Download luận án tiến sĩ ngành luật với đề tài: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
4. 4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 9
1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận về bình đẳng, quyền bình đẳng giữa các
doanh nghiệp và pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
9
1.2. Tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về
quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
13
1.3. Các công trình nghiên cứu đề cập giải pháp bảo đảm quyền bình đẳng
giữa các doanh nghiệp
23
1.4. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu các công trình liên quan đến
luận án
28
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA
CÁC DOANH NGHIỆP
32
2.1. Quan niệm về bình đẳng giữa các doanh nghiệp 32
2.2. Quan niệm về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp 45
2.3. Ý nghĩa của việc thực hiện quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp 53
2.4. Vai trò của pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp 57
2.5. Những yếu tố chi phối hệ thống pháp luật và quá trình thực thi pháp
luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
64
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP
74
3.1. Thực trạng pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp 74
3.2. Thực trạng thực thi pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh
nghiệp ở Việt Nam
106
3.3. Nguyên nhân gây bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam 116
5. 5
3.4. Hệ quả của bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp 123
Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
128
4.1. Hoàn thiện nội dung quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp 129
4.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về thiết chế bảo đảm quyền bình
đẳng giữa các doanh nghiệp
149
KẾT LUẬN 159
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
162
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 163
6. 6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BĐGCDN : Bình đẳng giữa các doanh nghiệp
CBXH : Công bằng xã hội
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
ĐKDN : Đăng ký doanh nghiệp
ĐKKD : Đăng ký kinh doanh
KTTT : Kinh tế thị trường
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
7. 7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
3.1 Báo cáo các vụ vi phạm theo Điều 159 - chương xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế
108
3.2 Báo cáo các vụ vi phạm theo Điều 279, 289 về tội đưa, nhận
hối lộ
109
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
hình
Tên hình Trang
2.1 Mô phỏng các mối quan hệ tạo ra bình đẳng hoặc bất
BĐGCDN
39
8. 8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Doanh nghiệp là một trong những yếu tố cấu thành của mọi hệ thống kinh
tế. Trong nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp là chủ thể cơ bản của thị trường, có vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Doanh nghiệp đóng góp chủ yếu cho ngân sách nhà
nước, bổ sung nguồn dự trữ quốc gia và khai thác nâng cao giá trị của tài nguyên thiên
nhiên. Ở Việt Nam, khi thừa nhận phát triển kinh tế nhiều thành phần, doanh nghiệp
chính là hoạt động sống của các thành phần kinh tế, tạo ra tăng trưởng. Với hoạt
động sản xuất, kinh doanh đa dạng, doanh nghiệp có mặt trong nhiều ngành, nghề,
lĩnh vực và tác động đến sự hình thành các loại thị trường. Vì lẽ đó, một quốc gia
chỉ có thể kiểm soát được nền kinh tế bắt đầu từ hệ thống doanh nghiệp.
Để phát triển kinh tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã lựa chọn mô hình
kinh tế thị trường (KTTT), nhằm sử dụng sức mạnh của quy luật cạnh tranh làm
động lực phát triển. Cơ sở để quy luật cạnh tranh được vận hành là quyền tự do kinh
doanh và quyền BĐGCDN được bảo đảm. Chỉ trong điều kiện kinh doanh bình
đẳng, doanh nghiệp mới có cơ hội kinh doanh bằng chính thực lực của mình và
cạnh tranh được vận hành đúng với bản chất của nó. Từ đây, những doanh nghiệp
yếu kém được loại bỏ, lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Vì
thế, đảm bảo môi trường kinh doanh BĐGCDN vừa là nguyên tắc, vừa là giá trị phổ
biến của KTTT. Việc nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên, bảo trợ về vốn, đất đai,
tài nguyên cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và sử dụng DNNN làm công cụ
điều tiết nền kinh tế trong nhiều năm qua là mâu thuẫn với nguyên tắc bình đẳng, đi
ngược KTTT. Đồng thời, tính không hiệu quả của DNNN cũng chưa giải thích được
tác dụng thực tế của những chính sách ưu tiên đó. Vấn đề vướng mắc hiện nay cả về
lý luận và thực tiễn trong phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
Việt Nam là làm thế nào để kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo nhưng vẫn bảo
đảm sự bình đẳng giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.
Ngày 7/11/2006, cùng với việc ký kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), Việt Nam đồng thời phải ký vào bản cam kết chấp nhận bị coi là nền
9. 9
kinh tế phi thị trường (non - market economy, hay NME) trong 12 năm, kể từ ngày
gia nhập. Trong các quy định của GATT và WTO không có quy định về tiêu chí
NME hay KTTT. Tuy nhiên, các quy định này được xây dựng dựa trên những
nguyên tắc của thị trường. Hệ thống nguyên tắc này đòi hỏi các nước gia nhập
WTO phải cam kết cải cách kinh tế theo hướng thị trường, tuân thủ yêu cầu về
thương mại không phân biệt đối xử, đảm bảo quyền BĐGCDN. Do đó, để trở thành
nền KTTT không muộn hơn năm 2019, đáp ứng yêu cầu hội nhập, Việt Nam cần
phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng tuân thủ
các quy luật thị trường, đảm bảo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng cho
doanh nghiệp. Cùng với điều này, trong các đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế
chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng coi quyền BĐGCDN là vấn đề cần
được bảo đảm.
Trong thực tế, quan điểm về bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa
các doanh nghiệp đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ Đại hội Đảng lần thứ VI
(1986), được triển khai trong Hiến pháp 1992 và trong các đạo luật. Chính phủ cũng
đã phê duyệt Đề án 1715/2009/QĐ-TTg ngày 26/10/2009 nhằm đổi mới quản lý nhà
nước đối với các doanh nghiệp theo hướng không phân biệt hình thức sở hữu. Tuy
nhiên, đi ngược với mục tiêu của nhà nước, trên thực tế, bất BĐGCDN không giảm
mà đang có xu hướng gia tăng, với tính chất ngày càng đa dạng và phức tạp. Vẫn
tồn tại nhiều sự phân biệt, đối xử doanh nghiệp ngay từ khi gia nhập thị trường,
trong quá trình kinh doanh và trong giải thể, phá sản doanh nghiệp. Các DNNN
kinh doanh độc quyền trong nhiều lĩnh vực, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc thị
trường. Một số tập đoàn kinh tế nhà nước được ưu tiên, bảo lãnh, khoanh nợ, giãn
nợ, xóa nợ. Có những DNNN kinh doanh thua lỗ được sáp nhập vào tổng công ty
nhà nước, giao trách nhiệm cứu vớt cho các thành viên khác mà không bị phá sản.
Việc tiếp cận các dịch vụ công, nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ, tiếp cận nguồn tài
nguyên, đất đai của DNNN có nhiều thuận lợi, trong khi các doanh nghiệp thuộc
kinh tế tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) còn tiếp tục gặp phải
những rào cản về điều kiện kinh doanh, vay vốn, thuê đất,... Không chỉ tồn tại
những bất bình đẳng do chính sách của nhà nước tạo ra, thực trạng các doanh
nghiệp cạnh tranh không lành mạnh, kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng lậu, trốn
10. 10
thuế đang ngày càng gia tăng, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước cũng tạo ra bất
bình đẳng, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp kinh doanh chân chính.
Theo nghĩa khách quan, doanh nghiệp nào quản lý kinh doanh yếu kém,
không cạnh tranh được tất yếu bị thanh lọc khỏi thị trường do chính sự vận động
của quy luật cạnh tranh. Tuy nhiên, thực tế có những doanh nghiệp quản lý kinh
doanh tốt, tôn trọng pháp luật chưa hẳn đã chiến thắng trên thương trường. Trong
khi đó, doanh nghiệp quản trị yếu kém, thậm chí thua lỗ, vi phạm pháp luật nghiêm
trọng vẫn có thể không bị giải thể hay phá sản. Lợi nhuận của doanh nghiệp vẫn có
thể đạt được bằng những ưu tiên của nhà nước, bằng trốn thuế, kinh doanh trái
phép. Trong môi trường kinh doanh đòi hỏi nhiều chi phí bất hợp pháp, tham
nhũng, hối lộ để nhận được ưu tiên, hoặc làm hàng giả, cạnh tranh không lành mạnh
nhằm tối đa hóa lợi nhuận mà không bị xử lý đều là những hành vi gây ra bất bình
đẳng giữa các doanh nghiệp. Với môi trường kinh doanh bất bình đẳng, lợi nhuận
không phản ánh được giá trị đích thực của hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều đó
làm nản lòng các nhà đầu tư, giảm động lực kinh doanh của doanh nghiệp và suy
giảm tăng trưởng kinh tế. Sự nỗ lực của nhà nước Việt Nam trong những năm qua
mới chỉ tập trung vào việc làm giảm bớt những ưu tiên, đặc quyền đối với DNNN
mà chưa có giải pháp tổng thể, do đó chưa đem lại hiệu quả thực tế.
Trước những đòi hỏi từ nội tại nền kinh tế và yêu cầu của những cam kết
quốc tế, việc nghiên cứu các quy định pháp luật, đánh giá quá trình thực thi nhằm
xác định đúng nguyên nhân và đưa ra giải pháp phù hợp, đảm bảo quyền BĐGCDN
là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Chính vì lẽ đó, tác giả luận án đã chọn
vấn đề "Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam" làm đề
tài nghiên cứu.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu hệ thống pháp luật và việc
thực thi pháp luật về quyền BĐGCDN ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận án nghiên cứu một cách toàn diện về hệ thống pháp luật Việt Nam,
đánh giá đầy đủ, khách quan, nhận định chính xác pháp luật về quyền BĐGCDN ở
Việt Nam hiện nay.
11. 11
+ Luận án nghiên cứu pháp luật về quyền BĐGCDN ở Việt Nam chỉ áp
dụng đối với các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2005, không bao gồm các
chủ thể kinh doanh khác (hợp tác xã hay hộ kinh doanh cá thể,...)
+ Luận án nghiên cứu quyền BDDGCDN gắn với quá trình: (i) thành lập
doanh nghiệp; (ii) hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; và (iii) trong giải thể,
phá sản doanh nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là cung cấp các luận cứ khoa học cho việc
hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền BĐGCDN ở Việt Nam.
Nhiệm vụ của luận án là:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về bình đẳng, BĐGCDN, quyền
BĐGCDN và đánh giá ý nghĩa của việc bảo đảm quyền BĐGCDN. Luận án cũng
đồng thời đánh giá vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền BĐGCDN và
xác định các yếu tố chi phối quyền BĐGCDN.
- Rà soát hệ thống pháp luật Việt Nam, đưa ra những đánh giá khách quan
về ưu điểm và hạn chế của của pháp luật quy định về quyền BĐGCDN.
- Thu thập thông tin, tài liệu về thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền
BĐGCDN ở Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá những mặt đạt được và hạn chế. Từ
đó xác định các nguyên nhân cơ bản tạo ra bất BĐGCDN và hệ quả của nó.
- Đưa ra các giải pháp tổng thể nhằm hoàn thiện nội dung pháp luật về
quyền BĐGCDN và hoàn thiện thiết chế bảo đảm quyền BĐGCDN ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và giả thuyết khoa học
4.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài
Luận án nghiên cứu pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở
Việt Nam trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính
sách, pháp luật của nhà nước về công bằng, bình đẳng, về nhà nước pháp quyền, về
kinh tế với thị trường, về quan hệ giữa nhà nước với thị trường và doanh nghiệp, về
chế độ sở hữu và thành phần kinh tế. Ngoài ra, luận án cũng chú ý các học thuyết và
12. 12
quan điểm của các nhà kinh tế, chính trị, luật học, xã hội học trong nước và nước
ngoài về chế độ kinh tế, thể chế KTTT, về quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp.
4.2. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết khoa học và dự kiến kết quả nghiên cứu
Đề tài pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam
được tiến hành dựa trên các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu như sau:
Câu hỏi nghiên cứu 1
- Bình đẳng là gì và bình đẳng giữa các doanh nghiệp là gì?
- Giả thuyết nghiên cứu: Có sự nhầm lẫn giữa bình đẳng của các doanh nghiệp
với bình đẳng của thành phần kinh tế.
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: Luận án sẽ làm rõ bản chất của BĐGCDN.
Theo đó, BĐGCDN phải thỏa mãn đồng thời hai điều kiện: (i) đảm bảo sự tương
thích giữa đóng góp với hưởng thụ của doanh nghiệp, giữa vi phạm và trừng phạt;
và (ii) mọi doanh nghiệp khi ở vào những điều kiện như nhau đều phải áp dụng quy
định pháp luật như nhau, không có ngoại lệ.
Câu hỏi nghiên cứu 2
- Quyền BĐGCDN là gì?
- Giả thuyết nghiên cứu: Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều chủ thể
kinh doanh, trong đó có doanh nghiệp. Để tồn tại và hoạt động, các doanh nghiệp
cần được bình đẳng về mặt pháp lý trong các giao dịch với đối tác và quan hệ với
nhà nước (qua các điều kiện ngang bằng và tiêu chuẩn giống nhau trong việc vay
vốn, hưởng các ưu đãi và thực hiện nghĩa vụ thuế,..). Như vậy, BĐGCDN là thuộc
tính vốn có và là yêu cầu không thể thiếu được của nền KTTT.
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: Luận án làm rõ và phân biệt khái niệm quyền
BDDGCDN về mặt pháp lý và về mặt thực tế.
Câu hỏi nghiên cứu 3
- Tại sao lại phải đặt vấn đề BĐGCDN? và tại sao phải bảo đảm quyền BĐGCDN?
- Giả thuyết nghiên cứu: Tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh và BĐGCDN
là nguyên tắc của thị trường, là cơ sở để vận hành quy luật cạnh tranh, tạo động lực
phát triển kinh tế.
13. 13
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: Chứng minh mối liên hệ giữa bảo đảm quyền
BĐGCDN với hoàn thiện thể chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng. Đồng thời đánh
giá được ý nghĩa của việc bảo đảm quyền BĐGCDN.
Câu hỏi nghiên cứu 4
- Thực tế có tình trạng bất BĐGCDN ở Việt Nam hay không?
- Giả thuyết nghiên cứu: Có tình trạng bất BĐGCDN ở Việt Nam, để lại
những hậu quả tiêu cực đối với kinh tế, xã hội.
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: Rà soát, đánh giá pháp luật và quá trình thực
thi pháp luật để chứng minh có sự tồn tại của bất BĐGCDN ở Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu 5
- Nguyên nhân nào gây ra bất BĐGCDN ở Việt Nam hiện nay?
- Giả thuyết nghiên cứu: Có các quy định pháp luật mang tính phân biệt đối
xử doanh nghiệp và quá trình thực thi vi phạm quyền BĐGCDN bắt nguồn từ
những nguyên nhân sâu xa khác nhau.
- Dự kiến kết quả kiến cứu: Luận án chỉ rõ những quy định pháp luật tạo ra
bất BĐGCDN và các nguyên nhân gây ra bất BĐGCDN.
Câu hỏi nghiên cứu 6
- Những giải pháp nào có thể đem lại hiệu quả cho việc bảo đảm quyền
BĐGCDN ở Việt Nam?
- Giả thuyết nghiên cứu: Hoàn thiện chế định pháp luật về quyền BĐGCDN
và bảo đảm thiết chế thực thi pháp luật về quyền BĐGCDN có thể giúp cho các
doanh nghiệp vận hành và thực hiện mọi giao dịch được bình đẳng.
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: (i) Đề xuất xóa bỏ những quy định pháp luật
có nội dung phân biệt đối xử doanh nghiệp, sửa đổi, bổ sung một số quy định chưa
rõ ràng, thiếu cụ thể, minh bạch hóa các chính sách ưu tiên, miễn trừ và hạn chế đầu
tư, đổi mới chính sách đối với DNNN; và (ii) hoàn thiện cơ quan quản lý, tăng
cường năng lực, đạo đức công vụ, văn hóa doanh nghiệp, thay đổi thái độ của con
người để tôn trọng pháp luật và thực thi quyền BĐGCDN ở Việt Nam có hiệu quả.
14. 14
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, sử dụng
phương pháp tiếp cận về sự vận động và phát triển của nền KTTT trong điều kiện
mới, luận án kết hợp với một số nghiên cứu phù hợp theo từng nội dung nghiên cứu:
Chương 1: Thu thập thông tin và phân tích, so sánh, đánh giá những vấn đề
liên quan đến đề tài nghiên cứu, những vấn đề đã được giải quyết, những vấn đề còn
bỏ ngỏ để định hướng tiếp tục nghiên cứu.
Chương 2: Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
để nghiên cứu, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp. Các phân tích, nhận
định quan niệm về bình đẳng, bình đẳng doanh nghiệp, quyền BĐGCDN được gắn
vào những điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể.
Chương 3: Áp dụng phương pháp thu thập tài liệu, phương pháp hệ thống
nhằm kế thừa và tổng hợp kết quả nghiên cứu đã công bố. Chương này cũng sử
dụng phương pháp phân tích, đánh giá, làm rõ thực trạng pháp luật và thực thi pháp
luật, nguyên nhân tạo ra bất BĐGCDN.
Chương 4: Chủ yếu áp dụng phương pháp phân tích, dự báo, đưa ra những
khuyến nghị, giải pháp xác đáng nhằm đảm bảo quyền BĐGCDN ở Việt Nam.
6. Những đóng góp mới, ý nghĩa khoa học của luận án
Kết quả của việc nghiên cứu luận án đối với đề tài: "Pháp luật về quyền
bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam" đem lại những điểm mới sau đây:
Thứ nhất, luận án làm rõ bản chất của bình đẳng, BĐGCDN và quyền
BĐGCDN. Đồng thời, phân tích làm rõ vấn đề bảo đảm quyền BĐGCDN không
mâu thuẫn với chính sách ưu tiên hay hạn chế trong đầu tư, kinh doanh.
Thứ hai, luận án xây dựng khái niệm, xác định nội dung, tiêu chí đánh giá
về bình đẳng, BĐGCDN, quyền BĐGCDN, pháp luật về quyền BĐGCDN. Trên cơ
sở đó, luận án đánh giá vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền BĐGCDN
và xác định các yếu tố chi phối quyền BĐGCDN.
Thứ ba, luận án nghiên cứu toàn diện hệ thống pháp luật liên quan đến doanh
nghiệp, đưa ra những nhận định về hạn chế của pháp luật về quyền BĐGCDN và
nguyên nhân chủ yếu gây ra bất BĐGCDN ở Việt Nam.
15. 15
Thứ tư, luận án đưa ra giải pháp tổng thể, nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật hiện hành trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm điều chỉnh
pháp luật của nước ngoài, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của Việt Nam
trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả đạt được của luận án góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận
trong khoa học pháp lý về quyền BĐGCDN. Cụ thể là: xây dựng được khái niệm,
xác định nội dung và đưa ra tiêu chí xác định thế nào là bình đẳng doanh nghiệp,
quyền BĐGCDN, phân tích thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với các vấn đề liên
quan đến quyền bình đẳng doanh nghiệp, chỉ ra những bất cập của lĩnh vực pháp
luật này và đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
Những tình huống cụ thể cùng những lập luận khoa học sẽ chứng minh cho
các luận điểm mà luận án đưa ra. Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật và
thực thi pháp luật về quyền BĐGCDN là cơ sở để các cơ quan chức năng, trong
phạm vi thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực
tương ứng. Bên cạnh đó, luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với các
nhà nghiên cứu, cán bộ giảng dạy mà còn đối với cán bộ đang làm công tác hoạch
định chính sách, xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án gồm 4 chương, 15 tiết.
16. 16
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong tổng quan tình hình nghiên cứu, tác giả luận án sẽ đánh giá các công
trình khoa học trong nước, quốc tế về những vấn đề liên quan đến nội dung luận án.
Luận án sẽ kiểm chứng, kế thừa những vấn đề đã được làm rõ, tiếp tục giải quyết
những vấn đề còn bỏ ngỏ. Trong chương này, những vấn đề có liên quan đến nội
dung luận án được trình bày theo lôgic từ lý luận đến thực trạng và giải pháp.
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN VỀ BÌNH ĐẲNG, QUYỀN
BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÌNH
ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP
1.1.1. Nghiên cứu các quan niệm về bình đẳng, bình đẳng giữa các
doanh nghiệp và quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
1.1.1.1. Các quan niệm về bình đẳng
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, phần chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 2011-2020 có định hướng: "Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi
luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế" [16, tr. 108]. Tuy nhiên, trong toàn nội dung văn kiện đều không
tìm thấy bất kỳ định nghĩa hay giải thích nào về cạnh tranh bình đẳng hay BĐGCDN.
Pháp luật Việt Nam triển khai chính sách của Đảng về bảo đảm quyền BĐGCDN
cũng không có quy định nào đưa ra khái niệm hay giải thích thế nào là BĐGCDN.
Một số công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến khái niệm bình đẳng ở những góc nhìn
khác nhau và gián tiếp đề cập đến những khía cạnh nhất định về BĐGCDN.
Trong Đại Từ điển tiếng Việt, tác giả Nguyễn Như Ý có ghi: "bình đẳng là
ngang nhau về nghĩa vụ và quyền lợi" [93]. Cuốn sách Quan niệm tự do bình đẳng
của tư bản và vô sản, do Tô Hồng Quân biên dịch không đề cập đến bình đẳng
doanh nghiệp nhưng đã nêu ra các quan điểm và những tranh luận về bình đẳng.
Trong cuốn sách này, quan điểm mác-xít thể hiện rõ trong những lập luận, phản
biện của Mác - Ăngghen, Lênin và sau này là Stalin trước những chỉ trích của chủ
17. 17
nghĩa tư bản về bình đẳng của các nước theo mô hình XHCN. Chủ nghĩa Mác -
Lênin nhận định bình đẳng không có nghĩa là cào bằng trong mọi điều kiện mà trên
cơ sở phù hợp với những đóng góp là quyền lợi mà một chủ thể được hưởng [35].
Luận án tiến sĩ của Vũ Anh Tuấn nghiên cứu về công bằng xã hội (CBXH)
cũng có những luận giải liên quan đến bình đẳng. Khi phân tích CBXH, tác giả viết:
"tuy có những điểm tương đồng song công bằng xã hội không phải là khái niệm
đồng nghĩa với bình đẳng xã hội" [86, tr. 31]. Theo tác giả thì, CBXH là khái niệm
chỉ sự tương xứng giữa vai trò và vị thế của các thành viên xã hội (cá nhân, giai cấp,
nhóm xã hội), giữa cái mà họ tạo ra được cho xã hội với cái mà họ nhận lại từ xã
hội (cái tạo ra và cái nhận lại có thể là điều tốt lành hoặc ngược lại) như cống hiến
và hưởng thụ, lao động và sự trả công, quyền và nghĩa vụ, vi phạm pháp luật và trách
nhiệm pháp lý... Không có sự tương xứng nói trên là bất công xã hội [86, tr. 27]. Tác
giả quan niệm bình đẳng xã hội có phạm vi rộng hơn và bao quát hơn cả CBXH.
Cùng quan điểm với tác giả Vũ Anh Tuấn, trong kỷ yếu Hội thảo khoa học Đề tài
cấp nhà nước KX04/19/06-10, GS.TS Phạm Quang Phan nhận định: "Công bằng
được hiểu là sự phù hợp và tương xứng giữa cái đóng góp và cống hiến của cá nhân
cho xã hội với cái mà cá nhân thụ hưởng và nhận lại từ xã hội xét về tất cả các
khía cạnh". Để làm rõ hơn, tác giả viết: "Công bằng xã hội dù được thực hiện
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc cân bằng, tương
xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ". CBXH là công bằng
trong mọi lĩnh vực: chính trị, pháp lý, kinh tế, văn hóa, xã hội,...". Thực hiện công
bằng xã hội về mặt kinh tế thể hiện ở cả khâu phân phối tư liệu sản xuất và khâu
phân phối kết quả sản xuất, thành quả về đầu tư phát triển kinh tế". Như thế, tác
giả của hai công trình nghiên cứu trên đây đều thống nhất cho rằng, công bằng
không phải là cào bằng. Điều này cũng có nghĩa bình đẳng cũng không phải là luôn
bằng nhau mà phải đảm bảo sự tương thích về cả quyền, nghĩa vụ cũng như yêu cầu
quản lý nền kinh tế hiệu quả.
Khi xem xét ở khía cạnh địa vị pháp lý của các loại hình doanh nghiệp hiện
nay, nghiên cứu của Tô Nguyễn Cẩm Anh lại cho rằng: "Quy định không miễn trừ
nghĩa vụ về tài sản chỉ áp dụng riêng đối với doanh nghiệp tư nhân và thành viên
hợp danh của công ty hợp danh vô hình chung là một sự phân biệt đối xử giữa các
18. 18
loại hình doanh nghiệp trong việc giải quyết thủ tục phá sản, tạo nên sự bất bình
đẳng về tương lai kinh tế của các chủ thể kinh doanh" [1, tr. 34]. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có quan điểm trái chiều hay đồng thuận nào được công bố chính thức về
nhận định này.
1.1.1.2. Các quan điểm về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
Quyền BĐGCDN ít được đề cập trong các công trình nghiên cứu. Ngay tại
các cơ sở đào tạo, giảng dạy về Luật thương mại cũng đề cập rất khái quát về quyền
BĐGCDN. Trong Giáo trình Luật thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội (2006),
các quyền của doanh nghiệp được nêu cụ thể. Các chương II, chương III và chương IV
của giáo trình nghiên cứu vào các nhóm đối tượng như: Doanh nghiệp tư nhân
(DNTN), các công ty và DNNN. Khi đề cập đến quyền của DNTN, giáo trình viết:
Doanh nghiệp tư nhân là một doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp 1999, chính về thế nó được hưởng những quyền chung
giống mọi doanh nghiệp khác như: Các công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Tuy nhiên, mỗi một quyền chung ấy,
khi xét ở từng góc độ của từng doanh nghiệp lại có những đóng góp đặc
thù cho sự phát triển của từng loại hình doanh nghiệp cụ thể [94, tr. 89].
Sau bình luận này, giáo trình chưa làm rõ được sự khác nhau này có cần
thiết, có đảm bảo quyền BĐGCDN hay không.
Khác với Giáo trình Luật thương mại (2006), khi nghiên cứu về quyền của
DNTN, giáo trình Luật kinh tế (2003) cũng của Trường Đại học Luật Hà Nội viết:
Doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động kinh tế với tư
cách là một chủ thể kinh doanh độc lập, nhà nước không chỉ thừa nhận sự
tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp tư nhân mà còn thừa nhận là
một chủ thể pháp lý độc lập. Điều đó được thể hiện một cách rõ rệt trong
các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân [83, tr. 143].
Theo đó, các quyền của doanh nghiệp này gồm:
(i) Quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật của doanh nghiệp;
(ii) Quyền bình đẳng trước pháp luật của DNTN với các doanh nghiệp khác;
19. 19
(iii) Quyền của DNTN trong việc tổ chức và quản lý doanh nghiệp. Giáo
trình đã đi từ nội dung khái quát đến cụ thể.
Giáo trình Luật kinh tế (2003) chỉ đề cập đến vấn đề các quyền cụ thể của
doanh nghiệp sau khi vấn đề (i) và (ii) đã được giải quyết. Một trong những phân
tích quan trọng được nêu ra là sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp luôn đồng
hành với các quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lẫn nhau. Các quan hệ này nảy
sinh không chỉ giữa các doanh nghiệp trong một thành phần kinh tế mà cả giữa các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Sự hợp tác và cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp chỉ có thể phát triển một cách lành mạnh trong điều kiện các doanh
nghiệp đều bình đẳng với nhau trước pháp luật. Quyền bình đẳng trước pháp luật giữa
DNTN với các doanh nghiệp khác trước hết thể hiện ngay trong việc thành lập doanh
nghiệp [83, tr. 145]. Giáo trình cũng chỉ ra rằng: "Các doanh nghiệp có quyền bình
đẳng trước pháp luật còn có nghĩa là các doanh nghiệp đều phải có nghĩa vụ đóng góp
vào ngân sách nhà nước thông qua việc đóng thuế". Giáo trình này cũng đề cập sâu
hơn để giải thích về mức thuế đóng góp giữa các doanh nghiệp ở mức độ khác nhau là
sự hợp lý. Điều này hoàn toàn phù hợp với các quan niệm về công bằng, bình đẳng.
Trong luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Bùi Ngọc Cường (2002) về Xây
dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta
không đề cập trực tiếp đến quyền BĐGCDN nhưng đã gợi mở về phương pháp tiếp
cận nghiên cứu các quyền của doanh nghiệp nói chung, trong đó có quyền tự do
kinh doanh, quyền BĐGCDN là các quyền được xây dựng trên nền tảng kinh tế,
chính trị - xã hội nhất định.
1.1.2. Những công trình liên quan đến xác định vai trò của pháp luật
bảo đảm quyền bình đẳng doanh nghiệp
Không có công trình nào được biết đến đã từng nhận định trực tiếp về vai
trò của pháp luật đối với việc bảo đảm quyền BĐGCDN. Tuy nhiên, ở khía cạnh
nhất định, về mặt lý luận, vai trò của pháp luật nói chung đã được viết khá kỹ trong
giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (2003) của Trường Đại học Luật
Hà Nội. Giáo trình khẳng định pháp luật là phương tiện để các chủ thể trong xã hội
quyết định những hoạt động của tổ chức, cá nhân [82, tr. 377]. Đồng thời, với tư
20. 20
cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật tác động và ảnh hưởng
mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội. Giáo trình viết: "Sự tác động và ảnh hưởng của
pháp luật thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng loại đối tượng và
từng loại quan hệ cụ thể cần có sự điều chỉnh của pháp luật" [82, tr. 337]. Pháp luật
được đặt ra nhằm thực hiện những mục đích đã được xác định. Những mục đích đó
luôn xuất phát từ những chức năng, nhiệm vụ của nhà nước và nhu cầu cần thiết
phải có sự điều chỉnh pháp luật các quan hệ xã hội trong thời kỳ quá độ, cũng như
trong mỗi giai đoạn cụ thể. Đối với Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
xác định một trong ba khâu đột phá chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2010 - 2020
là: ''Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là
tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính" [16, tr. 46] đã thực
sự đặt công tác xây dựng và thực thi pháp luật vào một yêu cầu mới. Tác giả Vũ
Anh Tuấn khi viết về vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH cũng xuất
phát từ vai trò của pháp luật nói chung nhưng không đồng nhất chúng, tác giả cho
rằng: "Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội được thể hiện
bằng việc pháp luật thể chế hóa và bảo đảm hiệu quả thực hiện đối với các quan
điểm, chính sách công bằng xã hội của nhà nước thông qua những hình thức, phạm
vi, nội dung và thuộc tính của pháp luật" [86, tr. 44].
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP
1.2.1. Các công trình nghiên cứu đề cập đến thực trạng pháp luật về
quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
Thực trạng pháp luật về quyền BĐGCDN đã được phân tích và đề cập trong
khá nhiều tài liệu. Trong bài Góp ý dự thảo Luật Doanh nghiệp (thống nhất)
PGS.TS Nguyễn Như Phát cho rằng thực chất Luật Doanh nghiệp 2005 mới chỉ đặt
cơ sở cho sự bình đẳng doanh nghiệp ở khâu đăng ký kinh doanh (ĐKKD) để gia
nhập thị trường [32, tr. 24]. Như vậy, để có môi trường kinh doanh bình đẳng cho
doanh nghiệp, nhà nước không thể xây dựng một đạo luật riêng mà thực tế nó được
quy định trong nhiều đạo luật và các văn bản hướng dẫn khác nhau khi điều chỉnh
các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với các chủ thể
21. 21
khác. Điều này cũng giống như tại các nước có nền KTTT phát triển như Anh, Đức,
Pháp,... đều là những quốc gia tạo ra được vị thế bình đẳng cho doanh nghiệp bằng
nhiều đạo luật và văn bản pháp luật khác nhau chứ không thể giải quyết được trong
một đạo luật [32, tr. 25].
Trong bài "Luật Đầu tư 2005 - một số vấn đề bất cập", ThS. Đào Trung
Kiên khẳng định, Luật Đầu tư 2005 vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài [27, tr. 39]. Theo đó, chỉ có các dự án đầu tư trong
nước mới có thể thuộc diện không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư, còn các dự án
của nhà đầu tư nước ngoài bất luận quy mô vốn thế nào cũng phải làm thủ tục đăng
ký đầu tư hoặc thủ tục thẩm tra đầu tư. Bên cạnh đó, vẫn có sự phân biệt thủ tục đầu
tư gắn với tổ chức kinh tế giữa các nhà đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước
ngoài (Khoản 1 Điều 50). Trong tham luận tại một hội thảo khoa học, TS Phạm
Tuấn Khải cũng cho rằng: "Pháp luật đất đai hiện hành vẫn chưa thật sự tạo sân
chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước" [26, tr. 3]. Nghiên
cứu tại Luật Luật sư và Nghị định 87/2003/NĐ-CP cũng cho thấy quan điểm phân
biệt đối xử doanh nghiệp vẫn còn khi quy định tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài tại Việt Nam không được cử luật sư của mình tham gia tố tụng tại Tòa án.
Phân tích về Luật Doanh nghiệp 2005, TS. Vũ Đặng Hải Yến cho rằng, vẫn có bất
bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong việc huy động vốn thông qua phát
hành trái phiếu [94]. Tác giả đề xuất ý kiến cho phép công ty hợp danh được phát
hành trái phiếu vì hiện tại luật pháp quy định công ty này không có quyền phát hành
bất kỳ loại chứng khoán nào. Giải thích cho đề xuất trên đây, tác giả cho rằng:
"Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ loại chứng khoán nào. Có
nghĩa là, so với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty hợp danh có khả năng huy
động vốn thấp hơn rất nhiều" [94, tr. 75]. Công ty cổ phần được pháp luật cho phép
phát hành mọi chứng khoán và chỉ cấm công ty TNHH phát hành cổ phiếu, tức là
trong điều kiện nhất định công ty vẫn có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn.
Công ty hợp danh là loại hình công ty đối nhân, sự thay đổi trong cơ cấu nhân sự sẽ
làm ảnh hưởng đến tính đối nhân của nó, vì thế nó không được phép phát hành cổ
phiếu. Tác giả phân tích, công ty hợp danh có thể huy động vốn bằng cách phát
hành trái phiếu, "bởi trái phiếu chỉ là một chứng chỉ ghi nợ, người mua trái phiếu sẽ
22. 22
trở thành chủ nợ của công ty, không phải là thành viên công ty, do đó việc phát hành
trái phiếu để huy động vốn không làm ảnh hưởng đến tính chất đóng, hạn chế tiếp
nhận thành viên của công ty hợp danh" [94, tr. 76]. Tác giả cũng cho rằng, nhà nước
chỉ cấm các doanh nghiệp hoạt động huy động vốn vay khi hoạt động đó có nguy cơ
xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể khác. Tuy nhiên, với trường hợp
công ty hợp danh được pháp luật quy định có tư cách pháp nhân tức là công ty có
khả năng trả nợ cho chính nó, bên cạnh đó pháp luật lại quy định rằng trong công ty
có những chủ thể khác (cụ thể ở đây là các thành viên hợp danh) trả nợ thay cho
công ty nếu công ty không có khả năng trả nợ. Vì vậy, quyền lợi của người cho vay
được bảo đảm hơn so với các công ty khác chứ không phải có nguy cơ xâm hại.
Trong một nghiên cứu, TS. Nguyễn Chí Thành nhận định: "Tuy khung pháp
lý nhằm tạo dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng đã được xây dựng nhưng việc áp
dụng trên thực tế còn nhiều vấn đề. Các độc quyền nhà nước và những ưu đãi đặc biệt
dành cho DNNN đã làm méo mó sân chơi chung của các doanh nghiệp" [79, tr. 118].
1.2.2. Các công trình đề cập đến thực trạng bất bình đẳng giữa các
doanh nghiệp trong quá trình thực thi pháp luật
Cuốn sách Hoạt động kinh doanh không chính thức và môi trường kinh
doanh ở Việt Nam [75] là công trình nghiên cứu phân tích hoạt động kinh tế không
chính thức và sự bất bình đẳng trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam những
năm 2002- 2003. Trong nghiên cứu này, các tác giả nhận định, có nhiều sự phân
biệt đối xử giữa DNNN với doanh nghiệp dân doanh trong tiếp cận dịch vụ công và
các nguồn lực (vốn, đất đai,...). Cuốn sách có đoạn viết: Hoạt động kinh doanh
không chính thức ở Việt Nam phát triển mạnh một phần vì các doanh nghiệp thuộc
hình thức sở hữu và quy mô khác nhau thường bị đối xử không công bằng (xii). Từ
thực tế khảo sát, các tác giả cho rằng, những thiên kiến có hệ thống tồn tại trong
môi trường kinh doanh càng khiến cho các hoạt động kinh doanh không chính thức
gia tăng nhanh chóng và được các doanh nghiệp sử dụng như một công cụ nhằm
giành lại sự công bằng cho chính mình [75, tr. 89].
Tham luận của TS Nguyễn Minh Phong tại Hội thảo khoa học bàn về đổi
mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu,
có nhận xét:
23. 23
Sự phân định thành phần kinh tế trong suốt thời gian qua đã gây
ra nhiều định kiến xã hội nặng nề và dai dẳng dẫn đến phân biệt đối xử với
các thành phần kinh tế trong cả nhận thức, chính sách, tâm lý và hành động
thực tế, bất lợi cho sự đồng thuận xã hội và phát huy hiệu quả nội lực đất
nước, làm cho những tư tưởng lớn của Đảng coi các thành phần kinh tế
kinh doanh theo pháp luật đều là những bộ phận quan trọng cấu thành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh chưa thực sự đi vào cuộc sống [34, tr. 2].
Tác giả cho rằng, có tồn tại những định kiến về thành phần kinh tế và định
kiến về khu vực kinh tế tư nhân còn nặng nề. Nỗi ám ảnh về "thành phần" làm cho
doanh nghiệp và cả những người thực thi công vụ cũng e dè, ngần ngại mỗi khi phải
giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích của khu vực kinh tế tư nhân" [34, tr. 2].
Cũng tại hội thảo này, TS Nguyễn Kế Tuấn nhận xét:
Trong điều kiện kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng và thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác nhau là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà
nước trong quản lý kinh tế. Tuy nhiên, lâu nay trong thực tế vẫn tồn tại
tình trạng nhà nước phân biệt đối xử với các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế [88, tr. 1].
Đánh giá về tình hình và nguyên nhân của vấn đề này, tác giả nhận định:
"Vẫn tồn tại tình trạng cơ quan quản lý nhà nước và công chức nhà nước phân
biệt đối xử với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, trong
đó doanh nghiệp nhà nước thường giành được nhiều ưu đãi hơn…". Đồng thời,
"Việc nhà nước đang đóng vai trò "kép", vừa là nhà quản lý vĩ mô, vừa là chủ sở
hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước, dù nhiều hay ít vẫn phải dành cho chúng
sự quan tâm riêng" [88, tr. 2]. Tác giả cũng cho rằng, sự không rõ ràng trong nhận
thức sử dụng DNNN như một công cụ vật chất để điều tiết vĩ mô nền kinh tế cũng
tạo ra tâm lý Nhà nước kỳ vọng làm mạnh mẽ hơn công cụ vật chất của mình. Điều
này lại là yếu tố cản trở trực tiếp việc thu hẹp khu vực DNNN vốn dĩ đã bị phát
triển phân tán. Hơn nữa từ đây sẽ không thể triệt xóa được tình trạng Nhà nước
thiên vị đối với doanh nghiệp nhà nước [88, tr. 2].
24. 24
Trong đề tài "Đổi mới quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp
ở Việt Nam theo hướng không phân biệt thành phần kinh tế" nhóm tác giả có nhận
định: "Quản lý nhà nước về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh vẫn chưa khắc
phục được ảnh hưởng của cơ chế cũ đến các loại hình doanh nghiệp". Nghiên cứu
này cũng phản ánh, tính trung bình cho mỗi doanh nghiệp thì số dự án được thuê đất
của khu vực doanh nghiệp dân doanh vẫn thấp hơn nhiều so với DNNN. Ngoài ra,
quyền sử dụng đất và nhiều giá trị vô hình khác của DNNN cho đến nay vẫn chưa
được tính vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, khi DNNN có vốn liên doanh hoặc
cổ phần hóa mới được tính vào giá trị tài sản của doanh nghiệp. Trong khi đó các
doanh nghiệp ngoài nhà nước phải chịu chi phí khá lớn đối với quyền sử dụng đất.
Một trong những nội dung đáng chú ý là: "Tình trạng doanh nghiệp dân doanh phải
thuê lại đất của doanh nghiệp nhà nước là tương đối phổ biến" [11, tr. 62]. Đồng thời,
nhà đầu tư nước ngoài, do không phải là đối tượng được giao đất có thu tiền nên
cũng không thể tham gia vào các hoạt động đấu giá hay đấu thầu này, cũng có nghĩa
đây là sân chơi riêng của DNNN [11, tr. 63].
Trong đề tài "Đánh giá ảnh hưởng qua lại của các hoạt động kinh doanh
không chính thức của các doanh nghiệp khu vực tư nhân và môi trường đầu tư kinh
doanh ở Việt Nam", PGS.TS Nguyễn Đình Tài đã phản ánh sự đa dạng của các hoạt
động kinh doanh không chính thức có thể tạo ra bất BĐGCDN. Tác giả khẳng định,
mặt trái của hoạt động kinh doanh không chính thức là: (i) Tạo ra sân chơi không
bình đẳng; (ii) Cản trở cạnh tranh lành mạnh và (iii) Gây khó khăn cho quản lý nhà
nước. Giải thích cho vấn đề hoạt động kinh doanh không chính thức tạo ra sân chơi
không bình đẳng, tác giả viết: "Nếu như mục đích của pháp luật là tạo ra một sân
chơi bình đẳng, thì các hoạt động kinh doanh không nằm trong khuôn khổ của pháp
luật lại tạo ra những lợi thế cạnh tranh không công bằng cho các doanh nghiệp
không tuân thủ luật pháp và làm sai lệch việc phân bổ nguồn lực" [78, tr. 52]. Tác giả
cũng cho rằng, thực tế là: "Một trong những hoạt động khá phổ biến trong khu vực tư
nhân là thông đồng với cán bộ thuế để bớt thuế, thậm chí tránh thuế. Điều này tạo ra
một lợi thế không chính đáng và dồn những doanh nghiệp nghiêm túc vào cuộc chơi
không bình đẳng [78]. Đồng thời, "bằng cách sử dụng lao động không hợp đồng,
nhiều doanh nghiệp đã tránh được những khoản chi lớn cho bảo hiểm xã hội, bảo
25. 25
hiểm y tế và các khoản chi cho phúc lợi khác cho người lao động" [78, tr. 53]. Điều
đó đã đẩy các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc pháp luật lao động vào tình thế
bất lợi. Những hoạt động kinh doanh không chính thức được đề tài phản ánh thể
hiện dưới nhiều hình thức. Có trường hợp công chức nhà nước tham gia thành lập
doanh nghiệp hoặc tham gia góp vốn vào các công ty TNHH. Những công ty hoạt
động theo hình thức này thường là công ty bạn bè của các công chức, đôi khi cũng
có trường hợp là công ty của họ hàng, hoặc anh em họ hàng với họ. Cũng có trường
hợp các công chức nhà nước làm lá chắn đứng đằng sau các doanh nghiệp, bảo trợ
về uy tín và các mối quan hệ trong việc làm ăn của các doanh nghiệp [78, tr. 34].
Trong một nghiên cứu khác, TS. Đặng Vũ Huân đã cho rằng, "hầu hết các
doanh nghiệp độc quyền ở Việt Nam được hình thành không phải do kết quả của
quá trình tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất, mà là sản phẩm của ý thức
chủ quan thông qua chính sách tập trung hóa sản xuất của nhà nước" [21, tr. 170].
Tác giả cũng nhận định: "Độc quyền nhà nước dẫn đến hậu quả nhiều mặt về kinh
tế, ngăn cản, hạn chế sự cạnh tranh và gia nhập thị trường của các doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế khác" [21, tr. 175]. Cũng cần lưu ý là, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, các hình thức cạnh tranh trở nên rất đa
dạng, nhiều quy định trong Luật Cạnh tranh (2004) tỏ ra lạc hậu, thậm chí chưa bao
quát hết các hành vi cạnh tranh cần can thiệp.
Phản ánh sự phát triển ngày càng tinh vi của tính chất cạnh tranh có thể
vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước, tạo ra bất BĐGCDN, Phó tiến sĩ Afanas'eva
Juliaja Andreevna, trường đại học Kinh tế cao cấp Moscow khuyến cáo: "Nếu như
trong các lĩnh vực truyền thống, tổ chức độc quyền làm tăng lợi nhuận bằng cách
hạn chế mức cung và tăng giá vọt lên thì trên thị trường các công nghệ thông tin, nó
hành xử theo cách khác: đó là mở rộng sản xuất và giảm giá". Điều này được giải
thích là, giá của việc sản xuất (thu nhận) tri thức là rất đắt nhưng chi phí cho việc
sản xuất và phổ biến nó lại rất thấp [2].
Nghiên cứu của TS. Lê Anh Tuấn cũng cho thấy, nền kinh tế xuất hiện
nhiều trường hợp ép buộc trong kinh doanh, bán hàng đa cấp bất chính, phân biệt
đối xử hiệp hội, gièm pha doanh nghiệp khác, xâm phạm bí mật kinh doanh,... Một
26. 26
trong những hành vi phổ biến trong việc ép buộc trong kinh doanh ở Việt Nam hiện
nay là các nhà sản xuất lớn, các công ty tiềm năng thường có hành vi đe dọa cắt đứt
quan hệ đại lý, các cửa hàng bán lẻ nếu cùng một thời điểm nhận là đại lý bán các mặt
hàng cạnh tranh cho các nhà sản xuất khác. Theo hợp đồng (ví dụ đối với các hãng
nước giải khát), các công ty sẽ tài trợ một khoản tiền khá lớn, trang bị biển hiệu, bàn
ghế, lý, cốc,... với điều kiện các của hàng này chỉ được phép bán sản phẩm của họ mà
không được có bất kỳ hình thức quảng cáo hoặc bán sản phẩm cùng loại nào khác.
Nếu vi phạm các cửa hàng phải bồi hoàn toàn bộ số tiền tài trợ. Như vậy, bề ngoài
hợp đồng là tự nguyện, nhưng bên trong lại mang tính áp đặt [90, tr. 119]. Điều đó có
nghĩa, chủ cửa hàng đã tiếp tay cho kiểu độc quyền trong kinh doanh của một số công
ty. Tác giả cho rằng, "nếu lan rộng tình trạng phong tỏa kiểu này các doanh nghiệp nhỏ
khó có cơ hội phát triển. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh dưới dạng ép buộc trong
kinh doanh đối với các đại lý tiềm ẩn nguy cơ các doanh nghiệp nhỏ hoạt động
trong lĩnh vực này sẽ mất thị trường đầy tiềm năng của chính mình" [90, tr. 120].
Cuốn sách "The Private Sector in Development: Khu vực tư nhân trong quá
trình phát triển" của tác giả Michael U.Klein Bita Hadjimichael (may 2003) là một
nghiên cứu khác. Trong sách này, tác giả đã nghiên cứu về những chính sách hỗ trợ
của nhà nước đối với các DNTN. Tác giả cho rằng, trong nhiều trường hợp các đề
án hỗ trợ doanh nghiệp chưa khẳng định được tính hiệu quả của nó. Tuy nhiên, sự hỗ
trợ cho các DNTN vẫn là cần thiết. Ý nghĩa của các đề án hỗ trợ đặc biệt của Nhà
nước đối với công ty tư nhân được xem xét trên nhiều khía cạnh và mức độ. Tác giả
cho rằng, có những đề án hỗ trợ doanh nghiệp mang động cơ chính trị hơn là chỉ
đơn thuần mang lại hiệu quả. Sự hấp dẫn lớn về mặt chính trị của việc cung cấp, hỗ
trợ và miễn thuế thực sự được sử dụng trên khắp thế giới [102, tr. 83]. Thực tế, ở
nhiều nước các doanh nghiệp vừa và nhỏ chịu nhiều bất lợi so với những doanh nghiệp
mạnh hiện đang tồn tại và buộc phải kinh doanh ngầm. Vì vậy, điều quan trọng là
họ phải dựa theo chiều gió chính trị và các cuộc cải cách hỗ trợ tạo môi trường kinh
doanh đặt họ vào sân chơi bình đẳng với các doanh nghiệp khác [102, tr. 83]. Tác
giả cho rằng, không có lý do rõ ràng để nhà nước duy trì hỗ trợ kéo dài đối với doanh
nghiệp tư nhân" [102, tr. 86]. Đồng thời, nguy cơ lớn nhất của các đề án hỗ trợ của nhà
27. 27
nước là người nộp thuế là người chi trả cho các khoản bao cấp đó nhưng bao cấp lại
không được phân phối theo kỷ luật chặt chẽ. Nghiên cứu này của Michael U. Klein
Bita Hadjimichael không lạc quan về hiệu quả của các khoản trợ giúp từ nhà nước
nhưng lại khẳng định sự tồn tại tất yếu của các hình thức trợ giúp của nhà nước. Sự
trợ giúp này nhiều khi xuất phát từ động cơ chính trị chứ không vì thị trường. Tác
giả khuyến cáo các nhà hoạch định chính sách có thể đặt ra mục tiêu, yêu cầu các tổ
chức hỗ trợ công phải đạt được lợi nhuận từ thị trường ở một mức độ hợp lý, qua đó
đảm bảo các khoản bao cấp không bị lạm dụng [102, tr. 86].
Cuốn sách: "From State To Market: A Survey of Empirical Studies on
Privatization" - Từ nhà nước đến thị trường: Khảo sát nghiên cứu kinh nghiệm về tư
nhân hóa" của Will L. Meggison và Jeffry M. Netter luận bàn về thực trạng tư nhân
hóa đang diễn ra tại hơn 100 quốc gia trên thế giới, khẳng định lý do cho sự tồn tại của
các hình thức can thiệp của nhà nước. Sự thất bại của nhà nước cũng cho phép khẳng
định tác động của nhà nước có thể tạo ra sự sai lệch nguyên tắc thị trường, gây bất
BĐGCDN. Các tác giả có viện dẫn lý thuyết về sự can thiệp của Chính phủ trên cơ sở
cho rằng thị trường thất bại ở một khía cạnh nào đó và Chính phủ có thể giải quyết thất
bại thị trường. Chính phủ nhận thấy cần phải điều tiết (hoặc sở hữu) các ngành độc
quyền tự nhiên hoặc các loại độc quyền khác, can thiệp vào trường hợp có ngoại ứng
(như điều tiết ô nhiễm) và giúp cung cấp hàng hóa công cộng (quốc phòng, giáo
dục,..) [108, tr. 10]. Lập luận về sự can thiệp của Chính phủ trở nên phức tạp hơn
khi đề cập đến vấn đề phân phối. Có quan điểm (Bring 1961) lập luận vai trò
Chính phủ hoạt động như là "phúc lợi xã hội" sử dụng sự can thiệp của nhà nước
trong nền KTTT để thay đổi các hành vi trên thị trường. Vì thế lập luận về sở hữu
hay kiểm soát nhà nước là dựa trên thất bại thị trường hay nhận thức về thất bại thị
trường. Đến lượt mình, tư nhân hóa lại là cách ứng phó với thất bại của sở hữu nhà
nước [108, tr. 10]. Điều đó cho thấy, cả thị trường và nhà nước đều có thể làm cho
thị trường được cạnh tranh bình đẳng và hiệu quả nhưng cũng chính nhà nước và thị
trường có thể là nguyên nhân làm thất bại tính hiệu quả đó.
Cuốn sách "Law Reform in Developing and Transitional States: Cải cách pháp
luật ở các quốc gia đang phát triển và quá độ" của Tim Lindsey là công trình nghiên
28. 28
cứu đề cập vấn đề cạnh tranh ở Indonesia. Trong sách này, tác giả đã phân tích những
khó khăn trong quá trình áp dụng Luật Cạnh tranh (Luật số 5 năm 1999) Indonesia.
Cuốn sách phản ánh tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng giữa các doanh nghiệp
trong thời đại Trật tự mới của Tổng thống Suharto và gia đình ông, đồng thời ghi
nhận những cải cách thông qua việc ban hành Luật số 5. Tác giả cuốn sách trích dẫn
một số quan điểm đánh giá ưu điểm và hạn chế của Luật. Theo đó, sách đã viện dẫn
triết lý của nhà tư tưởng Pancasila cho rằng, Luật này dựa trên nguyên tắc dân chủ
kinh tế mà Điều 33, Hiến pháp 1945 đã ghi nhận. Nguyên tắc này nhằm tìm kiếm sự
cân bằng giữa lợi ích chung và lợi ích doanh nghiệp (Điều 2) qua sự ủng hộ của
"cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, từ đó bảo đảm cơ hội kinh doanh
công bằng cho các doanh nghiệp quy mô lớn, vừa và nhỏ (Điều 3)" [106, tr. 300].
Tuy nhiên, theo Fox, chuyên gia tư vấn cho dự thảo Luật số 5 thì Luật này bao gồm
các nguyên tắc công bằng về cơ hội, bình đẳng, đối xử công bằng và mức độ lợi thế
được quy định không rõ ràng, có thể làm cho quá trình vận dụng và áp dụng luật này
theo nhiều cách khác nhau, ông nói: "Ngôn ngữ trong luật Cạnh tranh của Indonesia
giống như con kỳ nhông…" [106, tr. 300]. Trong khi hệ thống doanh nghiệp có xu
hướng loại bỏ sự lạm dụng quyền lực của nhà nước thì sự nhập nhằng tối nghĩa
trong Luật Cạnh tranh đã tạo điều kiện làm lợi cho các công chức nhà nước, những
người luôn có xu hướng phân biệt đối xử, thiên vị doanh nghiệp thân cận của họ và
được tự do làm như vậy mà không cần giải trình…[106, tr. 300]. Cuốn sách cũng
cho thấy, Luật Cạnh tranh của Indonesia là một sản phẩm mang tính bản địa cao,
phản ánh khía cạnh chính trị của các hoạt động cạnh tranh trong khu vực, với ngôn
ngữ không rõ ràng, có quá nhiều quy định miễn trừ nhưng lại thiếu quy định về
trách nhiệm của cán bộ, công chức, có thể ảnh hưởng đến quá trình thực thi pháp luật,
khó có thể bảo đảm BĐGCDN. Thực tế, Ủy ban Giám sát đã được thành lập để thực
hiện chức năng hướng dẫn thi hành Luật, nhưng không có quy định nào cho thấy có
sự độc lập giữa Ủy ban này với Chính phủ hay văn hóa kinh doanh của thời Trật tự
mới (văn hóa tham nhũng, cấu kết, thân hữu chủ nghĩa).
Hiệp ước về hoạt động của Liên minh Châu Âu (EU): Là văn bản bao gồm
các quy định áp dụng chung cho các doanh nghiệp ở EU có nhiều điều khoản quy định
29. 29
về bảo đảm sự BĐGCDN. Trong Điều 345 Hiệp ước về Hoạt động của EU (TFEU)
quy định về nguyên tắc trung lập, bình đẳng giữa doanh nghiệp công với DNTN
trong thị trường chung EU. Theo đó, các quốc gia thuộc EU không thiên vị đối với sở
hữu công ty công hay tư mà phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các công ty. Điều này đòi
hỏi các nước thành viên phải quy định bình đẳng trong mua sắm công; thu nhập; quy
định về minh bạch, chính sách cạnh tranh (chống độc quyền, sáp nhập, trợ cấp nhà
nước). Hiệp ước được xây dựng trên nguyên tắc đối xử BĐGCDN công và tư, duy trì
thị trường nội địa EU có lợi cho khách hàng, đồng thời tôn trọng truyền thống của
các nước và cho phép các quốc gia thành viên tự quyết định giữ lại sở hữu ở các ngành
công nghiệp nhà nước với mức độ nhất định (ví dụ: Bưu chính viễn thông, giao thông
vận tải, năng lượng,...). Nguyên tắc đối xử bình đẳng được quy định tại Điều 106
TFEU. Khoản 1 Điều 106 TFEU quy định: "Toàn bộ nghĩa vụ trong Hiệp ước được
áp dụng chung đối với công ty nhà nước và công ty tư nhân được quốc gia thành
viên trao quyền đặc biệt và độc quyền". Quy định này nhằm đặt trọng tâm vào việc
tuân thủ quy tắc cạnh tranh, chống độc quyền và trợ cấp nhà nước, phù hợp với
nguyên tắc của Hiệp ước EU. Nghĩa vụ của công ty và quốc gia thành viên là không
sử dụng biện pháp ưu đãi đối với công ty công hay tư, không tồn tại quyền lợi đặc
biệt và độc quyền. Hiệp ước EU cũng quy định một số ngoại lệ, công nhận rằng, vì
lợi ích chung của quốc gia có thể có một số phân biệt nhất định và không áp dụng
quy tắc cạnh tranh. Quan điểm thể hiện trong Hiệp ước là, các tổ chức kinh tế được
giao nhiệm vụ thực hiện dịch vụ vì lợi ích kinh tế chung phải tuân thủ các quy tắc
nêu trong Hiệp ước này, trừ khi những quy tắc đó gây cản trở hoạt động thực hiện
nhiệm vụ cụ thể mà họ được giao. Việc phát triển thương mại không được phép ảnh
hưởng tới mức đi ngược lại lợi ích cộng đồng (Khoản 2 Điều 106 của TFEU).
Trong bối cảnh các công ty EU cho rằng, công ty ở các nước thứ ba được
tiếp cận đầy đủ với thị trường EU, trong khi thị trường ở các nước này vẫn đóng cửa
với họ bởi sự miễn trừ hoặc việc áp dụng mang tính phân biệt đối xử các quy tắc
cạnh tranh đòi hỏi chính sách của EU cần phải thay đổi phù hợp hơn. Theo đó quy
định về cạnh tranh của EU phải được áp dụng một cách không phân biệt về hình
thức sở hữu, về quốc tịch và thống nhất áp dụng các quy định "vì lợi ích chung",
được miễn trừ theo Điều 106 (2). Khi thực hiện miễn trừ quá mức khỏi bị áp dụng
30. 30
quy tắc cạnh tranh sẽ làm sai lệch sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Vì thế,
Khoản 2 Điều 106 cũng minh bạch hóa 3 điều kiện được hưởng ngoại lệ, được miễn
trừ: (1) Công ty phải phụ trách việc "thực hiện một nhiệm vụ vì lợi ích kinh tế
chung" (SGEL); Trong thực tế, quốc gia thành viên có nhiều cách để xác định phạm
vi SGEL; (2) Quan hệ nhân quả: Việc áp dụng Hiệp ước không gây cản trở cho hoạt
động thực hiện nhiệm vụ được giao; Việc hạn chế cạnh tranh là cần thiết để thực
hiện SGEL; (3) Tính tương xứng: "Thương mại không được phép bị ảnh hưởng để
đi ngược lại lợi ích EU"; Không còn sự lựa chọn nào ít hạn chế hơn. Các quy định
từ Hiệp ước này đã tạo ra những gợi ý quan trọng cho việc xây dựng các quy định
đảm bảo cân bằng giữa lợi ích công cộng và lợi ích cạnh tranh, thực hiện miễn trừ
trong từng trường hợp cụ thể, đảm bảo sự BĐGCDN.
1.2.3. Các quan điểm khẳng định lý do phải bảo đảm bảo môi trường
cạnh tranh bình đẳng
Trong kinh tế học, "hiệu quả" là một trong những khái niệm trung tâm. Hiệu quả
mang hàm ý tích cực được sử dụng làm tiêu chuẩn đánh giá hoạt động của một
doanh nghiệp hoặc của toàn bộ nền kinh tế. Có thể có nhiều quan điểm khác nhau,
nhưng hầu hết các học thuyết kinh tế nghiên cứu về KTTT đều thừa nhận cạnh tranh
là động lực phát triển kinh tế trong mỗi tổ chức cũng như trong toàn hệ thống kinh
tế. Các lý thuyết của Jean Robinson về cạnh tranh không hoàn hảo hay lý thuyết
cạnh tranh và độc quyền của Edward Chambelin năm 1933 tiếp tục làm rõ hơn
những khẳng định của Adam Smith về cạnh tranh hoàn hảo. Các nhà kinh tế học từ
nhiều trường phái kinh tế đều thừa nhận độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh
sẽ tạo ra sự sắp xếp lại trật tự trên thị trường, làm giảm hiệu quả xã hội. Các lý
thuyết đó đều dẫn đến những nhận định về yêu cầu cần phải chống độc quyền và
duy trì cạnh tranh lành mạnh [9].
1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ CẬP GIẢI PHÁP BẢO
ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP
Từ những nghiên cứu, đánh giá khác nhau về tính chất, phạm vi và mức độ
bất BĐGCDN, một số công trình nghiên cứu có đưa ra giải pháp nhằm giải quyết
những khía cạnh nhất định của quyền BĐGCDN.
31. 31
Trong một nghiên cứu của mình, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng, để
hướng đến việc xóa bỏ sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, cần phải tổ chức
thực hiện có hiệu quả Luật doanh nghiệp chung điều chỉnh hoạt động các doanh
nghiệp trong nước, khắc phục sự phân biệt, mặc cảm về thiếu bình đẳng trong các
thành phần kinh tế [34, tr. 13], đồng thời "thu hẹp dần các lĩnh vực độc quyền nhà
nước và các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước" [34, tr. 14].
Đề tài "Đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp không phân
biệt thành phần kinh tế" của TS. Trần Tiến Cường lựa chọn ba nhóm giải pháp mang
tính định hướng, là: (i) Giải pháp đổi mới quản lý nhà nước liên quan đến khung
pháp luật; (ii) Các giải pháp về đổi mới quản lý nhà nước liên quan đến tách bạch quản
lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với công ty nhà nước; và (iii) Các giải pháp
liên quan đến tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp.
Tiến sĩ Đặng Vũ Huân sau khi nhận định về thực trạng pháp luật điều chỉnh
vấn đề cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam, cho rằng: "Pháp luật về kiểm soát độc
quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh phải tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thực
hiện nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, trung thực, công bằng giữa các chủ
thể kinh doanh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng" [22, tr. 42].
Trong nghiên cứu của mình, TS Nguyễn Đình Tài đưa ra hai nhóm giải pháp để hạn
chế các hoạt động kinh doanh không chính thức, bao gồm:
- Giải pháp về pháp lý: Nhằm làm cho pháp luật trở nên hợp lý hơn thông qua
minh bạch hóa các chính sách pháp luật, đẩy nhanh cải cách hành chính, tăng cường
năng lực thực thi pháp luật và năng lực hành chính, sử dụng cơ chế gián tiếp để thực
thi pháp luật và tăng cường trợ giúp, giám sát doanh nghiệp và chế tài xử lý vi phạm.
- Giải pháp thực tiễn nhằm vào: Cải cách DNNN để tạo sân chơi bình đẳng,
giải quyết về cơ chế tài chính, đất đai theo hướng tăng cường khả năng tiếp cận bình
đẳng và tập trung phát triển các thị trường nhân tố chính thức [77].
Trong bài "Beyond individual success stories: Promoting entrepreneurship
though institutinal reform: Bên cạnh những thành công của các doanh nhân: nhằm
thúc đẩy kinh doanh thông qua cải cách thể chế", Tiến sĩ Alek sandr Shkolnikov,
Giám đốc Chương trình cải cách chính sách của Trung tâm DNTN quốc tế (CIPE)
32. 32
đã phản ánh một kinh nghiệm chống tham nhũng, ngăn chặn bất bình đẳng doanh
nghiệp. Tác giả nêu: "Tại Nga, các hiệp hội ngành nghề đi đầu trong việc chống tham
nhũng khi những tham nhũng này được chứng minh là một trong những rào cản
chính trong việc khởi nghiệp và cạnh tranh bình đẳng" [95]. Các hiệp hội này đang
tự trang bị cho các doanh nghiệp nhỏ để chống lại sự moi tiền của các quan chức
công và đang tranh thủ đường dây nóng và các luật sư góp sức giải quyết các vụ
việc gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp khi các công ty thực hiện các
hành vi một cách bất hợp pháp như cạnh tranh không công bằng hoặc các công chức
Chính phủ tham nhũng. Tác giả cho biết thêm, hiệp hội ở Nga đang nỗ lực kiến nghị
thay đổi luật và quy định để đảm bảo rằng các đạo luật và những quy định này
thống nhất hơn và công bằng hơn - ví dụ như bảo vệ quyền của các doanh nghiệp
nhỏ tham gia đấu thầu, hoặc đảm bảo cho các cơ quan, các bang địa phương đưa ra
các khoản vay đúng quy định. Làm như vậy, các hiệp hội ở nước này không chỉ
thúc đẩy môi trường kinh doanh mà còn phải mở nhiều cuộc đàm thoại mang tính
dân chủ với Chính phủ và nắm vững các quan chức có trách nhiệm liên quan [95].
Trong cuốn sách "Cải cách doanh nghiệp công trong các nền kinh tế chuyển
đổi: Corporate Governance of Public Enterprises in Transitional Economies", tác giả
Dominiquer Pannier cho rằng, để doanh nghiệp công (DNNN) có thể cạnh tranh, cải
cách, đòi hỏi hàng loạt chính sách của nhà nước phải thay đổi. Theo đó, cạnh tranh
có thể được thúc đẩy bằng việc loại bỏ cơ chế kiểm soát giá và hàng rào gia nhập,
tự do hóa ngoại thương, bãi bỏ các quy định không cần thiết và phá vỡ cấu trúc độc
quyền [98, tr. 4]. Tác giả cũng cho rằng, cải cách DNNN bao gồm các biện pháp
"nội bộ" và "bên ngoài". Các biện pháp bên ngoài tác động đến sự hoàn thiện của
quản trị DNNN ngoài thúc đẩy cạnh tranh còn bao gồm việc tư nhân hóa và thắt
chặt ngân sách. Bên cạnh đó, bằng cách tư nhân hóa các DNNN, nền kinh tế sẽ
hưởng lợi theo nhiều cách khác nhau: giảm ảnh hưởng của chính trị đối với quản lý
doanh nghiệp, chuyển rủi ro sang cho các chủ sở hữu tư nhân, mang lại động lực
mạnh mẽ để tăng hiệu quả, giảm lãng phí.
Trong bài "Competition, Corporate Governance, and Regulation in Central
Asia: Cạnh tranh, Quản trị doanh nghiệp và điều tiết tại Trung Á'', Harry G. Broadman
đã đề cập đến chương trình chính sách của Chính phủ Uzbekistan về cải cách cơ cấu
33. 33
để cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy cạnh tranh. Harry G. Broadman khuyến
cáo, nhiều bất cập về cơ cấu của Uzbekistan cũng tồn tại phổ biến ở các nước cộng hòa
Trung Á khác. Chính vì thế, những phân tích và đề xuất chính sách trong tài liệu
này cũng có thể áp dụng ra bên ngoài Uzbekistan. Tác giả chỉ ra rằng, vấn đề chống
độc quyền cần phải giao cho Ủy ban chống độc quyền (AMC), mục tiêu trọng tâm
của chương trình cải cách cạnh tranh và điều tiết do AMC thực hiện là phát triển các
loại hình doanh nghiệp và môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế; điều tiết các
hoạt động của các doanh nghiệp độc quyền; ngăn chặn sự thao túng của các công ty
chiếm vị trí thống lĩnh trên thị trường; áp dụng chế tài đối với các công ty cạnh tranh
không lành mạnh; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong nghiên cứu này cũng cho
thấy, để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp độc quyền cũng cần đăng
ký độc quyền. Ngoài ra, những công ty độc quyền có đăng ký một khi đã thỏa thuận
và đi đến thống nhất với nhà cung cấp đầu vào và người tiêu thụ đầu ra về khối
lượng hàng hóa, thời gian giao hàng và các điều khoản khác (như giá cả) thì phải
đăng ký các điều khoản giao dịch này cùng với lợi nhuận dự kiến với AMC. Trong
một số trường hợp, điển hình là độc quyền về cơ sở hạ tầng (công trình công ích),
AMC trực tiếp quyết định giá cả và lợi nhuận. Bên cạnh đăng ký độc quyền, cán bộ
quản lý cao cấp của AMC nhận thấy rằng, nếu chỉ dựa vào việc kiểm soát giá cả và
lợi nhuận thì sẽ không mang lại hiệu quả và cũng không phải là cách tốt để thúc đẩy
cạnh tranh trong các khu vực thương mại, và chỉ tạo ra sự phân bổ nguồn lực kém
hiệu quả trong nền kinh tế. Theo đó, trong các biện pháp chiến lược chính để nâng
cao hiệu quả hoạt động của AMC, Ủy ban này đã đặt ra mục tiêu là chuyển sang
một hệ thống giám sát vào cuối năm 2000. Cũng trong nghiên cứu này, tác giả chỉ
ra rằng, để cải thiện môi trường cạnh tranh phải xác định phạm vi thị trường kinh tế
một cách có cơ sở, không áp đặt. Khi xác định đúng công ty độc quyền, AMC cần
xây dựng các kế hoạch "phi độc quyền hóa", hoàn thiện pháp luật cạnh tranh và giáo
dục cộng đồng về lợi ích của cạnh tranh đối với việc phát triển kinh tế. Thúc đẩy sự
tham gia giám sát, kiểm tra, khiếu nại của khách hàng về vi phạm kinh doanh, tham
nhũng và sự thiếu hiệu quả trong các chương trình của Chính phủ [99, tr. 5].
Trong tài liệu của OECD nghiên cứu về "Cải cách doanh nghiệp nhà nước
ở các nước OECD: State - Owned Enterprise Governance Reformento" [103] đề cập
34. 34
đến khuôn khổ pháp lý và điều tiết đối với DNNN ở các nước OECD. Tài liệu này
đã viện dẫn đến các đạo luật của Phần Lan, Hàn Quốc, Mêxicô, Thụy Sĩ và Pháp
hướng tới cải cách mạnh mẽ đối với DNNN. Điều này không chỉ đơn thuần nhằm
mang lại hiệu quả cho DNNN mà quan trọng hơn là cần phải xây dựng các quy tắc
ứng xử để DNNN tuân thủ các kỷ luật của thị trường. Vì thế, nội dung của các đạo
luật đều quy định tách bạch chức năng của chủ sở hữu với chức năng của nhà quản
lý, xóa bỏ những can thiệp, bảo trợ của nhà nước đối với DNNN và gắn hoạt động
quản trị doanh nghiệp với trách nhiệm giải trình. Điều đó cũng đồng thời tạo ra
những tác động nhất định đến việc tạo vị thế bình đẳng hơn giữa DNNN với doanh
nghiệp của tư nhân.
Trong bài Good Practice for Effective Boards in SOES in Sweden: Kinh nghiệm
hay dành cho Hội đồng quản trị hiệu quả ở doanh nghiệp nhà nước tại Thụy Điển"
của Lars Johan Cederlund là sự tiếp nối về vấn đề cải cách DNNN. Tác giả đã đề
cập tình hình cải cách DNNN ở Thụy Điển, trên cơ sở nghiên cứu tình huống về
quản trị doanh nghiệp. Tác giả viết: "Cải cách ở Thụy Điển có nguồn gốc từ sự phi
quy chế hóa nhiều khu vực cơ sở hạ tầng bắt đầu vào thập niên 1980, dẫn đến áp lực
chính trị gia tăng đòi hỏi có một sân chơi bình đẳng hơn và một sự cạnh tranh bình
đẳng hơn cho các công ty tư nhân tham gia vào khu vực mới mở cửa này". Chính phủ
Thụy Điển đã thực hiện đổi mới DNNN. Tuy nhiên, vấn đề cải cách DNNN cũng
được cho rằng có nhiều thách thức. Trong nghiên cứu này, Lars Johan Cederlund đã
phân tích những khó khăn và lựa chọn giải pháp để tiến hành cải cách DNNN ở
Thụy Điển trên cơ sở đánh giá tác dụng của các giải pháp đó. Tuy không luận giải
về bình đẳng doanh nghiệp nhưng các giải pháp cải cách DNNN trong nghiên cứu
này có thể làm cho tiến trình cải cách DNNN triển khai hiệu quả hơn. Cải cách
DNNN để đặt doanh nghiệp này vào môi trường cạnh tranh với tư nhân trong những
điều kiện thống nhất sẽ góp phần đảm bảo quyền BĐGCDN.
Trong "OECD Corporate Govermance Working Papers, No. 1: Tài liệu công
tác về Quản trị doanh nghiệp OECD số 1", bàn về "Cạnh tranh bình đẳng và DNNN:
Thách thức và lựa chọn chính sách", Capobianco, A. và H. Christiansen đã đề cập
những quan ngại về cạnh tranh bình đẳng phát sinh từ việc các DNNN gia nhập thị
trường ở các nước chưa thực hiện đầy đủ quá trình cổ phần hóa. Để giải quyết vấn đề
35. 35
này OECD đã thiết lập khuôn khổ cạnh tranh bình đẳng giữa DNNN với DNTN. Những
khung khổ này không chỉ giải quyết những hành vi phản cạnh tranh của DNNN mà
còn tạo ra cơ chế xác định và loại trừ các lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp
này, bao gồm các giải pháp về thuế, chi phí tài trợ và bình đẳng về pháp luật.
1.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC CÔNG TRÌNH
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.4.1. Những vấn đề đã được làm rõ và tác giả luận án tiếp tục kế thừa
Thứ nhất, có sự khác nhau trong quan điểm nhận định về quyền BĐGCDN.
Thứ hai, có nhiều hình thức bất BĐGCDN ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Thứ ba, cạnh tranh bình đẳng là cơ sở để đánh giá đúng năng lực hoạt động
của doanh nghiệp và tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển. Đảm bảo quyền
BĐGCDN là nguyên tắc của nền KTTT.
Thứ tư, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường nhằm giải quyết những
thất bại của thị trường là cần thiết, nhưng sự can thiệp thông qua chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp thường tạo ra bất BĐGCDN.
Thứ năm, cần phải đẩy mạnh cải cách DNNN, xóa bỏ những ưu tiên, đặc
quyền đối với DNNN, trả lại môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Thứ sáu, các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài đều thừa
nhận có mối quan hệ giữa tham nhũng với phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp.
Thứ bảy, các công trình nghiên cứu cũng cho rằng cần có sự ưu tiên và
miễn trừ cho doanh nghiệp trong những trường hợp nhất định vì lợi ích quốc gia.
1.4.2. Những vấn đề các công trình nghiên cứu còn để ngỏ
Thứ nhất, hầu hết các công trình nghiên cứu trên đây chỉ bàn đến việc giải
quyết bất bình đẳng giữa DNNN với DNTN, giữa doanh nghiệp trong nước với
doanh nghiệp FDI. Trong trường hợp đó, các công trình đã không giải quyết triệt để
vấn đề bất BĐGCDN độc lập. Thực tế vẫn có thể có bất BĐGCDN trong cùng một
hình thức sở hữu hoặc giữa các doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp FDI với
nhau. Rõ ràng, giải quyết bất bình đẳng giữa các nhóm doanh nghiệp là không thể
36. 36
hiện đầy đủ yêu cầu của quyền BĐGCDN trên thực tế. Bình đẳng doanh nghiệp cần
được đặt ra giữa các doanh nghiệp độc lập, tức là bất cứ doanh nghiệp nào cũng có
quyền được đối xử bình đẳng trong mọi quan hệ mà nó tham gia.
Thứ hai, hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ phản ánh những phạm vi
nhất định là một phần của thực trạng bất BĐGCDN (như sự hỗ trợ của nhà nước
cho DNNN, bất bình đẳng trong thành lập doanh nghiệp, tham nhũng, hối lộ, cạnh
tranh không lành mạnh,..). Do đó, chưa đem lại cách nhìn toàn diện, đúng với bản
chất của vấn đề bất BĐGCDN đang hiện hữu.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu thiên về phản ánh thực trạng mà không
phân tích làm rõ nguyên nhân sâu xa tạo ra bất BĐGCDN, nguyên nhân nào tạo ra
các quy định còn phân biệt đối xử.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu chưa đề cập trực tiếp đến những hệ quả
mà tình trạng bất bình đẳng đem lại cho nền kinh tế, xã hội để cho thấy sự cần thiết
phải giải quyết, bảo đảm quyền BĐGCDN.
Thứ năm, chưa có công trình nào làm rõ bản chất, khái niệm, đặc điểm và
tiêu chí đánh giá về BĐGCDN và quyền BĐGCDN.
Thứ sáu, các công trình nghiên cứu chưa đưa ra được giải pháp toàn diện
cho vấn đề bảo đảm quyền BĐGCDN.
Từ những vấn đề còn bỏ ngỏ trên đây, tác giả luận án sẽ nghiên cứu triển
khai làm rõ các phần thuộc nội dung luận án.
1.4.3. Những nội dung luận án tiếp tục giải quyết
Một là, làm rõ bản chất và quan niệm về bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Những công trình nghiên cứu trên đây chưa có quan điểm nào đề cập đến
khái niệm, bản chất của BĐGCDN và quyền BĐGCDN. Dựa trên những kết quả
nghiên cứu trên đây, tác giả luận án xây dựng những lập luận và đưa ra quan điểm
của mình. Theo đó, BĐGCDN phải được hiểu là bình đẳng trong suốt chu trình
sống của doanh nghiệp, từ khi doanh nghiệp sinh ra, đi vào kinh doanh và rút lui
khỏi thị trường. BĐGCDN là bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ giữa từng doanh
nghiệp độc lập chứ không phải chỉ giữa nhóm các doanh nghiệp.
37. 37
Hai là, về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Trong các công trình nghiên cứu trên đây, vấn đề quyền BĐGCDN chỉ
được đề cập gián tiếp. Các nghiên cứu chưa đi sâu vào khía cạnh quyền của một tổ
chức có tư cách doanh nghiệp và gắn quyền đó vào yêu cầu được đối xử bình đẳng.
Quyền được đối xử bình đẳng phải do pháp luật quy định và bảo vệ. Quyền này
cũng phải được xây dựng dựa trên những căn cứ khoa học xác đáng. Nghiên cứu
làm rõ bản chất quyền BĐGCDN là điều cần thiết để giải thích cho việc tại sao
doanh nghiệp lại có các quyền như đã quy định trong luật chứ không dừng lại ở việc
liệt kê các quyền của doanh nghiệp.
Ba là, vai trò của pháp luật đối với quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Trên cơ sở nghiên cứu vai trò của pháp luật nói chung, luận án sẽ tiếp cận
nghiên cứu, làm rõ vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền BĐGCDN ở
những nội dung cơ bản.
Bốn là, luận án tiếp tục giải quyết những nội dung mà chưa có công trình
nào nghiên cứu.
Nội dung, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền BĐGCDN và những yếu tố chi
phối quyền BĐGCDN.
Năm là, luận án nghiên cứu, đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật và quá
trình thực thi các quy định pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay.
Đánh giá thực trạng để trả lời câu hỏi, liệu có hiện tượng bất BĐGCDN trên
thực tế có hay không là vấn đề trọng tâm để khẳng định nghiên cứu này có cần thiết
đặt ra hay không. Vì thế, để đảm bảo sự khách quan, tác giả sẽ nghiên cứu và đánh
giá về hệ thống pháp luật và quá trình thực thi pháp luật trên cả hai khía cạnh, mặt
tích cực và mặt hạn chế.
Sáu là, những nguyên nhân gây ra bất bình đẳng doanh nghiệp ở Việt Nam.
Dựa trên nghiên cứu tổng quan, luận án khái quát hóa các nguyên nhân cơ
bản gây ra bất BĐGCDN gồm:
- Do các quy định pháp luật còn chứa đựng nội dung bất bình đẳng doanh nghiệp.
38. 38
- Do năng lực trình độ và đạo đức công vụ (quan liêu, tham nhũng, yếu kém
năng lực quản lý của cán bộ, công chức nhà nước).
- Tình trạng thiếu cán bộ quản lý và cơ quan quản lý chưa kiện toàn.
- Bản thân các doanh nghiệp chưa tích cực xây dựng văn hóa doanh nghiệp
và huy động cộng đồng xã hội tham gia vào bảo vệ pháp luật về quyền BĐGCDN.
Bảy là, hệ quả tiêu cực của việc vi phạm quyền bình đẳng doanh nghiệp.
Các công trình nghiên cứu trên đây cũng đặt ra những vấn đề mang tính gợi
mở nhưng chưa có đánh giá trực tiếp những hệ quả của của tình trạng bất BĐGCDN.
Trong luận án này, tác giả sẽ phân tích, đánh giá những tác động và hệ quả của việc
phân biệt đối xử, bất BĐGCDN đối với doanh nghiệp, đối với nền kinh tế và với
công tác đối ngoại.
Tám là, giải pháp xây dựng và thực hiện pháp luật bảo đảm quyền bình
đẳng doanh nghiệp.
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, đánh giá đầy đủ nguyên nhân của thực
trạng, luận án sẽ đưa ra những phương hướng phù hợp với chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước và xây dựng các giải pháp để giải quyết đúng các nguyên
nhân được xác định, tạo cơ sở cho việc bảo đảm quyền BĐGCDN trên thực tế.
39. 39
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP
2.1. QUAN NIỆM VỀ BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP
2.1.1. Quan niệm về bình đẳng
Lịch sử phát triển nhân loại đã ghi nhận, bình đẳng là khái niệm được hình
thành từ xã hội. Bình đẳng là kết quả đấu tranh với cái bất bình đẳng mà có. Bản
chất của bình đẳng có thể được làm rõ từ những luận giải về nguyên nhân hình
thành và cơ sở tồn tại của bất bình đẳng. Có nhiều quan điểm khác nhau về sự hình
thành và cơ sở tồn tại của bất bình đẳng. Các nhà tư tưởng chính trị phương Tây đã
từng phủ nhận sự tồn tại của bình đẳng khi cho rằng, một số bất bình đẳng đến như
là kết quả không thể né tránh về bất bình đẳng sinh học của kỹ năng, thể chất, khả
năng tinh thần và những khía cạnh của nhân cách [100]. Nhà triết học Hy Lạp cổ
đại Aristote cũng từng thừa nhận có những khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân và
thực tế vẫn còn tồn tại những khác biệt trong kiểu phân chia giới như là kết quả
không thể tránh được của bất bình đẳng. Cùng quan điểm với Aristote còn có Platon
và Hobbes và ngay cả hiện nay vẫn còn tồn tại. Steven Goldberg viết: "Sự thống trị
và sự thành đạt cao của nam giới là khả năng không thể đảo ngược bởi có sự khác
biệt về sinh học giữa nam và nữ" [105, tr. 133]. Tuy nhiên, Rousseau lại khẳng định:
"Nguồn gốc của bất bình đẳng xã hội là quyền tư hữu tài sản. Bất bình đẳng xã hội
khác với bất bình đẳng tự nhiên. Con người đã tạo ra bất bình đẳng xã hội thì con
người cũng có thể xóa bỏ nó đi" [24, tr. 16-17].
Không coi trọng yếu tố sinh học của cá nhân hay yếu tố sở hữu, C. Mác dựa
trên các học thuyết kinh tế mà ông coi là nền tảng tư tưởng của cơ cấu giai cấp. Theo
đó, những lợi ích kinh tế, chính trị, ý kiến xã hội đều bắt nguồn từ kết cấu giai cấp.
Cùng với những nhận định khách quan về nguyên nhân hình thành và cơ sở tồn tại của
bất bình đẳng xã hội trong các nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản,
C. Mác đã phân tích, làm rõ bản chất của bình đẳng. Tuy nhiên, lý thuyết chủ nghĩa
Mác bảo vệ lợi ích cho giai cấp vô sản, mang tính giai cấp nên nó luôn là đối tượng phê
40. 40
phán của các nhà tư tưởng tư sản. Để bảo vệ học thuyết của Mác khi học thuyết này bị
xuyên tạc, Ph.Ăngghen và sau đó là Lênin, Stalin đã nhiều lần đưa ra quan điểm phản
bác lại các nhà tiểu tư sản. Staline viết: "Những nhà tư sản vui lòng quan niệm chủ
nghĩa xã hội mác-xít như một trại lính cổ của Nga Hoàng, trong đó tất cả phụ thuộc vào
nguyên tắc bình quân, nhưng những người mác-xít không thể chịu trách nhiệm về sự
dốt nát và ngu xuẩn của những nhà văn sĩ tư sản" [35, tr. 35]. Stalin hoàn toàn phủ
nhận chủ nghĩa bình quân, cào bằng trong quan niệm bình đẳng và cho đó là quan niệm
sai lầm khi: ''người ta đã thấy, trong một xưởng máy, một số ít nhiều thợ thuyền chuyên
môn hay không chuyên môn xướng xuất ra việc thu tất cả tiền công từng người rồi lại
phân phát đều ra cho mỗi người một phần bằng nhau" [35, tr. 24]. Ông phát biểu: ''Có
người tưởng rằng theo xã hội chủ nghĩa thì phải bình đẳng, bình quyền, phải san nhu
cầu và đời riêng mọi người trong xã hội cho bằng nhau, không cần phải nói, giả thuyết
ấy không giống học thuyết Mác và Lênin ở một chỗ nào cả" [35, tr. 24]. Đối với học
thuyết Mác, bình đẳng không phải nghĩa là giống hệt nhau về nhu cầu và đời sống,
mà là thanh toán những giai cấp [30].
C.Mác đã từng phê phán Cương lĩnh Gô-ta của Đảng xã hội dân chủ Đức
năm 1875 và vạch rõ những sai lầm trong yêu sách bình đẳng thô sơ của chương
trình này khi họ coi: ''Công việc làm chỉ có lợi ở trong khuôn khổ xã hội và do xã
hội mà ra, vì thế vật phẩm sản xuất ra, tổng số phải thuộc về toàn thể mọi người,
mỗi người có quyền hưởng một phần bằng nhau". C.Mác cho rằng: "Quyền của người
sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người ấy cung cấp; sự ngang nhau là ở chỗ người
ta đo bằng một thước đo như nhau, tức là bằng lao động" [30]. Bình đẳng chỉ là chỗ
dùng công lao làm đơn vị chung để đo lường. C. Mác cho rằng, khi chưa đạt đến
trình độ phát triển cao của chủ nghĩa cộng sản sẽ không thể phân phối theo nhu cầu
và như vậy sẽ có những thiếu sót không thể tránh khỏi trong mục tiêu bảo đảm sự
bình đẳng trong xã hội khi phân phối theo lao động [12, tr. 36]. Cũng theo ông,
"Mặc dầu có sự tiến bộ ấy, cái quyền ngang nhau đó bao giờ cũng vẫn còn bị giới
hạn trong khuôn khổ tư sản." [30, tr. 34-35]. Trong thực tế, sự bình đẳng này vẫn
nằm trong "khuôn khổ tư sản", "quyền tư sản", nghĩa là còn chưa đạt được sự ngang
nhau, vẫn tạo ra sự phân hóa xã hội nhất định. Về phương pháp để giải quyết các
quan hệ phân phối hướng tới bình đẳng, Mác nhận định, con người ta, về sức vóc,