Vai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông áVai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông á
Luận án: Xây dựng liên kết kinh tế ở Vùng kinh tế phía Nam, HAY
Vai trò của asean trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở đông á
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
Tôn Thị Ngọc Hương
VAI TRÒ CỦA ASEAN TRONG TIẾN TRÌNH
HỢP TÁC VÀ LIÊN KẾT KHU VỰC Ở ĐÔNG Á
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 62 31 02 06
Hà Nội - 2015
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
Tôn Thị Ngọc Hương
VAI TRÒ CỦA ASEAN TRONG TIẾN TRÌNH
HỢP TÁC VÀ LIÊN KẾT KHU VỰC Ở ĐÔNG Á
Chuyên ngành : Quan hệ quốc tế
Mã số : 62 31 02 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS TS Nguyễn Thái Yên Hương
Hà Nội - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận án “Vai trò của ASEAN trong tiến trình hợp tác và liên
kết khu vực Đông Á” là công trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung nghiên cứu
và kết quả được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố.
Hà Nội, ngày 30 tháng 07 năm 2015
Tác giả luận án
Tôn Thị Ngọc Hương
4. LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS. TS. Nguyễn Thái
Yên Hươngvề những lời chỉ bảo, hướng dẫn cũng như sự động viên hết sức chân
tình và sâu sắc đối với tôi trong suốt quá trình viết Luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu và có giá trị
của các nhà khoa học qua những buổi thảo luận ở Bộ môn của các nhà khoa học
qua những buổi thảo luận ở Bộ môn. Đồng thời tôi xin cảm ơn đến Lãnh đạo và
các đồng nghiệp tại Vụ ASEAN, Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán Việt Nam tại
Malaysia đã tạo điều kiện để tôi vừa hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn được
giao, vừa thực hiện được luận án.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc Học viện Ngoại giao và
Lãnh đạo Khoa Đào tạo sau Đại học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình
học tập và nghiên cứu của tôi.
Lòng tri ân sâu sắc nhất của tôi xin được gửi đến Bố Mẹ, người thân đã
không ngừng động viên, giúp đỡ, quan tâm, chăm sóc, kể cả đóng góp ý kiến
giúp tôi có cái nhìn hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn trong quá trình làm luận án..
Tác giả luận án
Tôn Thị Ngọc Hương
5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Tên Tiếng Anh Tên Tiếng Việt
1.
AEC
ASEAN Economic
Community
Cộng đồng Kinh tế
ASEAN
2. ADMM+
ASEAN Defence
Ministerial Meeting Plus
Hội nghị Bộ trưởng
Quốc phòng ASEAN
mở rộng
3. ADB
The Asian Development
Bank
Ngân hàng Phát triển
châu Á
4. AFTA
ASEAN Free Trade
Area
Hiệp định Khu vực Mậu
dịch Tự do đa phương
của ASEAN
5. APEC
Asia Pacific Economic
Cooperation Forum
Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á – Thái Bình
Dương
6. ARF ASEAN Regional Forum
Diễn đàn khu vực
ASEAN
7. ASA
Association of Southeast
Asia
Hiệp hội Đông Nam Á
8. ASEM Asia Europe Meeting Hội nghị Á-Âu
9. ASEAN+1 ASEAN plus One
Hợp tác ASEAN và
từng bên đối thoại
10. ASEAN+3 ASEAN plus Three
Hợp tác ASEAN và
Trung Quốc, Nhật Bản,
6. Hàn Quốc
11. ASEAN+6 ASEAN Plus Six
Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Ấn Độ,
Australia và Niu Di-lân
12. ASPAC Asian and Pacific Coucil
Hội đồng châu Á và
Thái Bình Dương
13. CEPEA
Comprehensive
Economic Partnership in
East Asia
Đối tác kinh tế toàn diện
Đông Á
14. CLMV
Cambodia, Laos,
Myanmar, Vietnam
Nhóm các nước
Campuchia, Lào,
Myanmar và Việt Nam
15. COC
Code of Conduct in the
South China Sea
Bộ quy tắc ứng xử trên
Biển Đông
16. DOC
Declaration of Conduct
of Parties in the South
China Sea
Tuyên bố về Ứng cử của
các bên trên Biển Đông
17. Eac East Asian community cộng đồng Đông Á
18. EAFTA
East Asia Free Trade
Area
Khu vực mậu dịch tự do
Đông Á
19. EAS East Asia Summit
Hội nghị cấp cao Đông
Á
20. EAEC/EAEG
East Asian Economic
Group/Caucus
Nhóm kinh tế Đông Á
21. EU European Union Liên minh châu Âu
22. FTA Free Trade Agreement Hiệp định Thương mại
7. tự do
23. IMF
International Monetary
Fund
Qũy Tiền tệ quốc tế
24. IAI
Initiative for ASEAN
Integration
Sáng kiến Liên kết
ASEAN
25. MERCOSUR Mercado Comun del Sur
Cộng đồng các quốc gia
Nam Mỹ
26. NATO
North Atlantic Treaty
Organization
Hiệp ước Quân sự
Bắc Đại Tây Dương
27. RCEP
Regional
Comprehensive
Economic Partnership
Đối tác kinh tế toàn diện
khu vực
28. SEATO
South East Asia Treaty
Organization
Khối Hiệp ước Đông
Nam Á
29. SEANWFZ
Southeast Asia Nuclear
Weapons Free Zone
Hiệp ước Khu vực Đông
Nam Á không có vũ khí
hạt nhân
30. TAC
Treaty of Amity and
Cooperation
Hiệp ước thân thiện và
hợp tác
31. TPP Trans Pacific Partnership
Đối tác xuyên Thái Bình
Dương
32. USD United States dollar Đồng đô la Mỹ
33. ZOPFAN
Zone of Peace, Freedom
and Neutrality
Tuyên bố về Khu vực
Hòa bình, Tự do và
Trung lập
8. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ LIÊN KẾT KHU VỰC TRONG QUAN HỆ...... 19
QUỐC TẾ - LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN Ở ĐÔNG Á....................... 19
1.1. Lý thuyết về liên kết khu vực .......................................................... 19
1.1.1. Khái niệm.................................................................................... 19
1.1.2. Các hình thức liên kết kinh tế..................................................... 21
1.2. Các luận điểm chính về liên kết và hợp tác khu vực trong lý thuyết
quan hệ quốc tế ....................................................................................... 23
1.2.1. Chủ nghĩa tự do.......................................................................... 23
1.2.2. Chủ nghĩa Kiến tạo..................................................................... 29
1.2.3. Chủ nghĩa khu vực mới .............................................................. 33
1.3 Lý luận về vai trò của các nước vừa và nhỏ trong quan hệ quốc tế36
1.4 Thực tiễn hợp tác và liên kết khu vực Đông Á từ sau Chiến tranh
thế giới thứ Haiđến nay .......................................................................... 40
1.4.1 Thực tiễn hợp tác khu vực trước 1997......................................... 40
1.4.2. Hợp tác và liên kết khu vực giai đoạn sau Chiến tranh Lạnh.... 42
1.4.3. Các khuôn khổ hợp tác do ASEAN khởi xướng......................... 43
1.4.4. APEC .......................................................................................... 45
1.4.5. ASEM.......................................................................................... 48
1.4.6. Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)...................................... 49
1.5 Một số đặc điểm chung của các xu hướng liên kết khu vực ở Đông Á
.................................................................................................................. 50
1.6 Thuận lợi và thách thức của xu hướng gia tăng liên kết ở khu vực52
1.6.1.Thuận lợi...................................................................................... 52
1.6.2 Hạn chế và thách thức.................................................................54
Tiểu kết:...................................................................................................... 57
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH ASEAN TẠO DỰNG VAI TRÒ TRONG.. 59
9. LIÊN KẾT KHU VỰC Ở ĐÔNG Á .......................................................... 59
2.1 Chính sách của ASEAN đối với liên kết khu vực ............................ 59
2.2 Các nhân tố giúp ASEAN phát huy vai trò ở khu vực.................... 67
2.2.1. Điều kiện khách quan.................................................................67
2.2.2. Năng lực của ASEAN.................................................................69
2.3 Đóng góp của ASEAN trong thúc đẩy liên kết khu vực.................. 74
2.3.1. Củng cố hợp tác nội khối, thúc đẩy liên kết khu vực ở Đông Nam
Á............................................................................................................ 74
2.3.1.1. Giai đoạn đầu mới thành lập từ 1967-1999đến khi hoàn tất mở
rộng thành viên .................................................................................. 74
2.3.1.2. Đẩy mạnh hợp tác và liên kết sau khi hoàn tất mở rộng thành
viên từ 1999-2003 .............................................................................. 78
2.3.1.3. Xây dựng Cộng đồng ASEAN................................................. 81
2.3.2. Mở rộng quan hệ đối ngoại, phát huy vai trò trong thúc đẩy hợp
tác Đông Á ............................................................................................ 84
2.3.3. Vai trò tích cực của ASEAN trong thúc đẩy liên kết khu vực ở
Đông Á.................................................................................................. 85
2.3.3.1. Ý tưởng ban đầu về Khối kinh tế Đông Á (EAEC).................. 85
2.3.3.2Thúc đẩy hình thành và phát triển hai cơ chế chuyên biệt về hợp
tác Đông Á là ASEAN+3 và EAS........................................................ 85
2.3.4.Tạo dựng và thúc đẩy các cơ chế hợp tác về an ninh, các chuẩn
mực ứng xử........................................................................................... 93
2.3.5. Vai trò trong thúc đẩy liên kết kinh tế Đông Á........................... 95
2.4 Quan điểm của cácnước lớn vềvai trò của ASEANtrong cấu trúc
hợp tác khu vực Đông Á....................................................................... 100
2.5Tác động của các nước lớn đến vai trò của ASEAN....................... 106
2.6 Hạn chế của ASEAN trong thúc đẩy liên kết khu vực.................. 108
Tiểu kết:.................................................................................................... 110
10. CHƯƠNG 3: TRIỂN VỌNG VAI TRÒ CỦA ASEAN TRONG LIÊN
KẾT VÀ HỢP TÁC ĐÔNG Á – KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ĐỐI
VỚIVIỆT NAM........................................................................................ 113
3.1. Triển vọng vai trò của ASEAN trong tiến trình liên kết và hợp tác
ở Đông Á sau 2015................................................................................. 113
3.1.1. Triển vọng hợp tác và liên kết Đông Á đến 2025...................... 113
3.1.2. Dự báo vai trò của ASEAN....................................................... 115
3.1.2.1. Các thách thức mà ASEAN phải đối mặt trong tiến trình liên
kết Đông Á ....................................................................................... 115
3.1.2.2 Triển vọng vai trò của ASEAN trong tiến trình liên kết và hợp
tác ở Đông Á sau 2015..................................................................... 118
3.2 Kiến nghị chính sách đối với Việt Nam.......................................... 121
3.2.1. Khát quát về sự tham gia của Việt Nam trong ASEAN:........... 121
3.2.1.1. Quyết định gia nhập ASEAN................................................ 121
3.2.1.2. Quá trình tham gia ASEAN từ 1995-2015............................ 124
3.2.1.3. Lợi ích và hạn chế đối với Việt Nam khi tham gia ASEAN... 128
3.2.2. Đóng góp của Việt Nam trong thúc đẩy liên kết khu vực Đông Á
............................................................................................................ 131
3.2.3. Kiến nghị chính sách đối với Việt Nam.................................... 136
3.2.3.1. ASEAN trong tổng thể chính sách đối ngoại của Việt Nam.. 136
3.2.3.2. Định hướng tham gia liên kết khu vực Đông Á, thúc đẩy vai trò
của ASEAN....................................................................................... 139
Tiểu kết:.................................................................................................... 146
KẾT LUẬN............................................................................................... 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .............. 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 153
11. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Được đánh giá là một trong những khu vực phát triển năng động nhất thế
giới, Đông Á, hay rộng hơn là châu Á-Thái Bình Dương, là nơi hội tụ nhiều nền
kinh tế lớn và đang nổi lên của thế giới, có vị trí địa chiến lược quan trọng, nơi
đan xen lợi ích của các cường quốc. Trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI,
Đông Á đang chứng kiến những biến chuyển nhanh chóng, mở ra những cơ hội
mới song cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các quốc gia trong khu
vực. Cùng với xu thế toàn cầu hóa, liên kết khu vực ở Đông Á được đẩy mạnh,
đặc biệt kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, khi các quốc gia nhận
thấy sự cần thiết phải gắn kết chặt chẽ hơn nhằm ứng phó với hậu quả của khủng
hoảng cũng như ngăn ngừa hữu hiệu các nguy cơ khủng hoảng trong tương lai. Sự
gia tăng nhu cầu lợi ích cả về chính trị và kinh tế đã thúc đẩy việc hình thành và
phát triển nhiều cơ chế và khuôn khổ tạo điều kiện thúc đẩy đối thoại và hợp tác
giữa các quốc gia trong khu vực.
Có lẽ ít có nơi nào trên thế giới lại tồn tại nhiều diễn đàn, cơ chế hợp tác
đan xen, với nhiều tầng nấc và phạm vi khác nhau như ở Đông Á. Bên cạnh một
loạt các cơ chế do ASEAN khởi xướng và chủ trì như ASEAN+1, ASEAN+3,
EAS, ARF, ADMM+…, còn có các khuôn khổ quan trọng khác như APEC,
ASEM, với mộtđiểm chung là đều có sự tham gia của hầu hết các cường quốc
trong và ngoài khu vực. Tất cả những cơ chế này tạo nên không gian chung để
các nước tăng cường đối thoại, xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác trên những
lĩnh vực có lợi ích, đồng thời chia sẻ quan điểm về các khác biệt, và tìm hướng
giải quyết các tranh chấp, nếu có.
Trong bối cảnh xu thế hợp tác và liên kết ở Đông Á ngày càng phát triển
và mở rộng, nổi lên vai trò được chú ý của ASEAN. Từ một xuất phát điểm
khiêm tốn, ASEAN đã có những đóng góp được ghi nhận trong việc thúc đẩy
hợp tác, đối thoại và liên kết không chỉ ở Đông Nam Á mà ở cả khu vực Đông Á
và Thái Bình Dương. Nhìn vào mạng lưới hợp tác đa phương ở khu vực, dễ dàng
12. 2
nhận thấy các cơ chế bắt đầu bằng chữ “ASEAN” xuất hiện khá thường xuyên,
với sự tham dự của nhiều đối tác khác nhau, trong đó có nhiều nước lớn như Mỹ,
Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, EU, Ấn Độ v.v. Mặc dù hiệu quả của các khuôn khổ
hợp tác này còn nhận được những đánh giá khác nhau, không thể phủ nhận các
diễn đàn do ASEAN khởi xướng đã tồn tại và tiếp tục được mở rộng, vẫn thu hút
được sự tham dự đông đảo và thường xuyên của các nước, nhất là các nước lớn.
Việc nghiên cứu về vai trò của ASEAN trong các tiến trình hợp tác và liên
kết ở Đông Á có ý nghĩa quan trọng giúp xác định năng lực và vị trí thực sự của
tổ chức này ở khu vực, qua đó, làm cơ sở cho việc định hướng chính sách phù
hợp của Việt Nam khi đã là thành viên ASEAN ở môi trường có tác động trực
tiếp đến an ninh và phát triển của Việt Nam như Đông Á. Về lý luận, nếu khẳng
định được vai trò của ASEAN trong thúc đẩy liên kết khu vực sẽ giúp củng cố
thêm luận điểm của các nhà lý luận theo chủ nghĩa kiến tạo về khái niệm bản sắc
chung cũng như quá trình hình thành các chuẩn mực trong việc tạo dựng thể chế
hợp tác ở khu vực. Bên cạnh đó, nếu như vai trò của ASEAN trong liên kết khu
vực được khẳng định qua nghiên cứu của luận án sẽ đóng góp vào các nghiên
cứu về vai trò ngày càng gia tăng của các nước vừa và nhỏ trong quan hệ quốc
tế. Chính vì vậy, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Vai trò của ASEAN trong
tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở Đông Á.” làm luận án tốt nghiệp tiến sĩ
chuyên ngành Quan hệ Quốc tế sau thời gian làm nghiên cứu sinh tại Học viện
Ngoại giao.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước và ngòai nước
về chủ nghĩa khu vực và liên kết khu vực nói chung và Đông Á. Tuy nhiên mỗi
công trình đã công bố đều có mục tiêu nghiên cứu riêng, để triển khai nghiên cứu
vấn đề được nêu là đề tài luận án, có thể tóm tắt tình hình nghiên cứu như sau:
2.1. Các công trình nghiên cứu ngoài nước
- Liên kết khu vực hay các khái niệm tương đồng như chủ nghĩa khu vực,
hợp tác đa phương ở châu Á cũng như Đông Á là chủ đề ngày càng thu hút sự
13. 3
quan tâm nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Các công trình nghiên
cứu ngoài nước đáng chú ý về vấn đề này có các cuốn sách của một số học giả
chuyên nghiên cứu về Đông Á nhưRemapping East Asia: constructing a region,
(Vẽ lại bản đồ Đông Á: xây dựng một khu vực) T. J. Pempel biên tập, Cornell
University, Ithaca, NY 2005;East Asian Regionalism, (Chủ nghĩa khu vực Đông
Á, NXB Routledge 2008) của Christopher M. Dent;East Asian Multilateralism,
(Chủ nghĩa đa phương Đông Á, NXB Đại học Johns Hopkins, 2008, do Kent E.
Calder và Francis Fukuyama biên tập. Asia’s new multilateralism: Cooperation,
competition and searching for a community, (Chủ nghĩa đa phương mới ở châu
Á: Hợp tác, cạnh tranh và tìm kiếm một cộng đồng) do Michael J. Green và
Bates Gill biên tập, nhà xuất bản Columbia University, 2009;Regionalism in
East Asia: why it has flourished since 2000 and how far it will go?, (Chủ nghĩa
khu vực ở Đông Á: tại sao lại nảy nở kể từ 2000 và sẽ đi xa đến đâu?) Richard
Pomfret, Nhà xuất bản World Scientific, 2010; Routledge Handbook on Asian
Regionalism (Sổ tay Routledge về Chủ nghĩa khu vực châu Á - NXB Routledge)
Mark Beeson và Richard Stubbs biên tập; Regional Integration in East Asia,
(Liên kết khu vực ở Đông Á, NXB Đại học Liên Hợp Quốc 2013) do Satoshi
Amako, Shunji Matsuoka và Kenji Horiuchi biên tập; Regionalism and
Globalisation in East Asia, (Chủ nghĩa khu vực và Toàn cầu hóa ở Đông Á,
NXB Palgrave Macmillan 2007, 2014) của Mark Beeson.
Trong cuốn Remapping East Asia: constructing a region, T. J. Pempel
biên tập, Cornell University, Ithaca, NY xuất bản 2005, các tác giả cho rằng hợp
tác khu vực ở Đông Á đã chín muồi, và hợp tác không chỉ tập trung vào các hoạt
động liên chính phủ, mà còn bao gồm hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia,
các tổ chức phi chính phủ và các nhân tố phi nhà nước khác. Tuy nhiên, cuốn
sách chủ yếu mới dừng lại xem xét chủ yếu hai nhóm đối tượng là chính phủ và
các tập đoàn/công ty, các tổ chức phi chính phủ mà hầu như chưa đề cập đến vai
trò của các thiết chế đa phương đang hoạt động rất tích cực ở khu vực và trở
thành động lực thúc đẩy hợp tác và liên kết Đông Á, trong đó có ASEAN và các
14. 4
diễn đàn do ASEAN chủ trì. Cuốn Regionalism and globalization in East Asia:
politics, security and economic development của Mark Beeson, Palgrave,
Macmillan xuất bản 2007, đãđánh giá tương đối toàn diện về vị trí của Đông Á
trong các xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa đang nổi trội, các tiến trình ẩn chứa
đằng sau sự phát triển các mối quan hệ kinh tế và an ninh ở khu vực, đề cập khá
rõ đến các thể chế hợp tác tại Đông Á như APEC, ASEAN, ASEAN+3, ARF và
EAS, và dự báo về tương lai của Đông Á,đánh giá mặc dù còn những khiếm
khuyết, xu thế liên kết là tất yếu ở Đông Á. Công trình này của Mark Beeson có
thể đánh giá là một trong những nghiên cứu tổng hợp có giá trị nhất về liên kết
khu vực ở Đông Á, song do xuất bản từ 2007 nên còn chưa cập nhật được những
xu thế thay đổi gần đây ở khu vực, bên cạnh đó, chưa đi sâu phân tích về vai trò
thực tế của ASEAN trong tổng thể tiến trình liên kết và hợp tác ở Đông Á.
Trong cuốn “East Asian regionalism”, Christophe M. Dent, nhà xuất bản
Routledge, 2008, tác giảđem đến một cách nhìn khá rộng về các góc độ của liên
kết khu vực ở Đông Á, từ các tiến trình liên kết tài chính thông qua ASEAN+3,
liên kết kinh tế thông qua các FTAs, sự gắn kết giữa các quốc gia thông qua hợp
tác ứng phó với các vấn đề xuyên quốc gia, đến vai trò của một số tổ chức khu vực
như ASEAN hoặc diễn đàn APEC v.v. Tuy nhiên, từ những phân tích qua các góc
độ khác nhau này, Dent chưa tổng hợp được thành một nhận định chung về thực
trạng hay dự báo về xu thế liên kết khu vực tương lai ở Đông Á, vai trò của
ASEAN được nhìn nhận ở mức độ nhất định, còn đặt trong bối cảnh hẹp chỉ ở
Đông Nam Á và chưa phân định rõ ASEAN với các cơ chế do ASEAN chủ trì
như ASEAN+3 hay EAS khiến người đọc dễ nhầm hiểu đây là các khuôn khổ
hoàn toàn độc lập với nhau.
Trong cuốn Regionalism in East Asia: why it has flourished since 2000
and how far it will go?, Richard Pomfret, Nhà xuất bản World Scientific, 2010,
tác giả tập trung nhiều hơn vào liên kết kinh tế khu vực ở châu Á. Pomfret nhấn
mạnh chủ nghĩa khu vực mở là đặc trưng mà châu Á theo đuổi, nhìn nhận sự khác
biệt giữa khu vực hoá do thị trường dẫn dắt với chủ nghĩa khu vực hình thành
15. 5
thông qua các thể chế hay chính sách của các quốc gia; cho rằng cuộc khủng
hoảng 97-98 có tác động quyết định đến tiến trình khu vực hoá và chủ nghĩa khu
vực ở châu Á.ASEAN cũng như các cơ chế ASEAN+3, ASEAN+6 đóng vai trò
thúc đẩy xu thế liên kết khu vực mạnh mẽ hơn ở châu Á sau 2000. Hạn chế của
cuốn sách này ở chỗ tác giả đi quá sâu vào kinh tế mà thiếu vắng một cách nhìn
rộng và toàn diện hơn đến các khía cạnh như an ninh, chính trị, văn hoá v.v. Vai
trò của ASEAN mới được nhìn nhận qua góc độ kinh tế là chủ yếu.
Cuốn Asia’s new multilateralism: Cooperation, competition and searching
for a community, do Michael J. Green và Bates Gill biên tập, nhà xuất bản
Columbia University, 2009, nhận định sau nhiều năm liên kết kinh tế được đẩy
mạnh ở châu Á, thập kỷ gần đây chứng kiến làn sóng hợp tác mới mạnh mẽ, dẫn
đến sự thay đổi rõ rệt trong cấu trúc khu vực. Cuốn sách này nhấn mạnh nhiều
hơn đến vấn đề quyền lực, cân bằng quyền lực chứ không phải là các chuẩn mực
hoặc các thể chếđằng sau liên kết khu vực ở châu Á; cho rằng cấu trúc khu vực ở
châu Á sẽ dưới dạng nhiều tầng nấc, với các thể chế song phương, tiểu khu vực,
khu vực và toàn cầu cùng tham gia đan xen; các chính phủ vẫn đóng vai trò là
đối tượng chơi chính, đặc biệt khi liên quan đến các vấn đề như an ninh hoặc cân
bằng quyền lực. Mặc dù đưa ra được những phân tích tương đối đầy đủ về chính
sách của các nước chủ chốt trong khu vực; chỉ ra các thách thức mà khu vực phải
đối mặt trong quá trình định hình một cấu trúc hợp tác, cuốn sách đã bỏ qua một
khía cạnh thiết yếu khi đề cập đến hợp tác đa phương ở khu vực: đó là vai trò của
các thể chế hợp tác. Nhận định của các tác giả còn cần làm rõ hơn nếu chỉ cho rằng
chủ nghĩa khu vực ở châu Á chỉ là sự kéo dài của các chính sách cân bằng quyền
lực của các quốc gia mà không xuất phát từ các nhu cầu nội sinh của khu vực.
Cuốn Routledge Handbook on East Asian Regionalism, Mark Beeson và
Richard Stubbs biên tập, nhà xuất Bản Routledge 2012, xác định chủ nghĩa khu
vực ở Đông Á (gồm Đông Bắc Á và Đông Nam Á), khác biệt với chủ nghĩa khu
vực ở các nơi khác, vì đây là tiến trình do các nhà nước dẫn dắt, tập trung vào
hợp tác nhiều hơn là liên kết, đề cập đến hợp tác và liên kết trên nhiều lĩnh vực
16. 6
như kinh tế, chính trị, tài chính, chiến lược, và sự tham gia của một số tổ chức
khu vực như ASEAN, SCO trong liên kết khu vực ở Đông Á. Tuy nhiên, cũng
như hạn chế của một số nghiên cứu khác, tác giả đi sâu vào từng khía cạnh cấu
thành nên liên kết khu vực Đông Á nhưng thiếu sự xâu chuỗi thành một đánh giá
tổng thể, vai trò của ASEAN chỉ được nhìn nhận như một trong các nhân tố tham
gia trong tiến trình liên kết khu vực.
Cuốn Regional integration in East Asia: theoretical and historical
perspectives”, do Satoshi Amako, Shunji Matsuoka và Kenji Horiuchi biên tập,
United Nations University Press, 2013, tập hợp các bài nghiên của các học giả
Nhật Bản về liên kết khu vực ở Đông Á. Cuốn sách chỉ ra rằng liên kết khu vực
ở châu Á, với những tiến triển ấn tượng kể từ cuối thập niên 90, đangđứng trước
ngã rẽ mới,Đông Á cần những cách tiếp cận mới cho giai đoạn tiếp theo. Các tác
giả xem xét thực trạng liên kết khu vực trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, an ninh,
năng lượng, môi trường và giáo dụctheo chiều dài lịch sử, từ giai đoạn trước
Chiến tranh thế giới thứ Hai, đến nay, tính đến sự tham gia của 3 đối tượng chính
là Nhật Bản, ASEAN và Trung Quốc. Hạn chế là cuốn sách chủ yếu đưa ra thực
trạng, nhìn nhận về tiến trình, chứ chưa chỉ ra được các động lực chính của liên
kết khu vực Đông Á, các nhân tố tác động và dự báo triển vọng tương lai như
một nghiên cứu tổng thể cần có. Vai trò của ASEAN chỉ được các tác giả đánh
giá như một trong 3 đối tượng tham gia chính, và chưa được đi sâu phân tích.
Bên cạnh đó, có khá nhiều bài viết đăng trên các tạp chí nghiên cứu đánh
giá, phân tích về một hay một số khía cạnh đáng chú ý trong liên kết khu vực
Đông Á như: Eisuke Sakakibara và Sharon Yamakawa, Regional Integration in
East Asia: Challenges and Opportunities, (Liên kết khu vực ở Đông Á: Các
thách thức và cơ hội), World Bank East Asia project, June 2003. Mark Beeson,
“Rethinking regionalism: Europe and East Asia in comparative historical
perspective”, (Suy nghĩ lại về chủ nghĩa khu vực: Châu Âu và Đông Á trong so
sánh tương quan lịch sử) trong Journal of European Public Policy 12,
6/12/2005; Akihiko Tanaka, Prospects for East Asia Community, (Triển vọng
17. 7
Cộng đồng Đông Á), Trilateral organisation discussion, 2006; “Building an
Open and Inclusive Regional Architecture for Asia”, (Xây dựng một kiến trúc
khu vực mở và thu nạp cho châu Á), Policy Dialogue Brief, The Stanley
Foundation and Center for Strategic and International Studies, November 2006;
Richard Weixinghu trong “Building Asia-Pacific Regional Architecture: the
challenge of hybrid regionalism” 2009 (Xây dựng kiến trúc khu vực châu Á-
Thái Bình Dương), Brookings Institution; Mark Beeson, “East Asian
Regionalism and the End of the Asia-Pacific: After American Hegemony”, (Chủ
nghĩa khu vực Đông Á và sự kết thúc của châu Á-Thái Bình Dương; sau sự bá
quyền Mỹ), The Asia-Pacific Journal, Vol. 2-2-09, January 10, 2009; Peter
Drysdale, trong “Positioning Asian Architecture Internationally” (Định vị quốc
tế Kiến trúc châu Á), East Asia Forum, tháng 11/2011; Tan See Reng, trong
“Competing visions: EAS in the regional architecture debate” (Tầm nhìn cạnh
tranh: EAS trong tranh luận về kiến trúc khu vực), RSIS Commentary No.
164/2011; Cheunboran Chanborey, East Asian Community Building: Challenges
and future prospects (Xây dựng Cộng đồng Đông Á: Các thách thức và triển
vọng tương lai), Cambodia Institute for Cooperation and Peace, January 2011.
Justyna Szczudlik-Tatar, Regionalism in East Asia: A bumpy road to Asian
Integration (Chủ nghĩa khu vực ở Đông Á: Con đường gồ ghề dẫn đến Liên kết
châu Á), The Polish Institute for International Relations, Policy Paper No. 16
(64), June 2013; David Arase, “East Asian Regionalism at a crossroads”, (Chủ
nghĩa khu vực Đông Á ở ngã rẽ), trong The Journal of Social Science,
75(2013).Ellen Frost (2014), “Rival Regionalisms and Regional Order: A Slow
Crisis of Legitimacy”, (Các chủ nghĩa khu vực đối đầu và trật tự khu vực: cuộc
khủng hoảng từ từ của sự chính danh), The National Bureau of Asian Reseach
Report No. 48, December 2014. Evan A. Feigenbaum (2015), “The new Asian
order and how the US fits in”, (Trật tự mới châu Á và làm cách nào để Mỹ tham
gia vào), Foreign Affairs, 2/2/2015.
18. 8
Các bài viết kể trên đều đưa ra những đánh giá sâu về từng lĩnh vực, từng
khía cạnh và nhân tố tác động đến tiến trình liên kết ở Đông Á, xem xét đến vai
trò của các nước lớn và các tổ chức khu vực, trong đó có ASEAN, nhưng không
tập trung riêng về vai trò của ASEAN trong tổng quan của liên kết khu vực.
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu về ASEAN đã có rất nhiều, nhưng
chủ yếu tập trung vào lịch sử hình thành, phát triển, các vấn đề đặt ra đối với
ASEAN, quá trình liên kết khu vực và xây dựng Cộng đồng ASEAN… trong khi
các cuốn sách, bài viết nghiên cứu về vai trò của ASEAN trong liên kết khu vực
Đông Á chưa nhiều.Một số công trình nghiên cứu tác giả đã tìm được về
ASEAN và Đông Á có:
Muthiah Alagappa, edited, Asian Security Order; Instrumental and
Normative Features-Trật tự an ninh châu Á: khía cạnh công cụ và thực chứng,
Stanford University Press, 2002;T.J. Pempel, Remapping East Asia: The
Construction of a Region, Cornell University Press, 2005; David Martin Jones &
M.L.R Smith, ASEAN and East Asian International Relations, Edward Elgar
Publishing, 2006; Noel M. Norada, Regional order in East Asia, ASEAN and
Japan perspectives, (Trật tự khu vực ở Đông Á: góc nhìn của ASEAN và Nhật
Bản), Edited by Jun Tsunekawa, National Institute for Defense Studies Japan,
2007; Alice Ba, (Re)Negotiating East and Southeast Asia: Region, Regionalism
and the Association of Southeast Asian Nations, Stanford University Press 2009
– (Tái đàm phán Đông Á và Đông Nam Á: khu vực, chủ nghĩa khu vực và Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á);Amitav Acharya, Whose ideas matter? Agency
and Power in Asian Regionalism- (Ý tưởng của ai có ý nghĩa? Tổ chức và quyền
lực trong chủ nghĩa khu vực châu Á), Cornell University Press, 2009; Ralf
Emmers edited, ASEAN and the Institutionalisation of East Asia-(ASEAN và
Thể chế hóa Đông Á), Routledge Publishing 2013; Amitav Acharya,
Constructing a Security Community in Southeast Asia-(Xây dựng Cộng đồng an
ninh ở Đông Nam Á), 2nd edition, Routledge, 2013;
19. 9
Trong cuốn “ASEAN and international relations in East Asia”, Jones và
Smith chỉ trích sự tồn tại của ASEAN, phê phán vai trò của các quốc gia và hợp
tác khu vực trong tăng trưởng kinh tế Đông Á, chỉ ra những vấn đề trong cấu
trúc kinh tế khu vực, dẫn chứng về thất bại của các nước khi ứng phó với khủng
hoảng tài chính 1997, nhất là vai trò yếu kém của ASEAN, không cho rằng
ASEAN có “vai trò chính thống” ở cả Đông Nam Á và Đông Á, khi tiềm lực
kinh tế hạn chế, các mô hình như ASEAN+3 hay thậm chí EAS chỉ là khuôn khổ
để ASEAN dựa vào các nước lớn, và rằng các nước Đông Nam Á cần Đông Bắc
Á hơn là ngược lại, ASEAN+3 nên đổi thành 3+ASEAN. Các luận điểm đưa ra
trong cuốn sách còn gây tranh cãi và đây là một trong số ít những nghiên cứu
gần như phủ nhận hoàn toàn vai trò của ASEAN ở khu vực.
Trong cuốn “ASEAN and the institutionalization of East Asia”, Ralf
Emmers biên tập, các tác giả chỉ ra những điểm mạnh và hạn chế của ASEAN
trong quá trình xây dựng thể chế ở Đông Nam Á, trong hợp tác đa phương và an
ninh ở ĐôngÁ và trong thể chế hoá quan hệ giữa các nước lớn. Vấn đề thể chế
hoá quan hệ giữa các nước lớn, cụ thể là Trung-Nhật-Mỹ được xem như động
lực chính của tiến trình thể chế hoá các quan hệ quốc tế ở ĐôngÁ, với sự hỗ trợ
của các cơ chế do ASEAN dẫn dắt. Các tác giả cho rằng sự cam kết của các nước
lớn mới giúp đảm bảo nỗ lực thúc đẩy hoà bình và an ninh ở ĐôngÁ; cho rằng
không kết luận ASEAN có đóng một vai trò không thể phủ nhận trong tiến trình
thể chế hoá Đông Á, nhưng còn nhiều hạn chế. Do tính chất của cuốn sách là
một tập hợp các bài viết của nhiều tác giả khác nhau, nội dung của từng chương
tuy đãđi sâu phân tích về từng góc độ của vai trò ASEAN ở Đông Nam Á và
Đông Á nhưng còn thiếu tính đồng bộ và toàn diện.
Cuốn “ASEAN Regionalism: cooperation, values and institutionalization”
của Chistopher Roberts, đã phân tích khá sâu về các yếu tố tác động đến mức độ
đoàn kết và hợp tác trong ASEAN, những vấn đề khó khăn mà ASEAN đang
gặp phải, quá trình hình thành các giá trị, chuẩn mực và lợi ích chung ở khu vực,
các thách thức và cơ hội do chủ nghĩa khu vực và liên kết khu vực ở Đông Nam
20. 10
Á đang tạo ra. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ tập trung vào nghiên cứu chủ nghĩa khu
vực do ASEAN thúc đẩy ở Đông Nam Á, chứ chưa xem xét vai trò rộng hơnc ủa
ASEAN trong liên kết khu vực ở Đông Á.
Học giả chuyên nghiên cứu về ASEAN và đến từ chính khu vực Amitav
Acharyađã có nhiều công trình chuyên sâu về ASEAN, trong đó cuốn đáng chú ý
nhất là:Constructing a Security Community in Southeast Asia-Xây dựng Cộng
đồng an ninh ở Đông Nam Á, 2nd edition, Routledge, 2013. Cuốn sách này đã
chỉ ra bản chất và phương thức hoạt động của ASEAN, phân tích sự hình thành
và vận động của các chuẩn mực dưới hình thức Phương cách ASEAN và quá
trình kiến tạo bản sắc ở khu vực.Amitav Acharya nghiên cứu sâu về quá trình
ASEAN xử lý các vấn đề nảy sinh về an ninh ở khu vực, trong nỗ lực xây dựng
một cộng đồng an ninh ở Đông Nam Á theo khái niệm an ninh toàn diện. Qua
đó, Amitav chỉ ra rằng những chuẩn mực mà ASEAN đã tạo dựng được sẽ là nền
tảng quan trọng cho việc định hình vai trò của ASEAN trong chủ nghĩa đa
phương khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, đúng với tên gọi của cuốn
sách, tác giả mới đi sâu vào khía cạnh an ninh và chưa đánh giá bản chất hoạt
động của ASEAN dưới nhiều lăng kính khác, nhất là kinh tế, vốn không kém
phần quan trọng. Hơn nữa, vai trò, vị trí của ASEAN ở khu vực rộng hơn ngoài
Đông Nam Á mới chỉ được tác giảđề cập một phần trong khuôn khổ những đóng
góp của ASEAN tại ARF.
Trong một công trình nghiên cứu chuyên sâu về ASEAN và chủ nghĩa
khu vực ở Đông Á và Đông Nam Á: (Re)Negotiating East and Southeast Asia:
Region, Regionalism and the Association of Southeast Asian Nations, Stanford
University Press 2009 – (Tái đàm phán Đông Á và Đông Nam Á: khu
vực,chủnghĩa khu vực và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), Alice Ba
tiếpcậnthuyếtkiếntạo xã hội để lý giải về quá trình ASEAN tạodựng các
chuẩnmực trong hợp tác khu vực, thúc đẩy văn hóa đốithoại và hình thành các
thể chế để đóng góp cho việc ổn định quan hệgiữa các quốc gia trong khu vực,
xây dựngnhững khuôn khổhợp tác ở Đông.Cuốn sách tập trung phân tích về quá
21. 11
trình ASEAN củng cố và phát huy sức mạnh như một khối thống nhất ở Đông
Nam Á và nỗ lực thúc đẩy liên kết khu vực của ASEAN. Tuy nhiên, phần nghiên
cứu về vai trò của ASEAN trong liên kết Đông Á chỉ mới dừng ởđánh giá về tác
động của khủng hoảng tài chính 1997-1998 thôi thúc ASEAN khởi xướng tiến
trình ASEAN+3 cũng như vai trò của ARF và quan hệ giữa ASEAN với các
nước lớn ở khu vực.
Richard Stubbs (2006), “Power to the weak: ASEAN’s role in East Asian
Regionalism”, (Quyền lực cho kẻ yếu: vai trò của ASEAN trong chủ nghĩa khu
vực Đông Á) paper presented at the “Comparative Regional Integration - Towards
a Research Agenda” Workshop of the ECPR - Nicosia, Cyprus, 25-30 April, 2006.
Amitav Acharya, “East Asia’s New Multilateralism: Hopes and Illusions,” 2007,
(http://amitavacharyaacademic.blogspot.com/2007/03); Alice D. Ba, “ASEAN in
East Asia,” (2007), trình bày tạithe ASEAN 40th Anniversary Conference, 7),
007/03 Hopes and Illusions,” 2007 of the ECPR, the ASEAN 40th Anniversary
Conference, 7), 007/03 Hopes and Illusions,” 2007 of the ECPR - Nicosia,
CSingapore 31 July – 1 August 2007. Sheldon Simon, “ASEAN and
Multilateralism: the Long, Bumpy Road to Community”, (ASEAN Contemporary
Southeast Asia, Vol. 30, No. 2 (2008); Amitav Acharya, “Asian Regional
Institutions and the Possibilities for Socializing the Behavior of States,” (Các thể
chế khu vực châu Á và khả năng xã hội hóa hành vi của các quốc gia), Paper
Prepared for the Institutions for Regionalism Project, Asian Development Bank,
2009; John Ravenhill, “The 'New East Asian Regionalism': A Political Domino
Effect,” (Chủ nghĩa khu vực mới ở Đông Á: hiệu ứng Domino chính trị), Review of
International Political Economy, vol.17, no. 2 (2010); Lee Jones, “Still in the
Drivers’s seat, But for How long? ASEAN’s capacity for leadership in East Asian
international relations”, (Vẫn ngồi ở vị trí cầm lái, nhưng trong bao lâu? Khả năng
lãnh đạo của ASEAN trong quan hệ quốc tế Đông Á), Tạp chí Current Southeast
Asian Affairs, 2010; Rizal Sukma, “ASEAN and Regional Security in East Asia”,
(ASEAN và An ninh khu vực ở Đông Á), trong Panorama: Insights into Asian and
22. 12
European affairs, Konrad Adenauer Stiftung 2010; Kei Koga, “Competing
Institutions in East Asian Regionalism, ASEAN and the Regional Powers”, (Các
thể chế cạnh tranh trong chủ nghĩa khu vực Đông Á, ASEAN và các cường quốc
khu vực), trong Pacific Forum CSIS, Issues and Insights, Vol 10, No. 23, October
2010; Pek Koon Heng, ASEAN Integration 2030: The US Perspectives, ADBI
Working Paper Series No. 367, July 2012; Joshua Kurrlantzick, “ASEAN’s Future
and Asian Integration”, (Tương lai của ASEAN và Liên kết châu Á), bài viết cho
International Institutions and Global Governance Program, Council on Foreign
Relations, November 2012;Termsak Chalermpalanupap, “Understanding the
ASEAN Centrality”, (Tìm hiểu vai trò trung tâm của ASEAN), ASEAN Insights,
Vol. 4, Tháng 9/2014; Fithra Faisal Hastiadi (2014), “ASEAN+3: the way
forward”, (ASEAN+3: con đường lên phía trước), ASEAN Insights,Vol. 4,
September 2014. See Seng Tan (2014), “ASEAN, going it alone? Not quite”
(ASEAN, đi một mình? Không hẳn), E-international relations,
2/7/2014);Richard Stubbs (2014), “ASEAN’s leadership in East Asian region
building, strength in weakness”, (Vai trò lãnh đạo của ASEAN trong xây dựng
khu vực Đông Á: thế mạnh trong điểm yếu), The Pacific Review, 2014/8/8;
David M. Jones (2015), “ASEAN and the Limits of Regionalism in Pacific
Asia”, (ASEAN và những hạn chế của chủ nghĩa khu vực ở Châu Á-Thái Bình
Dương), Robert Schuman Centre for Advanced Studies Research Paper No.
RSCAS 2015/16.Alagappa, M. (2015), “Community-building: ASEAN’s
millstone?”, (Xây dựng cộng đồng: cối xay đá của ASEAN?) in PacNet No. 18,
Pacific Forum CSIS, 19/3/2015.Benjamin Ho (2015), “The Future of ASEAN
Centrality in the Asia Pacific Regional Architeture”, (Tương lai vai trò trung tâm
của ASEAN trong cấu trúc khu vực châu Á – Thái Bình Dương), Yale Journal of
International Affairs, 24/6/2015.
Trong toàn bộ các bài viết kể trên, các tác giả đãđưa ra nhiều đánh giá về
thực trạng, quá trình vận động và xu hướng phát triển của liên kết khu vực ở Đông
Á và về ASEAN, ghi nhận vai trò tích cực và nòng cốt của ASEAN trong các tiến
23. 13
trình hợp tác khu vực. Tuy nhiên, trong phạm vi những gì đãđọc, tác giả chưa thấy
có 1 công trình nào dành riêng phân tích tổng hơp và chuyên sâu về vai trò của
ASEAN trong hợp tác và liên kết khu vực. ASEAN được đề cập không ít trong
gần như hầu hết các cuốn sách và bài viết về hợp tác ở khu vực này, nhưng chủ
yếu chỉ qua những đánh giá ngắn về động thái của ASEAN qua các diễn biến như
mở rộng EAS, lập ADMM+… chưa có đánh giá toàn diện về toàn bộ quá trình
tham gia và đóng góp của tổ chức này trong liên kết khu vực ở Đông Á.
2.2 Các công trình nghiên cứu trong nước
Các học giả trong nước cũng có nhiều công trình nghiên cứu về liên kết
Đông Á và ASEAN, trong đó, đáng kể đến là: Nguyễn Duy Quý, Tiến tới một
ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển bền vững, NXB Chính trị Quốc gia 2001;
Trần Khánh (chủ biên), Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội 2002; Vũ Dương Ninh, Việt Nam – ASEAN, Quan hệ song
phương và đa phương, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội 2004; Phạm Đức
Thành (Chủ biên), Liên kết ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI, NXB KHXH,
HN – 2006; Phạm Đức Thành, Trần Khánh (đồng chủ biên), Việt Nam trong
ASEAN: Nhìn lại và hướng tới, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội 2006;
Nguyễn Thu Mỹ, Hợp tác ASEAN+3, Quá trình và phát triển, Thành tựu và triển
vọng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2007; Liên kết ASEAN hiện nay và
sự tham gia của Việt Nam, (Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị
Quế đồng chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008.Hoàng Khắc Nam, Hợp
tác đa phương ASEAN+3, vấn đề và triển vọng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, 2008. Lê Hồng Hà, ASEAN: từ Hiệp hội đến Cộng đồng,
những vấn đề nổi bật và tác động đến Việt Nam, Nhà xuất bản báo Nhân Dân
2012; Lê Hồng Hà, ASEAN từ hiệp hội đến cộng đồng – những vấn đề nổi bật và
tác động đến Việt Nam, Nhà xuất bản báo Nhân Dân, 2012. Trương Duy Hòa
(chủ biên), Hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN, Bối cảnh, tác động và những vấn
đề đặt ra, Nhà xuất bản Khoa học và Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Đông
Nam Á, 2013; Trần Khánh (chủ biên), Hiện thực hóa Cộng đồng Chính trị-An
24. 14
ninh ASEAN: Vấn đề và triển vọng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội 2013; Nguyễn
Văn Hà (chủ biên), Hiện thực hóa Cộng đồng Kinh tế ASEAN và tác động đến
Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội2013; Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Anh
Thu, Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Bối cảnh và kinh nghiệm quốc tế, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội 2015.
Các bài viết đáng chú ý có: Hoàng Khắc Nam: “Hợp tác Đông Á – những
trở ngại của lịch sử”, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 5 (47),
2003; “Quá trình xây dựng thể chế khu vực Đông Á và ASEAN+3”, Tạp chí
Khoa học, chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập XIX, số 3, 2003.
Nguyễn Duy Dũng, “Xây dựng Cộng đồng Đông Á: Những thách thức chủ yếu”.
Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7/67, 2006. "Cộng đồng ASEAN: Trong
nhận thức và quan điểm của Việt Nam", PGS,TS Nguyễn Thu Mỹ - Viện Nghiên
cứu Đông Nam Á và "Việt Nam và công cuộc xây dựng Cộng đồng ASEAN",
Nguyễn Thu Mỹ + Lê Phương Hoà, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số
7/2008.Nguyễn Thu Mỹ, “Môi trường an ninh Đông Á những năm đầu thế kỷ
XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, 2007. Nguyễn Thu Mỹ, “Phản
ứng chính sách của các nước ASEAN trước sự biến động địa chính trị Đông Á
trong thập niên đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2010.
Luận Thùy Dương, “Vai trò của ASEAN trong việc xây dựng cộng đồng Đông
Á”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 57, 2004. Luận Thuỳ Dương, “Tiến trình xây
dựng Cộng đồng Đông Á: Động lực và trở ngại”. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số
64, 2008. Phạm Văn Minh, “Sự chuyển dịch địa-chính trị khu vực Đông Á trong
thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Thông tin nghiên cứu quốc tế,
số 1/25, 2009; Vũ Lê Thái Hoàng, “Đặc điểm và xu hướng biến động của trật tự
Đông Á hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2010. Trần Khánh,
“Lợi ích chiến lược của các nước lớn tại Đông Á trong thập niên đầu thế kỷ XXI”,
Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2010. Trần Khánh (2013),“Vai trò của
ASEAN trong kiến tạo cấu trúc an ninh mới ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 1, 2013. Nghiêm Tuấn Hùng
25. 15
(2014), “Phản ứng của khu vực Đông Nam Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc
những năm đầi thế kỷ XXI”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế& chính trị thế giới, số
4 (216)/2014. PGS TS Trần Minh Sơn, “Những chuyển động trong cấu trúc an
ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
22/1/2015; Trần Khánh, Hồ Thị Ái Phương (2015), “Triển vọng ASEAN và sự chi
phối của các nước lớn-Những thách thức đối với Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu
Đông Nam Á, số 4(181), 2015.
Các công trình nghiên cứu kể trên của các tác giả trong nước đã cung cấp
những góc nhìn khá sâu về chủ nghĩa khu vực và các thể chế đa phương ở Đông
Á về ASEAN và quá trình xây dựng, phát triển của Cộng đồng ASEAN, các tiến
trình hợp tác khu vực ở Đông Á do ASEAN khởi xướng như ASEAN+3, với
những đánh giá và phân tíchtrên quan điểm của Việt Nam. Các công trình nghiên
cứu kể trên đều ít nhiều đề cập đến sự tham gia và đóng góp của ASEAN trong
hợp tác và liên kết khu vực ở Đông Á nhưng chưa dành hàm lượng phân tích
nhiều về ASEAN như một thực thể có vai trò trong tiến trình liên kết khu vực.
Hơn nữa, chưa có công trình nào đi sâu vàđưa ra được bức tranh toàn cảnh về vị
trí, vai trò của ASEAN trong tổng thể tiến trình hợp tác và liên kết ở Đông Á.
Các vấn đề được nêu chỉ là một hoặc một số mảng nổi lên trong tiến trình liên
kết khu vực như hợp tác về an ninh, về kinh tế, về ứng phó với các thách thức
xuyên quốc gia; một số cơ chế đáng chú ý trong đó ASEAN đóng vai trò chủ đạo
như ASEAN+3, ARF v.v. nhưng chưa được xâu chuỗi với nhau thành một góc
nhìn tổng thể. Cùng với diễn biến nhanh và đa dạng của xu thế hợp tác đa
phương ở khu vực, những tiến triển mới cũng chưa thể được cập nhật đầy đủ
trong các công trình nghiên cứu xuất bản gần đây.
Điều này khiến tác giả quyết định đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu về vai trò
của ASEAN trong hợp tác và liên kết khu vực Đông Á. Đây cũng là vấn đề
mang tính thời sự, được sự quan tâm và chú ý của nhiều nhà nghiên cứu chính
sách cũng như các học giả, trong bối cảnh xu thế hợp tác ở Đông Á ngày càng
gia tăng. Dự kiến luận án sẽ kế thừa và tiếp nối các công trình nghiên cứu đã có,
26. 16
sử dụng các lý luận liên quan phù hợp để phân tích và chứng minh vai trò của
ASEAN trong liên kết khu vực Đông Á.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Làm rõ vai trò của ASEAN trong tiến trình hợp tác, liên kết
tại Đông Á, nhất là giai đoạn kể từ sau năm 1997 qua các câu hỏi cụ thể sau:
+ Liệu ASEAN có vai trò đối với tiến trình hợp tác và liên kết ở khu vực
Đông Á hay không?
+ Dựa trên kết quả nghiên cứu, Việt Nam cần phải điều chỉnh gì để thúc
đẩy vai trò của ASEAN ở khu vực Đông Á và tranh thủ các lợi ích cho đất nước?
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
i) Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của liên kết khu vực ở Đông
Á và vai trò của ASEAN với tư cách nhóm các quốc gia vừa và nhỏ.
ii) Đánh giá quá trình vận động của ASEAN để tạo lập vai trò trong tiến
trình này.
iii) Dự báo triển vọng vai trò của ASEAN trong liên kết khu vực ở Đông
Á, và kiến nghị chính sách đối với Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là vai trò của ASEAN trong
thúc đẩy liên kết khu vực, đối tượng nghiên cứu kiến nghị chính sách là định
hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam khi tham gia ASEAN cũng như trong
các tiến trình hợp tác và liên kết ở khu vực giai đoạn tiếp theo.
- Phạm vi không gian là kKhu vực Đông Á theo phạm vi địa lý mở rộng,
tức là không chỉ bó hẹp giữa các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á, mà bao
gồm cả các nước có lợi ích và ảnh hưởng ở khu vực, cụ thể là các nước đang
tham gia vào tiến trình hợp tác Đông Á do ASEAN chủ trì gồm:ASEAN và 8
nước Đối tác Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, Mỹ, Australia và
New Zealnd.
- Phạm vi thời gian: từ năm 1997 khi ASEAN khởi xướng khuôn khổ hợp
tác ASEAN+3, cho đến năm 2015 (mốc hình thành Cộng đồng ASEAN), dự báo
đến 2020.
27. 17
5.Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được áp dụng là phương pháp lịch sử, hệ thống,
phân tích quá trình, quy nạp và dự báo. Sử dụng tư duy biện chứng, có kết hợp
giữa so sánh lý thuyết và thực tiễn.
6.Nguồn tài liệu
Luận án được dựa trên nguồn tài liệu gốc là nguồn thông tin chính thức từ
các văn kiện, thỏa thuận, quyết sách của chính tổ ASEAN, phát biểu của Lãnh
đạo các nước ASEAN, các văn kiện về đường lối, chính sách đối ngoại của Việt
Nam và phát biểu của Lãnh đạo Việt Nam. Ngoài ra, luận án cũng sẽ sử dụng
các tài liệu, tìm đọc các công trình khoa học đã công bố viết về ASEAN, về cấu
trúc khu vực, về Đông Á, của các tác giả trong và ngoài nước.
7. Những đóng góp của luận án
- Luận án được hoàn thành dự kiến sẽ đóng góp một góc nhìn khoa học,
toàn diện hơn về vai trò của ASEAN trong các tiến trình hợp tác và liên kết khu
vực ở Đông Á, dự báo đến 2020 và kiến nghị định hướng chính sách của Việt
Nam khi tham gia ASEAN nhằm thúc đẩy vai trò của ASEAN và khai thác tối đa
các lợi ích mang lại từ việc ASEAN phát huy vai trò ở khu vực.
- Về học thuật: luận án sẽ góp phần củng cố thêm luận điểm đãđược nhiều
nhà lý luận theo trường phái tự do thể chế và chủ nghĩa kiến tạo áp dụng để giải
thích về các vấn đề hợp tác khu vực; đồng thời tiếp tục phát triển và bổ sung cho
các công trình nghiên cứu đã có trước đó về vai trò của các nước vừa và nhỏ
trong quan hệ quốc tế.
- Về chính sách: trong bối cảnh mốc hình thành Cộng đồng ASEAN đang
đến gần, các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng cần xây dựng một
định hướng chính sách cho giai đoạn phát triển mới của ASEAN sau 2015.
Riêng đối với Việt Nam, trong bối cảnh triển khai Nghị quyết hội nhập toàn diện
do Bộ Chính trị thông qua năm 2012, chuẩn bị cho xây dựng đường lối chính
sách đối ngoại tại Đại hội XII, luận án mong muốn sẽ đóng góp những kiến nghị
chính sách mang tính khoa học và toàn diện cho sự tham gia của Việt Nam trong
28. 18
thúc đẩy vài trò của ASEAN trong tiến trình liên kết và hợp tác Đông Á trong
tương lai.
- Về đào tạo: luận án có thể được coi là một nguồn tài liệu tham khảo cho đào
tạo ở hệ cử nhân, sau đại học cho các chuyên đề về ASEAN và liên kết khu vực.
8.Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 3 chương chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của liên kết khu vực ở Đông Á.
Chương này tập trung làm rõ: i) Cơ sở lý luận của liên kết khu vực, vai trò của
các nước vừa và nhỏ trong quan hệ quốc tế, các tiêu chí đánh giá vai trò của một
tổ chức khu vực ii) Tiến trình liên kết khu vực ở Đông Á từ sau Chiến tranh
Lạnhđến 2015, làm nền tảng cho phân tích ở chương sau về vai trò của ASEAN
trong tiến trình này.
Chương 2: Quá trình ASEAN tạo dựng và khẳng định vai trò trong
hợp tác, liên kết khu vực
Chương 2 đi sâu vào phân tích quá trình vận động của ASEAN để tạo dựng vai
trò trong hợp tác và liên kết ở khu vực Đông Á thông qua các giai đoạn lịch sử
cụ thể, đồng thời, rút ra những nhân tố cơ bản giúp ASEAN có được vai trò này.
Chương 3: Triển vọng liên kết ở Đông Á, vai trò của ASEAN và các
khuyến nghị đối với Việt Nam
Chương 3, trên cơ sở dự báo về chiều hướng hợp tác và liên kết ở Đông Á, đưa
ra các kịch bản về triển vọng vai trò của ASEAN trong tiến trình này trong tương
lai, qua đó, đề xuất các khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam.
Do điều kiện thời gian và hoàn cảnh, năng lực có hạn, Luận án “Vai trò
của ASEAN trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực Đông Á” chắc chắn
không tránh khỏi các khiếm khuyết, kính mong các Thầy cô trong Hội đồng
quan tâm góp ý để em có thể tiếp tục bổ khuyết và hoàn thiện thêm nội dung
Luận án.
29. 19
CHƯƠNG 1:
VẤN ĐỀ LIÊN KẾT KHU VỰC TRONG QUAN HỆ
QUỐC TẾ - LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN Ở ĐÔNG Á
Khái niệm liên kết khu vực hoặc chủ nghĩa khu vực hay khu vực hoá, ở
các mức độ khác nhau, phản ánh tiến trình liên kết về chính trị, kinh tế, hợp tác
an ninh và hình thành bản sắc ở các khu vực và được đề cập ngày càng nhiều
như những thành tố quan trọng của hệ thống quan hệ quốc tế.
Làn sóng liên kết khu vực đáng kể đầu tiên được ghi nhận tại châu Âu vào
những năm 1950-1960, với sự hình thành Liên minh châu Âu (EU) sau Chiến
tranh thế giới thứ Hai, làn sóng liên kết khu vực lớn thứ hai đã xuất hiện tại
Đông Á, với động lực đến từ các nhu cầu phát triển kinh tế năng động tại khu
vực, và diễn ra trong bối cảnh tiến trình toàn cầu hóa đang lan rộng [35; tr.11-
12]. Tại Đông Á, mặc dù các ý tưởng về hợp tác và liên kết khu vực đã manh
nha từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, phải đến khi Chiến tranh Lạnh kết thúc,
xu hướng này mới thực sự trở nên rõ nét. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính
những năm 1997-1998 đãđánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong tiến trình hợp
tác và liên kết khu vực ở Đông Á.
Chương này sẽ tập trung tìm hiểu một số khía cạnh lý thuyết của liên kết
và hợp tác ở cấp độ khu vực, vai trò của các nước vừa và nhỏ trong quan hệ quốc
tế và trên cơ sở đó, nhìn nhận lại thực tiễn hợp tác và liên kết khu vực ở Đông Á
từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay.
1.1. Lý thuyết về liên kết khu vực
1.1.1. Khái niệm
Liên kết khu vực theo hướng khu vực hoá là hình thức liên kết đã và đang
được xúc tiến mạnh mẽ ở nhiều khu vực địa lý khác nhau trên thế giới. Đây là
kiểu liên kết đa phương giữa các nhóm nước, dựa trên sự gần gũi về mặt địa lý,
theo đó các quốc gia láng giềng có trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị-xã
hội và tôn giáo-văn hoá khác nhau vẫn có thể hợp tác, liên kết với nhau nhằm
30. 20
hướng đến các mục tiêu chung[29]. Quá trình liên kết khu vực bắt nguồn từ
những nhu cầu nội tại của mỗi nước, trong đó căn bản là các nhu cầu về an ninh,
phát triển và nâng cao vị thế. Như vậy, liên kết là sự gắn kết hay hợp nhất một
cách tự nguyện của hai hay nhiều chủ thể vào một thực thể hay tổ chức mới, mà
ở đó các chủ thể tham gia cùng chia sẻ những nguyên tắc, luật lệ và giá trị
chung, nhưng lại không mất đi bản sắc đặc trưng, sẵn có của mình.
Liên kết khu vực là sự tập hợp một cách tự nguyện các nguồn lực của các
quốc gia, dân tộc khác nhau trên cùng một đơn vị địa lý, sinh thái cho một mục
đích tiến bộ chung, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định chính trị-xã hội,
hạn chế tác động tiêu cực từ bên ngoài, nâng cao khả năng cạnh tranh và vai trò
của mình trên trường quốc tế. Theo định nghĩa của Haas Ernst B., liên kết khu
vực là quá trình qua đó các quốc gia “tự nguyện tương tác, hòa trộn và trộn lẫn
với các nước láng giềng nhằm làm mất đi các thuộc tính thực tế về chủ quyền
trong khi đạt được các kỹ năng mới trong giải quyết xung đột với nhau” [112;
tr.3-44]. De Lombaerde và Van Langehove mô tả nó như một hiện tượng toàn
cầu của các hệ thống lãnh thổ làm tăng sự tương tác giữa các thành tố và tạo nên
những hình thức tổ chức mới, cùng tồn tại với các hình thức truyền thống của tổ
chức do nhà nước dẫn dắt ở cấp độ quốc gia [90; tr.377-383]. Nói đơn giản hơn,
liên kết khu vực là tiến trình trong đó các quốc gia ở khu vực tăng cường tương
tác về kinh tế, an ninh, chính trị, hoặc các vấn đề văn hóa, xã hội thông qua các
thể chế và luật lệ chung [201; tr.1-9]. Nói cách khác, liên kết khu vực là việc các
quốc gia riêng lẻ trong một khu vực gắn kết lại với nhau thành một khối lớn hơn.
Mức độ liên kết phụ thuộc vào sự sẵn sàng và cam kết của các quốc gia độc lập
có chủ quyền để chia sẻ chủ quyền của mình.
Trong khi đó, khu vực hoá lại được nhìn nhận là “quá trình làm tăng tính
khu vực, làm thay đổi những sự khác nhau tương đối sang những yếu tố giống
nhau ngày càng nhiều, được xúc tiến bởi sự hợp tác và liên kết sâu rộng của các
quốc gia-dân tộc trong khuôn khổ tổ chức khu vực, nhằm tạo ra khối sức mạnh,
31. 21
có một bản sắc riêng khác với khu vực khác"[201; tr.1-9].Rõ ràng như vậy, liên
kết khu vực có thể hiểu như một tiến trình chung, khái niệm chủ nghĩa khu vực
thường được xem như tiến trình liên kết về chính trị do các quốc gia dẫn dắt còn
khu vực hoá là hình thức liên kết kinh tế được thúc đẩy bởi các hoạt động của
các doanh nghiệp, mặc dù chịu sự tác động của các chính sách của nhà nước
[83].Khi quá trình liên kết khu vực giữa các quốc gia dân tộc trong cùng một khu
vực địa lý đạt đến mức độ cao, kết quả có thể là sự hình thành một thực thể kinh
tế-xã hội và chính trị mới. Ví dụ điển hình là sự ra đời và phát triển của Liên
minh châu Âu (EU) với mức độ nhất thể hoá cao. Bên cạnh đó, các loại hình liên
kết và hợp tác khu vực khác cũng phát triển ngày càng phong phú và đa dạng,
đặc biệt là ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương (các cơ chế APEC, ASEAN) và
liên khu vực Á-Âu (ASEM).
Cơ sở lý luận của liên kết khu vực, xuất phát từ thuyết “lợi thế so sánh
trong thương mại quốc tế” ra đời vào cuối thập niên 40, đầu thập niên 50 của thế
kỷ XX. Theo đó, liên kết khu vực phải bắt đầu từ liên kết kinh tế để “tạo lập
thương mại” và“chuyển hướng thương mại” “Tạo lập thương mại” được thực
hiện thông qua loại bỏ các phân biệt đối xử nhằm tạo thuận lợi cho việc giao lưu
hàng hoá giữa các nước thành viên. “Chuyển hướng thương mại” được thực hiện
nhằm giúp các nước thành viên tiêu thụ hàng hoá của nhau210. Qua đó, từng
nước thành viên có thể khai thác tối đa lợi thế so sánh, tận dụng các nguồn lực sẵn
có để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách hiệu quả nhất, trên nguyên tắc cùng
có lợi.
1.1.2. Các hình thức liên kết kinh tế
Theo quan điểm củaBela Balassa, tiến trình liên kết kinh tế khu vực có 5
cấp độ tuần tự để đạt đến liên kết toàn diện [83; tr.13], bao gồm:
i) Ký kết và thực hiện các Hiệp định thương mại tự do: Các nước thành
viên cùng nhau thực hiện các biện pháp cắt giảm thuế quan và ưu đãi cho các
bên đối tác.
32. 22
ii) Lập Liên minh thuế quan: Các nước thành viên tiếp tục thực hiện tự do hoá
thương mại bên trong, đồng thời áp dụng mức thuế quan chung đối với bên ngoài.
iii) Lập thị trường chung thống nhất: Các nước thành viên xoá bỏ hoàn
toàn thuế quan, đồng thời cho phép sự di chuyển tự do của các yếu tố sản xuất
trong khối. Ở mức độ liên kết này, các nước thành viên cũng có sự hoà nhập ở
mức độ nhất định về chính sách kinh tế.
iv) Hình thành liên minh kinh tế: nơi các nước thành viên hài hòa hóa các
chính sách, loại bỏ các hạn chế đối với các mặt hàng và yếu tố sản xuất.
v) Liên kết kinh tế toàn diện: Đây là hình thức liên kết kinh tế toàn diện
và cao nhất, theo đó các nước thành viên có chính sách tiền tệ (có đồng tiền
chung), tài khoá, xã hội, công nghiệp chung. Một bộ máy chính quyền siêu quốc
gia sẽ được thành lập để ra quyết định, giám sát và quản lý quá trình này.
Đây là các cấp độ liên kết mà có thể sử dụng để nghiên cứu các cấu trúc
liên kết khu vực đã và đang hình thành mà có sự tham gia của ASEAN.
Trên cơ sở các tính chất, đặc điểm của tiến trình liên kết theo hướng khu
vực hoá, có thể phân loại liên kết khu vực ra thành 3 loại hình chính[83; tr.19]:
i) Liên kết tự nhiên: Liên kết dựa hoàn toàn trên cơ sở lợi thế so sánh
trong thương mại quốc tế, đòi hỏi các nước thành viên có trình độ phát triển kinh
tế, chế độ chính trị và các đặc điểm văn hoá-xã hội tương đồng, tự nguyện liên
kết với nhau để tạo lập thị trường chung, sau đó là liên minh kinh tế và tiền tệ.
Ví dụ điển hình của hình thức liên kết này là Liên minh châu Âu (EU).
ii) Hình thức liên kết “lai ghép”: Là hình thức liên kết tự nhiên (theo kiểu
EU) nhưng có sự giúp đỡ của các định chế quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ
Tiền tệ Quốc tế… Ví dụ của kiểu liên kết này bao gồm Cộng đồng Kinh tế các
nước Tây phi (ECWAS) và Khối Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR).
Tuy nhiên, hình thức liên kết này cho đến nay chưa thực sự mang lại hiệu quả
như mong muốn, do tình trạng kém phát triển ở các nước thành viên và sự lệ
thuộc nước ngoài ngày càng gia tăng của các nước này.
33. 23
iii) Hình thức liên kết thứ ba: Hình thức liên kết này chú trọng giải quyết
các vấn đề liên quan đến sự phụ thuộc bên ngoài của các nước ở trình độ phát
triển kém hơn và tạo điều kiện cho các nước này liên kết với các nước có trình
độ phát triển cao hơn, thông qua các biện pháp và cơ chế đền bù cho những nước
bị thiệt hại nhiều hơn trong quá trình hội nhập.
Trên thực tế, dù liên kết dưới hình thức và loại hình nào, điều quan trọng
để liên kết mang lại kết quả tích cực là các nước thành viên cần có một tầm nhìn
và chiến lược tổng thể, nhất quán và lâu dài. Nói cách khác, chính sách hội nhập
của mỗi nước cần xuất phát từ nhu cầu nội tại của nước đó, để tránh những ảnh
hưởng tiêu cực hoặc can thiệp từ bên ngoài. Trong nhiều trường hợp, liên kết
cũng đòi hỏi các nước thành viên phải “từ bỏ” một phần chủ quyền quốc gia
hoặc một số chức năng truyền thống của nhà nước; đồng thời các chính sách hội
nhập đưa ra cũng không được mâu thuẫn với lợi ích quốc gia.
Liên kết khu vực đã trở thành một đặc điểm quan trọng của hệ thống quốc
tế đương đại. Nhiều quan điểm thậm chí cho rằng thế giới ngày nay là thế giới
của các“khu vực” và hệ thống quốc tế ngày nay được xác định bởi sự tương tác
giữa các khu vực và các cường quốc khu vực [84]. Cùng với đó, chủ nghĩa khu
vực” (regionalism) cũng trở thành chủ đề được quan tâm lớn trong các nghiên
cứu về hệ thống quốc tế. Phần này sẽ tập trung vào các mảng lý luận quan hệ
quốc tế liên quan đến vấn đề liên kết và hợp tác nói chung cũng như liên kết khu
vực và vai trò của các tổ chức khu vực nói riêng.
1.2. Các luận điểm chính về liên kết và hợp tác khu vực trong lý thuyết quan
hệ quốc tế
1.2.1. Chủ nghĩa tự do
Trường phái liên chính phủ do Stanley Hoffman và Andrew Moravcsiks
thúc đẩy khai thác sâu hơn khía cảnh vai trò của các chính phủ trong tiến trình
liên kết khu vực. Theo Hoffmann, tiến trình liên kết ở châu Âu là quá trình chính
phủ các quốc gia tự nguyện tham gia các hiệp định nhằm phối hợp giải quyết các
34. 24
vấn đề chung. Quyền lực vẫn thuộc về chính phủ các quốc gia thành viên và các
quyết định được đưa ra trên cơ sở nhất trí, chủ yếu là sự đồng thuận giữa các
cường quốc. Tiến trình liên kết chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các chính phủ
thành viên, mang tính chất liên chính phủ nhiều hơn là tính chất siêu quốc gia, và
"tiến trình liên kết chỉ tiến triển trong phạm vi mà chính phủ các quốc gia mong
muốn mà thôi".
Học thuyết chủ nghĩa liên chính phủ tự do mới của Moravcsik có sự kết
hợp với cách tiếp cận của những người theo chủ nghĩa chức năng mới. Moravcsik
cho rằng lợi ích quốc gia được xác định là phần quan trọng của tiến trình vận động
trong nội bộ xã hội đa nguyên chính trị của quốc gia thành viên đó. Moravcsik sử
dụng phương pháp phân tích "trò chơi hai cấp" (two-level game) 182để giải
thích các cuộc mặc cả thương lượng trong nội bộ liên minh châu Âu. Nhu cầu liên
kết nảy sinh từ quá trình vận động chính trị nội bộ, và thế lực chính trị mạnh nhất
sẽ quyết định lợi ích và lập trường của chính phủ quốc gia đó khi tham gia đàm
phán hội nhập. Tuy nhiên, kết quả liên kết lại phụ thuộc vào kết quả đàm phán
quốc tế giữa quốc gia đó với những quốc gia khác, và kết quả đó sẽ tác động trở
lại đối với tiến trình chính trị nội bộ. Trong phân tích và lý giải tiến trình liên kết
khu vực ở châu Âu, Moravcsik kết luận: (i) tiến trình thương lượng liên chính phủ
giữa các quốc gia tham gia tiến trình liên kêt khu vực châu Âu giúp củng cố quyền
lực của Nhà nước trong chính trị nội bộ, (ii) liên kết không nhất thiết đồng nghĩa
với sự củng cố quyền lực cho các thể chế siêu quốc gia, (iii) nhà nước quốc gia
vẫn có thể được coi là tác nhân chính quyết định mức độ và tiến độ liên kết, và
mục đích liên kết là để duy trì quyền tự trị của nhà nước quốc gia thành viên.
Trường phái liên chính phủ chịu ảnh hưởng khá nhiều của chủ nghĩa hiện
thực mới, coi nhà nước là chủ thể chính trong chính trị quốc tế. K.J. Holsti, một
học giả theo trường phái tân hiện thực, kết luận rằng quan điểm lấy nhà nước
làm trọng tâm vẫn đứng vững trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc
dù không giải thích được tiến trình liên kết ở châu Âu, nhưng những luận điểm
của trường phái chủ nghĩa hiện thực mới có ảnh hưởng sâu sắc tới những lý luận
35. 25
ban đầu về chủ nghĩa khu vực hay còn gọi là những lý thuyết về liên kết cổ điển,
đặc biệt là chủ nghĩa liên chính phủ. Dựa trên những lập luận cơ bản của chủ
nghĩa hiện thực mới, trường phái này đặt trọng tâm vào vai trò của nhà nước, coi
nhà nước là chủ thể chính chi phối tiến trình liên kết.
Tiến trình liên kết và thể chế hoá phụ thuộc vào nhà nước, lợi ích và quan
hệ qua lại giữa các nhà nước với nhau. Cụ thể: (i) Nhà nước có chủ quyền trong
tài phán quốc gia và các vấn đề đối nội, cũng như trong chính trị đối ngoại nhằm
bảo đảm sự tồn tại của nhà nước và quốc gia đó; (ii) mục tiêu của nhà nước là duy
trì và đạt được hòa bình trong xã hội quốc tế vô trật tự, và nhà nước tham gia vào
hợp tác quốc tế nhằm thực hiện lợi ích quốc gia và nhà nước không phải phục tùng
bất kỳ thế lực quốc tế nào; (iii) vai trò trung tâm của nhà nước đãđem lại vị trí
quan trọng cho các chính phủ, các lãnh đạo, nguyên thủ quốc gia trong hoạch định
đường lối chính sách cho quốc gia. Mặc dù nhân tố phi nhà nước có vai trò ngày
càng tăng, nhưng nhà nước vẫn là nhân tố chính chịu trách nhiệm đàm phán về các
chuẩn tắc và luật lệ khi tham gia vào nền kinh tế quốc tế. Đặc biệt, trường phái
liên chính phủ đã tiếp nhận quan điểm của chủ nghĩa hiện thực mới khi nhấn mạnh
tác động của "quan hệ giữa các nước lớn" tới tiến trình liên kết.
Trong các trường phái chính thuộc Chủ nghĩa Tự do, Tự do thể chế là
mảng lý luận tập trung làm làm rõ vai trò của các tổ chức quốc tế trong quan hệ
quốc tế, và do đó tạo cơ sở cho việc phân tích các vấn đề về liên kết khu vực.
Theo thuyết Tự do thể chế, các cơ chế/thể chế mang tính chất liên chính
phủ đóng vai trò chính yếu trong việc đưa quan hệ quốc tế ra khỏi tình trạng vô
chính phủ hoặc bị bá quyền chi phối. Sở dĩ như vậy là do các cơ chế/thể chế này
đặt ra các luật lệ (rules) và quy chuẩn (norms) có tính ràng buộc cao đối với các
bên tham gia. Quá trình ra quyết định của các thể chế và tổ chức quốc tế có mức
độ minh bạch tương đối do luật lệ quy định, do đó góp phần khắc phục tình trạng
nước lớn dùng ý chí áp đặt các nước còn lại. Ngoài ra, sự tăng cường trao đổi
thông tin chính sách giữa các nước thành viên trong thể chế quốc tế cũng làm
giảm chi phí giao dịch, nâng cao hiệu quả hoạch định và triển khai chính sách
36. 26
cho các nước thành viên. Thuyết Tân chức năng tiền đề quan trọng của mảng lý
luận Tự do Thể chế, cho rằng trong giai đoạn đầu của quá trình liên kết, các quốc
gia hợp tác chủ yếu để giải quyết các vấn đề mang tính kỹ thuật và phi chính trị
Thành công của hợp tác trong các lĩnh vực này sẽ có hiệu ứng lan toả sang các
vấn đề mang tính chính trị thực sự. Từ đó, quá trình liên kết đạt được những
bước phát triển mới.
Theo quan điểm của chủ nghĩa tự do nói chung, quốc gia là chủ thể quan
trọng nhất, nhưng không phải là duy nhất của quan hệ quốc tế. Các chủ thể khác
bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế, các thể chế đa phương
và các cá nhân. Chủ nghĩa tự do nhấn mạnh tính hệ thống cũng như vai trò của
thể chế trong việc cung cấp thông tin, giảm chi phí giao dịch giữa các thành viên,
và do đó tạo thuận lợi cho hợp tác giữa các quốc gia, đặc biệt là hợp tác kinh tế.
Hợp tác đem lại lợi ích cho các nước nên các nước có nhu cầu hợp tác thông qua
việc thành lập các thể chế đểđạt mục tiêu một cách tốt nhất, đồng thời thúc đẩy
các nước tiếp tục hợp tác để giải quyết những mâu thuẫn.
Trong các trường phái chính thuộc Chủ nghĩa Tự do, Tự do thể chế là
mảng lý luận tập trung làm làm rõ vai trò của các tổ chức quốc tế trong quan hệ
quốc tế, và do đó tạo cơ sở cho việc phân tích các vấn đề về liên kết khu vực.
Theo thuyết Tự do thể chế, tổ chức và thể chế quốc tế đóng vai trò chính yếu
trong việc đưa quan hệ quốc tế ra khỏi tình trạng vô chính phủ hoặc bị bá quyền
chi phối. Sở dĩ như vậy là do các tổ chức/thể chế này đặt ra các luật lệ và quy
chuẩn (norms) có tính ràng buộc cao đối với các bên tham gia. Sự tồn tại của các
tổ chức và thể chế quốc tế cũng tạo điều kiện cho sức mạnh pháp lý dần thay thế
ý chí của các nước lớn do quá trình ra quyết định của các thể chế và tổ chức quốc
tế có mức độ minh bạch tương đối do luật lệ quy định, do đó góp phần khắc phục
tình trạng nước lớn dùng ý chí áp đặt các nước còn lại. Ngoài ra, việc tăng cường
trao đổi thông tin chính sách giữa các nước thành viên trong thể chế quốc tế giúp
nâng cao hiệu quả hoạch định và triển khai chính sách của các nước thành viên.
37. 27
Theo quan điểm của chủ nghĩa tự do nói chung, quốc gia là chủ thể quan
trọng nhất, nhưng không phải là duy nhất của quan hệ quốc tế. Các chủ thể khác
bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế và các thể chế đa
phương. Chủ nghĩa tự do nhấn mạnh tính hệ thống cũng như vai trò của thể chế
trong việc cung cấp thông tin, giảm chi phí chuyển tải và do đó tạo thuận lợi cho
hợp tác giữa các quốc gia, đặc biệt là hợp tác kinh tế. Tuy nhiên, các nhánh khác
nhau của chủ nghĩa tự do có cách giải thích khác nhau về nguyên nhân dẫn đến
hợp tác giữa các quốc gia. Nhánh“Tự do cổ điển” cho rằng các chủ thể hợp tác
được với nhau là nhờ sự tồn tại của các thể chế do con người lập nên nhằm tạo
thuận lợi cho trao đổi hợp tác và ngăn chặn việc dùng sức mạnh răn. Trong khi
đó, nhánh“Tân Tự do”, với đại diện tiêu biểu là Robert O. Keohane và Robert
Axelrod, cho rằng hợp tác thực hiện được là do các chủ thể, qua quá trình tương
tác liên tục, nhận thức được lợi ích của việc hợp tác[137]. Như vậy, lợi ích trong
hợp tác có hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy các chủ thể hợp tác tiếp tục để giải quyết
mâu thuẫn. Keohane và Nye, đại diện cho trường phái tân tự do nhấn mạnh
thuyết tuỳ thuộc lẫn nhau, cho rằng sự trao đổi qua lại tạo nên sự tuỳ thuộc lẫn
nhau, hình thành mạng lưới tuỳ thuộc trong đó các khía cạnh quốc gia và khu
vực mờ đi[136; tr.728].
Trường phái chủ nghĩa tân tự do còn có những dấu ấn quan trọng trong
nghiên cứu về vai trò của nhà nước, thuyết về sự phụ thuộc lẫn nhau, cho rằng
hợp tác giữa các quốc gia, chủ yếu là giữa các chủ thể nhà nước, được xúc tiến
khi các bên nhận thức được mối đe dọa chung, hoặc để đối phó với những mối
đe dọa mới xuất hiện như sự đình trệ kinh tế hay tình hình bất ổn định, gọi chung
là những vấn đề “xuyên biên giới" mà bất cứ quốc gia nào, dù mạnh đến đâu
cũng không thể một mình xử lý được. Luận điểm của chủ nghĩa tự do về kinh tế
thị trường và tự do thương mại, về sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế-
chính trị giữa các chủ thể trong hệ thống quốc tế có ảnh hưởng tới luận điểm cơ
bản của trường phái chức năng mới [16].
38. 28
Trường pháichức năng cho rằng liên kết kinh tế sẽ tạo ra sức ép dẫn tới
liên kết chính trị, và liên kết chính trị tới lượt nó sẽ thúc đẩy nhanh hơn nữa liên
kết kinh tế. Chia sẻ quan điểm của những người theo chủ nghĩa tự do cho rằng
"các cơ chế quốc tế và sự quản lý toàn cầu ở một mức độ nào đó là cần thiết để
đàm phán và thực thi các hiệp định toàn cầu", trường phái chức năng cũng nhằm
tới mục tiêu cuối cùng là tạo ra một sự liên kết khu vực, xây dựng một thể chế
siêu quốc gia theo mô hình liên bang (hoặc khu vực). David Mitrany là một
trong những thành viên khởi xướng của trường phái này cho rằng các quốc gia
ban đầu liên kết với nhau trên các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành hay kinh tế.
Sau đó, các quốc gia trong quá trình liên kết từng phần, tạo nên động lực mở
rộng ra các lĩnh vực khác. Đây được xem là “tác động lan truyền”. Tác động lan
truyền có hai dạng: chức năng và chính trị. Lan truyền chức năng trên các lĩnh
vực chuyên ngành, kinh tế, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Lan truyền chính
trị là việc tạo nên các mô hình siêu quốc gia, tầm cỡ như EU, hoặc Liên Hợp
Quốc. Một trong những học giả chủ xướng thuyết lan truyền này là Ernst Haas.
Haas là người áp dụng thuyết “tác động lan truyền” để lý giải cho quá trình liên
kết ở châu Âu. Theo Haas và những người theo chủ nghĩa chức năng, tiến trình
liên kết khu vực sẽ được thúc đẩy trên ba giả định: (i) tác động lan tỏa; (ii) cam
kết trung thành của các nhóm lợi ích chuyển từ cấp độ quốc gia sang thể chế khu
vực; (iii) vai trò quyết định của các thể chế siêu quốc gia đối với tiến trình liên
kết khi các thể chế này có quyền lực hơn và độc lập hơn với các quốc gia thành
viên (Hass sử dụng thuật ngữ sự độc lập của phái kỹ nghệ)[16]. Haas nhấn mạnh
rằng những kết quả tích cực đạt được do tác động lan truyền sẽ tạo ra sự thay đổi
trong cách đánh giá và động cơ của các chính trị gia đối với các vấn đề liên kết khu
vực. Haas cũng cho rằng không chỉ các chính trị gia mà cả giới thượng lưu trong xã
hội cũng ủng hộ tiến trình liên kết, và tính hợp lý mà các chính khách vốn tuân sẽ
bị mờ đi do sự tham gia của nhiều đối tượng khác nhau trong nỗ lực theo đuổi mục
tiêu liên kết. Haas chỉ ra rằng tác động lan truyền không phải đương nhiên theo một
số dạng của luật kinh tế mà dựa vào khả năng điểu chỉnh và thay đổi lòng trung
39. 29
thành và thái độ của các quốc gia trong cùng khu vực, cuối cùng hướng đến thúc
đẩy liên kết khu vực [110].
Mặc dù không rõ nét như chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do mới,
Karl Deutsch và những người theo trường phái "tương tác"chủ trương thông qua
tiếp xúc để xây dựng “tính cộng đồng”) cũng có ảnh hưởng nhất định đối với
những lý luận về liên kết khu vực ở châu Âu. Deutsch và những người đồng sự
phát triển khái niệm “cộng đồng an ninh”, nêu ý tưởng về một hiệp hội khu vực
mà ở đó nhu cầu hợp tác về cơ bản sẽ nổi trội hơn khuynh hướng xung đột. Mặc
dù tồn tại cạnh tranh về lợi ích, bất đồng và chênh lệch về sức mạnh, các thành
viên của cộng đồng an ninh vẫn tham gia vào một hệ thống quản lý dựa trên hiểu
biết chung và bản sắc tập thể, không chính thức, nhằm tìm giải pháp hòa bình
cho các tranh chấp. Đặc trưng của cộng đồng này là giữa các thành viên có sự tin
cậy lẫn nhau, có chung nguyện vọng hoà bình, do đó khả năng nổ ra chiến tranh
giữa các nước này là tương đối thấp. Luận điểm của Deutsch và những người
theo "chủ nghĩa tương tác" cho rằng liên kết là quá trình tiệm tiến trước hết ở
lĩnh vực kinh tế, văn hoá-xã hội và bản sắc chính trị, rồi tiến tới thể chế hoá
chính trị" đã có ảnh hưởng tới trường phái chức năng mới. Trường phái này cho
rằng chiến lược phù hợp nhất để đạt tới mục tiêu cuối cùng (tức là sự nhất thể
hoá khu vực) cần phải là một chiến lược từng bước, thông qua chính sách liên
kết trên từng lĩnh vực chức năng cụ thể để chuyển dần quyền lực từ cấp độ nhà
nước quốc gia sang trung tâm mới [16].
1.2.2. Chủ nghĩa Kiến tạo
Ra đời vào nửa sau thế kỷ XX, Chủ nghĩa Kiến tạo là một mô hình lý
thuyết không mang tính đồng nhất. Điểm đặc trưng căn bản của Chủ nghĩa Kiến
tạo là nhấn mạnh nhận thức chủ quan của từng quốc gia về bản sắc với vai trò là
biến số chính tác động đến cách nhìn nhận lợi ích quốc gia cũng như quan hệ
quốc tế. Alexander Wendt, một đại diện tiêu biểu của mảng lý thuyết này, cho
rằng“Tình trạng vô chính phủ do chính các quốc gia tạo nên” [209]. Như vậy,
40. 30
việc một hệ thông có trở nên vô chính phủ hay không tuỳ thuộc vào bản sắc chứ
không phải khả năng quân sự của các quốc gia. Bản sắc của các quốc gia được
hình thành thông qua quá trình tương tác và “xã hội hoá”.
Theo thuyết Kiến tạo xã hội, hai vấn đề quan trọng nhất đối với hợp tác
trong hệ thống quốc tế là sự đồng dạng về mặt thể chế và sự thể chế hoá các
chuẩn mực/quy tắc. Theo đó, sự đồng dạng về mặt thể chế là kết quả của quá
trình tương tác và tham gia trong một môi trường, theo đó có sự thay đổi về mặt
nhận thức và mô hình giữa các quốc gia theo hướng đồng nhất. Sự thay đổi này
gắn với thay đổi trong nhận thức về lợi ích quốc gia, nhằm phục vụ nhu cầu an
ninh, phát triển và ảnh hưởng của quốc gia đó. Có hai lý do chính cho việc các
quốc gia ủng hộ sự thể chế hoá các chuẩn mực/quy tắc: i) tránh phải trả giá cho
việc hành xử ngược với các chuẩn mực, quy tắc trong quan hệ quốc tế vốn được
chấp nhận rộng rãi; và ii) nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của quốc gia thông
qua sự thừa nhận của các quốc gia khác. Tuy nhiên, quá trình hình thành nên các
quy tắc và chuẩn mực này thường kéo dài và đầy khó khăn (quá trình “xã hội
hoá”), và kết quả của nó là sự gia tăng tính cộng đồng khu vực và quốc tế.
Khác với cách tiếp cận của trường phái chủ nghĩa hiện thực và tự do, chủ
nghĩa Kiến tạo nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hóa, ý tưởng, hệ tư tưởng và
sự “xã hội hóa”. Theo đó, hành vi của nhà nước được quyết định bởi niềm tin,
bản sắc cũng như các chuẩn mực cư xử xã hội của tầng lớp tinh hoa. Chủ nghĩa kiến
tạo dựa trên giả định rằng hệ thống quốc tế là một sự kiến tạo xã hội, trong đó hệ tư
tưởng, lịch sử và quá trình xã hội hóa có vai trò quan trọng trong chính sách của
mỗi nước và quan hệ quốc tế. Các cá nhân, cụ thể là các nguyên thủ quốc gia, với
những giá trị văn hóa và bản sắc gắn liền trong hoàn cảnh lịch sử của họ, đưa ra
quyết sách và vì vậy, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống quốc tế.
Trong khi chủ nghĩa hiện thực chủ yếu đề cập đến an ninh và sức mạnh vật
chất, chủ nghĩa tự do chủ yếu nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và các
yếu tố trong nước, chủ nghĩa kiến tạo quan tâm nhiều hơn tới vai trò của các ý
tưởng, bao gồm các mục tiêu, mối đe dọa, sự đồng nhất và các yếu tố khác có ảnh
41. 31
hướng tới nhà nước và các chủ thể phi nhà nước, trong việc định hình hệ thống
quốc tế. Theo các nhà lý luận Kiến tạo, vấn đề quan trọng sau chiến tranh lạnh là
việc các nhóm khác nhau nhìn nhận bản sắc và lợi ích của mình như thế nào. Quốc
gia sẽ hợp tác với nhau khi có cùng một bản sắc tập thể, nhìn nhận về lợi ích giống
nhau. Bản sắc là những khái niệm theo đó các nước nhận thức về mình và người
trong một tiến trình tương tác liên tục và dày đặc. Hợp tác sẽ lâu dài nếu quan hệ
giữa các nước được xây dựng trên bản sắc chung, gần về địa lý và có sự tương
đồng về lịch sử.
Theo Alexander Wendt, “các cấu trúc của tổ chức loài người được quyết
định chủ yếu bởi các ý tưởng chung chứ không phải các lực lượng vật chất, và
bản sắc và mối quan tâm của các chủ thể được xây dựng bởi những ý tưởng
chung chứ không phải do tự nhiên mà có” [209; tr.1] . Ông cũng như những nhà
lý luận của học thuyết này không nhìn nhận tình trạng vô chính phủ là cơ sở bất
biến của hệ thống quốc tế mà cho rằng tình trạng vô chính phủ là do các nhà
nước tự tạo ra; và các chuẩn mực xã hội định hình và thay đổi chính sách đối
ngoại theo thời gian chứ không phải an ninh là nhân tố làm thay đối như học
thuyết hiện thực khẳng định. Tình trạng vô chính phủ có thể chuyển thành một
“cộng đồng an ninh” mà ở đó các nước tin tưởng lẫn nhau và giải quyết xung đột
không xảy ra chiến tranh. Do đó hệ thống quốc tế vô chính phủ cũng là một kiến
tạo xã hội.
Nhà lý luận theo trường phái kiến tạo Amitav Acharya cũng cho rằng lợi
ích và bản sắc của các quốc gia không phải là tự có mà hình thành và phát triển
qua một quá trình tương tác và xã hội hóa, được kiến tạo bởi các cấu trúc xã hội.
Thông qua tương tác và xã hội hóa, các quốc gia có thể phát triển một bản sắc
chung để vượt qua chính trị quyền lực và tình thế tiến thoái lưỡng nan về an
ninh. Một ví dụ là chủ nghĩa khu vực ở Đông Nam Á hình thành bởi các lực
lượng có chung ý tưởng và việc xã hội hóa nhằm đạt được bản sắc chung. Các
yếu tố như quy tắc chung, sự bình đẳng và việc tránh tham gia các hiệp ước quân
sự của các cường quốc có tầm ảnh hưởng đối với việc hình thành một hình thái
42. 32
chủ nghĩa khu vực yếu và tương đối không thể chế hóa, được biết đến như“bản
sắc ASEAN” [42; tr.57-82].
Thuyết Kiến tạo giải thích về mô hình của chủ nghĩa khu vực ở châu Á,
một loại hình phản ánh rõ rệt hơn các chuẩn mực và văn hóa của các quốc gia
châu Á và bản sắc chung của họ - những quốc gia mới giành độc lập đang tìm
kiếm quyền tự chủ cho đất nước và cho cả khu vực. Những nhà kiến tạo biện
luận rằng sự thành lập ASEAN năm 1967 không thể giải thích dưới góc độ hiện
thực chủ nghĩa do thiếu vắng một mối đe dọa chung từ bên ngoài, hoặc bởi chủ
nghĩa tự do, vốn cho rằng cần phải có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước thành
viên. Không điều kiện nào kể trên xuất hiện trong mối quan hệ giữa các thành
viên sáng lập ASEAN thưở ban đầu. Thay vào đó, chủ nghĩa khu vực ở Đông
Nam Á là sản phẩm đến từ lý tưởng, chẳng hạn như những chuẩn mực chung, và
bản sắc chung đến từ quá trình xã hội hóa. Các chuẩn mực chung - bao gồm
nguyên tắc không can thiệp, bình đẳng giữa các quốc gia, và không trở thành
thành viên trong hiệp ước quân sự của các siêu cường - đã có ảnh hưởng đến việc
hình thành một dạng chủ nghĩa khu vực sơ khai và phi thể chế hóa, vốn được biết
đến với cái tên “Phương cách ASEAN.”
Các tổ chức khu vực do đó đã đã trở thành điểm cốt lõi trong các quan
điểm của chủ nghĩa kiến tạo về quan hệ quốc tế ở châu Á thời hậu chiến. Thông
qua các thiết chế khu vực châu Á, những nhà kiến tạo đã thử nghiệm và kiểm tra
những quan điểm của họ về vai trò của ý tưởng (ví dụ như an ninh tập thể và an
ninh hợp tác), bản sắc (“con đường châu Á”, “phương cách ASEAN”, “con
đường châu Á-Thái Bình Dương”), và sự xã hội hóa. Ảnh hưởng của chủ nghĩa
kiến tạo là đặc biệt rõ rệt trong nỗ lực phân biệt chủ nghĩa khu vực châu Âu và
châu Á, nhấn mạnh vào bản chất chính thức, pháp lý và quan liêu của châu Âu so
với quan điểm phi chính thức, đồng thuận và nhấn mạnh tới tiến trình của châu
Á. Lập luận chủ yếu của những nhà kiến tạo về chủ nghĩa khu vực tại châu Á là