TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
Tìm hiểu về khái niệm Biểu tượng và Biểu tượng Xã hội - download file tại http://anthropology.boong.org
1. http://thanghoa.net
Tìm hiểu về khái niệm biểu tượng và biểu tượng xã hội
« vào lúc: Thg 4 28, 2006, 11:05:27 »
1. Khái niệm biểu tượng
1.1Khái niệm chung về biểu tượng:
Biểu tượng là một khái niệm đang được đẩy mạnh nghiên cứu trên thế giới bởi đến nay khái
niệm biểu tượng vẫn là một lĩnh vực chứa đựng nhiều bí ẩn.
Ở các nước có nền TLH phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…, người ta đẩy mạnh không
ngững các nghiên cứu về biểu tượng xã hội (BTXH). Chẳng hạn nhă hiện nay, trong TLH
Pháp có bốn dòng lớn nghiên cứu BTXH: Một dòng chuyên khảo miêu tả nhằm ghi lại các
biểu tượng của nhóm về một đối tượng nào đó (Moscovisi và các học trò của ông). Dòng thứ
hai nghiên cứu ảnh hưởng của các BTXH lên ứng xử (Codol, Arbic). Dòng thứ ba chuyên
nghiên cứu các kỹ thuật đo lường các BTXH nhằm nắm bắt các cấu trúc của chúng, và dòng
cuối cùng chuyên tìm hiểu những biến đổi của các BTXH (Jodelet, Di Giacomo, Flament,
Arbic), cũng như tìm các cơ chế ngầm ẩn của các sự biến đổi này.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về BT vẫn còn hạn chế cả về mặt lí luận và thực tiễn. Nguyên
nhân có thể là do các nhà khoa học chưa ý thức hết được tầm quan trọng của nó, hoặc cũng có
thể do sự né tránh những tranh cãi sẽ gặp phải khi bàn đến hệ thống khái niệm và phạm trù
của khái niệm này.
Trên thực tế, khái niệm biểu tượng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội
khác nhau. Trong khuôn khổ của đề tài này, chúng tôi chỉ đề cập tới khái niệm biểu tượng trên
bình diện của ngành TLH.
Theo từ điển TLH (Vũ Dũng- NXB KHXH - 2000), "Biểu tượng là hình ảnh các vật thể, cảnh
tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng
có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tượng liên quan
đến quá khứ và tương lai."
Theo từ điển Tiếng Việt (GS Hoàng Phê CB):"Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình
ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi
tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt".
Như vậy, BT là những hình ảnh của những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, được
hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó, được giữ lại trong ý thức hay
là những hình ảnh mới được hình thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trước. BT không
phải hoàn toàn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau khi đã được tri giác. Tuy
nhiên, những hình ảnh đó cũng không hoàn toàn là kết quả chủ quan xuất phát từ những hoạt
động tâm trí của chủ thể .
BT chính là hiện tượng chủ quan của đối tượng về hiện tượng khách quan đã được tri giác từ
trước.
1.2 Cấu trúc của BT:
Theo luận điểm của I.M Xêtrênốp: "Các biểu tượng là kết quả trung gian từ các tri giác phân
chia thành từng thành phần riêng lẻ của sự trừu tượng hoá một tổng số nhất định các vật thể
cùng loài và thành phần của sự trừu tượng hoá này bao gồm ngoài các dấu hiệ bề ngoài còn có
2. http://thanghoa.net
các dâú hiệu không phơi bày ra một cách trực tiếp mà phải nhờ một sự phân tích chi tiết về
mặt trí tuệ và thể chất các vật thể, cũng như quan hệ giữa chúng với nhau và giữa chúng với
con người".
Qua luận điểm này, chúng ta thấy cấu trúc của BT có thể phân chia thành:
- Những biểu hiện bề ngoài vô cùng đa dạng của hiện thực.
- Những dấu hiệu của sự vật, hiện tượng của hiện thực mà tự chúng không phơi bày ra.
Khi có sự phân tích của trí tuệ về các sự vật, hiện tượng cũng như về các hành vi thì các bộ
phận riêng lẻ được tách ra của các BT sẽ được liên kết với các hình ảnh hoàn chỉnh.
Do đó, cuối cùng sẽ dẫn đến những BT đầy đủ và hoàn chỉnh hơn.
Ngoài ra, một đặc điểm nổi bật của các BT là chúng vừa được giữ lại trong trí nhớ của chủ
thể, đồng thời dưới ảnh hưởng của tri giác mới (tác động của thế giới khách quan) và tưởng
tượng thì nội dung của chúng lại được bổ xung và phong phú thêm.
Như vậy, BT là yếu tố động, luôn thay đổi, tuỳ thuộc vào ảnh hưởng của tri giác tác động
cũng như tuỳ thuộc vào trí tưởng tượng phong phú của mỗi cá nhân.
1.3 Phân loại BT và vai trò của BT trong hoạt động tâm lí:
a. Phân loại BT:
Dựa vào tiêu chí: Hình tượng của sự vật và hiện tượng tri giác từ trước được sắp xếp lại trong
ý thức con người đến mức độ nào, người ta phân chia BT thành hai loại:
+ BT của trí nhớ: là hình ảnh của tri giác lúc trước được tái hiện lại trong một hoàn cảnh nhất
định.
+ BT của tưởng tượng: là hình ảnh mới được trí tưởng tượng tạo nên trên nền của biểu tượng
cũ.
BT của tưởng tượng khác về chất so với BT của trí nhớ. BT của tưởng tượng là hình ảnh mới,
được chế biến lại từ những BT của trí nhớ, là:" BT của BT ", thường được chủ thể sáng tạo
dựa trên các cách thay đổi số lượng , kích thước, chắp ghép, liên hợp, nhấn mạnh, điển hình
hoá.
Do đó, sự phản ánh của BT tưởng tượng mang tính chất gián tiếp và khái quát cao hơn so với
BT trí nhớ.
b. Vai trò của BT trong hoạt động tâm lí:
BT là một trong những hình thức quan trọng của sự phản ánh chủ quan về thế giới khách
quan. Không có BT thì không thể có ý thức. Do gắn với các yếu tố tổng hợp nên BT là bậc
thang chuyển hoá từ hình ảnh cụ thể đến khái niệm trừu tượng, từ cảm giác và tri giác đến tư
duy. Ngoài ra, do BT mang tính chất biến đổi rộng rãi , rõ nét - cho phép xây dựng hình ảnh
mới, nên chúng đóng vai trò quan trọng và cần thiết trong hoạt động sáng tạo của con người.
2. BT xã hội:
- Có các loại BT: BT xã hội, BT tập thể,...
- Khái niệm"BT xã hội" được nhà Xã hội học Durkheim đưa ra năm 1898 với tư cách là một
phạm trù xã hội học và đến năm 1961 được Moscovici sử dụng như là một khái niệm TLH
trong cuốn sách của ông có nhan đề: "Phân tâm học – hình ảnh và tác giả của nó".
2.1. Những yếu tố định nghĩa:
3. http://thanghoa.net
BT xã hội được hiểu như là một kiến thức ngây thơ, tự nhiên, khác cơ bản với kiến thức xã
hội. Nó chỉ ra kiến thức chung được hình thành theo mô hình đơn giản, dân giã cung cấp
khuôn khổ cắt nghĩa về thực tế. Để có BTXH, mỗi một người xuất phát từ những điều được
chứng kiến, được quan sát thấy hay từ các thông tin được truyền đạt từ bên ngoài; sau đó, ở
chủ thể xuất hiện một hoạt động tâm lí nhằm tiếp cận các tri thức đó, biến nó thành tri thức
của mình, chia sẻ được nó với những cá nhân khác trong cùng nhóm, cùng xã hội, giải thích
nhiều hiện tượng, sự vật dưới hình thức một thực tế được tóm tắt.
Các BT xã hội là tập hợp các ý kiến, quan điểm, là tri thức về một đối tượng nào đó. Chúng
rất đa dạng, nhiều vẻ và chuyển động gần gũi với một nền văn hoá.
Ngôn ngữ, sự trao đổi, các cuộc đàm thoại và các tương tác xã hội đóng vai trò cơ bản trong
việc hình thành BT xã hội.
2.2. Định nghĩa
+ Theo Moscovici-(1961): “BT xã hội là một dạng hiểu biết đặc biệt, một dạng tri thức có
nghĩa chung mà các nội dung của nó thể hiện thao tác của các quá trình phát sinh và chức
năng đánh dấu bởi xã hội. Rộng hơn, nó chỉ ra một dạng tư duy xã hội” (Jodelet,1984, tr361)
+ Theo Guimelli, BT xã hội là "Phương thức đặc biệt của hiểu biết chung mà tính đặc thù của
nó nằm trong tính cách xã hội của các quá trình tạo ra nó”," là một tập hợp các tri thức, niềm
tin, các ý kiến được chia sẻ bởi một nhóm đối với đối tượng XH nào đó" (1994).
Như vậy nhìn chung các định nghĩa đều xem BT xã hội là một cách thức đặc biệt nắm bắt
thực tế, là cái gợi lại sự vật, hiện tượng được tri giác và tâm trí về thực tế qua đó biến đổi các
đối tượng xã hội (con người , bối cảnh, hoàn cảnh, các hiện tượng, các sự kiện ,...) thành
những phạm trù tượng trưng (giá trị, niềm tin, tư tưởng, quan điểm, quan niệm) dưới hình
thức nhận thức, cho phép nắm bắt các khía cạnh của cuộc sống thường nhật trong lòng các
tương tác XH.
2.3.Các chức năng cơ bản của BT xã hội:
BT xã hội có rất nhiều chức năng, trong đó có thể kể dến các chức năng sau:
- Chức năng gắn bó các thành viên của một nhóm với nhau thông qua sự thống nhất với nhau
về tư duy.
- Chức năng tổ chức môi trường: BT xã hội đóng vai trò trong tri giác môi trường. Chúng tri
giác môi trường như chúng ta nhìn thấy nó thông qua bộ lọc mà các BT đã thiết lập nên cho
chúng ta trên con đường xã hội hoá.
- Chức năng điều chỉnh hành vi và chức năng giao tiếp.
- Chức năng hoà hợp: các BT xã hội có chức năng thiết lập, củng cố và duy trì tính cố kết của
nhóm.
(Không tìm được nguồn tài liệu trích dẫn)
http://www.tamlyhoc.net/forum/index.php?topic=1220.0