O slideshow foi denunciado.
Seu SlideShare está sendo baixado. ×

Luận văn: Chính sách phát triển điện mặt trời tại Việt Nam, HAY

Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính sách công là một công cụ quản lý quan trọng của Nhà nước.
Thông qua việc ban hành và thự...
2
NLMT thay cho việc sử dụng điện để đun nước nóng (chủ yếu cho sinh hoạt
gia đình) vừa tiết kiệm điện năng vừa đem lại cá...
3
Nam. Nguyên nhân của thực trạng này, một mặt do chính sách phát triển điện
mặt trời ở Việt Nam chưa toàn diện và cụ thể,...
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio

Confira estes a seguir

1 de 98 Anúncio

Luận văn: Chính sách phát triển điện mặt trời tại Việt Nam, HAY

Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net

Download luận văn thạc sĩ ngành chính sách công với đề tài: Thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời tại Việt Nam, cho các bạn làm luận văn tham khảo

Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net

Download luận văn thạc sĩ ngành chính sách công với đề tài: Thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời tại Việt Nam, cho các bạn làm luận văn tham khảo

Anúncio
Anúncio

Mais Conteúdo rRelacionado

Diapositivos para si (20)

Semelhante a Luận văn: Chính sách phát triển điện mặt trời tại Việt Nam, HAY (20)

Anúncio

Mais de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0909232620 (20)

Mais recentes (20)

Anúncio

Luận văn: Chính sách phát triển điện mặt trời tại Việt Nam, HAY

  1. 1. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chính sách công là một công cụ quản lý quan trọng của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực thi chính sách công mà những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước được hiện thực hóa. Trong tác phẩm “Vì sao các quốc gia thất bại”, giáo sư người Mỹ Daron Acemoglu và Jemes A. Robinson cho rằng: các nước nghèo không phải bởi vì địa lý hay văn hóa của chúng, mà bởi vì các nhà lãnh đạo của chúng không biết các chính sách nào sẽ làm cho các công dân của họ giàu…Con người cần động cơ để đầu tư và trở nên giàu có hơn. Chìa khóa để đảm bảo những động cơ đó là những thể chế tốt – luật pháp, an ninh và hệ thống chính quyền, tạo ra các cơ hội để con người có thể đổi mới và thành công. Đó chính là cái quyết định sự phân hóa giàu – nghèo - chứ không phải là địa lý, khí hậu, công nghệ, bệnh tật hay chủng tộc. Bước vào thế kỷ 21, công nghệ sử dụng năng lượng mặt trời (NLMT) đang có xu hướng phát triển mạnh. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã đầu tư rất lớn vào ngành công nghiệp NLMT, Nhật Bản, Đức, Ấn Độ là các quốc gia đứng đầu thế giới về ngành công nghiệp này. Ứng dụng đơn giản, phổ biến và hiệu quả nhất hiện nay của NLMT là dùng để đun nước nóng. Các hệ thống đun nước nóng bằng NLMT đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Đến nay, Trung Quốc đã lắp đặt nhiều hệ thống điện năng lượng mặt trời (ĐNNMT), tương đương với 10,5GWth và đang là quốc gia dẫn đầu thế giới, chiến 60% tổng công suất lắp đặt của toàn thế giới. Việt Nam có tiềm năng sử dụng NLMT ở hầu khắp mọi vùng trong cả nước và có nhiều lợi thế phát triển hệ thống sử dụng NLMT. Trong đó, hiệu quả nhất là sử dụng NLMT vào đun nước nóng, đặc biệt ở khu vực thành thị, nơi người dân có đời sống cao và có điều kiện sử dụng dịch vụ. Việc sử dụng
  2. 2. 2 NLMT thay cho việc sử dụng điện để đun nước nóng (chủ yếu cho sinh hoạt gia đình) vừa tiết kiệm điện năng vừa đem lại các lợi ích về kinh tế và môi trường. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến việc ban hành chính sách và thực hiện chính sách phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có chính sách phát triển năng lượng mặt trời, bởi vì nguồn tài nguyên như than, dầu khí… sử dụng cho sản xuất điện năng có thời hạn, dần cạn kiệt và gây ô nhiễm môi trường. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đưa ra định hướng phát triển năng lượng tái tạo: “Ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo như: điện mặt trời, thủy điện”… “Nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng năng lượng, đặt biệt đối với hải đảo, vùng sâu, vùng xa”. Để hiện thực hóa định hướng phát triển năng lượng tái tạo của Đảng, Quốc hội đã ban hành các Luật Điện lực năm 2004 và Luật Điện lực năm 2012 bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật Điện lực năm 2004. Tiếp theo, ngày 05 tháng 10 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết đinh số 176/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Điện Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, định hướng đến 2020. Đến ngày 27 tháng 12 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1855/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050. Ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2068/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Như vậy, chính sách phát triển năng lượng tái tạo nói chung và điện mặt trời nói riêng đã được ban hành và thực hiện hơn một thập kỷ qua. Tuy nhiên, cho đến nay kết quả thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời còn rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng về phát triển điện mặt trời của Việt
  3. 3. 3 Nam. Nguyên nhân của thực trạng này, một mặt do chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam chưa toàn diện và cụ thể, mặt khác việc triển khai thực hiện còn nhiều hạn chế. Với mục đích đóng góp vào việc hoàn thiện chính sách và thực thi chính sách phát triển điện mặt trời ở nước ta trong thời gian tới, qua đó góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho sản xuất và sinh hoạt của người dân trên cả nước nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, tôi chọn đề tài Luận văn: “Thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời tại Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề năng lượng điện mặt trời và chính sách phát triển điện mặt trời đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực tương đối mới mẻ nên vẫn còn ít các công trình khoa học nghiên cứu về nó. Dưới đây là một số công trình khoa học nghiên cứu về năng lượng mặt và chính sách phát triển điện mặt trời đã được công bố: Tác giả Hoàng Dương Hùng đã đưa ra những lý thuyết về năng lượng mặt trời cũng như các ứng dụng năng lượng mặt trời trong đời sống sinh hoạt và sản xuất trong tác phẩm “Năng lượng mặt trời: lý thuyết và ứng dụng“, Nhà xuất bản Khoa học Kĩ thuật (2007). Đây là tác phẩm đã đề cập đầy đủ về lý luận liên quan đến năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, tác phẩm này chưa nghiên cứu sâu về chính sách phát triển năng lượng mặt trời. Một số tác phẩm đã bàn về năng lượng và thách thức về năng lượng nói chung, từ đó khẳng định về sự cần thiết sử dụng những nguồn năng lượng tái tạo và năng lượng tái tạo là nguồn năng lượng của tương lai. Chẳng hạn, trong ấn phẩm“Năng lượng thế kỷ 21: Tiềm năng và thách thức” của tác giả Hồ Sĩ Thoảng và Trần Mạnh Trí, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật (2008), đã khẳng
  4. 4. 4 định những tiềm năng phát triển của năng lượng và những thách thức về nguồn lực đối với việc phát triển năng lượng. Năm 2010, tác giả Đặng Đình Thống đã thực hiện Đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ về Chương trình mục tiêu quốc gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả “Đánh giá tiềm năng, hiện trạng công nghệ và hiệu quả sử dụng năng lượng mặt trời ở Hà Nội”. Trong đề tài khoa học này, tác giả đã đánh giá tiềm năng điện mặt trời ở Hà Nội, trên cơ sở đó đánh hiện trạng công nghệ ứng dụng để sản xuất điện mặt trời và hiệu quả sử dụng năng lượng mặt trời ở Hà Nội nhằm giảm bớt sự ô nhiễm môi trường không khí ở Hà Nội. Đồng thời, tác giả Đặng Đình Thống cũng tiến hành Đề tài khoa học nghiên cứu “Hiện trạng ứng dụng năng lượng mặt trời ở Hà Nội”, năm 2010. Đề tài đã đánh giá hiện trạng ứng dụng năng lượng mặt trời ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Kết quả nghiên cứu đã kết luận: thiết bị đun nước nóng từ năng lượng mặt trời đã được nhiều người dân sử dụng. Tuy nhiên, giá cả của thiết bị đun nước nóng khá cao. Ngoài ra, tác giả Đặng Đình Thống cũng đã tiến hành “Đánh giá hiệu quả thực tế về tiết kiệm năng lượng của thiết bị đun nước nóng năng lượng mặt trời”, Báo cáo Chương trình mục tiêu quốc gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010. Trong báo cáo, tác giả nêu ra tính thực tế của việc tiết kiệm năng lượng giúp tiết kiệm tiền, tránh ô nhiễm môi trường, hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Tác giả Nguyễn Đình Đáp (2011), trong Bản luận văn: “Nghiên cứu sử dụng thiết bị đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời phục vụ sinh hoạt”, đã đưa ra cái nhìn tổng quan về năng lượng mặt trời và các công nghệ khai thác và sử dụng năng lượng mặt trời. Trong đó, tác giả nhấn mạnh đến công nghệ nhiệt mặt trời để sản xuất nước nóng và một số điều cần lưu ý khi sử dụng năng lượng mặt trời. Đồng thời, tác giả phân tích tính kinh tế và triển vọng của phát triển điện mặt trời.
  5. 5. 5 Tác giả Nguyễn Văn Tâm, trong luận văn: “Nghiên cứu khả năng xây dựng nhà máy điện mặt trời ở điều kiện Việt Nam“ đã hệ thống hóa lý luận về năng lượng mặt trời và các thiết bị sản xuất điện mặt trời trên thế giới và ở Việt Nam; đồng thời, tác giả nghiên cứu khả năng xây dựng nhà máy điện mặt trời tại Việt Nam, việc lựa chọn địa điểm để xây dựng, phân tích ưu và nhược điểm của phương pháp sản xuất điện mặt trời hiện nay. Như vậy, có một số tác giả đã nghiên cứu lý luận về năng lượng điện mặt trời, công nghệ ứng dụng và thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời, khả năng và hiệu quả phát triển điện mặt ở Việt Nam. Đây là nguồn tài liệu quý cho tác giả tham khảo để hoàn thành luận văn. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào nghiên cứu về chính sách phát triển điện mặt trời và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về năng lượng điện mặt trời, chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời; đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt mục đích nghiên cứu, Luận văn tập trung vào các nhiệm vụ: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lượng điện mặt trời, chính sách phát triển điện mặt trời và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời. - Nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở một số nước trên thế giới.
  6. 6. 6 - Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó phân tích những kết quả đạt được và hạn chế, và chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế. - Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời tại Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lượng điện mặt trời, về chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời; đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam giai đoạn 2005-2015, định hướng đến 2020 và tầm nhìn đến 2030. 5. Phƣơng pháp luận, phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật phép biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, tư tưởng của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội làm cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu nội dung đề tài luận văn. Dựa trên nền tảng lý luận về chính sách công và thực thi chính sách công để xây dựng khung lý thuyết cho đề tài. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể - Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Tác giả sử dụng phương này để nghiên cứu các tài liệu sẵn có (sách, báo khoa học, luận văn, luận án, văn bản quản lý của Nhà nước...) liên quan đến năng lượng mặt trời, chính sách công và thực thi chính sách công, chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời.
  7. 7. 7 - Phương pháp thống kê mô tả: Tác giả sử dụng phương pháp này để xử lý và trình bày kết quả nghiên cứu. - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp. Tác giả sử dụng các phương pháp này để phân tích cơ sở lý luận, phân tích thực trạng, đối chiếu giữa thực tế và lý luận, từ đó tổng hợp lại thành những quan điểm, luận điểm, những kết luận. - Phương pháp khảo sát: được sử dụng để tìm hiểu khảo sát thực trạng thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở nước ta hiện nay. - Phương pháp quy nạp: Tác giả sử dụng phương pháp này để thu thập các thông tin về thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở nước ta từ các cơ quan từ địa phương đến Trung ương. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa lý luận. Đề tài hệ thống hóa lý luận và góp phần làm phong phú thêm lý luận về chính sách phát triển điện mặt trời và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời. - Ý nghĩa thực tiễn. Luận văn cung cấp một cái nhìn khái quát về thực trạng thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam. Đồng thời, cung cấp các giải pháp hoàn thiện chính sách và thực hiện chính sách phát triển mặt trời ở Việt Nam trong thời gian tới, qua đó góp phần vào thực hiện thành công Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích đối với cơ quan quản lý nhà nước, các nhà quản lý trong việc ban hành chính sách cũng như thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam. Đồng thời, luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho những cá nhân, tổ chức quan tâm, nghiên cứu về chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời. 7. Kết cấu của luận văn
  8. 8. 8 Luận văn gồm các phần: Mở đầu, nội dung, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung luận văn gồm có 03 Chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam Chương 3. Hoàn thiện chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam
  9. 9. 9 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐIỆN MẶT TRỜI 1.1. KHÁI QUÁT VỀ NĂNG LƢỢNG MẶT TRỜI VÀ NĂNG LƢỢNG ĐIỆN MẶT TRỜI 1.1.1. Năng lƣợng mặt trời 1.1.1.1. Khái niệm năng lượng mặt trời Năng lượng được định nghĩa là năng lực làm vật thể hoạt động. Có nhiều dạng năng lượng như: động năng làm dịch chuyển vật thể và nhiệt năng làm tăng nhiệt độ của vật thể… Năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất xuất phát từ hai nguồn chủ yếu: năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất. Tài nguyên năng lượng có thể được phân thành tài nguyên năng lượng tái tạo và tài nguyên năng lượng không tái tạo. Tài nguyên năng lượng không tái tạo gồm than đá, khí than, dầu mỏ, khí thiên nhiên, quặng urani và các tài nguyên năng lượng khác không có khả năng tái tạo. Tài nguyên năng lượng tái tạo gồm sức nước, sức gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, nhiên liệu sinh học và các tài nguyên năng lượng khác có khả năng tái tạo. Năng lượng mặt trời là năng lượng của dòng bức xạ điện từ xuất phát từ mặt trời, cộng với một phần nhỏ năng lượng của các hạt hạ nguyên tử khác phóng ra nó. 1.1.1.2. Đặc điểm của năng lượng mặt trời Năng lượng mặt trời có những đặc điểm quan trọng dưới đây: - Là một loại năng lượng tái tạo và vô tận. Tài nguyên năng lượng tái tạo gồm sức nước, sức gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, nhiên liệu sinh học và các tài nguyên năng lượng khác có khả năng tái tạo. Bức xạ mặt trời có thể chuyển thẳng thành năng lượng có ích, bằng nhiều công nghệ khác nhau. Các
  10. 10. 10 thiết bị thu năng lượng mặt trời có thể cung cấp nước nóng hoặc sưởi ấm không khí trong nhà. Bức xạ mặt trời cũng có thể được biến đổi trực tiếp thành điện năng bằng cách sử dụng các pin mặt trời. Năng lượng mặt trời là một nguồn cung cấp sức nóng, ánh sáng,…. gần như là vô tận cho trái đất của chúng ta. Hơi ấm từ lòng đất, nước chảy trên bề mặt địa cầu… tất cả là một nguồn nguyên liệu vô cùng tận đang chờ con người sử dụng thích hợp để phục vụ cho đời sống con người khi nguồn năng lượng hóa thạch đã dần dần bị cạn kiệt. Năng lượng mặt trời thu được trên trái đất là năng lượng của dòng bức xạ điện từ xuất phát từ mặt trời đến trái đất. Chúng ta sẽ tiếp tục nhận được dòng năng lượng này cho đến khi phản ứng hạt nhân trên mặt trời hết nhiên liệu, vào khoảng 5 tỷ năm nữa. Điều này cho thấy năng lượng mặt trời là vô tận. - Là loại năng lượng sạch. Năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng sạch và tiềm năng nhất đang được xã hội loài người quan tâm, bởi vì việc sử dụng nó ít gây ô nhiễm môi trường, không thải ra các chất độc hại cho môi trường. Do đó, việc nghiên cứu nâng cao hiệu quả các thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời và triển khai ứng dụng chúng vào thực tế chính là vấn đề có tính thời sự hiện nay. Việc sử dụng năng lượng mặt trời góp phần giảm lượng ô nhiễm và khí thải từ các hệ thống năng lượng truyền thống. Ví dụ: Để sản xuất ra một số điện (1Kwh) bằng than hoặc dầu, thì lượng khí thải CO2 do than và dầu bị đốt sinh ra là khoảng 1 kg khí CO2. Nếu số điện này được sản xuất bằng thủy điện, điện mặt trời hoặc phong điện, thì sẽ không sinh ra 1 kg khí CO2 kia. Như vậy, có nghĩa là cứ sản xuất ra bao nhiêu số điện "sạch" bằng thủy điện, điện mặt trời và phong điện, thì giảm được bấy nhiêu kg khí CO2 thải vào không khí. Chỉ tiêu sản xuất ra điện "sạch" cũng tương ứng với chỉ tiêu giảm
  11. 11. 11 khí phát thải. - Phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Lượng bức xạ mặt trời tùy thuộc vào lượng mây và tầng khí quyển của từng vị trí trên bề mặt trái đất. Ở những vùng, khu vực, địa phương khác nhau có sự chênh lệch đáng kể về bức xạ mặt trời. Năng lượng mặt trời chủ yếu có vào ban ngày đặc biệt là các tháng nhiều nắng. Mặt khác, mùa mưa rất ít ánh nắng mặt trời việc phát điện nhờ ánh sáng là một thách thức đối với việc phát triển nguồn năng lượng này. 1.1.2. Điện mặt trời 1.1.2.1. Khái niệm điện mặt trời Điện năng là dạng năng lượng được sinh ra từ các nguồn (nhà máy phát điện…) như: thủy điện, nhiệt điện (điện than, điện khí, điện dầu, điện mặt trời, điện hạt nhân…), điện gió. Điện năng có vai trò rất quan trọng trong xã hội, bởi vì điện năng là dạng năng lượng phục vụ cho cuộc sống của con người trong sản xuất và tiêu dùng. Điện năng là yếu tố đầu vào quan trọng cho các ngành sản xuất (công nghiệp, nông nghiệp, thương mại…) và cho sinh hoạt hàng ngày của con người (thắp sáng, đun nấu, sửa ấm, làm mát…). Điện mặt trời là việc ứng dụng kỹ thuật biến đổi ánh sáng thành điện dựa trên động cơ nhiệt và pin quang điện. 1.1.2.2. Đặc điểm của điện mặt trời Điện mặt trời được tạo ra từ năng lượng mặt trời, nên điện mặt trời có những đặc điểm dưới đây: - Là một loại điện năng vô tận. Vì năng lượng mặt trời là năng lượng tái sinh và vô tận, nên điện mặt trời cũng được xem là loại điện năng vô tận. Năng lượng tái sinh được định nghĩa là năng lượng thu được từ nguồn liên tục và được xem là vô hạn. Những nguồn năng lượng này có thể tái tạo lại trong tự nhiên, hoặc được làm đầy lại với tốc độ bằng với tốc độ mà chúng được sử dụng. Điện mặt trời là năng lượng tái tạo nhiều đến mức mà không thể trở
  12. 12. 12 thành cạn kiệt vì sự sử dụng của con người. Vì vậy, nó là loại điện năng vô tận. - Việc sản xuất điện mặt trời phụ thuộc vào năng lượng mặt trời, tức phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Việc sản xuất điện mặt trời phụ thuộc vào thời gian bức xạ ánh sáng và cường độ bức xạ ánh sáng. Do đó, đối với những quốc gia, khu vực lãnh thổ có thời gian chiếu sáng dài và cường độ bức xạ ánh sáng cao sẽ cho nguồn điện năng lớn và ngược lại. Hơn nữa, sản xuất điện mặt trời còn phụ thuộc các thời điểm trong ngày, phụ thuộc vào mùa. Ánh sáng mặt trời chỉ có vào ban ngày cho nên buổi tối khó có được điện sáng mà phải có bình tích điện. Mùa mưa rất ít ánh nắng mặt trời nên việc phát điện nhờ ánh sáng là một thách thức đối với việc phát triển nguồn năng lượng này. Độ bức xạ mặt trời còn phụ thuộc vào tầng khí quyền, tầng mây. Do đó, những nơi nhiều mây bức xạ kém hơn. - Việc sản xuất điện mặt trời không gây ra ô nhiễm môi trường. Việc sản suất điện mặt trời không gây ra ô nhiễm môi trường do sử dụng các tấm pin mặt trời để thu năng lượng nên không thải ra các khí thải gây ô nhiễm môi trường. - Hiệu năng của việc tạo ra điện mặt trời phụ thuộc vào công nghệ. Để chuyển đổi bức xạ ánh sáng mặt trời thành điện năng phải sử dụng các tấm pin mặt trời. Với các tấm pin mặt trời có khả năng thu càng nhiều nhiệt năng thì khả năng sản xuất điện càng cao. Vì vậy, hiệu năng tạo ra điện mặt trời phụ thuộc vào thiết bị và công nghệ chuyển năng lượng mặt trời thành điện năng. - Giá thành tạo điện mặt trời thường cao và kém cạnh tranh. Do giá thành thiết bị và công nghệ tạo ra điện mặt trời cao (chủ yếu là nhập khẩu), và việc sản xuất điện mặt trời đòi hỏi diện tích không gian lớn. Do đó, giá thành điện mặt trời thường cao hơn giá điện hóa thạch và thủy điện, vì vậy điện mặt
  13. 13. 13 trời thường kém cạnh tranh về giá so với các loại điện năng khác. 1.1.2.3. Vai trò của phát triển điện mặt trời Việc phát triển điện mặt trời có vai trò dưới đây: - Về môi trường: Do việc sản xuất điện mặt trời không thải ra các chất thải gây hại cho môi trường, do đó việc phát triển điện mặt trời thay thế dần cho các nguồn năng lượng truyền thống như điện than, điện khí, điện dầu… sẽ góp phần giảm lượng khí thải gây ô nhiệm ra môi trường. Qua đó, góp phần giải quyết ô nhiễm môi trường do việc gia tăng dân số và phát triển xã hội của các quốc gia trên thế giới. Việc sản xuất và tiêu dùng điện mặt trời rộng rãi và liên tục có thể tác động đến việc cải tạo khí hậu trái đất về lâu dài. Chống hiệu ứng nhà kính tác nhân làm biến đổi khí hậu trên thế giới. Về kinh tế - xã hội: Việc phát triển điện mặt trời góp phần cung cấp điện năng cho tất cả các ngành sản xuất và dịch vụ trong xã hội, cung cấp điện cho sinh hoạt hàng ngày của người dân, do đó, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Hơn nữa, đây là nguồn năng lượng sạch nên đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững và lâu dài. Việc phát triển điện mặt trời cũng góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội như: tạo ra việc làm trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng điện mặt trời; trong các ngành chế tạo các thiết bị chuyển năng lượng mặt trời thành điện năng (pin mặt trời), chế tạo các thiết bị chuyển đổi điện năng từ một chiều sang xoay chiều, chế tạo các thiết bị tích điện, các thiết bị đun nấu…; trong các nhà máy sản xuất điện mặt trời… Thị trường toàn cầu thế giới về các loại nhiên liệu tái tạo đã phát triển nhanh chóng và mang lại hàng triệu công ăn việc làm. Hiện nay đã có khoảng 2,5 triệu công ăn việc làm trong lĩnh vực năng lượng tái tạo trên thế giới và con số này đang gia tăng rất nhanh chóng.
  14. 14. 14 1.1.2.4. Các bên liên quan đến phát triển điện mặt trời - Các cơ quan quản lý Nhà nước. Trong lĩnh vực sản xuất điện nói chung và điện mặt trời nói riêng, đều chịu sự quản lý thống nhất của Chính phủ và các Bộ, ngành ở Trung ương. Cụ thể: + Bộ Công Thương là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong lĩnh vực phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, thực hiện chức năng quản lý thống nhất về phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo trong cả nước. + Bộ xây dựng, Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao dục và Đào tạo, các đơn vị điện lực thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình về việc quản lý phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo trong lĩnh vực có liên quan. + Các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về năng lượng tại các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là các tỉnh) có trách nhiệm thực hiện việc quản lý phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo tại địa bàn quản lý của mình. - Các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ điện mặt trời. Một chủ thể có vai trò quan trọng trong lĩnh vực điện mặt trời là các nhà khoa học và các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ điện mặt trời. Những phát minh, sáng chế của họ trong lĩnh vực điện mặt trời có ảnh hưởng quan trong đến việc sản xuất và tiêu dùng điện mặt trời, bởi vì những phát minh, sáng chế về công nghệ điện mặt trời có thể làm thay đổi chi phí sản xuất và tiêu dùng điện mặt trời, và qua đó làm gia tăng sản lượng điện mặt trời được sản xuất và tiêu dùng trong xã hội. Do đó, để các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ điện mặt trời phát triển, thì Nhà nước cần có những
  15. 15. 15 chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở nghiên cứu này hoạt động. Ở Việt Nam, các cơ sở nghiên cứu về phát triển điện mặt trời điển hình trong cả nước gồm có: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nghiên cứu phát triển điện mặt trời, với mục tiêu bổ sung nguồn điện sạch cho đất nước. Viện Năng lượng thuộc Bộ Công Thương nghiên cứu, thiết kế, chế tạo lắp đặt thiết bị đun nước nóng từ năng lượng mặt trời. Viện Hàn lâm và Khoa học công nghệ Việt Nam, Tổng cục Năng lượng thuộc Bộ Công Thương, Các Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng năng lượng sinh học… Ngoài những cơ sở nghiên cứu về phát triển điện mặt trời nêu trên, còn có một số doanh nghiệp, cơ sở khác nghiên cứu về lĩnh vực này như các công ty: Tổng công ty Cổ phần năng lượng Mặt Trời Đỏ, Trung tâm Tiết kiệm năng lượng Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại – kinh tế Tân Kỷ Nguyên xây dựng… - Các nhà sản xuất điện mặt trời. Một chủ thể không thể thiếu trong lĩnh vực sản xuất điện mặt trời là các cơ sở sản xuất điện mặt trời. Chính các nhà sản xuất điện mặt trời bỏ vốn đầu tư để tạo ra điện mặt trời và cung cấp điện mặt trời cho xã hội. Họ quyết định đến sản lượng điện cũng như giá điện mặt trời được bán ra trên thị trường. Do đó, để sản xuất ra được nhiều điện mặt trời, thì Nhà nước cần có những chính sách hấp dẫn, thu hút được các nhà đầu tư vào thành lập các nhà máy sản xuất điện mặt trời. Ở Việt Nam, các nhà sản xuất điện mặt trời chủ yếu hiện nay là các Công ty và Tập đoàn lớn bởi đây là lĩnh vực đòi hỏi số vốn đầu tư rất lớn. Một số công ty điển hình trong sản xuất điện mặt trời như: Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN), Công ty cổ phần tập đoàn Hoành Sơn với dự án điện mặt trời tại tỉnh Hà Tĩnh, Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Thiên Tân với dự án điện tại Quảng Ngãi. Công ty cổ phần Đầu tư – Xây dựng Tuấn Anh, Công ty cổ
  16. 16. 16 phần Đầu tư – Xây dựng năng lượng dầu khí Châu Á. Công ty Altus của Đức và Trung tâm Năng lượng mới Đại học Bách Khoa Hà Nội kết hợp triển khai dự án điện mặt trời nối lưới đầu tiên ở Việt Nam trên nóc tòa nhà Bộ Công Thương… - Những người tiêu dùng điện mặt trời. Một trong những chủ thể được xem là có vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực phát triển vực điện mặt trời là những người tiêu dùng, bởi vì không có những người tiêu dùng điện mặt trời thì sẽ không có sản xuất điện mặt trời. Người tiêu dùng điện mặt trời là mọi người dân, các tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có khả năng chi trả mua điện mặt trời với mức giá mà họ cho là hợp lý. 1.1.2.5. Những điều kiện cần thiết để phát triển điện mặt trời - Điều kiện tự nhiên. Như ở các phần trên đã đề cập, việc sản xuất điện mặt trời phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, cụ thể là nguồn bức xạ và cường độ bức xạ mặt trời. Do đó, những khu vực, vùng có thời gian bức xạ mặt trời nhiều (thời gian chiếu sáng dài) và có cường độ bức xạ cao (nhiệt độ cao) rất thuận lợi cho việc sản xuất điện mặt trời, và ngược lại. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới như Việt Nam, nguồn năng lượng mặt trời sử dụng hầu như quanh năm,… Tiềm năng điện mặt trời tốt nhất ở các vùng từ Thừa Thiên Huế trở vào Nam và vùng Tây Bắc có năng lượng mặt trời khá lớn. Mật độ năng lượng mặt trời biến đổi trong khoảng 3.000 đến 5.000 Kcal/m2 .ngày. Hơn nữa, việc lắp đặt pin mặt trời tốn rất nhiều diện tích đất, để đầu tư xây dựng 1MW điện mặt trời cần 1 ha đất. Để đầu tư xây dựng 1MW điện gió cần tới 2 ha đất, 1MW điện mặt trời cần 1 ha đất. Vì vậy, cần phải có quỹ đất riêng cho phát triển điện mặt trời. - Điều kiện về công nghệ.
  17. 17. 17 Thiết bị và công nghệ sản xuất điện mặt trời quyết định hiệu năng và giá thành điện mặt trời. Nếu công nghệ và các thiết bị sản xuất điện mặt trời có giá thành cao và hiệu xuất thấp thì sẽ làm cho giá thành sản xuất điện mặt trời cao và ngược lại. Ở Việt Nam, thiết bị và công nghệ dùng để sản xuất mặt trời đều phải nhập khẩu từ nước ngoài cho nên giá thành rất cao. Việc sản xuất điện mặt trời vướng phải khó khăn là thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước về đầu tư nghiên cứu cũng như kinh phí, trang thiết bị kỹ thuật cho sản xuất. - Điều kiện về giá cả. Một trong những điều kiện quan trọng để các nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất điện mặt trời và người tiêu dùng sẵn sàng bỏ tiền để tiêu dùng điện mặt trời là giá điện mặt trời. Nếu giá điện mặt trời quá cao so với các nguồn điện năng khác, thì người tiêu dùng sẽ không mua điện mặt trời, và các nhà sản xuất không bán được điện mặt trời, và kết quả cuối cùng là không thể phát triển được điện mặt trời. Hiện nay, ở Việt Nam chi phí sản xuất điện mặt trời cao nên giá bán điện mặt trời cũng cao. Giá mua điện tại điểm giao nhận điện là 2.086 đồng/kWh (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, tương đương với 9,35 UscentifG. Giá điện này chỉ áp dụng cho các dự án nối lưới có hiệu suất của tế bào quang điện (solar cell) lớn hơn 16% hoặc module lớn hơn 15%. Như vậy, để khuyến khích phát triển điện mặt trời ở Việt Nam, thì Nhà nước cần phải có những chính sách để tạo ra được những điều kiện cần thiết nêu trên. Ví dụ, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về đất đai cho những dự án đầu tư sản xuất điện mặt trời, có chính sách ưu đãi về thuế nhập khẩu các thiết bị và công nghệ sản xuất điện mặt trời, chính sách khuyến khích nghiên cứu công nghệ và sản xuất thiết bị pin mặt trời, chính sách ưu đãi về vốn, chính sách trợ giá điện mặt trời….
  18. 18. 18 1.2. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐIỆN MẶT TRỜI 1.2.1. Khái niệm chính sách công và chính sách phát triển điện mặt trời 1.2.1.1. Khái niệm về chính sách công Chính sách công là một cụm từ được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản của Nhà nước và trên các phương tiện truyền thông. Cho đến hiện tại, có rất nhiều quan niệm khác nhau về chính sách công. Tuy nhiên, theo tác giả Nguyễn Hữu Hải (2014): “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của Nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội” [4, Tr.47]. Từ khái niệm này cho thấy, nội dung của chính sách công gồm: + Là ý chí chính trị của Nhà nước (NN); + Thể hiện hính thức bằng các quyết định của NN; + Nhằm giải quyết các vấn đề công đạt mục tiêu. 1.2.1.2. Khái niệm về chính sách phát triển điện mặt trời Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật: từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn. Phát triển là quá trình thay đổi của một hiện tượng, sự vật. Phát triển điện mặt trời là quá trình phát triển, tăng lên về số lượng và chất lượng cung ứng loại điện năng này cho xã hội. Nó bao gồm tăng trưởng về quy mô, sự hoàn chỉnh về cơ cấu và sự tăng trưởng, phát triển về hiệu quả đóng góp cho xã hội sản phẩm của điện mặt trời. Phát triển không chỉ trong hiện tại mà còn phải bảo đảm cho tiếp tục trong tương lai, bảo đảm hài hòa trong phát triển chung về kinh tế - xã hội (KT-XH), không làm ảnh hưởng đến môi trường, công bằng xã hội.
  19. 19. 19 Trong thực tế, việc phát triển điện mặt trời gặp nhiều vấn đề bất cập cần phải giải quyết liên quan đến sản xuất (như đất đai và không gian, thiết bị, vốn, giá thành…) và những vấn đề liên quan đến tiêu dùng (như giá cả, tính tiện lợi trong tiêu dùng…). Những vấn đề trên sẽ gây khó khăn cho các nhà sản xuất và người tiêu dùng tiếp cận điện mặt trời, và qua đó cản trở việc đạt được mục tiêu phát triển điện mặt trời. Để việc phát triển điện mặt trời đạt mục tiêu về quy mô, cơ cấu và chất lượng, Nhà nước cần phải có những chính sách cụ thể để giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển điện mặt trời. Các chính sách cụ thể này có thể bao gồm chính sách về tiếp cận đất đai và không gian cho sản xuất điện, chính sách ưu đãi tín dụng, chính sách ưu đãi thuế, chính sách mua, bán điện, chính sách hỗ trợ tài chính… Như vậy, có thể hiểu chính sách phát triển điện mặt trời là một hệ thống các chính sách được Nhà nước lựa chọn và được thể hiện dưới các hình thức văn bản khác nhau, để giải quyết những vấn đề phát sinh trong sản xuất và tiêu dùng điện mặt trời, nhằm đạt các mục tiêu phát triển điện mặt trời về quy mô, cơ cấu và chất lượng. 1.2.2. Nội dung chính sách phát triển điện mặt trời 1.2.2.1. Các văn bản thể hiện nội dung chính sách phát triển điện mặt trời Chính sách phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có điện mặt trời đã được Nhà nước ta rất quan tâm. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đưa ra định hướng đối với phát triển năng lượng tái tạo: “Ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo như: điện mặt trời, thủy điện”… “Nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng năng lượng, đặt biệt đối với hải đảo, vùng sâu, vùng xa”. Quốc hội đã ban hành các Luật Điện lực năm 2004 và Luật Điện lực năm 2012 bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật Điện lực năm 2004. Luật Điện
  20. 20. 20 lực quy định: “Phát triển điện bền vững trên cơ sở khai thác tối ưu mọi nguồn lực, đáp ứng nhu cầu điện năng phục vụ đời sống nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng, và an ninh năng lượng”, “Đẩy mạnh việc khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo để phát điện”. Tiếp theo, ngày 05 tháng 10 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết đinh số 176/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Điện Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, định hướng đến 2020. Đến ngày 27 tháng 12 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1855/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050. Luật Đầu tư năm 2014 quy định cơ chế chính sách ưu đãi để phát triển năng lượng tái tạo nói chung và điện mặt trời nói riêng. Theo đó, việc đầu tư sản xuất năng lượng mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo thuộc ngành, nghề ưu đãi đầu tư. Ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2068/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Như vậy, có thể nói chủ trương và chính sách phát triển năng lượng tái tạo nói chung và điện mặt trời nói riêng được đề cập trong nhiều văn bản khác nhau của Đảng và Nhà nước. 1.2.2.2. Mục tiêu phát triển điện mặt trời Chủ trương phát triển điện mặt trời đã được đưa ra hơn một thập kỷ qua, tuy nhiên, mục tiêu phát triển điện mặt trời được xác định ở nhiều văn bản quản lý khác nhau của Nhà nước. Tính định hướng và tính cụ thể của mục tiêu phát triển điện mặt trời ở các giai đoạn khác nhau cũng khác nhau. Cụ thể:
  21. 21. 21 Quyết định số 176/2004/QĐ-TTg ngày 05 tháng 10 năm 2004 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Điện Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, định hướng đến 2020, xác định mục tiêu: “Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa”. “Phát triển các nhà máy sử dụng năng lượng mới và tái tạo. Tận dụng các nguồn năng lượng mới tại chỗ để phát điện cho các khu vực mà lưới điện quốc gia không thể cung cấp được hoặc cung cấp kém hiệu quả, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa”. Quyết định số 1855/QĐ-TTg ngày 27 tháng 12 năm 2007 phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 xác định mục tiêu tổng quát là: “Đẩy mạnh phát triển nguồn năng lượng mới và tái tạo.... để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”. Đồng thời, quyết định này cũng xác định mục tiêu cụ thể: Phấn đấu tăng tỉ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 3% tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2010, khoảng 5 % vào năm 2020, và khoảng 11% vào năm 2050”. Như vậy, theo hai Quyết định nêu trên, mục tiêu phát triển điện mặt trời được lồng ghép trong mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo. Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có điện mặt trời như sau: - Từng bước nâng cao tỷ lệ tiếp cận nguồn năng lượng sạch và điện năng của người dân khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo: Đến năm 2020 hầu hết số hộ dân có điện, đến năm 2030 hầu hết các hộ dân được tiếp cận các dịch vụ năng lượng hiện đại, bền vững, tin cậy với giá bán điện và giá năng lượng hợp lý.
  22. 22. 22 - Phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo góp phần thực hiện các mục tiêu môi trường bền vùng và phát triển nền kinh tế xanh: + Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng so với phương án phát triển bình thường: Khoảng 5% vào năm 2020, 25% vào năm 2030, khoảng 45% vào năm 2050. + Góp phần giảm nhiên liệu nhập khẩu cho mục đích năng lượng: Giảm khoảng 40 triệu tấn than và 3,7 triệu tấn sản phẩm dầu vào năm 2030; giảm khoảng 150 triệu tấn than và 10,5 triệu sản phẩm dầu vào năm 2050. - Thúc đẩy sự phát triển của công nghệ năng lượng tái tạo và các ngành công nghiệp, xây dựng hệ thống công nghiệp năng lượng tái tạo; đưa tỉ lệ giá trị thiết bị sản xuất trong nước trong lĩnh vực năng lượng tái tạo: Đạt khoảng 20% vào năm 2020; nâng lên đến 60% vào năm 2030; đến năm 2050, đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nước, một phần dành cho xuất khẩu đến các nước trong khu vực và trên thế giới. - Phát triển điện mặt trời để cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia và khu vực biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa chưa thể cấp điện từ nguồn điện lưới quốc gia. Điện năng sản xuất từ năng lượng mặt trời tăng từ khoảng 10 triệu kWh năm 2015 lên khoảng 1,4 tỉ kWh vào năm 2020; khoảng 35,4 tỉ kWh vào năm 2030 và khoảng 210 tỉ kWh vào năm 2050. Đưa tỉ lệ điện năng sản xuất từ nguồn năng lượng mặt trời trong tổng sản lượng điện sản xuất từ mức không đáng kể hiện nay lên đạt khoảng 0,5% vào năm 2020, khoảng 6% vào năm 2030, và khoảng 20% vào năm 2050. - Phát triển các thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời để cung cấp nhiệt cho các hộ gia đình; sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Tổng năng lượng mặt trời cung cấp nhiệt tăng từ 1,1 triệu TOE năm 2020 lên khoảng 3,1 triệu TOE vào năm 2030 và 6 triệu TOE vào năm 2050. - Tăng diện tích hấp thụ của các dàn nước nóng năng lượng mặt trời từ
  23. 23. 23 khoảng 3 triệu m2 vào năm 2015 lên đạt khoảng 8 triệu m2 vào năm 2020; khoảng 22 m2 vào năm 2030 và đạt khoảng 41 triệu m2 vào năm 2050. Tăng tỉ lệ số hộ gia đình có thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời (dàn đun nóng, bếp nấu ăn, sưởi ấm và làm mát không gian, chưng cất nước… sử dụng năng lượng mặt trời) từ khoảng 4,3% năm 2015 lên khoảng 12% vào năm 2020, khoảng 26% vào năm 2030 và khoảng 50% vào năm 2050. Như vậy, Quyết định số 2068, đã xác định các mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo nói chung, trong đó có năng lượng mặt trời. Đồng thời, Quyết định 2068 cũng đã xác định được các mục tiêu cụ thể về phát triển điện mặt trời. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng cho việc đề ra các giải pháp chính sách phát triển điện mặt trời, cho việc triển khai thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời, và việc giám sát và đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển mặt trời ở Việt Nam. 1.2.2.3. Đối tượng tác động của chính sách phát triển điện mặt trời Đối tượng tác động của chính sách phát triển điện mặt trời gồm những người thụ hưởng chính sách, các đối tác, những người liên quan khác có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thực thi chính sách công. Cụ thể, đối tượng tác động của chính sách phát triển điện mặt trời có thể bao gồm: các cơ sở nghiên cứu và phát triển công nghệ điện mặt trời; các nhà sản xuất hoặc nhập khẩu trang thiết bị điện mặt trời; các nhà sản xuất điện mặt trời và những người tiêu dùng điện mặt trời, gồm các hộ gia đình, các cơ quan, tổ chức sử dụng điện mặt trời… 1.2.2.4. Các giải pháp phát triển điện mặt trời Do mục tiêu phát triển điện mặt trời ở các giai đoạn khác nhau cũng khác nhau, nên các giải pháp phát triển điện mặt trời qua các giai đoạn khác nhau cũng có những điểm khác nhau. Như đã trình bày ở trên, giai đoạn từ 2004 đến 2015, mục tiêu phát triển điện mặt trời được xác định cùng với mục tiêu
  24. 24. 24 phát triển nguồn năng lượng tái tạo nói chung, nên các giải pháp phát triển điện mặt trời cũng được xác định cùng với giải pháp phát triển năng lượng tái tạo. Quyết định số 1855/QĐ-TTg ngày 27 tháng 12 năm 2007 đề ra các giải pháp phát triển nguồn năng lượng tái tạo, trong đó có năng lượng mặt trời gồm: - Tăng cường tuyên tuyền sử dụng các nguồn năng lượng mới và tái tạo để cấp cho các khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. - Lồng ghép sử dụng năng lượng mới và tái tạo vào chương trình tiết kiệm năng lượng và các chương trình mục tiêu quốc gia khác như chương trình điện khí hóa nông thôn, trồng rừng, xóa đói giảm nghèo, nước sạch, VAC. - Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng các cơ sở thích hợp để sản xuất, lắp ráp, sửa chữa các loại thiết bị năng lượng mới như đun nước nóng, thủy điện nhỏ, động cơ gió, hầm khí sinh vật... ở những nơi có điều kiện. Hợp tác mua công nghệ của các nước đã phát triển để lắp ráp các thiết bị công nghệ cao như pin mặt trời, điện gió... từng bước làm phù hợp và tiến tới lắp ráp, chế tạo trong nước. - Hỗ trợ đầu tư cho các chương trình điều tra, nghiên cứu, chế tạo thử, xây dựng các điểm điển hình sử dụng năng lượng mới và tái tạo; ưu đãi thuế nhập thiết bị, công nghệ mới; thuế sản xuất, lưu thông các thiết bị; bảo hộ quyền tác giả cho các phát minh, cải tiến kỹ thuật có giá trị. - Cho phép các cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước phối hợp đầu tư khai thác, nguồn năng lượng mới và tái tạo trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
  25. 25. 25 Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2015, đề ra các giải pháp phát triển nguồn năng lượng tái tạo, trong đó có năng lượng mặt trời gồm: - Khuyến khích các cá nhân, tổ chức với các hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào việc phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo. Nhà nước bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo. - Các đơn vị điện lực có trách nhiệm mua toàn bộ điện năng được sản xuất từ việc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo nối lưới thuộc địa bàn do đơn vị mình quản lý. Chi phí mua điện của các dự án phát triển điện sử dụng nguồn năng lượng tái tạo hạch toán vào giá thành điện của đơn vị điện lực và được tính toán và đưa đầy đủ trong cơ cấu giá bán lẻ điện và thu hồi qua doanh thu bán điện. - Các dự án phát triển điện sử dụng nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất điện được ưu tiên đấu nối với hệ thống điện quốc gia. Chi phí đấu nối và các chi phí khác có liên quan phát sinh hợp lý của các đơn vị lưới điện (đơn vị truyền tải và phân phối điện) do mua điện được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo được tính trong chi phí truyền tải, phân phối điện của đơn vị lưới điện. - Đối với hệ thống điện độc lập sử dụng nguồn điện độc lập sản xuất điện từ nguồn năng lượng tái tạo, chủ đầu tư xây dựng đề án giá điện và xác định tổng mức hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước trình Bộ Công Thương thẩm định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tổng mức hỗ trợ được trích từ quỹ phát triển năng lượng bền vững. - Các cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực điện có trách nhiệm đóng góp vào việc phát triển ngành lượng tái tạo của đất nước.
  26. 26. 26 - Các khách hàng sử dụng điện cuối cùng đang mua điện từ hệ thống điện quốc gia, thực hiện phát triển nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo với mục đích chính là tự đảm bảo cho nhu cầu điện của mình, được áp dụng cơ chế thành toán bù trừ. - Các dự án phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo được hưởng các ưu đãi về tín dụng đầu tư theo các quy định pháp luật hiện hành về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. - Các cá nhân, tổ chức sử dụng nhiên liệu hóa thạch cho mục đích năng lượng phải đóng phí môi trường tương ứng với khối lượng nhiên liệu được sử dụng. Một phần phí môi trường được sử dụng cho khuyến khích phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo thông qua Quỹ phát triển năng lượng bền vững. Đồng thời, Quyết định 2068 cũng đề ra những giải pháp cụ thể để khuyến khích phát triển và sử dụng năng lượng mặt trời, gồm: - Khuyến khích các tổ chức, cá nhân phát triển và sử dụng hệ thống năng lượng mặt trời để đun nóng nước, hệ thống sưởi, làm lạnh sử dụng năng lượng mặt trời và hệ thống phát điện sử dụng năng lượng mặt trời. - Doanh nghiệp phát triển bất động sản có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu về sử dụng năng lượng mặt trời khi thiết kế và xây dựng các tòa nhà, phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ thuật do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban hành. - Đối với một tòa nhà đã được hoàn thành, người sử dụng có thể lắp đặt hệ thống sử dụng năng lượng mặt trời, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật có liên quan và các tiêu chuẩn sản phẩm, với điều kiện không gây ảnh hưởng đến chất lượng và sự an toàn của tòa nhà.
  27. 27. 27 1.3. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐIỆN MẶT TRỜI 1.3.1. Khái niệm thực hiện chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời 1.3.1.1. Khái niệm thực hiện chính sách Thực hiện chính sách công là một giai đoạn của chu trình chính sách (hoạch định, thực hiện và đánh giá chính sách). Thực hiện chính sách công là giai đoạn đưa chính sách công vào thực tiễn đời sống xã hội nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách công. Có nhiều quan niệm khác nhau về thực hiện chính công. Theo tác giả Lê Văn Hòa (2016), “Thực thi chính sách công là quá trình đưa chính sách công vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách công và tổ chức thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách công” [5, Tr.12]. 1.3.1.2. Khái niệm thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời Chính sách phát triển điện mặt trời được thực hiện thông qua việc ban hành các văn bản (quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện chính sách, quy hoạch mạng lưới sản xuất điện mặt trời), lập, thẩm định và phê duyệt các dự án sản xuất điện mặt trời, và tổ chức thi hành các văn bản và tổ chức thực hiện các dự án sản xuất điện mặt trời, nhằm đạt mục tiêu phát triển điện mặt trời về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Do đó, có thể hiểu Thực hiện chính sách phát triển năng lượng điện mặt trời là toàn bộ quá trình đưa chính sách phát triển điện mặt trời vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành văn bản và các dự án sản xuất điện mặt trời và tổ chức thực hiện các văn bản và dự án nhằm đạt được mục tiêu phát triển điện mặt trời về quy mô, số lượng và chất lượng. 1.3.2. Vai trò của thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời
  28. 28. 28 - Thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời có vai trò quan trọng là bước hiện thực hóa chính sách vào đời sống xã hội. Nếu chính sách phát triển điện mặt trời không được đưa vào thực hiện thì dù chính sách có tốt thì cũng chỉ là chính sách trên lý thuyết. Bất cứ một chính sách nào khi ban hành nếu không được thực hiện sẽ trở thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín của Nhà nước). Tổ chức thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời không tiến hành tốt dễ dẫn đến lãng phí ngân sách của Nhà nước, nguồn lực xã hội, nhân lực đào tạo… sự thiếu tin tưởng của nhân dân của chính sách của Đảng và Nhà nước. - Thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời giúp kiểm định tính đúng đắn của chính sách. Việc phân tích, đánh giá chính sách phát triển điện mặt trời ở mức tốt hay xấu chỉ có thể đầy đủ, có sức thuyết phục sau khi thực hiện chính sách. Qua thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời mới biết chính sách có phù hợp hay không phù hợp, có đi vào cuộc sống hay không đi vào cuộc sống. Thực tiễn là chân lý, kết quả thực hiện chính sách là thước đo, là cơ sở đánh giá một cách chính xác, khách quan, chất lượng và hiệu quả của chính sách. - Thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời giúp bổ sung hoàn thiện chính sách của Nhà nước. Qua việc thực hiện chính sách với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung những vướng mắc, góp phần hoàn thiện chính sách. 1.3.3. Quy trình triển khai thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời 1.3.1. Ban hành các văn bản, chương trình, dự án phát triển điện mặt trời
  29. 29. 29 Các chính sách công với tư cách là sản phẩm của quá trình hoạch định chính sách, thường mang tính định hướng về mục tiêu và giải pháp giải quyết vấn đề công. Do đó, để đưa chính sách phát triển điện mặt trời vào thực tiễn, thì các chủ thể thực thi chính sách căn cứ vào thẩm quyền của mình ban hành các văn bản để cụ thể hóa mục tiêu và giải pháp chính sách phát triển điện mặt trời cho từng giai đoạn thời gian hoặc địa bàn cụ thể. Đồng thời, các chủ thể tham gia thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời cần thiết lập các chương trình, dự án để sản xuất và tiêu dùng điện mặt trời, và các dự án hỗ trợ việc sản xuất và tiêu dùng điện mặt trời (bao gồm cả các dự án nghiên cứu để chuyển năng lượng mặt trời thành điện mặt trời, dự án sản xuất thiết bị để sản xuất và tiêu dùng điện mặt trời). 1.3.2. Tổ chức thực hiện văn bản, chương trình, dự án phát triển điện mặt trời Sau khi các văn bản, chương trình, dự án phát triển điện mặt trời được ban hành và phê duyệt, các chủ thể thực thi được giao trách nhiệm tổ chức thi hành văn bản và triển khai thực hiện chương trình, dự án này. Nội dung tổ chức thi hành văn bản và chương trình, dự án cụ thể có khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát thành các nội dung hoạt động: (1) Xây dựng kế hoạch tổ chức thi hành văn bản hoặc lập kế hoạch thực hiện chương trình, dự án về phát triển điện mặt trời (2) Tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách phát triển điện mặt trời; (3) Tập huấn văn bản, bồi dưỡng những kiến thức và kỹ năng cần thiết để triển khai chính sách phát triển điện mặt trời; (4) Bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí, tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực để triển khai chính sách phát triển điện mặt trời; (5) Chỉ đạo, tổ chức kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách phát triển điện mặt trời.
  30. 30. 30 1.3.3. Sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời Định kỳ các chủ thể thực thi chính sách phát triển điện mặt trời tiến hành sơ kết, tổng kết kết quả thực hiện. Việc sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách được tiến hành theo trình tự từ dưới lên trên. Các cơ quan, tổ chức được giao thi hành văn bản thực thi chính sách phát triển điện mặt trời nào thì tiến hành sơ kết, tổng kết việc thi hành văn bản đó và báo cáo lên cơ quan, tổ chức cấp cao hơn. Các cơ quan, tổ chức được giao thực hiện các chương trình, dự án nào thì tiến hành đánh giá giữa kỳ và đánh giá kết thúc chương trình, dự án và báo cáo lên cơ quan, tổ chức cấp cao hơn. Trong báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo đánh giá giữa kỳ, báo cáo đánh giá kết thúc cần thể hiện rõ quá trình triển khai thực hiện, những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và đề xuất những kiến nghị đối với cấp trên để xử lý những vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Trên cơ sở các báo cáo của các cơ quan, tổ chức thực thi chính sách cấp dưới, cơ quan, tổ chức thực thi chính sách cấp cao nhất tổng hợp thành báo cáo sơ kết, tổng kết thực thi chính sách. Cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm thực thi chính sách cuối cùng này báo cáo và giải trình về kết quả thực thi chính sách trước cơ quan hoạch định chính sách và nhân dân. Đồng thời, có thể kiến nghị với cơ quan hoạch định chính sách điều chỉnh, sửa đổi chính sách phát triển điện mặt trời cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống. 1.3.4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hƣởng đến thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời Theo lý thuyết chung, việc thực hiện chính sách công chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Sự ảnh hưởng của các yếu tố này đến thực hiện chính sách công theo cả chiều thuận và chiều nghịch (tích cực và tiêu cực). Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách có thể bao gồm: các yếu tố liên quan đến vấn đề chính sách, các yếu tố liên quan đến nguồn lực thực hiện, các yếu tố
  31. 31. 31 liên quan đến chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện và các bên liên quan, các yếu tố liên quan đến môi trường (yếu tố môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, công nghệ, hội nhập quốc tế). Đối với việc thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố nêu trên. Tuy nhiên, xét từ góc độ bản chất của phát triển điện mặt trời, thì các yếu tố cụ thể có ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời có thể nhóm thành các nhóm như: các yếu tố liên quan đến sản xuất điện mặt trời, các yếu tố liên quan đến sử dụng điện mặt trời, các yếu tố liên quan đến năng lực triển khai thực hiện. 1.3.4.1. Các yếu tố liên quan đến sản xuất điện mặt trời - Điều kiện tự nhiên. Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển điện mặt trời là lượng ánh sáng mặt trời và cường độ ánh sáng (ánh sáng mặt trời chỉ có vào ban ngày cho nên buổi tối khó có được điện sáng mà phải có bình tích điện). Nhu cầu sử dụng điện lớn như vậy buộc phải sử dụng loại tích điện phù hợp để có thể đủ dùng vào buổi tối. Mặt khác, mùa mưa rất ít ánh nắng mặt trời việc phát điện nhờ ánh sáng là một thách thức đối vợi việc phát triển nguồn năng lượng này. Hơn nữa, lượng điện mặt trời được sản xuất ra còn phụ thuộc vào diện tích không gian để lắp đặt các thiết bị và các tấm pin mặt trời để chuyển hóa năng lượng mặt trời thành điện năng. Do đó, để sản xuất được một số lượng lớn điện mặt trời cần phải có diện tích lớn đất đai. - Thiết bị và công nghệ. Hiệu năng sản xuất điện mặt trời phụ thuộc rất lớn vào thiết bị và công nghệ chuyển năng lượng mặt trời thành điện năng. Do đó, nếu chúng ta tạo ra được những thiết bị và công nghệ tiên tiến, có hiệu năng cao thì sẽ giảm được giá thành sản xuất điện mặt trời. Hơn nữa, hiện nay thiết bị và công nghệ sản xuất điện mặt trời ở Việt Nam đều phải nhập khẩu từ nước ngoài cho nên giá
  32. 32. 32 thành rất cao. Việc sản xuất năng lượng vướng phải khó khăn khác là thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước về đầu tư nghiên cứu cũng như kinh phí, trang thiết bị kỹ thuật cho sản xuất. - Vốn đầu tư cho sản xuất điện mặt trời. Vốn đầu tư cho phát triển năng lượng điện mặt trời cao: Chi phí đầu tư cho 1 kWh điện từ các nguồn năng lượng mới và tái tạo đang ở mức khá cao so với việc đầu tư các nguồn năng lượng truyền thống. Dù năng lượng mặt trời ở dạng “nguyên liệu thô”, nhưng chi phí đầu tư để khai thác, sử dụng lại rất cao do công nghệ, thiết bị sản xuất đều nhập từ nước ngoài. Phần lớn những dự án điện mặt trời đã và đang triển khai đều sử dụng nguồn vốn tài trợ hoặc vốn vay nước ngoài. Do đó, mới chỉ có một vài tổ chức, viện nghiên cứu và các trường đại học tham gia, còn phía doanh nghiệp, cá nhân vẫn chưa “mặn mà” với việc ứng dụng, sản xuất cũng như sử dụng các thiết bị năng lượng mặt trời. Vì vậy, việc thực thi chính sách điện mặt trời chưa được ứng dụng rộng rãi và phổ biến. - Giá thành sản xuất điện mặt trời. Theo các chuyên gia điện năng lượng mặt trời ở nước ta, tại thị trường Việt Nam hiện nay, chi phí sản xuất cho mỗi kWh dao động từ 7 đến 7,5 cent Mỹ (khoảng 1.670 đ/kWh) khi triển khai phương án kinh doanh bán điện mặt trời cho tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN). Với các hộ gia đình, nếu chỉ triển khai mô hình hệ thống điện năng lượng mặt trời độc lập (chỉ sử dụng điện mặt trời khi có ánh sáng, sử dụng điện lưới khi không còn ánh sáng mặt trời), chi phí đầu tư ban đầu sẽ khoảng 28 triệu đồng/kWh, khi đó chi phí để sản xuất mỗi kWh sẽ vào khoảng 1.800 đ với thời gian khấu hao từ 6 – 8 năm cho thiết bị. Chi phí này tương đương với giá điện của Nhà nước.
  33. 33. 33 Với các hộ gia đình không có điện lưới, việc không có ắc quy lưu trữ điện năng sẽ khiến cho họ không có điện khi ánh mặt trời tắt, vì vậy họ lắp thêm ắc quy cho mục đích sử dụng vào buổi tối, chi phí đầu tư ban đầu sẽ khoảng 48 triệu đồng/kWh. Tuổi thọ của tấm pin mặt trời là khá lớn, khoảng 25 năm, nhưng tuổi thọ ắc quy là khá ngắn, thường là 5 năm. Vì vậy, khi sử dụng ắc quy để lưu điện, chi phí cho mỗi kWh sẽ khoảng trên 3.000đ/kWh và phải thay ắc quy 5 năm mỗi lần. 1.3.4.2. Các yếu tố liên quan đến tiêu dùng điện mặt trời - Nhận thức của người tiêu dùng điện mặt trời. Đại đa số người tiêu dùng điện mặt trời đều nhận thức được đây là nguồn năng lượng sạch, sử dụng nó góp phần bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, ở một số vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số thì việc nhận thức này còn hạn chế. Nhận thức được vấn đề và được sự ủng hộ của người dân đối với một quyết định chính sách phát triển điện mặt trời là một nhân tố quan trọng đối với sự thực thi chính sách đó thành công. Thực tiễn cho thấy, nhiều chính sách công không nhận được sự ủng hộ của người dân đã không đi vào đời sống xã hội sau nhiều năm triển khai thực hiện. - Khả năng chi trả của người tiêu dùng. Giá thành điện mặt trời còn cao so với thu nhập của người dân Việt Nam, trong khi đó giá điện truyền thống lại thấp cho nên việc mua các thiết bị điện năng trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất bị hạn chế. Thực tế hiện nay, đơn giá bình quân cho các gia đình sử dụng điện là 2.200đ/kWh. 1.3.4.3. Các yếu tố liên quan đến năng lực tổ chức triển khai thực hiện - Năng lực của cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời. Năng lực thực thi chính sách của cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý nhà nước có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực thi chính sách.
  34. 34. 34 Năng lực thực thi của cán bộ, công chức là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, về năng lực thiết kế tổ chức, năng lực thực tế, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ động ứng phó với những tình huống phát sinh trong tương lai. Như vậy, năng lực của cán bộ, công chức thực thi chính sách phát triển điện mặt giữ vị trí vô cùng quan trọng. Đây là yếu tố quyết định đến kết quả tổ chức thực thi chính sách. Nếu năng lực của cán bộ, công chức đảm nhiệm thực thi chính sách yếu kém sẽ đưa ra những kế hoạch dự kiến không sát thực tế, làm lãng phí nguồn lực huy động, giảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, thậm chí còn làm biến dạng chính sách trong quá trình thực hiện. - Năng lực nghiên cứu khoa học về điện mặt trời. Đối với Việt Nam việc đào tạo nguồn nhân lực cho các chuyên ngành năng lượng tái tạo (NLTT) là vấn đề phải được quan tâm ngay từ bây giờ vì đã là muộn nếu muốn ngành công nghiệp này phát triển mạnh. Như vậy, các bộ, ngành, tập đoàn, công ty đã có các dự án năng lượng điện mặt trời, đang triển khai các dự án cần đưa ra các kế hoạch và mục tiêu đào tạo cụ thể để có nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, cần tổ chức các đoàn đi tham quan học tập và khảo sát thực tế tại các cơ sở, công trường, cơ quan quản lý vận hành các dự án NLTT của các nước đã có kinh nghiệm về lĩnh vực này. Các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp có Chương trình đào tạo về ngành NLTT; muốn vậy, trước mắt cần mời những giảng viên có kinh nghiệm soạn thảo ra Bộ giáo trình có tiếp thu các thành tựu khoa học đã đạt được của quốc tế và hiểu hết được tình hình cụ thể của Việt Nam về năng lượng tái tạo trong đó chú trọng về điện mặt trời. - Khả năng tài chính của các nhà đầu tư vào sản xuất điện mặt trời.
  35. 35. 35 Hiện tại ở trong nước các nhà đầu tư vào sản xuất điện mặt trời chủ yếu là các dự án vừa và nhỏ do khả năng tài chính của nhà đầu tư không lớn. Các doanh nghiệp nước ngoài có nguồn vốn lớn đầu tư cho các dự án lớn hơn. 1.4. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN ĐIỆN MẶT TRỜI Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM 1.4.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới 1.4.1.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản Nhật Bản là một trong những nước ở khu vực Đông Bắc Á có kinh nghiệm và thành tựu đáng kể trong việc khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng sạch. Nhờ có các chính sách năng lượng trên quan điểm dài hạn, toàn diện và có hệ thống. Chính sách quan trọng cho thị trường năng lượng tái tạo của Nhật Bản nói chung cũng như công nghệ điện mặt trời nói riêng là chính sách ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo của Chính phủ công bố năm 2012. Chính sách này bắt buộc tất cả các công ty kinh doanh điện trên toàn Nhật Bản phải mua một sản lượng điện nhất định từ các nguồn năng lượng tái tạo. Chính sách trợ cấp cho sản xuất tấm pin mặt trời. Thu hồi vốn bằng cách bán điện năng dư thừa cho lưới điện với biểu giá ưu đãi cho các hộ tiêu thụ điện trong cả nước trả. Luật FiT của Nhật bản trợ giá cho ngành năng lượng mặt trời. Theo luật này Chính phủ Nhật Bản sẽ mua mức giá điện sản xuất từ năng lượng mặt trời cao hơn so với giá thị trường, khoảng 40 Yen/kWh (0,50 USD/kWh) cho các dự án xây dựng các trung tâm điện năng lượng mặt trời có công suất trên 10kW (cho dự án xây dựng các trung tâm chuyên dụng tách biệt với khu dân cư) và khoảng 42 Yen/kWh (0.53 USD/kWh) cho các dự án có công suất <10kW (cho dự án xây dựng các công trình dân cư, văn phòng, có công năng
  36. 36. 36 sản xuất điện từ năng lượng mặt trời). Những ưu đãi này giúp cho các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực điện mặt trời ở Nhật Bản. Từ năm 1975, Kyocera của Nhật Bản đã bắt đầu nghiên cứu và phát triển năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, do Nhật Bản là một đất nước khá hẹp về diện tích đất đai bằng phẳng và không đủ diện tích để xây dựng các nhà máy điện mặt trời cỡ lớn, nên công nghệ điện mặt trời chủ yếu là ứng dụng với phạm vi nhỏ hẹp như trong sản xuất điện cho đèn đường, biển báo giao thông và trạm viễn thông ở khu vực miền núi. Công nghệ điện mặt trời nổi trên mặt nước ra đời đã giúp Nhật Bản giải quyết được hạn chế về địa hình vì nước Nhật Bản có tiềm năng về các hồ tích nước trong nông nghiệp, hồ kiểm soát lũ, hơn thế nữa, toàn bộ đất nước Phù Tang bao quanh bởi đại dương bao la. Rõ ràng đây là tài sản quý giá để đặt các tấm panô pin cho các nhà máy điện mặt trời kích cỡ khác nhau. Với tất cả các ưu thế trên, chỉ trong một thời gian ngắn, Kyocera đã hoàn thành ba trạm điện Mặt Trời nổi trên mặt nước, trong đó trạm lớn nhất của Kyocera đặt tại hồ Sakasamaike, thành phố Kasai, tỉnh Hyogo, hoàn thành ngày 24 tháng 5 năm 2015 với công suất 2,3 megawatt (MGW), đủ đáp ứng nhu cầu điện cho 820 hộ dân. Trạm điện tại Kasai lắp đặt 9.072 tấm pin năng lượng mặt trời, có tổng cộng chiều dài 333 m, rộng 77 m có tổng diện tích bề mặt hấp thụ ánh nắng 25.000 mét vuông. Các tấm pin silicon trên mặt nước, có diện tích nhỏ hơn so với các tấm pin mặt trời lắp đặt trên đất liền, sẽ được một mạng lưới làm từ sợi thuỷ tinh và chất dẻo siêu nhẹ nâng nổi trên mặt nước. Các tấm pin mặt trời trên mặt nước còn giúp ngăn chặn 90% nước bốc hơi, ngăn chặn sự phát triển của tảo và các sinh vật hữu cơ trong môi trường nước bằng cách giữ mát cho bề mặt nước.
  37. 37. 37 Trạm bán điện cho Công ty điện lực Kansai ở Osaka với tổng giá trị khoảng 96 triệu yên (780.000 USD)/năm. Theo chuyên gia của Kyocera, chi phí và thời gian lắp đặt các trạm điện này giảm nhiều so với các trạm điện lắp đặt trên đất liền. Các kết nối bền vững song không cố định mà có độ linh hoạt nên có khả năng chịu được các yếu tố thời tiết tiêu cực như bão, lốc cao hơn so với các tấm pin được lắp đặt trên đất liên. Bên cạnh đó, hoạt động vận hành và bảo trì cũng không đòi hỏi nhiều công sức nên nhân lực để vận hành cho trạm điện tại Kasai chỉ có khoảng từ 4-6 người. Hiện tại, Kyocera cũng đang xây dựng nhà máy điện mặt trời nổi tại hồ chứa ở tỉnh Chiba với công suất là 13,4 megawatt. Kyocera hy vọng các nhà máy điện mặt trời nổi của mình sẽ đóng góp cho nỗ lực phát triển các nguồn năng lượng tái tạo của Nhật Bản. 1.4.1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan Thái Lan là một trong những quốc gia rất phát triển về điện mặt trời. Năm 2006, Thái Lan là nước đầu tiên trong khối ASEAN áp dụng biểu giá FiT cho năng lượng tái tạo. Các chương trình, được gọi là "bù giá", cộng thêm một giá cao hơn vào giá bán buôn điện. Mặc dù giá bán buôn dễ thay đổi và mức bù giá chỉ được bảo đảm trong thời gian từ 7-10 năm, tùy thuộc vào công nghệ, mức giá đó đã khá hấp dẫn: (khoảng 10 €-ct/kWh vào năm 2014) 4 TBH/kWh. Cơ chế hỗ trợ ổn định này hết hiệu lực vào ngày 31 tháng 12 năm 2015 và được thay thế bằng một biểu FiT cộng với một mức bù giá, nhằm hỗ trợ cho các dự án có quy mô lên đến 10 MW - và đặc biệt cho các dự án điện mặt trời lên đến 50 MWp. Kế hoạch phát triển năng lượng tái tạo cho Thái Lan trong giai đoạn 2015-2036.
  38. 38. 38 Bảng 1.1. Kế hoạch phát triển năng lƣợng tái tạo cho Thái Lan trong giai đoạn 2015-2036 Nguồn: Năng lượng tái tạo Industries Club, Liên đoàn Công nghiệp Thái Lan FTI, ngày 25 tháng 3 năm 2016. Chính sách trợ giá Fit là chính sách giúp cho điện mặt trời tại Thái Lan phát triển mạnh. Thời gian biểu các biện pháp thực hiện bởi chính phủ nhằm thúc đẩy hệ thống năng lượng mặt trời PV tại Thái Lan Bảng 1.2. Biểu giá FiT năm 2014-2015 Dung lượng (MWp) Biểu giá FiT năm 2014-2015 Giá FiT (Baht / Unit) Thời gian hỗ trợ (năm) 1. Nhà máy điện năng lượng mặt trời ≤ 90 MWp 5.66 25 2. Hệ thống điện năng lượng mặt trời trên nóc nhà 2.1 Hệ thống điện năng lượng mặt trời trên nóc nhà cho khu dân cư ≤ 10 kWp 6.85 25 2.2 Hệ thống điện năng lượng mặt trời trên nóc nhà cho các tòa nhà thương mại và các nhà máy
  39. 39. 39 >10-250 kWp 6.40 25 >250-1,000 kWp 6.01 25 3. Nhà máy điện năng lượng mặt trời cho các văn phòng chính phủ All Range Toàn dải 5.66 25 Nguồn:http://www.hioki.com.sg/wp-content/uploads/2015/08/Policies- to-promote-solar-energy-in-Thailand-Vietnamese.pdf. Chính sách ưu đãi về thuế ở Thái Lan là điểm thu hút các nhà đầu tư. Thông qua "Chính sách đầu tư cho Chiến dịch phát triển bền vững cho các dự án năng lượng tái tạo" cung cấp một số ưu đãi về thuế. Ví dụ, miễn 8 năm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với lợi nhuận sau thuế và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo, 8 năm miễn thuế đối với cổ tức, và trợ cấp 25% trên tổng chi phí vốn trong một số trường hợp cụ thể. Nhờ có các chính sách ưu đãi này mà ngành năng lượng điện mặt trời ở Thái lan rất phát triển. 1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Qua nghiên cứu kinh nghiệm thực thi chính sách phát triển điện mặt trời ở một số nước trong khu vực có thể rút ra một số bài học như sau: - Thứ nhất, để chính sách phát triển điện mặt trời được thực hiện rộng rãi Nhà nước cần có cơ chế, chính sách ưu đãi đối với các dự án điện mặt trời. Ưu đãi về thuế, đất đai, bù giá, vay vốn tín dụng và các hình thức hỗ trợ khác. - Thứ hai, Nhà nước quy định mức hỗ trợ giá điện đối với đầu tư xây dựng công trình điện mặt trời. - Thứ ba, để tiết kiệm đất các nhà đầu tư đã nghiên cứu tận dụng các hồ thủy điện, thủy lợi để tận dụng diện tích mặt nước trên các hồ để lắp đặt các tấm pin mặt trời. Các tấm pin này còn giúp ngăn chặn 90% nước bốc hơi, ngăn chặn sự phát triển của tảo và các sinh vật hữu cơ trong môi trường nước
  40. 40. 40 bằng cách giữ mát cho bề mặt nước. - Thứ tư, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư cho lĩnh vực phát triển điện mặt trời hay hợp tác với các doanh nghiệp trong nước để sản xuất điện mặt trời. - Thứ năm, mở rộng và phổ biến điện lắp mái (lắp trên các mái nhà) dễ dàng đầu tư, lắp đặt nhanh chóng, sửa chữa, bảo dưỡng; nguồn vốn đầu tư không lớn; không tốn diện tích đất mà còn giúp nhà mát hơn về mùa hè. Mặt khác, bảo đảm không phát khí thải nhà kính, bảo vệ môi trường. Tiểu kết Chƣơng 1 Với mục tiêu cung cấp cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Chương 2 và đề xuất hoàn thiện chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở Chương 3, Chương 1 tập trung làm rõ lý thuyết về năng lượng mặt trời, chính sách phát triển điện mặt trời và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời. Chương này đã trình bày một hệ thống các khái niệm: Năng lượng mặt trời, điện mặt trời; chính sách công, chính sách phát triển điện mặt trời; Khái niệm thực thi chính sách, thực thi chính sách phát triển điện mặt trời và vai trò của thực thi chính sách phát triển điện mặt trời. Chương này đã làm rõ nội dung của chính sách phát triển điện mặt trời ở Việt Nam và thực hiện chính sách điện mặt trời như: các văn bản thể hiện nội dung chính sách phát triển điện mặt trời, mục tiêu phát triển điện mặt trời, đối tượng tác động của chính sách phát triển điện mặt trời, các giải pháp phát triển điện mặt trời, quy trình triển khai thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời, các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời. Đồng thời, Chương 1 cũng trình bày một số kinh nghiệm về chính sách và thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời ở các nước như của Nhật Bản, Thái Lan và đã rút ra những bài học cho Việt Nam.
  41. 41. 41 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐIỆN MẶT TRỜI TẠI VIỆT NAM 2.1. TIỀM NĂNG VÀ CƠ HỘI CHO PHÁT TRIỂN ĐIỆN MẶT TRỜI Ở VIỆT NAM 2.1.1. Tiềm năng về nguồn năng lƣợng mặt trời ở Việt Nam Vị trí địa lý đã ưu ái cho Việt Nam một nguồn năng lượng tái tạo vô cùng lớn, đặc biệt là điện mặt trời. Trải dài từ vĩ độ 230 23’ Bắc đến 80 27’ Bắc, Việt Nam nằm trong khu vực có cường độ bức xạ mặt trời tương đối cao. Trong đó, nhiều nhất phải kể đến Thành phố Hồ Chí Minh, tiếp đến là các vùng Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Lào Cai) và vùng Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh)… Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới như Việt Nam, nguồn năng lượng mặt trời sử dụng hầu như quanh năm,… Tiềm năng điện mặt trời tốt nhất ở các vùng từ Thừa Thiên Huế trở vào Nam và vùng Tây Bắc. Vùng Tây Bắc gồm các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Lào Cai,…. và vùng Bắc Trung bộ gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,…. có năng lượng mặt trời khá lớn. Mật độ năng lượng mặt trời biến đổi trong khoảng 3.000 đến 5.000 Kcal/m2 .ngày. Số giờ nắng trung bình cả năm trong khoảng 1.500 giờ tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng và lên đến 2,700 giờ tại các tỉnh Nam Trung Bộ. Do có sự bức xạ mặt trời vào mùa hè nhiều hơn mùa đông nên mùa hè việc sử dụng thiết bị phát điện bằng năng lượng mặt trời đạt hiệu quả cao hơn. Biểu đồ giờ nắng trung bình tháng tại một số địa phương trong Biểu đồ sau.
  42. 42. 42 Biểu đồ 2.1. Giờ nắng trung bình tháng tại một số địa phƣơng Còn ở phía Nam, từ Đà Nẵng trở vào, năng lượng mặt trời rất tốt và phân bố tương đối điều hòa trong suốt cả năm. Trừ những ngày có mưa rào, trên 90% số ngày trong năm đều có thể sử dụng năng lượng mặt trời để phát điện dùng cho sinh hoạt. Số giờ nắng trung bình cả năm trong khoảng 2.000 đến 2.600 giờ. Đây là khu vực ứng dụng năng lượng mặt trời rất hiệu quả. Các số liệu khảo sát về lượng bức xạ mặt trời cho thấy, các địa phương ở phía Bắc bình quân có khoảng từ 1.800 - 2.100 giờ nắng trong một năm, còn các tỉnh ở phía Nam (từ Đà Nẵng trở vào) bình quân có khoảng từ 2.000 – 2.600 giờ nắng trong một năm. Kết quả rà soát và đánh giá cường độ bức xạ mặt trời, số giờ nắng của 8 tỉnh Nam Trung bộ dựa trên hai nguồn thống kê: (i) Số liệu trung bình đo đạc trong 22 năm của NASA - Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ; (ii) Số liệu đo đạc và thống kê trung bình của các trạm khí tượng thủy văn tại các tỉnh trên trong khoảng thời gian 20 –và trên 40 năm. Kết quả được trình bày từ Phụ lục 2.1 đến 2.16 ở phần Phụ lục.[PL. Tr.87].
  43. 43. 43 Kết quả đánh giá cho thấy lượng bức xạ mặt trời ở các tỉnh phía Bắc giảm 20% so với các tỉnh miền Trung và miền Nam, và lượng bức xạ mặt trời không phân phối đều quanh năm. Ở miền Bắc và miền Trung, vào mùa Đông, mùa Xuân mưa phùn kéo dài hàng chục ngày liên tục và nguồn bức xạ mặt trời dường như không đáng kể chỉ còn khoảng 1 - 2 KWh /m2 /ngày, yếu tố này là cản trở lớn cho việc ứng dụng ĐMT. Điều này không xảy ra đối với các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh do có mặt trời chiếu rọi quanh năm, ổn định kể cả vào mùa mưa. Bức xạ mặt trời là một nguồn tài nguyên to lớn cho các tỉnh miền Trung và miền Nam nói chung trong quá trình phát triển bền vững. Đồ thị 2.1. Đồ thị bức xạ mặt trời và số giờ năng trung bình/ngày của đại diện 3 vùng của Việt Nam Bản đồ bức xạ mặt trời và bản đồ tiềm năng năng lượng mặt trời Việt Nam là cơ sở dữ liệu quan trọng giúp cơ quan nhà nước xây dựng chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời ở Việt Nam, xây dựng các quy hoạch
  44. 44. 44 tiềm năng phát triển điện mặt trời, giúp các nhà đầu tư có thêm nguồn thông tin tin cậy để ra quyết định đầu tư vào dự án điện mặt trời tại địa điểm phù hợp. Việt Nam có nguồn NLMT dồi dào độ bức xạ mặt trời trung bình ngày trong năm ở phía Bắc là 3,69 kWh/m2 và phía Nam là 5,9 kWh/m2 . Lượng bức xạ mặt trời tùy thuộc vào lượng mây và tầng khí quyển của từng địa phương, giữa các địa phương ở nước ta có sự chênh lệch đáng kể về bức xạ mặt trời. Cường độ bức xạ phía Nam cao hơn phía Bắc, trong đó: Vùng Tây Bắc, nhiều nắng vào tháng 8, thời gian có nắng dài nhất vào các tháng 4, 5 và 9, 10. Các tháng 6, 7 rất hiếm nắng và mưa rất nhiều. Lượng tổng xạ trung bình ngày lớn nhất vào khoảng 5,234 kWh/m2 ngày và trung bình trong năm là 3,498 kWh/m2. ngày. Vùng núi cao khoảng 1.500 m trở lên thường ít nắng. Mây phủ và mưa nhiều nhất là vào khoảng tháng 6 đến tháng 1 năm sau. Cường độ bức xạ trung bình thấp nhỏ hơn 3,498 kWh/m2. ngày. Vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ở Bắc Bộ nắng nhiều vào tháng 5, còn ở Bắc Trung Bộ càng đi sâu về phía Nam thời gian nắng lại càng sớm, nhiều vào tháng 4. Tổng bức xạ trung bình cao nhất ở Bắc Bộ khoảng từ tháng và ở Bắc Trung Bộ vào tháng 4. Số giờ nắng trung bình thấp nhất là 2 h/ngày vào tháng 2, tháng 3. Số giờ nắng cao 7 h/ngày khoảng tháng 5,6 và duy trì ở mức cao từ tháng 7. Vùng Trung Bộ. Từ Quảng Trị đến Tuy Hòa thời gian nắng nhiều nhất vào khoảng giữa năm với 8-10 h nắng/ngày. Trung bình từ tháng 3 đến tháng 9 từ 5-6 h nắng/ngày. Với lượng tổng bức xạ trung bình trên 3, 498 kWh/m2 /ngày ( có ngày đạt 5,815 kWh/m2 . Vùng phía Nam. Ở vùng này quanh năm dồi dào nắng. Trong các tháng từ 1,3,4 thường có nắng từ 7 h sáng đến 17 h. Cường độ bức xạ trung bình lớn
  45. 45. 45 hơn trên 3, 498 kWh/m2 /ngày. Đặc biệt là ở các khu vực Nha Trang cường độ bức xạ lớn hơn 5,815 kWh/m2 trong thời gian 8 tháng/năm. Cường độ bức xạ mặt trời càng lớn thì lượng điện sản ra càng nhiều và khi đó giá thành sản xuất điện năng cạnh tranh hơn, đặc biệt khi tham chiếu với giá điện ưu đãi đề xuất là 9,35 UScents/kWh. Tuy có tiềm năng phát triển điện mặt trời nhưng việc khai thác tiềm năng này còn gặp nhiều khó khăn. Các dự án điện mặt trời hiện nay ở Việt Nam chủ yếu là các dự án nhỏ. Cho đến nay tính cả dự án của các doanh nghiệp và các hộ gia đình ứng dụng năng lượng mặt trời để sản xuất điện đã đi vào hoạt động thì công suất điện vẫn là con số nhỏ tổng công suất đạt khoảng 6MW. 2.1.2. Sự phát triển công nghệ điện mặt trời trên thế giới Năng lượng mặt trời đang dần trở thành nguồn phát điện quan trọng tại nhiều nước trên thế giới bởi giá bán các tấm pin mặt trời đã và đang giảm mạnh. Với mức chi phí đầu tư ban đầu không lớn, chi phí vận hành và bảo dưỡng nhỏ nên giá thành sản xuất điện từ mặt trời đang dần cạnh tranh với các nguồn điện từ nhiên liệu hóa thạch (chẳng hạn than nhập khẩu). Hiện nay, điện từ nguồn năng lượng mặt trời đang phát triển mạnh với tốc độ rất cao. Năm 2015, đã có 227.000 MW điện mặt trời được kết nối với hệ thống điện, tăng thêm 55.000MW so với cuối năm 2014 và tăng 37 lần về công suất lắp đặt trong 10 năm qua (2006-2015). Xu hướng lắp đặt điện mặt trời trên thế giới được thể hiện ở Biểu đồ 2.2.
  46. 46. 46 Biểu đồ 2.2. Xu hƣớng lắp đặt điện mặt trời trên thế giới giai đoạn 2005-2015 Nguồn: Hệ thống chính sách năng lượng tái tạo thế kỷ 21 Giá tấm pin mặt trời đã giảm mạnh từ 3,5 – 4,0 EUR/Wp năm 2008 xuống còn chỉ 0,44 – 0,59 EUR/Wp vào tháng 10 năm 2016 đã thúc đẩy phát triển mạnh mẽ điện mặt trời ở nhiều nước đang phát triển như Thái Lan, Trung Quốc. Hình dưới đây cho thấy giá tấm pin mặt trời tại thời điểm từ 1/1/2016 theo các vùng lãnh thổ và các nước. Bảng 2.3. Chỉ số giá thị trƣờng thế giới các tấm pin mặt trời (PV Module) Khuynh hướng giá tháng 10/2016 I. Price trends October 2016 Module type, origin € / Wp Trend since 2016-09 Trend since 2016-01 Crystalline modules Germany, Europe 0.51 0.0% - 13.6%
  47. 47. 47 Module type, origin € / Wp Trend since 2016-09 Trend since 2016-01 Japan, Korea 0.59 - 1.7% - 10.6% China 0.50 - 3.8% - 10.7% Southeast Asia, Taiwan 0.44 - 4.3% - 8.3% II. Price trends September 2016 Module type, origin € / Wp Trend since 2016-08 Trend since 2016-01 Crystalline modules Germany, Europe 0.51 - 3.8% - 13.6% Japan, Korea 0.60 - 3.2% - 9.1% China 0.52 + 2.0% - 7.1% Southeast Asia, Taiwan 0.46 - 2.1% - 4.2% III.Price trends August 2016 Module type, origin € / Wp Trend since 2016-07 Trend since 2016-01 Crystalline modules

×