1. BÁO CÁO NGÀNH HÀNG CAO SU QUÝ I/2006
I – Tình hình sản xuất trong nước:
Cây cao su Việt Nam đã có mặt ở Việt Nam trên 1 thế kỷ nay và ngành cao su
cũng đã có 76 năm truyền thống nhưng lịch sử chưa bao giờ ghi nhận ngành cao
su thắng lợi lớn và toàn diện như năm 2005. Theo Tổng Cty Cao su Việt Nam,
năm 2005, TCT đã lập được 6 kỷ lục về: sản lượng đạt 303.325 tấn, năng suất
đạt 1,715 tấn/ha, lợi nhuận đạt 3.046 tỷ đồng, nộp ngân sách 850 tỷ đồng, lương
bình quân cho công nhân đạt 2,6 triệu đồng và đầu tư ra ngoài ngành 1.095 tỷ
đồng. Trong đó, năng suất là yếu tố quyết định quan trọng nhất. Năng suất dẫn
đầu là Cty Cao su Tây Ninh với 2,015 tấn/ha, kế tiếp là các Cty: Tân Biên (1,99
tấn), Lộc Ninh (1,93 tấn), Dầu Tiếng (1,93 tấn), Phước Hòa (1,92 tấn), Bình
Long (1,90 tấn). Cty Krông buk ở Tây Nguyên, nơi không thuận lợi cho cây cao
su như miền Đông Nam Bộ cũng đạt 1,70 tấn/ha. Toàn TCT có 20 nông trường
đạt năng suất bình quân trên 2 tấn/ha, trong đó Nông trường Xa Mát thuộc
CTCS Tân Biên đạt 2,5 tấn/ha.
Kỷ lục tiếp theo là sản lượng cao su xuất khẩu đã đạt ngưỡng gần 550.000 tấn,
với trị giá kim ngạch xuất khẩu 787 triệu USD. Con số trên rất có ý nghĩa vì với
mức xuất khẩu này đã vượt cả chỉ tiêu Chính phủ đề ra cho toàn ngành cao su
vào năm 2010; đồng thời tiếp tục tạo cho ngành cao su Việt Nam giữ vững vị trí
thứ ba thế giới về sản lượng cao su xuất khẩu.
Tính đến cuối tháng 3/06, tổng diện tích cao su của Tổng công ty cao su Việt
Nam đang quản lý là 176.617 ha với năng suất bình quân 1,725 tấn/ha. Trong
đó, có 87.000 ha vườn cây đạt doanh thu trên 50 triệu đồng/ha và lợi nhuận
chiếm 35,36%. Riêng mặt hàng cao su chiếm giá trị xuất khẩu cao đứng hàng
thứ hai sau gạo.
Đặc biệt trong quí I/2006 này, nhờ thời tiết thuận lợi mưa nhiều và chấm dứt
muộn, nên nhiều vườn cây cao su vẫn chưa rụng lá và công nhân vẫn đang tiếp
tục khai thác mủ (thông thường các năm trước từ tháng 12 đến tháng 1-2 của
năm mới là mùa cây cao su rụng lá, công nhân nghỉ cạo). Theo tính toán của
Tổng công ty, thời tiết thuận lợi sẽ giúp ngành cao su đạt sản lượng quí I/2006
khoảng 45.000 tấn của, đạt 15 % kế hoạch năm.
II – Tình hình thị trường trong nước và thế giới:
Giá cao su trong nước và xuất khẩu:
Sau khi tăng mạnh trong năm 2005, giá cao su tự nhiên tiếp tục tăng trong
những tháng đầu năm 2006 do nhu cầu cao xuất phát từ giá dầu cao. Đến cuối
tháng 2/06, giá cao su vẫn tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu của các nước Mỹ,
Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc ngày càng tăng, trong khi nguồn cung
bị hạn chế do mưa nhiều ở Thái Lan và Indonêsia. Bên cạnh đó, giá dầu thô
tăng cũng tác động làm tăng giá cao su.
2. Trong tháng 3/2006, giá xuất khẩu cao su trung bình đạt mức từ 1.690-1.710
USD/tấn, tăng 20-40 USD/tấn so với tháng trước. Trong đó, SVR3L vẫn là loại
cao su xuất khẩu chủ lực của nước ta, chiếm hơn 50% tổng lượng cao su xuất
khẩu, với giá xuất đạt 1.823 USD/tấn, tăng 45USD/tấn so đầu tháng 2/06. Tiếp
đến là mủ cao su Latex đạt 1.160 USD/tấn, tăng 80 USD/tấn so với đầu năm,
chủ yếu xuất sang thị trường Anh, Mỹ, Hàn Quốc. Cao su SVR 10 với giá xuất
đạt mức 1.610 USD/tấn.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, thị trường xuất khẩu cao su lớn
nhất trong 2 tháng đầu năm vẫn là Trung Quốc, đạt 16.555 tấn, với trị giá 27,19
triệu USD. Giá xuất trung bình sang thị trường Trung Quốc tăng cao, tới 118
USD/tấn so với giá xuất trung bình cùng kỳ tháng trước. Trong đó, chủng loại
cao su SVR3L xuất được nhiều nhất với trên 8,6 ngàn tấn đạt kim ngạch trên
15,55 triệu USD. Giá xuất trung bình đạt 1.797 USD/tấn, tăng 146 USD/tấn so
với giá xuất trung bình cùng kỳ tháng trước. Giá cao su Latex cũng đạt giá khá
cao, đạt từ 1.020-1.184 USD/tấn; giá giao tại cửa khẩu Móng Cái đạt từ 1.207-
1.316 USD/tấn. Đáng chú ý, giá xuất khẩu cao su loại SVR10 xuất qua cửa
khẩu Móng Cái tăng mạnh, lên tới 1.900 USD/tấn, cao hơn từ 300-400 USD/tấn
so với giá xuất đầu tháng 1.
Diễn biến giá cao su SVR3L xuất khẩu sang Trung Quốc dưới đây cho thấy giá
liên tục tăng từ giữa năm 2005 đến cuối tháng 3/2006.
Ngày 2/6/05 3/8/05 28/10/05 12/1/06 19/2/06 25/2/06 5/3/06 24/3/06
Giá
1.406 1.628 1.728 1.774 1779 1.800 1.805 1.823
(USD/tấn)
Đến cuối tháng 3, giá cao su SVR3L xuất qua cửa khẩu Móng Cái đã vượt qua
ngưỡng 17.000 NDT/tấn tương đương gần 2.100 USD/tấn nên các doanh
nghiệp và tư thương Trung Quốc đã hạn chế lượng nhập để ngăn mức giá tăng
cao hơn nữa; ngược lại các doanh nghiệp nước ta luôn điều tiết sản lượng xuất
khẩu ở mức 400-450 tấn/ngày. Tuy nhiên, xu hướng giá trong thời gian tới vẫn
có chiều hướng đi lên.
Giá cao su xuất khẩu tại một số cửa khẩu khác ngày14/3/2006 như sau:
Giá
Mặt hàng Cửa khẩu
(USD/tấn
Cao su thiên nhiên SVR5 1.150 Buôn Mê Thuột
Mủ cao su thiên nhiên 1.180 Hoa Lư, Bình Phước
Cao su sơ chế SVR CV60 1.345 Cảng Sài gòn KV I
Cao su thiên nhiên SVR10CV đã sơ
1.199 Cát Lái ( Saigon KVI)
chế
Cao su hỗn hợp 1.240 HQ Cửa khẩu Bắc Luân
Thị trường thế giới
Tình trạng thiếu hụt nguyên liệu thô, trong khi nhu cầu tiếp tục tăng đã đẩy giá
cao su tự nhiên gần đây tăng tới mức cao kỷ lục và ít có triển vọng giảm trong
tương lai gần. Tính từ đầu năm tới giữa tháng 3/06, giá cao su tự nhiên đã tăng
3. 20-30%, duy trì ở mức cao nhất của 20 năm nay kể từ đầu tháng 2. Loại RSS3
của Thái Lan tăng từ 175 US cent/kg lên 210 US cent/kg tính từ đầu năm tới
nay; loại SIR20 của Indonexia tăng từ 167,55 US cent lên 188 US cent/kg trong
khi loại SMR20 của Malaysia tăng từ 170,65 US cent lên 194 US cent/kg.
Có thể kể đến hai nguyên nhân nổi bật đẩy giá cao su tăng mạnh trong thời gian
gần đây là giá dầu mỏ tăng mạnh đẩy nhu cầu cao su tự nhiên tăng; và thời tiết
bất thường tác động tới sản xuất cao su thế giới.
Trong quý 1-06, nguồn cung cao su tại Thái Lan, nước xuất khẩu cao su hàng
đầu vẫn rất hạn chế, song các thương gia hy vọng cung sẽ tăng trong những
tháng tới, khi kết thúc mùa đông. Sản lượng cao su ở Thái Lan hiện thấp hơn
40% so với bình thường. Giá cao su tự nhiên của Thái Lan gần đây tăng mạnh
do sản lượng giảm trong mùa lá cao su rụng, cùng với mưa to và lụt ở miền
Nam nhưng triển vọng của ngành cao su Thái Lan năm 2006 vẫn sáng sủa trước
dự đoán nhu cầu tăng mạnh ở thị trường trong nước và xuất khẩu. Năm 2006,
Thái Lan dự kiến sẽ sản xuất được 3,11 triệu tấn cao su, tăng 4,2% so với năm
trước, trong khi sản lượng của 2 nước lớn khác là Indonesia và Malaysia dự báo
sẽ tăng 1,7% và 5,2%, đạt tương ứng 2,28 triệu tấn và 1,23 triệu tấn.
Diễn biến giá cao su các loại trên thị
trường TG, quý 1-06
200
190 SMR20 Malaysia
180 STR20 Singapo
170 SIR20 Indonesia
160
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Reuters
III - Kết luận
- Mục tiêu đề ra của ngành cao su Việt Nam trong năm 2006 và những năm tiếp
theo là bình ổn giá, đa dạng hóa sản phẩm, thu hút đầu tư, mở rộng diện tích
cao su ở các tỉnh miền Đông Nam bộ và nước bạn Lào. Việc thành lập Tập
đoàn cao su Việt Nam và đa dạng hóa ngành nghề, phát triển sản xuất kinh
doanh theo hướng khép kín là mục tiêu phấn đấu để ngành cao su Việt Nam
phát triển bền vững.
- Trong quý I/06, giá cao su trong nước và xuất khẩu liên tục tăng mạnh. Khối
lượng cao su xuất khẩu qua cửa khẩu Móng Cái cũng tăng lên hàng ngày do
nhu cầu tiêu thụ mạnh từ Trung Quốc. Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu cao su của
nước ta trong thời gian này cũng tăng đáng kể, góp phần giúp ngành cao su đạt
chỉ tiêu của Chính phủ đề ra.
4. - Trong các tháng tới, dự báo giá cao su tự nhiên trong nước và quốc tế sẽ tiếp
tục tăng vì nguồn cung cao su tự nhiên ở các nước xuất khẩu chính như Thái
Lan, Indonesia và Malaysia đều đang hạn chế bởi tồn kho giảm, tiến độ khai
thác mủ chậm lại. Về lâu dài, khả năng giá giảm xuống là rất khó xảy ra vì sản
lượng có thể hồi phục song nhu cầu cũng tăng lên, thậm chí còn mạnh hơn.
Nguyễn Lan Anh
Tài liệu tham khảo
1. Trung tâm Tin học & Thống kê, Bộ Nông nghiệp và PTNT.
2. Thông tấn xã Việt Nam
3. Báo Tuổi trẻ
4. Tin Reuters
5. Các Web-sites của FAO, USDA.