
Nhiều công trình nổi tiếng trên thế giới đã được xây dựng và sử dụng kính làm tường, của
sổ, mái nhà (0).
Kính còn được dùng làm hàng rào và dùng làm chất liệu trang trí cửa sổ (0). Với nghệ thuật
trang trí kiến trúc, kính từ xưa đã rất được sử dụng làm chất liệu tranh mái vòm trong các nhà
thờ, tranh tường (0)...
Tại Việt Nam, việc sử dụng kính vào các công trình xây dựng lại càng có ý nghĩa cao vì trong
điều kiện nhiệt đới nóng ẩm bề mặt vật liệu bao che các công trình rất hay bị nấm mốc, màu sắc
sẽ phai dần. Kính xây dựng và trang trí luôn trong suốt, màu sắc không bị phai giữ cho bề mặt
công trình không thay đổi, khi chỉ cần lau chùi vệ sinh. Nhưng do kính hấp thụ năng lượng bức
xạ mặt trời quá lớn nên việc sử dụng các tấm lớn kính vào các công trình xây dựng cần chú ý tới
màu sắc, độ dày, lớp không khí giữa 2 tấm kính, lớp phủ bề mặt v.v...
Để sản xuất kính người ta dùng cát thạch anh hạt nhỏ, tinh khiết, xôđa (Na2CO3), Na2SO4,
K2CO3, đôlômit, đá phấn và các loại phụ gia như B2O3, MnO, SnO2, CaO.
Kính phẳng
2. 14
Toà nhà bằng kính mang tên Pei-Bau là phần mở
rộng của Bảo tàng lịch sử Đức
Mái vòm bằng kính của toà nhà Quốc hội
Đức (Reichstag)
Hình 1.1.Công trình sử dụng chất liệu kính
Kính được ứng dụng làm cả tường ngăn
(hàng rào).
Cửa sổ sử dụng kính trang trí
Hình 1.2. Chất liệu kính làm hàng rào, trang trí cửa sổ
Tranh kính trên mái vòm Tranh kính trên tường
Hình 1.3.Nghệ thuật tranh kính
Kính ốp tường
3. 15
Blôc kính màu
Kính cán vân hoa Kính cắt mài Kính tấm kéo ngang
Gương Kính màu Kính bảo ôn
Kính sử dụng làm bàn trà Gần gũi thiên nhiên nhờ sử dụng kính
Hình 1.4.Các sản phẩm kính của Viglacera
1.2.CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT
Nguyên liệu chính là thạch anh Si02, sô đa Na2C03, đá vôi, Na2S04…
Công đoạn chính là nấu thuỷ tinh tới nhiệt độ 1500-1600o
C tạo sự đồng nhất, độ trong.
- Trong khoảng 800 - 900o
C, hình thành khối silicát.
- Trong khoảng 1150 - 1200o
C khối thuỷ tinh trở thành trong suốt, nhưng còn nhiều bọt khí.
- T = 1400- 1500o
C, gần như không còn bọt khí, tạo thành khối lỏng đồng nhất. Để tăng độ dẻo,
hạ nhiệt độ xuống 200- 300o
C.
Công đoạn tạo hình bằng các phương pháp: kéo tạo tấm dày 2,6 mm, rót, cán, ép, thổi.
Hình 1.3.Chế tạo sợi thuỷ tinh bằng phương pháp ly tâm (a) và phương pháp thổi (b)
4. 16
1. Bể chứa dụng dịch chảy lỏng 4.Ống nối để chuyển không khí nén hoặc hơi nén
2. Tia chất chảy lỏng 5. Bộ phận ly tâm
3.Bộ phận tăng nhiệt 6. Sợi thuỷ tinh
Nhiệt độ 800-9000
C là nhiệt độ hình thành silicat. Vào cuối thời kì hình thành silicat nhiệt độ
1150-12000
C, khối thuỷ tinh trở lên trong suốt nhưng vẫn còn chứa nhiều bọt khí, việc tách bọt
khí kết thúc ở 1400-15000
C. Cuối giai đoạn này khối thuỷ tinh hoàn toàn tách hết khí và nó trở
thành đồng nhất. Để có độ dẻo tạo hình cần thiết phải hạ nhiệt độ xuống đến 200-3000
C. Độ dẻo
của khối thuỷ tinh phụ thuộc vào thành phần hoá học của nó. Các oxyt SiO2, Al2O3 làm tăng độ
dẻo còn các oxyt Na2O, CaO thì ngược lại, làm giảm độ dẻo.
Việc chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái thuỷ tinh (rắn) là một quá trình thuận nghịch. Khi
để trong không khí và ở nhiệt độ cao cấu trúc vô định hình của một số loại thuỷ tinh có thể
chuyển sang kết tinh.
Về thành phần hoá học kính xây dựng gồm 75-80%SiO2.
1.3.Các tính chất của kính
1.3.1.Khối lƣợng riêng, khối lƣợng thể tích
Khối lượng riêng của thuỷ tinh xây dựng là 2,5 g/cm3
. Các loại thuỷ tinh đặc biệt từ 2,2-
6,0g/cm3
.
Khối lượng thể tích là 2400-2600kg/m3
(loại đặc); loại rỗng có khối lượng thể tích nhiều khi
nhỏ hơn nước.
1.3.2.Tính chất cơ học
Cường độ chịu nén của thuỷ tinh tương đối cao 600- 1000kG/cm2
Cường độ chịu kéo của thuỷ tinh thấp 30-90 kG/cm2
. Sợi thuỷ tinh có cường độ chịu kéo đến
1000-4000kG/cm2
.
Ròn dễ vỡ, chịu uốn kém
Môđun đàn hồi
Môđun đàn hồi của kính dao động trong khoảng 48000-83000kG/cm2
(đối với kính thạch anh:
71400kG/cm2
). Sự có mặt của các oxýt CaO và B2O3 (có thể đến 12%) làm môđun đàn hồi tăng
lên.
- Khả năng gia công cơ học
Kính có khả năng gia công cơ học, cắt được bằng dao có đầu kim cương; mài nhẵn đánh bóng
được. Ở trạng thái dẻo (khi nhiệt độ 800-10000
C) có thể tạo hình, thổi, kéo thành tấm, ống, sợi.
1.3.3.Độ dẫn nhiệt
Độ dẫn nhiệt của kính thường khi nhiệt độ nhỏ hơn 1000
C là 0,34-0,71kCal/m.0
C.h. Kính thạch
anh có độ dẫn nhiệt lớn nhất (1,16kCal/m.0
C.h). Kính chứa nhiều oxyt kiềm có độ dẫn nhiệt nhỏ.
1.3.4.Độ bền hoá học
Thuỷ tinh có độ bền hoá học cao đối với đa số các môi trường xâm thực, loại trừ axít HF và
H3PO4. Các ôxít kiềm càng ít thì độ bền hoá học của thuỷ tinh càng cao.
5. 17
1.3.5.Tính chất quang học
Tính chất quang học, là tính chất quan trọng và được đặc trưng bằng chỉ tiêu xuyên sáng (tính
trong suốt, chiết quang, phản quang, tản xạ). Kính xây dựng là sản phẩm silicat thường cho tất
cả phổ quang phổ nhìn thấy đi qua.
Hệ số xuyên sáng của thuỷ tinh đạt 0,89. Nếu thuỷ tình có thành phần thay đổi hay màu sắc
thì hệ số xuyên sáng giảm.
1.3.6.Đặc tính trang trí
Chất liệu thuỷ tinh hay kính có bề mặt phẳng, trong suốt nên thường được dùng làm cửa sổ
lấy ánh sáng. Kính trắng và kính màu đều rất bền vững trong môi trường, không bị rêu mốc, chịu
ẩm và chống thấm cao, rất phù hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam. Kính làm cửa, cửa sổ hay
tường bao che đều có khả năng để ánh sáng xuyên qua, giảm tiêu thụ năng lượng góp phần tạo
nên kiến trúc bền vững. Để trang trí ngoại thất thì kính màu và khung bằng hợp kim nhôm, chất
dẻo là chất liệu trang trí không thể thiếu trong kiến trúc hiện đại. Mảng tường kính lớn sẽ tạo nên
ấn tượng mạnh hay vẻ đẹp quý tộc, giàu sang.
Kính ốp tường
Blôc kính màu
6. 18
Kính cán vân hoa Kính cắt mài Kính tấm kéo ngang
Gương Kính màu Kính bảo ôn
Kính sử dụng làm bàn trà Gần gũi thiên nhiên nhờ sử dụng kính
Hình 1.4.Các sản phẩm kính của Viglacera
1.4.CÁC SẢN PHẨM KÍNH
Các sản phẩm kính rất đa dạng (Hình 1.4), kính Viglacera là các chất liệu được sử dụng rộng
rãi trong sinh hoạt và trang trí kiến trúc. Các loại kính có kích thước và độ xuyên sáng được nêu
trong bảng 1.1.
Bảng 1.1.Các loại kính và kích thước
Loại kính Dày, mm Rộng, mm Dài, mm
Độ
xuyên
sáng,%
Kính cửa
Kính nhẵn bóng
Kính tủ trưng bày, kính bề
mặt
- Nhẵn bóng
- Không nhẵn bóng
Kính có cốt
- Nhẵn bóng
- Không nhẵn bóng
Kính tôi
Kính giữ nhiệt
Kính phủ màng
Kính hoa văn, trang trí
Kính mờ đục
Kính luợn sóng
Kính màu
2-6
4-7
6,5-8
6-10
5
5,5
4,5-6
2-6
2-6
3,0-6,5
3-6
5,5
3-6
300-200
250-1400
2000-3000
1700-3500
700
300-1400
600-1200
250-2000
250-300
400-1200
250-1000
600-1400
250-1200
500-2200
300-2200
2500-6000
2300-4500
1800
600-1800
1200-2000
250-2200
250-1200
400-1800
250-1800
1000-1200
250-1600
84-87
84
84
84
60
60
84
65-75
10-80
40
60
60-75
10-80
Chất liệu kính phẳng
Chất liệu kính phẳng là sản phẩm chính của nhà máy kính. Kính phẳng dùng làm kính cửa sổ,
cửa đi, mặt kính quầy hàng, trang trí nội ngoại thất.
Kính cửa có chiều dày từ 2-6mm và lớn hơn 6mm. Chiều dày kính tăng thì khả năng xuyên
sáng giảm.
7. 19
Các dạng kính phẳng, công dụng và kích thước của kính phẳng được nêu trong 0 và Error!
Reference source not found..
- Kính cửa sổ, là loại trong suốt, không gia công bề mặt và có độ dày cũng từ 2-6mm. Kính cửa
sổ có các tính chất cơ lý như trong 0.
- Kính tôi, (Hình 1.5.) nhận được bằng cách tôi kính đến nhiệt độ 540-650o
C rồi làm nguội nhanh
bằng khí lạnh. Loại này có các tính chất cơ học tăng, chịu nhiệt tốt, cứng gấp 4-6 lần kính bình
thưòng. Khi vỡ thì vụn nhỏ, không gây nguy hiểm. Có 2 loại kính tôi: kính tôi phẳng (GLACO-F)
và kính tôi cong (GLACO-C). Kính tôi dùng che chắn bên ngoài, để làm quầy trang trí, che chắn
cầu thang. Có thể uốn cong theo thiết kế, làm cabin, tủ bày đồ, tường...
Hình 1.5..Kính tôi nhiệt an toàn:Tường và tranh tường 3D bằng gạch kính
Hình 1.6.Kính có cốt: a- kính mắt lưới to; b- kính mắt lưới nhỏ
- Kính có cốt có lưới thép mạ crom, niken làm kính cho mái nhà để lấy ánh sáng vì khi vỡ sẽ
được lưới thép giữ lại. Trong quá trình cán, bên trong tấm kính, đặt lưới kim loại đường kính 0,4-
0,5mm (Error! Reference source not found.1.6).
- Chất liệu kính hoa là loại kính phẳng được cán một hay hai mặt tạo hình vẽ hoa văn, nhờ vào
trục cán được đắp đá hoa cương, nhờ vậy mà kính hoa có độ phản quang khác nhau và tạo tính
trang trí cao. Nhờ tính chất quang học mà kính tạo nên các sản phẩm như pha lê (Error!
Reference source not found.1.7).
Kính hoa
8. 20
Kính “băng tuyết”
Hình 1.7.Kính hoa và kính mờ
Bảng 1.2.Các tính chất cơ lý của kính cửa sổ
Các đặc tính cơ lý Các thông số
Khối lượng thể tích, kg/m3
Giới hạn cường độ, kG/cm2
(MPa):
- Chịu nén
- Chịu kéo
- Chịu uốn
Độ xuyên sáng, %, không nhỏ hơn
Độ cứng theo bậc thang
Mô đun đàn hồi, kG/cm2
Hệ số dẫn nhiệt, kCal/(m.o
C.h)
Hệ số giãn nở
2420-2590
600-1200
700-1000
400-600
84-87
4,5-7,5
634600
0,83
90x10-7
-Chất liệu kính mờ, kính hoa mờ nhận được từ kính cửa sổ qua gia công cơ học bằng phun tia
cát.. Kính mờ nhận được bằng phun nhanh hai lần. Kính hoa văn mờ nhận được từ kính màu
qua phun cát một lần theo hoạ tiết.
Kính phẳng màu, tạo bởi loại một lớp màu hoặc 2 lớp. Kính một lớp màu nhận được bằng
cách cho thêm các bột màu, loại màu xanh bằng cách cho thêm cobal, màu tím cho 10-20% Mg0
và nikel và màu vàng, màu xanh lá cây cho 20-50% Cr0, Cu0, Fe203.
- Kính Low- E, là loại kính mới sản xuất theo công nghệ của Anh, được phủ lớp màu phản quang,
không hấp thụ năng lượng mặt trời vào mùa hè và giữ nhiệt ấm trong phòng khi chịu khí hậu
lạnh mùa đông. Có nhiều màu sắc đẹp để trang trí mặt ngoài công trình và mang phong cách
kiến trúc xanh, hiện đại.
Cấu kiện kính
- Kính paket, kính cấu kiện, giống như kính blôck kính paket được dùng ốp tường, blôc xây
tường, lợp mái để lấy ánh sáng (Error! Reference source not found.1.8).
Hình 1.8..Mái nhà
bằng paket kính
Hình 1.9..Chất liệu kính mozaic
9. 21
Hình 1.10. Tác phẩm nghệ thuật(nàngMona Lisa) bằng chất liệu kính mosaic
Chất liệu kính mozaic
Với các viên kính nhỏ, thường là hình khối chữ nhật và đa dạng về màu sắc (Hình 1.9) nên
chúng thường được sử dụng làm chất liệu để ghép tạo các tác phẩm nghệ thuật (Hình 5.14) như
tranh tường, tranh trần, quầy trang trí, vv...
5.3.5. Kính an toàn
Kính an toàn, kính cường lực, bán cường lực, hộp kính, kính hoa văn (hình 1.8)…đang ngày
càng được ưa chuộng trên thị trường. Kính an toàn được sản xuất tại Vinaconex, Viglacera ,
Eurowindow ... Từ nguyên liệu kính thường, sản xuất ra những sản phẩm kính an toàn, kính
cường lực - bán cường lực, hộp kính và kính hoa văn. Kính cường lực và bán cường lực của
Eurowindow có độ cứng cao nên chịu được lực va đập mạnh gấp 4-5 lần so với kính nổi thông
thường cùng loại, cùng độ dày và kích thước, chống rung, chịu sốc nhiệt lên đến 200o
C. Kính
hoa văn được sản xuất trên công nghệ gia công khắc chìm CNC nên đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ
cao của khách hàng. Hiện nay, Eurowindow sản xuất được hộp kính và hộp kính khổ lớn với
kích thước 2,7 x 3,5m. Hộp kính của Eurowindow được nạp khí Argon (khí trơ) làm giảm tối đa
tiếng ồn từ môi trường xung quanh, đồng thời làm tăng khả năng cách nhiệt.
10. 22
Kính qua bể cảnh Kính sàn Gia công kính an toàn tại Eurowindow
Kính vách nhà cao tầng
Hình 1.11.
5.3.6.Chất liệu kính điêu khắc
Chất liệu kính điêu khắc thu được từ việc sử dụng kính với nghệ thuật khắc kính và phối màu
hay dán đê can theo hoạ tiết nghệ thuật được sử dụng rất rộng rãi làm chất liệu trang trí. Kết quả
của hiệu ứng ánh sáng và hiệu ứng màu sắc tạo ra một chất liệu trang trí có một không hai. Tạo
ra các sản phẩm như vách ngăn kính, trần kính lung linh với các mảng kích thước rộng lớn có
thể lên tới hàng trăm mét, gây ấn tượng và là điểm nhấn trong ngôi nhà.
Kính phẳng dùng để làm kính cửa sổ, cửa đi, mặt kính các quầy trưng bày, để hoàn thiện bên
trong và ngoài nhà. Bên cạnh kính thường người ta còn chế tạo những loại kính phẳng đặc biệt
như kính hút nhiệt, kính có cốt, kính tôi, kính trang trí nghệ thuật, v.v...Kính làm cửa, có 3 loại với
các chiều dày khác nhau: 2; 2,5; 3; 4; 5; 6; 7; 10mm. Khi chiều dày của kính tăng, khả năng
xuyên sáng của kính giảm.
a. Kính dùng để bưng quầy trưng bày
Kính dùng để bưng quầy trưng bày được chế tạo bằng cách đánh bóng hoặc không đánh bóng
với kích thước 3,4 x 4,5m và chiều dày 5 - 12mm, trong xây dựng còn dùng cả kính cường độ
cao như kính tôi và kính có cốt. Để chế tạo những loại kính có các tính chất đặc biệt trong quá
trình sản xuất người ta có thể cho thêm các oxit kim loại hoặc phủ trên mặt kính những màng
kim loại, màng oxit hoặc màng bột màu. Để lớp phủ đồng nhất, quá trình phải được thực hiện
trong môi trường chân không. Bằng những biện pháp đó có thể tạo cho kính khả năng phản
quang hoặc các tính chất trang trí thích hợp. Kính phản quang dùng để giảm sự đốt nóng của
ánh sáng mặt trời hoặc để điều hòa ánh sáng.
1.6.GIA CÔNG CHẾ TẠO KÍNH NGHỆ THUẬT
11. 23
Phƣơng pháp phun tia cát
Trên bề mặt kính được phun cát áp lực 5-6atm có khuôn trổ hoặc không. Tia cát sẽ cắt bào mòn
bề mặt kính tạo cho kính có hình thức bề mặt đặc biệt, có độ mờ, hoa mờ hoặc dạng hoa băng
tuyết.
Phƣơng pháp cắt
Cắt sâu vào bề mặt kính tạo rãnh hình ba mặt. Sau đó được phủ lớp polime bằng phương
pháp hoá học, sau đó nhúng vào hỗn hợp nóng chảy H2S04 và nước. Kết quả tạo cho kính óng
ánh như pha lê hay giống như kim cương.
Kính qua bể cảnh Kính sàn Gia công kính an toàn tại Eurowindow
Kính vách nhà cao tầng
Hình 1.12. Kính an toàn
Vẽ bằng màu
Trên bề mặt kính được vẽ, sao chép hoạ tiết bằng bột màu silíc dễ chảy, đặc biệt
là sau khi vẽ xong mang vào nung, bột màu sẽ chảy và bám chặt lên mặt kính.
Có loại chỉ vẽ màu trên kính mà không nung.
Gia công hoá học
Đây là phương pháp khắc mặt kính bằng axit nóng chảy. Bột màu cùng axit được đun nóng
và vẽ trên mặt kính theo hoạ tiết thiết kế. Phương pháp này được sử dụng để vẽ tường, trần nhà.
Trang trí kính, tƣờng bằng cắt dán đê can
Chất liệu đê can được cắt và dán theo đúng mẫu hoạ tiết thiết kế trên kính. Phương pháp này
rất thông dụng vì trang trí nhanh và rất ấn tượng về màu sắc và độ bóng của đề can. Đề can
(viết tắt của từ Decalcomania có gốc từ tiếng Pháp décalcomanie), đôi khi được viết là đềcan,
decal, đềcal... là một loại nhãn tự dính. Đê can có cấu tạo và một số đê can dán kính, dán
tường có in sẵn hoạ tiết đẹp (Hình 5.16). Đê can có cấu tạo 4 lớp: Lớp mặt có thể là giấy, màng
nhựa tổng hợp hoặc vải, có thể được tráng hoặc không tráng các chất vô cơ như cao lanh hoặc
tấm kim loại. Lớp mặt thường có khả năng in, viết được.
12. 24
Hình 1.13. Đê can trang trí
Lớp mặt có thể phủ lớp màng trong, ngăn hơi ẩm và bụi. Lớp keo thường là acrylic phủ vào
đáy lớp bề mặt. Lớp ngăn cách chống dính bằng silicon phủ lên trên lớp đế. Lớp đế có thể là
giấy kraft hay glassine nhằm bảo vệ keo
CHƯƠNG 2
VẬT LIỆU CÁCH NHIỆT VÀ HÚT ÂM
2.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI
2.1.1. Khái niệm
Vật liệu cách nhiệt (VLCN) là vật liệu có hệ số dẫn nhiệt không lớn hơn 0,157 W/m.0
C và được
dùng để bảo vệ cho nhà, các thiết bị công nghệ, ống dẫn và máy lạnh công nghiệp.
Việc sử dụng VLCN có ý nghĩa kinh tế kĩ thuật lớn, đặc biệt trong xây dựng cho phép nâng cao
mức độ cơ giới công tác xây dựng, đồng thời giảm giá thành công trình do việc giảm nhẹ trọng
lượng kết cấu, thí dụ nếu bảo vệ nhiệt cho 1m2
tường nhà cần 0,64m3
gạch hoặc 0,32m3
bê
tông keramzit, thì đối với fibrolit chỉ cần 0,14m3
, bê tông khoáng 0,1m3
và chất dẻo xốp 0,04m3
.
2.1.2. Phân loại
Theo cấu tạo, VLCN được chia ra: sợi rỗng (bông khoáng, bông thuỷ tinh, v.v…); hạt rỗng
(peclit, vecmiculit, xôvelit, vật liệu vôi cát, v.v…); rỗng tổ ong (bêtông tổ ong, thuỷ tinh bọt,
chất dẻo xốp).
Theo hình dạng, VLCN thường có các loại: khối (tấm, bloc, ống trụ, bán trụ, hình dẻ quạt),
cuộn (nỉ, băng, đệm), dây và loại rời.
Theo nguyên liệu chế tạo, VLCN chia ra loại vô cơ và loại hữu cơ.
Theo khối lượng thể tích, có 3 nhóm: đặc biệt nhẹ (mác 15, 25, 35, 50, 75, 100); nhẹ (125,
150, 175, 200, 225, 250, 300, 350) và nặng (400, 450, 500 và 600).
Theo tính chịu nén (biến dạng nén tương đối) dưới tải trọng riêng, có 3 loại: mềm (độ lún ép
không lớn hơn 30%), bán cứng (độ lún ép 6 – 30%) và cứng (độ lún ép nhỏ hơn 6%).
Theo tính dẫn nhiệt, chia 3 nhóm: nhóm A – dẫn nhiệt kém, nhóm B – dẫn nhiệt trung bình,
nhóm C – dẫn nhiệt tốt.
2.2. CÁC TÍNH CHẤT CHỦ YẾU CỦA VẬT LIỆU CÁCH NHIỆT
2.2.1.Tính dẫn nhiệt
Tính dẫn nhiệt của vật liệu phụ thuộc độ ẩm của môi trường khí và của hơi nước nằm trong lỗ
rỗng. Độ ẩm của vật liệu có ý nghĩa lớn đối với độ dẫn nhiệt nói chung vì hệ số của nước rất lớn
(bằng 0,5kcal/m.o
C.h), gấp 25 lần độ dẫn nhiệt của không khí nằm trong lỗ rỗng kín, nhỏ.
2.2.2.Cường độ chịu nén
Cường độ chịu nén của VNCN không lớn (0,2 - 2,5Mpa). Cường độ chịu uốn là cường độ chủ
yếu của vật liệu dạng sợi (đối với vật liệu vô cơ 0,15 - 0,5Mpa, đối với tấm sợi gỗ: 0,4 - 2MPa).
Vật liệu cách nhiệt phải có cường độ sao cho không bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển, sắp
kho, xây cất và cả trong điều kiện sử dụng.
2.2.3.Độ hút nước
13. 25
Độ hút nước không những làm giảm tính cách nhiệt của vật liệu xốp mà còn làm giảm cường độ
và tuổi thọ của nó. Vật liệu có lỗ rỗng kín, thí dụ thuỷ tinh bọt, có độ hút nước nhỏ. Để giảm độ
hút nước người ta thường sử dụng phụ gia kị nước.
2.2.4.Tính thấm hơi và thấm khí
Tính thấm hơi và thấm khí của VLCN phải được tính đến khi sử dụng chúng trong kết
cấu bao che. Việc cách nhiệt không hạn chế sự trao đổi khí của nhà ở với môi trường xung
quanh, qua tường ngoài của nhà.
2.2.5.Tính chịu lửa
Tính chịu lửa liên quan đến độ chống cháy của vật liệu có nghĩa là khả năng bắt lửa và
cháy. Vật liệu dễ cháy chỉ có thể sử dụng khi dùng các biện pháp bảo vệ cháy. Tính chất cháy
của vật liệu được xác định dưới sự tác dụng của nhiệt độ 800-850o
C và giữ trong thời gian 20
phút.
2.2.6.Tính bền hoá và bền sinh vật
Vật liệu cách nhiệt xốp dễ bị khí và hơi xâm thực trong môi trường xung quanh thấm vào. Vì vậy
chất kết dính (keo, tinh bột) và VLCN hữu cơ cần phải có độ bền sinh vật, có nghĩa là có khả
năng chống sự tác dụng của nấm mốc và các côn trùng.
2.3. CÁC SẢN PHẨM CỦA VẬT LIỆU CÁCH NHIỆT
2.3.1. Các sản phẩm cách nhiệt vô cơ
Việc sản xuất và nâng cao chất lượng VLCN có liên quan chặt chẽ với quá trình phát triển của
công nghiệp hiện đại. Hiện nay người ta đã sản xuất được hơn 25 loại sản phẩm cách nhiệt.
Trong đó vật liệu và sản phẩm trên cơ sở nguyên liệu khoáng, xỉ và thủy tinh đóng vai trò quan
trọng. Vật liệu và sản phẩm cách nhiệt vô cơ bao gồm:
a. Bông khoáng và sản phẩm từ bông khoáng
Bông khoáng là loại VLCN bao gồm khối sợi dạng thuỷ tinh, các mảnh vụn silicat và những
sợi ngắn cực mảnh được sản xuất từ hỗn hợp nóng chảy của các khoáng vật tạo đá hoặc
xỉ luyện kim.
Tùy thuộc vào phương pháp sản xuất, sợi bông khoáng thường có chiều dài từ 2 đến 30mm và
đường kính từ 5 đến15μm. Trong thành phần của bông khoáng chứa đến 80-90% sợi mảnh có
đường kính 7μm. Bông khoáng được sản xuất với 3 mác: 75, 100 và 125 (theo khối lượng thể
tích, kg/m3
). Hệ số dẫn nhiệt ở nhiệt độ trung bình 255o
C tương ứng bằng 0,036; 0,038
và 0,041kcal/m.o
C.h; ở 100o
C tương ứng bằng 0,05; 0,051 và 0,052 kcal/m.o
C.h với độ ẩm
không lớn hơn 2%. Bông khoáng được thổi hoặc li tâm.
14. 26
Hình 2-1. Bông khoáng
Hiện nay bông khoáng đang chiếm vị trí hàng đầu trong số những VLCN vô cơ vì nó được sản
xuất bằng nguồn nguyên liệu dồi dào, sản xuất đơn giản, độ hút ẩm nhỏ và giá thành tương đối
thấp. Nhưng việc sử dụng bông khoáng tơi để cũng có những khó khăn do các nhược điểm của
vật liệu này là khi chuyên chở và bảo quản bông dễ bị lèn chặt và vón cục, một số bị gãy và biến
thành bụi; trong kết cấu phải có phương tiện bảo vệ để tránh sự lèn ép cơ học; chi phí lao động
lớn khi lắp đặt. Để khắc phục nhược điểm bông khoáng rời, người ta đã chế tạo các sản phẩm
như nỉ tấm cứng và bán cứng, vỏ, hình quạt, ống trụ và các sản phẩm khác.
b. Nỉ cách nhiệt
Nỉ cách nhiệt là loại sản phẩm cách nhiệt được sản xuất trên cơ sở bông khoáng. Nỉ cách nhiệt
gồm có một số loại sau đây:
Nỉ khâu dùng để bảo vệ nhiệt cho các kết cấu bao che của nhà, các thiết bị công nghiệp và
đường ống dẫn có nhiệt độ nhỏ hơn 400o
C. Loại nỉ này được sản xuất bằng cách dùng dây
kim loại và chỉ đặc biệt để khâu các tấm bông khoáng đã được ép có chiều dày thích hợp,
sau đó cắt thành từng tấm có kích thước định trước. Kích thước của nỉ thường dài 2000mm,
rộng 900-1300mm và dày 60 mm. Mác của nỉ tính theo khối lượng thể tích (kg/m3
) là 150, λ=
0,04 kcal/m.o
C.h
Nỉ khâu trên lưới kim loại được sản xuất từ nỉ bông khoáng và khâu trên lưới kim loại. Nỉ
có kích thước 3000 x 500 x 50 và 5000 x 1000 x 1000mm, khối lượng thể tích 100 kg/m3
, ở
100o
C hệ số dẫn nhiệt λ = 0,043 kcal/m.o
C.h. Nỉ này dùng để cách nhiệt ở nhiệt độ thấp hơn
600o
C. Nỉ khâu bằng sợi thủy tinh thường dùng để bảo vệ những bề mặt có nhiệt độ 400o
C.
Thành phần của nỉ loại này là bông khoáng tẩm dầu rồi khâu bằng sợi thủy tinh đã
được xử lí trong dung dịch xà phòng. Nỉ khâu bằng sợi thủy tinh thường được sản xuất các
loại có khối lượng thể tích 125-175kg/m3
, kích thước 2000x500x40mm, ở 255o
C hệ số dẫn
nhiệt λ= 0,038 kcal/m.o
C.h.
c. Tấm cứng và sản phẩm cách nhiệt ở dạng tấm, vỏ, bán trụ
Tấm cứng và sản phẩm cách nhiệt ở dạng tấm, vỏ, bán trụ được chế tạo trên cơ sở bông
khoáng và các chất kết dính hũu cơ (tổng hợp và bi tum). Chất kết dính tổng hợp thường dùng là
fenolfomanđêhit và cacbamit fomaldêhit. Tấm ở dạng bán cứng có khối lượng thể tích
75kg/m3
và kích thước 1000 x (500; 900; 1000; 1500) x (30; 40; 50; 60; 70; 80)mm. Ở 255o
C
hệ số dẫn nhiệt λ không được lớn hơn 0,039 kcal/m.o
C.h.
d. Bông sợi thủy tinh
15. 27
Bông sợi thủy tinh siêu mảnh cũng như các sản phẩm của chúng là vật liệu cách nhiệt, cách âm
tốt, khối lượng thể tích 25kg/m3
, hệ số dẫn nhiệt λ = 0,026 kcal/m.o
C.h.
Hình 2-2. Bông sợi thuỷ tinh
e. Thủy tinh bọt
Thủy tinh bọt là VLCN tốt có cấu trúc rỗng tổ ong. Độ rỗng của thủy tinh bọt rất cao (80-90%);
lỗ rỗng có kích thước 0,25-0,5mm, thành mỏng. Tùy thuộc vào khối lượng thể tích (150-
250kg/m3
) mà hệ số dẫn nhiệt là 0,05-0,1kcal/m.o
C.h. Ngoài ra còn một số ưu điểm khác như
bền nước, bền nhiệt, bền băng giá và cường độ cao (20-50 kG/cm2
). Thủy tinh bọt dùng để cách
nhiệt cho các kết cấu bao che của nhà như tường và trần ngăn giữ nhiệt, sàn và mái.
f. Bê tông tổ ong cách nhiệt
Bê tông tổ ong cách nhiệt là loại vật liệu có khối lượng thể tích không lớn hơn 500kg/m3
dùng
để cách nhiệt cho các kết cấu bao nhẹ của nhà, bề mặt của các thiết bị công nghiệp, đường ống
dẫn nhiệt có nhiệt độ đến 400o
C.
Sản phẩm bê tông tổ ong cách nhiệt ở dạng tấm có kích thước 1000 x 500 x (80-20)mm, hệ số
dẫn nhiệt ở trạng thái khô 0,069 - 0,095 kcal/m.0
C.h, độ ẩm không vượt quá 15%. Theo khối
lượng thể tích (kg/m3
) người ta chia tấm ra các loại mác 300 - 500 với cường độ nén không nhỏ
hơn 9 - 120 kG/cm2
.
2.3.2. Các sản phẩm cách nhiệt hữu cơ
Vật liệu cách nhiệt hữu cơ rất đa dạng, đó là tấm sợi gỗ, tấm lau sậy, tấm pibrôlit, tấm than
bùn và các loại chất dẻo xốp cách nhiệt được sản xuất từ nguyên liệu thực vật và động
vật khác nhau như phế liệu gỗ (dăm bào, mùn cưa, đầu thừa gỗ...), cói, lau, sậy, than bùn, bông
rời, lanh gai, lông thú, cũng như các nguyên liệu trên cơ sở polime.
Vì một số loại VLCHC dễ bị thối rữa, bị biến chất nhanh, dễ bị cháy, nên chúng thường được xử
lí trước khi dùng. Việc sử dụng vật liệu này ở dạng rời để chèn cách nhiệt thường bị phân lớp và
thối rữa, hiệu quả rất kém.
Vì vậy người ta hay chế tạo sản phẩm ở dạng tấm và có bảo vệ tránh ẩm ướt. Để tăng cao độ
bền lâu các loại tấm được xử lí bằng các chất chống cháy, chống côn trùng.
Vật liệu và sản phẩm cách nhiệt hữu cơ bao gồm:
a. Tấm sợi gỗ
16. 28
Tấm sợi gỗ được dùng để cách nhiệt và cách âm cho các kết cấu bao che. Chúng được sản
xuất từ gỗ đã được xé tơi hoặc tận dụng các loại gỗ thứ phẩm, phế liệu của công nghiệp gia
công gỗ, vụn lanh, vụn đay-gai, thân cây lau sậy, rơm rạ, bông. Trong đó tấm sợi gỗ sản xuất từ
phế liệu gỗ là phổ biến nhất.
Quá trình sản xuất tấm sợi gỗ cách nhiệt bao gồm các công đoạn chính sau: đập, nghiền nguyên
liệu gỗ; tẩm nhựa; tạo hình và gia công nhiệt. Để tăng khả năng chống cháy, sợi gỗ còn được
tẩm thêm chất chống cháy và để tăng cường tính ổn định nước thì cho thêm parafin, nhựa, dầu
và các chất ở dạng nhũ tương. Tấm sợi gỗ cách nhiệt có khối lượng thể tích 250 kg/m3
cường
độ chịu uốn 12 kG/cm2
, hệ số dẫn nhiệt không lớn hơn 0,06kcal/m.o
C.h, kích thước dài 1200-
1300, rộng 1200-1600 và dày 8-25mm.
b. Sản phẩm than bùn cách nhiệt
Sản phẩm sản xuất ở dạng tấm, vỏ hình quạt và sử dụng kết cấu bao che nhà cấp III, bề mặt
các thiết bị công nghiệp, đường ống dẫn khi dẫn nhiệt từ - 60o
C đến 100o
C. Nguyên liệu để
sản xuất sản phẩm loại này là loại than bùn tầng trên, ít bị phân rã và có cấu tạo sợi thuận tiện
cho việc chế tạo sản phẩm ép có chất lượng cao. Tấm có kích thước 100 x 500 x 30mm được
sản xuất bằng cách ép than bùn trong khuôn kép có hoặc không có phụ gia và sau đó được sấy
ở nhiệt độ 120-150o
C.
Theo khối lượng thể tích, tấm than bùn chia ra 2 loại mác 170 và 220 với cường độ uốn 3
kG/cm2
, hệ số dẫn nhiệt ở trạng thái khô là 0,052 kcal/m.o
C.h, độ ẩm không lớn hơn 15%.
c. Tấm fibrôlit
Đó là loại vật liệu cách nhiệt và chịu lực cách nhiệt được chế tạo từ hỗn hợp ximăng pooclăng,
nước và dăm gỗ. Dăm gỗ đóng vai trò bộ khung chịu lực được sản xuất từ phế liệu gỗ lá kim có
chiều dài đến 500, rộng 4-7 và dày 0,25-0,5mm.
Dăm được sấy trước, sau đó được tẩm chất khoáng hóa (cloruacanxi, thủy tinh lỏng) rồi trộn
với hồ xi măng (theo phương pháp ướt) hoặc với xi măng (theo phương pháp khô). Trên
máy ép băng chuyền, tấm fibrolít được tạo thành ở dạng dải dài liên tục, sau đó được cắt thành
từng tấm. Sau khi tạo hình tấm ép được chưng hơi ở nhiệt độ 30-35o
C.
Theo khối lượng thể tích tấm fibrôlit được chia ra 4 mác: 300; 350; 400 và 500 với cường độ
tương ứng là 4; 5; 7 và 12 kG/cm2
, hệ số dẫn nhiệt 0,078 - 0,13 kcal/m.o
C.h, độ hút nước
không lớn hơn 20% và kích thước: dài 2000 - 2400, rộng 500 - 500 và dày 50; 75; 100mm.
Tấm fibrôlit được sử dụng làm vật liệu cách nhiệt, chịu lực-cách nhiệt và cách âm cho tường,
sàn và trần ngăn.
Ngoài dăm gỗ người ta còn dùng các nguyên liệu dạng sợi ngắn khác như vỏ bào, rơm rạ, cói
băm, mùn cưa để chế tạo tấm fibrôlit.
d. Chất dẻo xốp
Việc tạo rỗng cho polime nhờ sử dụng các chất đặc biệt có khả năng tách khí mạnh và làm
trương nở khối polime khi polime bị nung chảy mềm. Các chất đó có thể ở dạng rắn, lỏmg và khí.
17. 29
Các chất tạo xốp ở dạng rắn có ý nghĩa thực tế lớn là các chất cacbonat, bicacbonatnatri và
amoniac (tách ra CO2 và NH3 khi phân giải) ). Các chất tạo bọt lỏng là benzen, rượu v v..., còn
các chất tạo bọt dạng khí là không khí, nitơ, khi cacbonic, amoniac.
Theo cấu tạo chất dẻo xốp được chia làm 3 nhóm : xốp bọt, xốp khí và xốp tổ ong. Loại chất dẻo
xốp bọt và xốp tổ ong không những là VLCN mà còn là vật liệu chịu lực.
Chất dẻo xốp khí và xốp tổ ong có thể chế tạo bằng hai phương pháp: ép và không ép. Trong
phương pháp ép thì hỗn hợp bột polime nghiền mịn, chất tạo khí và các phụ gia khác được ép
dưới áp lực 150 -160 kG/cm2
. Sau đó lấy mẫu (thường là 2-2,5kg) để cho trương bọt. Trong
phương pháp không ép thì hỗn hợp polime, chất tạo khí, chất đóng rắn và các cấu tử khác được
nung nóng ở trong khuôn đến nhiệt độ phù hợp. Do bị nung nóng, polime bị chảy ra, chất tạo khí
bị phân giải, khí tách ra, polime bị sủi bọt. Kết quả, người ta nhận được lọai vật liệu có cấu tạo
rỗng tổ ong với những lỗ rỗng phân bố đều.
Loại vật liệu dẻo cách nhiệt phổ biến nhất là chất dẻo xốp khí polistiron, mipo. Chất dẻo xốp
polistiron là vật liệu giữ nhiệt rất tốt trong các panen phân lớp; phối hợp tốt với nhôm, xi măng
amiăng và chất dẻo thủy tinh. Nó được sử dụng rộng rãi để làm VLCN trong công nghiệp lạnh;
đóng tàu biển, đóng tàu hỏa; cách nhiệt cho tường, trần và mái nhà.
Chất dẻo khí polistiron sản xuất ở dạng tấm hoặc các sản phẩm định hình khác có khối
lượng thể tích đến 60kg/m3
, hệ số dẫn nhiệt 0,026 - 0,034 kcal/m.o
C.h, kích thước phổ biến là
900 x 650 x 100mm.
Mipo là chất dẻo xốp khí dùng để cách nhiệt cho kết cấu xây dựng, các thiết bị công nghiệp,
đường ống dẫn có nhiệt độ đến +70o
C. Nguyên liệu để sản xuất mipo là urefomaldêhit và chất
tạo bọt, các thành phần này được cho vào thiết bị khuấy để tạo bọt, sau đó rót khối bọt vào
khuôn kim loại rồi chuyển vào giữ ở buồng có nhiệt độ 18o - 22o
C trong 3 - 4 giờ để hỗn hợp
cứng rắn lại thành blôc. Đem blôc đi sấy trong 60 - 80 giờ tại buồng sấy có nhiệt độ 30 - 50o
C.
Blôc (thể tích không nhỏ hơn 0,05m3
) có cường độ nén 5- 7 kG/cm2
, độ hút nước sau 24 giờ là
0,11%, hệ số dẫn nhiệt 0,027 kcal/m.o
C.h.
CHƯƠNG 3 CHÂT KẾT DÍNH HỮU CƠ
3.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI
3.1.1. Khái niệm
Chất kết dính hữu cơ (BITUM) là hỗn hợp của các chất hữu cơ có phân tử lượng tương đối cao,
tồn tại ở thể rắn, dẻo hay lỏng.
Nguyên liệu để sản xuất chất kết dính hữu cơ là các sản phẩm có nguồn gốc hữu cơ như dầu
mỏ, than đá, than bùn...Sau khi gia công hóa lí, ngoài các sản phẩm chính người ta còn nhận
được một số loại nhựa cặn. Nhựa cặn được gia công tiếp tục để thành chất kết dính hưu cơ.
Chất kết dính hữu cơ (nhất là bi tum và guđrông) được ứng dụng rộng rãi để xây dựng các lớp
phủ mặt đường, vỉa hè, nền nhà công nghiệp, bảo vệ bê tông và kim loại khỏi bị ăn mòn.
Chất kết dính hữu cơ có những đặc tính kĩ thuật sau:
Dễ liên kết với vật liệu khoáng bằng lớp màng mỏng bền và ổn định nước.
18. 30
Có độ nhớt nhất định, nhờ đó mà trong thời gian thi công nó bao bọc quanh vật liệu khoáng
còn trong thời kì làm việc nó gắn kết những vật liệu khoáng thành một khối đồng nhất, tạo ra
cường độ cần thiết.
Tương đối ổn định khí quyển, ít thay đổi tính chất trong quá trình sử dụng.
Hòa tan ít trong nước và trong axit vô cơ, hòa tan nhiều trong dung môi hữu cơ.
3.1.2. Phân loại
Căn cứ vào các đặc điểm sau để phân loại chất kết dính hữu cơ.
Theo thành phần hóa học, chia ra : Bitum và guđrông.
Theo nguồn gốc nguyên liệu chia ra:
Bitum dầu mỏ là sản phẩm cuối cùng của dầu mỏ.
Bitum đá dầu là sản phẩm khi chưng đá dầu.
Bitum thiên nhiên là loại bitum thường gặp trong thiên nhiên ở dạng kết tinh hay lẫn với
các loại đá.
Guđrông than đá là sản phẩm khi chưng khô than đá.
Guđrông than bùn là sản phẩm khi chưng khô than bùn.
Guđrông gỗ là sản phẩm khi chưng khô gỗ.
Theo tính chất xây dựng chia ra:
Bitum và guđrông rắn: ở nhiệt độ 20 - 25o
C là một chất rắn có tính giòn và tính đàn hồi, ở
nhiệt độ 180 - 200o
C thì có tính chất của một chất lỏng.
19. 31
Bitum và guđrông quánh: ở nhiệt độ 20 - 25o
C là một chất mềm, có tính
dẻo cao và độ đàn hồi không lớn lắm.
Bitum và guđrông lỏng : ở nhiệt độ 20 - 25o
C là một chất lỏng và có
chứa thành phần hyđrôcacbon dễ bay hơi, có khả năng đông đặc lại sau
khi thành phần nhẹ bay hơi và sau đó có tính chất gần với tính chất của
bitum và guđrông quánh.
Nhũ tương bitum và guđrông: là một hệ thống keo bao gồm các hạt chất
kết dính phân tán trong môi trường nước và chất nhũ hóa.
3.2. BITUM DẦU MỎ XÂY DỰNG ĐƢỜNG
3.2.1. Thành phần và cấu trúc của bitum dầu mỏ xây dựng đƣờng
1. Thành phần của bitum dầu mỏ xây dựng đường
Bitum dầu mỏ là một hỗn hợp phức tạp của các hợp chất hydrocacbon (metan,
naftalen, các loại mạch vòng) và một số dẫn suất phi kim loại khác. Nó có màu
đen, hoà tan được trong benzene (C6H6), cloruafooc (CHCl3), disunfuacacbon
(CS2) va một số dung môi hữu cơ khác.
Thành phần hoá học của bitum dầu mỏ như sau:
C: 73-87%;
H: 8-12%;
O: 1-2%;
S : 1-5% ;
N : 0,5 -1%.
Những hợp chất hiđrôcacbon có cấu tạo hóa học và tính chất vật lí giống nhau
được sắp xếp trong một nhóm cấu tạo hóa học, chúng có ảnh hưởng lớn đến
tính chất của bitum. Các nhóm cấu tạo hóa học chủ yếu bao gồm:
Nhóm chất dầu gồm những hợp chất có phân tử lượng thấp (300-600),
không màu, khối lượng riêng nhỏ (0,91-0,925). Nhóm chất dầu làm cho
bitum có tính lỏng. Nếu hàm lượng nhóm này trong bitum tăng lên sẽ làm
cho tính quánh giảm.Trong bi tum nhóm chất dầu chiếm 45-60%.
Nhóm chất nhựa gồm những hợp chất có phân tử lượng cao hơn (600-900),
màu nâu sẫm, khối lượng riêng xấp xỉ 1. Nó có thể hòa tan trong
benzen, etxăng, clorofooc. Nhóm chất nhựa trung tính (tỉ lệ H/C=1,6-
1,8) làm cho bitum có tính dẻo. Nếu hàm lượng nhóm này trong bitum tăng
lên sẽ làm cho tính dẻo tăng. Nhóm chất nhựa axit (tỉ lệ H/C=1,3-1,4) làm
tăng tính bám dính của bitum với vật liệu khoáng. Trong bi tum dầu mỏ
nhóm chất nhựa chiếm 15-30%.
Nhóm asfalt rắn gồm những hợp chất có phân tử lượng lớn (1000-
6000), màu nâu sẫm hoặc đen, khối lượng riêng 1,1-1,15). Nhóm này không
bị phân giải khi đốt. Ở nhiệt độ lớn hơn 300o
C thì bị phân giải ra khí và cốc.
Nhóm asfalt rắn có tỉ lệ H/C=1,1. Nó có thể hòa tan trong clorofooc,
têtracloruacacbon (CCl4), không hòa tan trong ête, dầu hỏa và axêtôn
(C3H5OH). Tính quánh và sự biến đổi tính chất theo nhiệt độ của bitum phụ
thuộc chủ yếu vào nhóm này. Nếu hàm lượng nhóm này trong bitum tăng
20. 32
lên sẽ làm cho tính quánh và nhiệt độ hóa mềm của bitum cũng tăng
lên.Trong bitum nhóm này chiếm 10-38%.
Nhóm cacben và cacboit, tính chất của cácben gần giống như chất atphan,
chỉ khác là không hoà tan trong benzen và trong CCl4, hoà tan được trong
đisunfuacacbon khối lượng riêng lớn hơn 1. Cacboit là một chất rắn dạng
muội, không hoà tan trong bất cứ dung môi nào. Hàm lượng của các chất
này ở trong bitum nhỏ hơn 1,5%, làm bitum kém dẻo.
Nhóm axit atphan và anhydrite: nhóm này là những chất nhựa hoá (nhựa
axit) mang cực tính (gồm những phân tử co chứa gốc cacboxyl – COOH);
nó là thành phần hoạt tính bề mặt lớn nhất của bitum, dễ hoà tan trong rượu
cồn, benzene, clorofooc và khó hoà tan trong etxăng. Axit asphalt có khối
lượng riêng nhỏ hơn 1, màu nâu sẫm, hàm lượng trong bitum nhỏ hơn 1%.
Khi hàm lượng tăng lên, khả năng thấm ướt và cường độ liên kết của bitum
với bề mặt vật liệu khoáng dạng cácbonat tăng lên.
Nhóm paraffin là những hydro cacbua ở dạng rắn. Parafin có thể làm giảm
khả năng phân tán và hoà tan của atphan vào trong các nhóm khác, có thể
làm giảm tính đồng nhất của bitum. Nếu tỷ lệ paraffin tăng lên, nhiệt độ hoá
mềm, tính giòn của bitum ở nhiệt độ thấp sẽ tăng lên, bitum hoá lỏng ở nhiệt
độ thấp hơn so với bitum không chứa paraffin. Tỷ lệ của paraffin trong bitum
dầu mỏ đến 5%.
Dựa vào thành phần các nhóm cấu tạo hóa học có thể chia bitum dầu mỏ thành
3 loại:
Bi tum loại 1 có nhóm asfalt > 25%, nhựa < 24% và dung dịch
cacbon >50%.
Bitum loại 2 có hàm lượng nhóm cấu tạo hóa học tương
ứng: >18%; >36% và < 48%
Bitum loại 3 tương ứng là 21- 23%; 30 - 34%; 45-49%.
2. Cấu trúc của bitum dầu mỏ xây dựng đường
Bitum dầu mỏ là một hệ thống keo phức tap có cấu trúc cơ bản là cấu trúc
mixen.
Theo lý thuyết mixen đối với những chất cao phân tử, Menep va Mark coi cấu
trúc của chúng như một hệ thống tinh thể (mixen). Mỗi mixen là một hệ thống
phức tạp bao gồm một số lượng lớn các phân tử có phân tử lượng nhỏ bao
quanh một thể bằng những lực tương hỗ. Khi lực tương hỗ lớn thì mỗi một
mixen là một nút của mạng. Cấu trúc mixen được coi là những pha phân tán.
Với bitum, pha phân tán là atphan, xung quanh chúng là những chất nhựa và
môi trường phân tán là chất dầu.
Trong bitum quánh và cứng, mixen chiếm tỷ lệ lớn. Còn trong bitum lỏng chúng
chiếm một tỷ lệ nhỏ đến nỗi không có tương tác gì với nhau nên có thể chuyển
động tự do trong chất dầu.
Quan hệ giữa hàm lượng và cấu tạo của các nhóm trong bitum (dầu, nhựa,
atphan) có thể tạo nên các cấu trúc phân tán khác nhau (sol, gel, sol-gel) có
những tính chất cơ lý nhất định.
21. 33
Cấu trúc sol đặc trưng cho bitum có hàm lượng chất dầu và chất nhựa lớn. Khi
đó các mixen không tạo ra được tác dụng tương hỗ lẫn nhau và chuyển động
tự do trong môi trường dầu, cấu trúc sol có ở trong bitum lỏng và bitum quánh
nấu nóng chảy.
Khi tỷ lệ atphan trong bitum lớn sẽ tạo nên cấu trúc gel. Trong cấu trúc gel các
hạt nhân atphan mở rộng ra, các mixen xích lại gần nhau và có tác dụng tương
hỗ lẫn nhau, tạo nên mạng cấu trúc không gian. Cấu trúc đó tạo ra tính đàn hồi
cho chất kết dính và là đặc trưng cho cấu trúc của bitum cứng ở nhiệt độ thấp.
Cấu trúc sol-gel đặc trưng cho bitum quánh ở nhiệt độ thường. Ở nhiệt độ này
vật liệu sẽ có tính đàn hồi dẻo và tính nhớt.
3.2.2. Các tính chất và yêu cầu kỹ thuật của bitum dầu mỏ xây dựng
đƣờng
3.2.2.1. Tính chất và yêu cầu kỹ thuật của bitum quánh
1. Tính quánh
Tính quánh của bitum thay đổi trong phạm vi rộng. Nó ảnh hưởng nhiều đến
các tính chất cơ học của hỗn hợp vật liệu khoáng với chất kết dính, đồng thời
quyết định công nghệ chế tạo và thi công lọai vật liệu có dùng bitum.
Hình 3-1. Dụng cụ đo độ quánh
1.Đồng hồ đo 2.Kim 3.Vít
4.Đầu kim 5.Mẫu nhựa 6.Nước
Độ quánh của bitum phụ thuộc vào hàm lượng các nhóm cấu tạo hóa
học và nhiệt độ của môi trường. Khi hàm lượng nhóm asfalt tăng lên và
hàm lượng nhóm chất dầu giảm thì độ quánh của bi tum tăng lên. Khi nhiệt
độ của môi trường tăng cao nhóm chất nhựa sẽ bị chảy lỏng độ quánh
của bitum sẽ giảm xuống.
22. 34
Để đánh giá độ quánh của bitum người ta dùng chỉ tiêu độ cắm sâu của kim
(có trọng lượng 100g, đường kính 1mm) của dụng cụ tiêu chuẩn (Hình 3-1) vào
bitum ở nhiệt độ 25o
C trong 5 giây. Độ kim lún ký hiệu là P (đo bằng độ, 1 độ
bằng 0,1 mm). Trị số P càng nhỏ thì độ quánh của bitum càng cao.
2. Tính dẻo
Tính dẻo đặc trưng cho khả năng biến dạng của bitum dưới tác dụng của ngoại
lực.
Tính dẻo của bitum cũng giống như tính quánh, phụ thuộc vào nhiệt độ và
thành phần nhóm, khi nhiệt độ tăng tính dẻo cũng tăng và ngược lại. Trong
trường hợp đó bitum dùng làm mặt đường hay trong các kết cấu khác có thể
tạo thành các vết nứt. Tính dẻo của bitum được đánh giá bằng độ kéo dài, ký
hiệu là L (cm) của mẫu tiêu chuẩn và được xác định bằng dụng cụ đo độ dài
(Hình 3-2).
Hình 3-2. Dụng cụ đo độ kéo dài
1. Thước đo 2. Mẫu kéo 3. Mẫu kéo 4. Vít cố định
Nhiệt độ thí nghiệm tính dẻo là 25o
C, tốc độ kéo là 5cm/phút. Độ kéo dài càng
lớn thì độ dẻo càng cao.
3. Tính ổn định nhiệt
Khi nhiệt độ thay đổi, tính quánh, tính dẻo của bitum thay đổi, sự thay đổi đó
càng nhỏ thì bitum có tính ổn định nhiệt độ càng cao.
Tính ổn định nhiệt của bitum phụ thuộc vào thành phần hóa học của nó. Khi
hàm lượng nhóm asfalt tăng thì tính ổn định nhiệt của bitum tăng và ngược lại.
Bước chuyển của bitum từ trạng thái rắn sang trạng thái quánh rồi hóa lỏng và
ngược lại xảy ra trong khoảng nhiệt độ nhất định. Do đó tính ổn định nhiệt của
bitum có thể biểu thị bằng khoảng nhiệt độ đó. Khoảng biến đổi nhiệt độ
ký hiệu là T được xác định bằng công thức:
T = Tm - Tc (3-1)
Trong đó :
Tm : nhiệt độ hóa mềm của bitum.
Tc : nhiệt độ hóa cứng của bitum.
23. 35
Nếu T càng lớn thì tính ổn định nhiệt của bitum càng cao. Trị số nhiệt độ hóa
mềm của bitum ngoài việc dùng để xác định khoảng biến đổi nhiệt độ T
nó còn có ý nghĩa thực tế quan trọng. Trong xây dựng đường người ta
thường dùng bitum để rải mặt đường, do đó khi gặp nhiệt độ cao nếu Tm
không thích hợp thì bitum có thể bị chảy làm cho mặt đường có dạng làn sóng,
dồn đống.
Hình 3-3. Dụng cụ vòng và hòn bi
1.Viên bi 2.Vòng 3. Giá trên 4. Giá dưới
Vì vậy, nhiệt độ hóa mềm cũng là một chỉ tiêu kỹ thuật để đánh giá chất lượng
của bitum. Nhiệt độ hóa mềm của bitum được xác định bằng dụng cụ
“vòng và bi“ (Hình 3-3). Khối lượng của viên bi bằng 3,5g, đường kính 9,53mm
và vòng có kích thước như hình vẽ.
Để xác định nhiệt độ hóa mềm người ta đun nóng bình chứa chất lỏng (thường
là nước) với tốc độ 5o
C/phút. Dưới tác dụng của nhiệt độ tăng dần, đến một lúc
nào đó bitum bị nóng chảy lỏng ra, viên bi cùng bitum rơi xuống. Nhiệt độ chất
lỏng trong bình, ứng với lúc viên bi tiếp xúc với bản dưới của giá đỡ được xem
là nhiệt độ hóa mềm của bitum.
Nhiệt độ hóa cứng của bitum có thể xác định bằng dụng cụ đo độ kim lún. Nhiệt
độ hóa cứng là nhiệt độ ứng với độ kim lún bằng 1 độ.
4. Tính hóa già
Do ảnh hưởng của thời tiết mà tính chất và thành phần của bitum thay
đổi nghĩa là làm cho bitum bị hóa già. Sự hóa già làm cho tính quánh,
tính dòn của bitum tăng lên, làm xuất hiện các vết nứt trong lớp phủ mặt đường,
tăng quá trình phá hoại do ăn mòn.
Quá trình hoá già của lớp phủ mặt đường có thể chia làm hai giai đoạn. Giai
đoạn 1 cường độ và tính ổn định biến dạng tăng. Giai đoạn 2 bitum bắt đầu già,
cấu trúc thay đổi, làm lớp phủ bị phá hoại. Tuy vậy sự hoá già của bitum phát
24. 36
triển chậm, thường sau 10 năm sử dụng sự hoá già mới ở mức độ cao.Tính
hoá già có thể xác định ngay tại hiện trường hoặc bằng mẫu thử thí nghiệm
trong các buồng khí hậu nhân tạo.
5. Tính ổn định khi đun nóng
Khi dùng bitum người ta thường phải đun nóng lên đến nhiệt độ 160o
C
trong thời gian khá dài, do đó các thành phần nhẹ có thể bốc hơi, làm thay đổi
tính chất của bitum.
Sau khi tiến hành thí nghiệm này các loại bi tum dầu mỏ quánh phải có hao hụt
trọng lượng không được lớn hơn 1%, độ kim lún và độ kéo dài thay đổi không
được lớn hơn 40% so với trị số ban đầu.
6. Nhiệt độ bốc cháy
Khi đun bitum đến một nhiệt độ nhất định thì các chất dầu nhẹ bốc hơi hòa lẫn
vào môi trường xung quanh tạo nên một hỗn hợp dễ cháy.
Hình 3-4. Dụng cụ xác định nhiệt độ bốc cháy
1.Nhiệt kế 2. Nhựa 3. Cát
Để xác định nhiệt độ bốc cháy, người ta dùng dụng cụ riêng (Hình 3-4).
Trong thí nghiệm, nếu ngọn lửa lan khắp mặt bitum thì nhiệt độ lúc đó
được xem là nhiệt độ bốc cháy. Nhiệt độ bốc cháy của bitum thường nhỏ hơn
200o
C. Nhiệt độ này là một chỉ tiêu quan trọng về an toàn khi gia công
bitum.
7. Tính bám dính
Sự liên kết của bitum với bề mặt vật liệu khoáng có liên quan đến quá trình thay
đổi lý hoá khi hai chất tiếp xúc với nhau. Sự liên kết này sẽ đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo nên cường độ và tính ổn định với nước, với nhiệt độ
của bitum và vật liệu khoáng.
25. 37
Khi nhào trộn bitum với vật liệu khoáng, các hạt khoáng được thấm ướt bằng
bitum và tạo thành một lớp hấp phụ. Khi đó các phân tử bitum ở trong
lớp hấp phụ sẽ tương tác với các phân tử của vật liệu khoáng ở lớp bề
mặt. Tương tác đó có thể là tương tác lý học hay hoá học.
Lực liên kết hoá học lớn hơn rất nhiều so với lực liên kết lý học, do đó khi bitum
tương tác hoá học với vật liệu khoáng thì cường độ liên kết sẽ lớn nhất.
Liên kết của bitum với vật liệu khoáng trước hết phụ thuộc vào thành phần của
bitum. Khi nhóm chất nhựa trong bitum càng nhiều thì sự liên kết của nó với vật
liệu khoáng càng tốt.
Liên kết của bitum với vật liệu khoáng còn phụ thuộc vào tính chất của vật liệu
khoáng. Các loại đá bazơ liên kết với bitum tốt hơn với các loại đá axit.
Mức độ liên kết của bitum với bề mặt vật liệu đá hoa có thể đánh giá theo độ
bền của màng bitum trên bề mặt đá hoa khi nhúng trong nước sôi. Nếu sau khi
thí nghiệm, hơn 2/3 bề mặt của hạt đá hoa vẫn được bitum bao bọc thì độ liên
kết của bitum với bề mặt đá hoa là tốt.
Thực tế khi chế tạo hỗn hợp bitum và vật liệu khoáng, người ta dùng nhiều loại
đá khác nhau, do đó mức độ liên kết của nó cũng có thể khác nhau.
8. Yêu cầu kỹ thuật
Bitum dầu mỏ loại quánh dùng trong xây dựng đường của Nga, Trung Quốc
thường được chia thành 5 mác (Bảng 3-1).
Bảng 3-1. Các chỉ tiêu kỹ thuật của bitum dầu mỏ loại quánh
Các chỉ tiêu Qui định theo mác
1
(200/300)
2
(130/200)
3
(90/130)
4
(60/90)
5
(40/60)
1. Độ kim lún:
- Khi ở 250
C, trong giới hạn.
- Khi ở 0o
C, không nhỏ hơn
201 - 300
45
131 -200
35
91-130
28
61- 90
20
41 - 60
13
2. Ðộ kéo dài ở 25C, cm,
không nhỏ hơn
không
qui định 65 60 50 40
3. Nhiệt độ hóa mềm, C,
không thấp hơn
35 39 43 47 51
26. 38
4. Sự thay đổi nhiệt độ hóa
mềm sau khi gia nhiệt, 0
C,
không lớn hơn
8 7 6 6 6
5. Hàm lượng các hợp chất
hòa tan trong nước, không
lớn hơn
0,2 0,2 0,3 0,3 0,3
6. Nhiệt độ bốc cháy, 0
C
không thấp hơn
200 220 220 220 220
3.2.2.2. Tính chất và yêu cầu kỹ thuật của bitum lỏng
1. Độ nhớt
Cũng như bitum dạng quánh, độ nhớt của bitum dạng lỏng phụ thuộc
vào thành phần của các nhóm hóa học và tỉ lệ giữa lượng chất rắn và chất
lỏng dùng để pha loãng. Khi trong bitum chứa nhiều nhóm chất nhựa,
chất rắn và chứa ít nhóm dầu thì độ nhớt của nó tăng lên.
Độ nhớt của bitum lỏng được xác định bằng nhớt kế (Hình 3-5). Độ nhớt của
bitum lỏng đặc trưng bằng thời gian để 50ml bitum lỏng chảy qua lỗ đáy của
dụng cụ có đường kính 5mm, ở nhiệt độ 60o
C.
2. Phần cất (thành phần dễ bay hơi)
Số lượng và chất lượng phần cất là chỉ tiêu gián tiếp biểu thị tốc độ
đông đặc lại của bitum lỏng ở mặt đường. Nếu bitum lỏng chứa nhiều thành
phần này và nó có nhiệt độ sôi thấp thì quá trình đông đặc của bitum sẽ
nhanh. Để xác định thành phần cất của bitum lỏng cần cất ở các nhiệt độ
khác nhau: 225o
C, 315o
C và 360o
C. Tính chất của phần còn lại sau khi cất
đến nhiệt độ 360o
C sẽ đặc trưng cho loại bitum lỏng và tính chất của nó trong
thời gian sử dụng ở mặt đường. Các tính chất này được xác định như với bitum
đặc quánh.
Có thể xác định khả năng thi công (đặc lại) của bitum lỏng bằng chỉ tiêu lượng
bay hơi (%) khi nung bitum lỏng từ 60o
C đến 100o
C và thời gian 1 đến 5 giờ tùy
loại bitum lỏng. Chỉ tiêu này gần sát thực tế hơn chỉ tiêu phần cất nêu ở trên.
Hình 3-5. Nhớt kế
1.Nước 2. Nắp đậy 3. Cốc đo độ nhớt
27. 39
4. Chốt nút 5.Cánh khuấy 6.Vòi nước
7.Cối đo độ nhớt 8.Nút tròn 9.Bình đo
10. Bếp nhiệt 11.Bộ phận làm nóng nước
3. Các yêu cầu kỹ thuật của bitum dầu mỏ lỏng
Bitum dầu mỏ loại lỏng dùng xây dựng đường ở Nga chia ra 2 loại: đông đặc
vừa và đông đặc chậm.
Các chỉ tiêu kỹ thuật của bitum lỏng, đông đặc vừa được giới thiệu ở , còn loại
đông đặc chậm ở
Bảng 3-2. Các chỉ tiêu kỹ thuật của bitum lỏng đông đặc vừa
Các chỉ tiêu
Quy định theo mác
C
40/70
C
70/130
C
130/200
M
40/70
M
70/130
1. Độ nhớt theo nhớt kế
đường kính lỗ 5mm, ở
600
C, giây, trong khoảng
40-70 71-130 131-200 40-70 71-130
2. Lượng bay hơi sau
khi nung, % không nhỏ hơn.
10 8 7 8 7
3. Nhiệt độ hóa mềm của
phần còn lại sau khi nung để
xác định lượng bay hơi, 0
C,
không nhỏ hơn.
37 39 39 28 29
4. Nhiệt độ bốc cháy, 0
C,
không nhỏ hơn.
45 50 60 100 110
5. Thí nghiệm liên kết với
đá hoa hoặc cát
tốt tốt tốt tốt tốt
Bảng 3-3. Các chỉ tiêu kỹ thuật của bitum lỏng đông đặc chậm
Các chỉ tiêu Quy định về mác
M
40/70
MO
70/130
MO
130/200
MO
40/70
1. Độ nhớt theo nhớt kế ở 600
C
có d = 5 mm, ở 600
C, giây
131-200 40-70 71-130 131-200
2. Lượng bốc hơi sau khi nung,
%, ≥
5 - - -
3. Nhiệt độ hóa mềm còn lại sau
khi nung để xác định lượng bốc
hơi,
o
C, ≥
30 - - -
4. Nhiệt độ bốc cháy,
o
C,≥ 110 120 160 180
5. Thí nghiệm liên kết với đá
hoa hoặc cát
tốt tốt tốt tốt
28. 40
CHƯƠNG 4 BÊ TÔNG DÙNG CHẤT KẾT DÍNH HỮU CƠ
4.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI
4.1.1. Khái niệm
Bêtông dùng chất kết dính hữu cơ là một loại đá nhân tạo nhận được sau khi
rải và làm đặc hỗn hợp bêtông bao gồm vật liệu khoáng và chất kết dính hữu
cơ.
Trong đó phổ biến và có chất lượng cao nhất là bêtông atphan. Bêtông atphan
được sử dụng chủ yếu trong xây dựng đường ôtô và sân bay. Bêtông atphan
đảm bảo tính ổn định, an toàn và độ bền cho lớp mặt đường phù hợp với điều
kiện giao thông và khí hậu.
Hình 4-1. Bêtông atphan.
4.1.2. Phân loại
Theo các tiêu chuẩn có thể phân loại bêtông dùng chất kết dính hữu cơ theo
các tiêu chí sau:
Theo nhiệt độ thi công: hỗn hợp bê tông atphan trong lớp phủ mặt đường
chia ra loại nóng, ấm và lạnh.
Hỗn hợp nóng được rải và bắt đầu làm đặc khi nhiệt độ không nhỏ hơn
120o
C.
Hỗn hợp ấm được rải và bắt đầu làm đặc ở nhiệt độ không nhỏ hơn
100o
C.
Hỗn hợp lạnh dùng bitum lỏng được rải ở nhiệt độ không khí nhỏ hơn
5o
C và được giữ ở nhiệt độ thường.
Theo độ đặc (hoặc độ rỗng): theo chỉ tiêu độ rỗng còn dư bêtông atphan
được chia làm 3 loại: loại đặc nếu độ rỗng 3 – 6%, loại rỗng nếu độ rỗng 6 –
12% và loại rất rỗng nếu độ rỗng 12 - 18%.
Theo độ lớn của hạt cốt liệu: theo đường kính lớn nhất của hạt vật liệu
khoáng,
29. 41
Bêtông atphan đặc, nóng, ấm được chia làm 4 loại: loại lớn (Dmax ≤
19mm), loại trung bình (Dmax ≤12,5mm), loại nhỏ (Dmax ≤9,5mm) và
bêtông cát (Dmax ≤4,75mm).
Bêtông atphan rỗng được chia làm 3 loại: BTNR 19 (Dmax ≤19mm),
BTNR 25 (Dmax ≤25mm), BTNR 37,5 (Dmax ≤37,5mm).
Theo tỷ lệ giữa đá dăm (hoặc sỏi) và cát:
Bêtông atphan nóng hoặc ấm, đặc được chia ra 3 loại: loại A nếu tỷ lệ đá
dăm – cát: 50-60%; loại B: 35-50%; loại C: 20-35%.
Bêtông atphan nguội được chia làm 2 loại: Bx: 35-50%; Cx:20-35%.
Bêtông atphan nóng đặc chỉ dùng cát có các loại: D có hàm lượng cát
xay <30% và E dùng cát tự nhiên >30%.
Theo chất lượng và mức độ giao thông: theo chất lượng và mức độ giao
thông thường chia ra cấp đường: Cấp I – đường cao tốc, đường trục chính;
Cấp II – đường đô thị; Cấp III – đường phụ.
Theo tiêu chuẩn quốc tế bêtông atphan còn chia ra loại I, II và III. Theo tiêu
chuẩn Việt Nam chỉ có cấp I và II. Cấp I dùng cho lớp trên, cấp II dùng cho lớp
dưới mặt đường bêtông atphan. Về cơ bản cách phân loại bêtông theo các tiêu
chuẩn là thống nhất tuy có quy định khác nhau về đơn vị đo kích thước và kí
hiệu loại bêtông.
4.2. VẬT LIỆU CHẾ TẠO BÊTÔNG ATPHAN
Vật liệu chế tạo bêtông atphan gồm: đá dăm (sỏi), cát, bột khoáng, bitum và
phụ gia. Hỗn hợp vật liệu khoáng là hỗn hợp được lựa chọn theo tỷ lệ phần
trăm để đảm bảo có cấp phối hạt hợp lý. Hỗn hợp vật liệu khoáng bao gồm: đá,
cát và bột khoáng.
4.2.1. Đá dăm hay sỏi
Hàm lượng của đá dăm trong hỗn hợp vật liệu khoáng từ 20-65%.
Chất lượng của đá dăm hay sỏi về cường độ, tính đồng nhất, hình dạng, trạng
thái bề mặt, thành phần khoáng vật, … có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
của bêtông atphan.
Các chỉ tiêu chất lượng của đá dăm hay sỏi để chế tạo bêtông atphan cũng
được xác định như khi chế tạo bêtông xi măng nặng.
Nguồn gốc của đá dăm từ đá thiên nhiên, đá dăm chế tạo từ cuội, cũng như đá
dăm chế tạo từ xỉ lò cao, nhưng phải phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn,
không cho phép dùng đá dăm chế tạo từ đá vôi sét, sa thạch sét và phiến thạch
sét.
30. 42
Thành phần hạt của đá dăm hay sỏi được phân ra các nhóm sau: 90-37,5mm,
63-19; 50-4,75; 37,5-4,75; 25-4,75; 19-4,75; 12-2,36; 9,5-1,18; 4,5-1,18mm
theo ASTM D488 (Bảng 4-1).
Tuỳ theo cường độ chịu nén của đá gốc mà đá dăm dùng chế tạo bêtông
atphan có các loại mác khác nhau.
Với đá dăm từ đá biến chất hoặc macma cường độ nén tối thiểu từ 80-100MPa.
Với đá trầm tích dạng cacbonat cường độ chịu nén tối thiểu từ 80-100MPa.
Bảng 4-1. Thành phần hạt đá (sỏi) theo ASTM D448
Lỗ sàng
(mm)
50 37,5 25 19 12,5 9,5 4,75 2,36 1,18
50-4,75 95-100 - 37-70 - 10-30 - 0-5
37,5-4,75 100 95-100 35-70 - 10-30 0-5
25-4,75 100 95-100 90-100 25-60 - 0-10 0-5
12,5-4,75 100 90-100 40-70 0-15 0-5
9,5-2,36 100 85-100 10-30 0-10 0-5
4,75-1,18 100 85-100 10-40 0-10
Đá dăm cần phải liên kết tốt với bitum. Về mặt này, thì các loại đá vôi, đôlômit,
điaba tốt hơn các loại đá axit. Nếu dùng loại đá liên kết kém với bitum phải gia
công đá bằng chất phụ gia hoạt tính như vôi, ximăng hoặc cho thêm chất phụ
gia hoạt động bề mặt vào bitum.
Hình 4-2. Trạm trộn bêtông atphan.
Đá cần phải sạch, lượng ngậm chất bẩn không được lớn hơn 1% theo khối
lượng.
4.2.2. Cát
Hàm lượng của cát trong hỗn hợp vật liệu khoáng thường từ 15-50%. Bêtông
atphan cát chỉ dùng cát.
Vai trò của cát trong hỗnhợp bêtông atphan là chèn kẽ hở giữa các hạt cốt liệu
lớn, làm tăng độ đặc của hỗn hợp. Có thể dùng cát thiên nhiên hay cát nhân
tạo, có các chỉ tiêu kỹ thuật phù hợp với tiêu chuẩn AASHTO và ASTM.
Cát thiên nhiên để chế tạo bêtông atphan chỉ dùng loại hạt thô (Mk≥2).
31. 43
Theo tiêu chuẩn AASHTO M29 các vật liệu hạt mịn (cát) được chia làm 3 loại 1,
2, 3 có thành phần hạt theo lượng lọt qua sàng tương ứng trong Bảng 4-2.
Bảng 4-2. Lượng lọt qua sàng, % của cát theo AASHTO M29
Lỗ sàng 9,5 4,75 2,36 1,18 0,6 0,3 0,15 0,075
Loại 1 100 95-100 70-100 40-80 20-65 7-14 2-20 0-10
Loại 2 100 75-100 50-74 28-52 8-30 0-12 0-5
Loại 3 100 95-100 85-100 65-90 30-60 5-25 0-5
Cát nghiền cần phải chế tạo từ đá có cường độ không nhỏ hơn cường độ của
đá dùng làm đá dăm (80-100MPa).
Đối với hỗn hợp bêtông atphan cát nghiền, cát này được nghiền từ đá macma
có mác không nhỏ hơn 100MPa. Hàm lượng các hạt nhỏ hơn 0,071mm ở trong
cát nghiền không được lớn hơn 14% theo trọng lượng, trong đó lượng hạt sét
không được lớn hơn 0,5%, lượng hạt nhỏ hơn 0,14mm không lớn hơn 20%.
4.2.3. Bột khoáng
Bột khoáng là một thành phần quan trọng trong hỗn hợp bêtông atphan. Nó
không những nhét đầy lỗ rỗng giữa các loại cốt liệu lớn hơn (cát, đá dăm hay
sỏi) làm tăng độ đặc của hỗn hợp mà còn làm tăng diện tích tiếp xúc, làm cho
màng bitum trên mặt hạt khoáng càng mỏng và như vậy lực tương tác giữa
chúng tăng lên, cường độ của bêtông atphan tăng lên. Hàm lượng của bột
khoáng trong hỗn hợp vật liệu khoáng biến đổi từ 4-14%.
Khi trộn với bitum trong hỗn hợp bêtông atphan, bột khoáng cần tạo nên một
lớp hoạt tính, ổn định nước. Mối quan hệ vật lý, hoá học giữa bề mặt hạt bột
khoáng và bitum làm tăng cường độ của bêtông atphan, nhưng cũng làm tăng
tính giòn của nó. Vì vậy, lượng bột đá trong bêtông chỉ được dùng trong một
giới hạn nhất định để tránh làm tăng tốc độ hoá già của bitum trong bêtông.
Bột khoáng để chế tạo bêtông atphan thường sử dụng các loại bột mịn từ đá
vôi và đá đôlômit hoặc từ tro than đá, ximăng, bột đá vôi vỏ sò.
Cường độ chịu nén của đá gốc không nhỏ hơn 20MPa. Vật liệu chế tạo bột
khoáng cần sạch, không chứa các chất bẩn và sét quá 5%.
Bột khoáng cần phải khô, xốp khi trộn với bitum không được vón cục có khả
năng hút bitum tốt và phải thoả mãn các yêu cầu sau:
a. Độ nhỏ
Lượng lọt qua sàng có kích thước lỗ sàng:
0,6mm: 100%
0,3mm: 90-100%
0,075mm: 70-100%.
b. Lượng bột khoáng hút hết 15g bitum mác 60/70 được xác định bằng thí
nghiệm trộn bột khoáng với bitum tạo ra hỗn hợp có độ kim lún phù hợp
32. 44
với tiêu chuẩn. Hệ số hút bột khoáng ký hiệu là Q, g/100cm3
, được tính
theo công thức sau:
100
15
k
k
P
Q
Trong đó:
k khối lượng riêng của bột khoáng,
Pk khối lượng của bột khoáng thấm hết 15g bitum.
Tiêu chuẩn quy định Q≥65g/100cm3
bitum.
c. Độ rỗng khi lèn chặt với tải trọng 400daN/cm2
đối với tro, bụi ximăng, xỉ
không được lớn hơn 45%, còn đối với loại bột đá đặc chắc thì không lớn
hơn 40%.
d. Hệ số ưa nước được xác định bằng công thức:
2
1
V
V
Ku
Trong đó:
V1 – thể tích lắng trong nước của 5g bột khoáng,
V2 – thể tích lắng trong dầu (môi trường không phân cực) của 5g bột
khoáng.
Quy định chỉ sử dụng bột khoáng ghét nước, nếu Ku > 1 thì vật liệu ưa nước và
ngược lại là ghét nước. Bột khoáng ghét nước liên kết tốt với bitum làm tăng
cường độ bêtông atphan.
Đối với hỗn hợp loại II, III có thể dùng bột khoáng từ tro than đá, bụi ximăng,
bột vỏ sò hến … phù hợp quy định của tiêu chuẩn 9128-84 của Nga. Bột
khoáng được tăng cường chất lượng bằng cách hoạt hoá bề mặt khi nghiền.
Hỗn hợp hoạt tính bề mặt gồm bitum và chất hoạt tính bề mặt với tỷ lệ là 1/1 và
1/1,1. Lượng hỗn hợp hoạt tính phối hợp với lượng bột khoáng theo tỷ lệ 1,5-
2,5%. Bột khoáng còn có khả năng tăng độ cứng lại của nhựa. Thí nghiệm mẫu
bitum bột đá tỷ lệ là 4/6 có nhiệt độ hoá mềm thấp hơn nhiệt độ hoá mềm của
nhựa là 10-200
C.
4.2.4. Bitum
Hàm lượng của bitum trong bêtông atphan tính theo khối lượng vật liệu khoáng
chiếm từ 4-7%.
Hỗn hợp bêtông atphan nóng và ấm thường dùng bitum dầu mỏ đặc quánh xây
dựng đường làm chất kết dính. Loại bitum này phải có các chỉ tiêu kỹ thuật phù
hợp với tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn Mỹ. Ở điều kiện Việt Nam thông
thường chọn bitum đặc số 3 hoặc số 4 để làm bêtông atphan rải nóng.
33. 45
Bitum cần phải dính bám tốt với đá dăm. Về mặt này, thì các loại đá vôi,
đôlômít, điaba tốt hơn các loại đá axit. Nếu khả năng dính kết của bitum với đá
kém phải sử dụng chất phụ gia hoạt tính như vôi, ximăng hoặc thêm chất phụ
gia hoạt tính bề mặt vào bitum.
Theo phương pháp rải, tính chất xe chạy, điều kiện khí hậu mà chọn mác bitum
cho hợp lý. Ở những đường xe chạy nhiều thuộc vùng khí hậu nóng thì dùng
loại bitum mác cao. Cách chọn loại bitum có thể tham khảo quy phạm 9128-84,
Nga hoặc Mỹ. Để tăng tính ổn định nhiệt có thể dùng hỗn hợp bitum với cao su,
polime với lưu lượng thích hợp. Các loại phụ gia hiện có còn cho phép bêtông
atphan ổn định với nước và chóng khô bề mặt, đảm bảo tốc độ khai thác.
Cơ quan tư vấn thiết kế và nhà thầu phải thí nghiệm bitum và kiến nghị bitum
sử dụng.
4.2.5. Phụ gia
Để tăng tính ổn định nhiệt, ổn định nước cho bêtông atphan có thể sử dụng các
phụ gia khoáng, bột cao su, hoặc các phụ gia polime.
4.3. CÁC TÍNH CHẤT CỦA BÊTÔNG ATPHAN
Các tính chất của bêtông atphan thay đổi đáng kể theo nhiệt độ. Ở nhiệt độ
bình thường chúng có tính đàn hồi – dẻo; khi nhiệt độ tăng – chảy dẻo, khi
nhiệt độ giảm, bêtông atphan trở nên giòn.
4.3.1. Cƣờng độ
Tính chất cơ học của bêtông atphan biểu thị khả năng chịu lực và độ ổn định
của bêtông atphan ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau.
Cường độ biểu thị giới hạn của ứng suất phát sinh trong quá trình sử dụng.
Thực tế bề mặt vỡ khi phá hủy bê tông atphan luôn luôn đi qua bitum.
Do đó cường độ lý thuyết của bê tông atphan được xác định bằng cường độ
của màng bitum. Việc phá hủy bê tông atphan dưới tác động của tải trọng là
một quá trình động, nó luôn phát triển theo thời gian. Tải trọng càng lớn, quá
trình phá hủy xảy ra càng nhanh.
Cường độ của bê tông atphan được xác định ở nhiệt độ 50o
C, 20o
C và 0o
C.
Cường độ ở 50o
C biểu thị tính ổn định động của vật liệu chế tạo bêtông, ở 0o
C
– tính chống nứt. Còn ở 20o
C được coi là nhiệt độ chuẩn để tiến hành thí
nghiệm. Nhiệt độ thí nghiệm chuẩn của Mỹ là 25o
C, của Pháp là 18o
C.
Cường độ chịu nén là cường độ giới hạn khi nén các mẫu chuẩn trong điều
kiện nhiệt độ và đặt tải theo quy định. Kích thước mẫu chuẩn có đường kính
bằng chiều cao (d=h=101mm hoặc 71,4mm hoặc 50,5mm tuỳ theo độ lớn của
vật liệu khoáng) được chế tạo ở nhiệt độ thi công.
34. 46
Cường độ chịu nén được xác định trên máy nén thuỷ lực có công suất tới 10
tấn, tốc độ chuyển dịch của pittông 3 0,5mm/phút. Cường độ chịu nén được
tính theo công thức:
F
P
Rn , MPa.
Trong đó:
P – tải trọng phá hoại, N.
F – diện tích mặt cắt ngang của mẫu thử, mm2
.
Ngoài cường độ chịu nén, cường độ chịu kéo của bê tông atphan cũng là chỉ
tiêu quan trọng để xác định khả năng chống nứt của bê tông. Cường độ chịu
kéo gián tiếp được thử bằng phương pháp ép ngang mẫu thử hình trụ kích
thước 40x40x460mm, và xác định theo công thức:
dh
F
Rk
Trong đó:
F – tải trọng phá hoại mẫu, N.
- hệ số (đối với bêtông atphan = 1).
Chỉ tiêu cường độ (kG/cm2
) của bê tông atphan chế tạo từ các loại bitum khác
nhau, ở những nhiệt độ khác nhau được giới thiệu ở Bảng 4-3.
Bảng 4-3. Cường độ bêtông atphan ở các nhiệt độ khác nhau
Cường độ bê tông atphan được xác định trên thiết bị Marshall và nó phụ thuộc
vào thành phần vật liệu, vào công nghệ làm đặc bê tông, nhiệt độ và tốc độ
biến dạng. Hàm lượng bitum nhỏ hơn hoặc lớn hơn hàm lượng hợp lý đều làm
giảm cường độ bê tông. Cường độ bê tông phát triển tỉ lệ thuận với độ quánh
của bê tông.
4.3.2. Tính biến dạng
Bêtông atphan là một vật liệu đàn hồi – chảy dẻo. Tuỳ theo trạng thái và điều
kiện biến dạng có thể xuất hiện tính chất đàn hồi hoặc tính chất chảy dẻo.
Mác
bitum
Nhiệt độ phòng thí nghiệm,
o
C
+50 +20 0 -20
R R R R R R R R
90/130
130/200
200/300
14,0
11,5
8,5
1,5
1,1
0,8
63,5
28,0
21,0
12,0
5,3
3,6
152
84
45
50
35
15
280
200
160
74
69
55
35. 47
Về trạng thái ứng suất – biến dạng, bêtông atphan có những tính chất tổng hợp
phức tạp: đàn hồi, dẻo nhớt.
Bêtông atphan cần có độ đàn hồi cao để đảm bảo ổn định khi khai thác. Biến
dạng dẻo lớn lớp phủ mặt đường sẽ gây hiện tượng: trượt, lượn sóng, dồn
đống, hằn vết bánh xe. Các hiện tượng biến dạng dẻo đó xuất hiện và phát
triển nhiều ở các vùng nóng trong những ngày hè. Độ dẻo được xác định bằng
độ dãn dài tương đối khi kéo ở nhiệt độ thấp nhất và cao nhất khi khai thác.
Khi tải trọng tác dụng thường xuyên sự phát triển của biến dạng phụ thuộc vào
trị số ứng suất.
Khi tải trọng P nhỏ hơn giới hạn đàn hồi Pk, có hai dạng biến dạng. Biến dạng
đàn hồi thuần tuý 0 có quan hệ bậc nhất với ứng suất, xuất hiện nhanh khi đặt
tải trọng, với tốc độ âm thanh và biến dạng cũng mất đi rất nhanh khi bỏ tải.
Biến dạng đàn hồi chậm xuất hiện sau khi đặt tải và phát triển chậm theo thời
gian t1. khi bỏ tải trọng (P=0) biến dạng không mất đi hoàn toàn mà vẫn còn
biến dạng dư (d).
Đặc trưng biến dạng của bêtông atphan được thể hiện qua hai chỉ tiêu: môđun
đàn hồi và độ nhớt.
Môđun đàn hồi:
Ứng với hai trạng thái biến dạng đàn hồi có thể xác định hai trị số môđun đàn
hồi:
Mô đun đàn hồi ban đầu:
0
1
P
E
Môđun đàn hồi sau:
s
P
E
2
trong đó o , s là biến dạng đàn hồi tức thời và biến dạng đàn hồi chậm.
Biến dạng dư d được tính bằng công thức: 0 smd
m :biến dạng tổng cộng ứng với thời gian đặt tải.
Độ nhớt:
Độ nhớt của bêtông atphan không có giá trị cố định, tuỳ theo tính chất vật liệu
và tốc độ biến dạng: '
(
dt
d
'
). Có thể xác định một số độ nhớt sau:
Độ nhớt giới hạn lớn nhất 0 xuất hiện ở vùng thực tế cấu trúc bị phá hoại.
36. 48
Độ nhớt nhỏ nhất min – đối với vùng phá hoại kết cấu.
Độ nhớt hiệu quả:
dt
d
P
Độ nhớt dẻo:
dt
d
PP k
m
trong đó: Pk - giới hạn chảy, daN/cm2
.
Biến dạng tổng cộng:
1
E
ddhm
Các chỉ tiêu môđun đàn hồi, độ nhớt và giới hạn chảy ứng với nhiệt độ khai
thác bêtông atphan là rất quan trọng khi kiểm tra chất lượng của chúng.
4.3.3. Độ mài mòn
Độ mài mòn của bê tông atphan xảy ra do tác dụng của lực ma sát. Độ chống
mài mòn càng cao khi độ đặc của bê tông, độ cứng của cốt liệu và sự dính bám
của đá với bitum càng lớn. Loại bê tông dùng đá granit (độ cứng 6 – 7 Morh)
chống mài mòn tốt hơn dùng đá vôi.
4.3.4. Độ ổn định nƣớc
Bê tông atphan bị ẩm lâu ngày có thể bị phá hoại do liên kết cấu trúc bị yếu đi.
Tính ổn định nước phụ thuộc vào độ đặc và sự ổn định của độ dính bám. Độ ổn
định nước của bê tông atphan được xác định thông qua độ bão hòa nước độ
trương phồng và hệ số mềm (Km). Hệ số mềm yêu cầu không được thấp hơn
0,9 còn khi ngâm dài ngày trong nước (14ngày) yêu cầu không nhỏ hơn 0,8.
4.3.5. Độ rỗng của bêtông atphan
Độ rỗng của bê tông atphan (thường là 3-7%) có ảnh hưởng lớn đến độ ổn
định nước. Lỗ rỗng trong bê tông có thể là lỗ rỗng hở hoặc lỗ rỗng kín. Giảm
kích thước hạt thì số lượng lỗ rỗng kín không thấm nước tăng lên.
Độ rỗng trong bêtông atphan cho khả năng kết luận về sự hợp lý về thành phần
cấp phối hạt của hỗn hợp. Sự sai lệch về độ rỗng so với độ rỗng chuẩn ở mức
độ thấp chứng tỏ rằng việc lựa chọn lượng bitum là chính xác. Nếu độ lệch ở
mức độ lớn cho thấy lượng bitum, thành phần hạt khoáng lựa chọn là chưa
chính xác. Bêtông atphan đặc cần có độ rỗng trong giới hạn từ 3 – 6%.
4.3.6. Độ ổn định nhiệt
Hệ số ổn định nhiệt tính chính xác bằng 0,01 được xác định theo công thức:
37. 49
20
60
R
R
Kt
Trong đó: R20, R60 là cường độ chịu nén của mẫu bêtông atphan khô ở nhiệt độ
20 và 600
C.
4.3.7. Tính dễ tạo hình của hỗn hợp bêtông atphan
Tính dễ tạo hình của hỗn hợp bêtông atphan là đảm bảo cho việc vận chuyển,
rải đầm chắc bêtông atphan cũng như chất lượng của bêtông sau khi thi công
đạt các yêu cầu kỹ thuật trên cơ sở thành phần vật liệu đã lựa chọn đúng. Tính
dễ tạo hình được đặc trưng bằng độ dẻo hay cứng của hỗn hợp. Căn cứ vào
độ dẻo chia hỗn hợp của bêtông làm hai loại: dẻo và chảy. Bêtông dẻo được
đầm chắc bằng lu hoặc đầm chấn động. Bêtông chảy được đầm nén nhờ trọng
lượng bản than.
Mức độ dễ tạo hình của hỗn hợp bêtông atphan dẻo rải nóng được đánh giá
dựa trên cơ sở xác định thời gian và lực kéo mẫu kim loại hình nón tiêu chuẩn
ra khỏi hỗn hợp (phương pháp I.A. Rưbiev) trong Bảng 4-4.
Bảng 4-4. Quy định về độ dẻo
Dạng hỗn hợp Quy định chỉ tiêu
Lực (daN) Thời gian (gy)
Hỗn hợp dẻo hạt nhỏ 2-2,5 10-12,5
Hỗn hợp dẻo hạt vừa 2,35-3 11,5-15
Hỗn hợp cứng <1,5 <7,5