SlideShare a Scribd company logo
1 of 55
1
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN MÔN HỌC TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG NAM
Á NĂM 1997
GVHD : PGS., TS. LÊ PHAN THỊ DIỆU THẢO
HV THỰC HIỆN : NHÓM 4
LỚP : CAO HỌC 16A
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 5 NĂM 2015
2
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt là tự do
hóa thị trường tài chính đã trở nên phổ biến ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Việt
Nam cũng nằm trong số những quốc gia này, Đảng và nhân dân ta đã và đang tích
cực cải thiện, phát triển các định chế kinh tế để Việt Nam có thể trở thành một phần
trong guồng máy thương mại thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực như dễ dàng
tiếp cận và tận dụng được những kinh nghiệm, công nghệ cũng như những nguồn
vốn hỗ trợ lớn từ các nước công nghiệp đã phát triển, chúng ta hiện phải đối mặt với
những mặt tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình
toàn cầu hóa làm gia tăng tính phụ thuộc giữa các quốc gia với nhau. Khi xảy ra
những rủi ro tài chính ở một quốc gia nào đó hậu quả của nó không chỉ tác động đến
nền kinh tế của nước này mà là hàng loạt những ảnh hưởng đến tất cả các nước khác
có liên hệ và hợp tác với quốc gia đó, đặc biệt là khi khủng hoảng tài chính lại xảy
ra ở Mỹ - nền kinh tế hùng mạnh nhất hành tinh.
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, đặt biệt là sự phát triển
của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, ngân hàng – các tổ chức tín dụng,
đã và đang thu hút một lượng lớn nguồn ngoại tệ đầu tư từ nước ngoài. Đây là
nguồn ngoại tệ lớn, quan trọng giúp tốc độ tăng trưởng kinh tế phát triển mạnh. Bên
cạnh đó, nó hàm chứa nhưng nguy cơ rủi ro cao và có khả năng xảy ra khủng hoảng
tài chính - kinh tế.
Để sử dụng tốt nguồn ngoại tệ này, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được
những cơ chế, chính sách phù hợp. Muốn làm được như vậy, Việt Nam cần tìm hiểu
các bài học kinh nghiệm từ những cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính - tiền tệ đã
xảy ra trước đây trong khu vực và trên thế giới.
Bằng phương pháp mô tả và phân tích các số liệu, thông tin về hiện trạng
nền kinh tế Đông Nam Á thập niên 90 của thế kỷ XX, đề tài “Khủng hoảng tài
chính Đông Nam Á năm 1997” được thực hiện nhằm làm rõ những nguyên nhân
3
cũng như ảnh hưởng của khủng hoảng và đề xuất các giải pháp đối phó với khủng
hoảng tài chính để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Bài nghiên cứu gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về khủng hoảng tài chinh
Phần 2: Phân tích cuộc khủng hoàng tài chính Đông Nam Á 1997
Phần 3: Liên hệ thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 tại Việt
Nam
4
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT Họ và tên Nội dung thực hiện
1 Phạm Thị Thúy Hằng Viết phần nội dung chương 3
2 Đặng Thị Thúy Nga Viết phần 2.1 & tổng hợp
3 Vũ Nguyễn Hồng Ngọc Viết phần 2.2 & thuyết trình
4 Nguyễn Thị Vân Nhung Viết phần nội dung chương 3 & thuyết trình
5 Trần Thị Bích Phương Viết phần 2.3 & làm Powerpoint
6 Tạ Ngọc Thiện Thảo Viết phần nội dung chương 1
5
MỤC LỤC
6
DANH MỤC BẢNG BIỂU & HÌNH
BẢNG:
Bảng 2.1.: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP)
Bảng 2.2.: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%)
Bảng 2.3.: Nợ nước ngoài & dữ trự ngoại hối
Bảng 2.4.: Vốn tư nhân nước ngoài ở 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan,
Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-96 - Tỷ USD
Bảng 2.5.: Vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan,
Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-1996 - Tỷ USD
Bảng 2.6.: Nợ tài chính của khu vực tư nhân so với GDP (%).
Bảng 2.7.: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997
Bảng 2.8.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng tài chính
Bảng 2.9.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp
Bảng 2.10.: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế tài chính
Bảng 2.11.: Chỉ số lạm phát, dòng vốn vào, nợ nước ngoài, lãi suất cho vay
Bảng 3.1: Tình hình phá giá của các đồng tiền Đông Nam Á
Bảng phụ lục.: Các chỉ tiêu kinh tế khu vực Đông Á giai đoạn 1990-199
HÌNH ẢNH
Hình 1.1: Bộ ba bất khả thi
Hình 2.1: Tỷ lệ % giá trị cho vay bất động sản và công nghiệp chế
biến của các công ty tài chính Thái Lan trong tổng dư nợ (%)
Hình phụ lục: Biểu diễn các chỉ số kinh tế khu vực ASENA-4
7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1. Khái niệm, phân loại khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền
kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Một số
dấu hiệu của khủng hoảng tài chính như các ngân hàng thương mại không thể hoàn
trả các khoản tiền gửi của người gửi tiền, các khách hàng vay vốn (cá nhân, tập thể,
chính phủ) gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả các khoản
vay cho ngân hàng, chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Khủng hoảng tài
chính được chia làm ba dạng: khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng ngân hàng và
khủng hoảng nợ.
1.1.1. Khủng hoảng tiền tệ (Currency Crisis)
Theo định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF: “khủng hoảng tiền tệ là trạng
thái mà ở đó một cuộc tấn công vào đồng nội tệ dẫn tới sự thâm hụt phần lớn dự trữ
ngoại tệ và làm đồng tiền nội tệ mất giá nhanh chóng hoặc buộc các cơ quan chức
năng phải có biện pháp phòng vệ bằng cách sử dụng một lượng dự trữ ngoại tệ lớn
hoặc nâng cao mức lãi suất”. Khủng hoảng tiền tệ chiếm vị trí trung tâm trong các
nghiên cứu về khủng hoảng tài chính vì khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ thường đi
kèm hoặc kéo theo các dạng khủng hoảng khác, chẳng hạn như khủng hoảng ngân
hàng (còn được gọi là “khủng hoảng kép”).
Lý thuyết nghiên cứu về khủng hoảng tiền tệ
Các mô hình nghiên cứu về khủng hoảng tiền tệ ra đời cùng với các cuộc
khủng hoảng tiền tệ đã từng diễn ra trong lịch sử và được xây dựng thành ba mô
hình tương ứng với ba cuộc khủng hoảng.
Mô hình thứ nhất dùng để giải thích cho cuộc khủng hoảng xảy ra tại các
nước Châu Mỹ Latinh vào những năm cuối thập kỷ 70 do Krugman(1979) phát triển
trên cơ sở các nghiên cứu trước đó của Salant và Henderson (1978). Trọng tâm của
các nghiên cứu này là các chính sách vĩ mô với tỷ giá hối đoái được neo giữ cố
8
định. Tình trạng thiếu đồng bộ trong các chính sách kinh tế tạo ra nhiều bất ổn cho
nền tảng kinh tế, khiến tỷ giá hối đoái cố định không thể tiếp tục duy trì và hệ quả
tất yếu là sẽ có sự điều chỉnh về tỷ giá. Các nguyên nhân vĩ mô của khủng hoảng
loại này là do tăng trưởng kinh tế quá nóng, những yếu kém trong hệ thống ngân
sách và do nền kinh tế hoạt động nghèo nàn.
Mô hình thứ hai bắt đầu bằng những nghiên cứu của Obsbteld (1986 và
1996). Khủng hoảng tiền tệ xảy ra do có sự dịch chuyển từ trạng thái cân bằng này
sang trạng thái cân bằng khác, như từ tỷ giá hối đoái cố định sang tỷ giá hối đoái thả
nổi hoặc từ tỷ giá hối đoái cố định sang tỷ giá hối đoái cố định khác nhưng với tỷ
giá thấp hơn. Một điển hình khác của loại khủng hoảng này liên quan tới các khoản
thâm hụt tài chính của Chính phủ dẫn đến việc các nhà cho vay đồng loạt thu hồi lại
vốn cho vay và gây sụp đổ hệ thống tiền tệ hoặc do hoạt động đầu cơ của các quỹ
đầu tư lớn.
Lý thuyết về khủng hoảng tiền tệ có thêm một bước tiến mới sau khủng
hoảng tài chính ở Đông Á năm 1997. Những nghiên cứu từ cuộc khủng hoảng này
đã phát triển thành mô hình khủng hoảng thuộc thế hệ thứ ba của khủng hoảng tiền
tệ. Khủng hoảng xảy ra khi đất nước bị sụt giảm nhanh chóng về nguồn vốn do
những hoảng sợ về tài chính đến từ phía các nhà đầu tư nước ngoài. Trong một số
trường hợp, các nước duy trì một tỷ giá cố định với chức năng như một “hợp đồng
bảo hiểm rủi ro tỷ giá” cho các nhà đầu tư nước ngoài. Một khi có dự báo về việc tỷ
giá cố định không thể tiếp tục được duy trì sẽ khiến các nhà đầu tư cảm thấy khoản
đầu tư của mình không an toàn nữa và đồng loạt rút vốn để đầu tư vào những tài sản
ít biến động hơn. Sự ra đi ồ ạt của các khoản vay ngân hàng làm cho đất nước thiếu
hụt trầm trọng dự trữ ngoại tệ và yếu kém về khả năng thanh toán.
1.1.2. Khủng hoảng ngân hàng ( Banking Crisis)
Khủng hoảng ngân hàng là trạng thái theo đó các ngân hàng lâm vào tình
trạng rút tiền ồ ạt và bị phá sản. Các ngân hàng buộc phải dừng việc thanh toán các
cam kết của mình, hoặc để tránh tình trạng này nhà nước phải can thiệp bằng các
9
biện pháp hỗ trợ đặc biệt. Khủng hoảng ngân hàng có thể bùng phát tại một ngân
hàng và lan ra toàn bộ hệ thống.
Lý thuyết phân tích khủng hoảng ngân hàng
Trước thập niên 70, thế giới chỉ xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng vào
diện rộng vào những năm 1929- 1933. Nhưng từ thập niên 70 trở lại đây, khủng
hoảng ngân hàng theo kiểu dây chuyền đã xảy ra ở rất nhiều quốc gia, kể cả các
nước phát triển, đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Đặc biệt là
tại Châu Mỹ Latinh, khủng hoảng tài chính- ngân hàng đã xảy ra đôi ba lần ở cùng
một quốc gia (hai lần ở Brazil, Venezuela và Chile, ba lần ở Argentina, Costa Rica
và Mexico). Khủng hoảng còn xảy ra ở Đông Á năm 1997, ngân hàng của nhiều
nước Châu phi cũng lâm vào tình trạng tương tự.
Đặc trưng của khủng hoảng ngân hàng là hiện tượng rút tiền ồ ạt ra khỏi các
ngân hàng gây nên tình trạng mất khả năng thanh toán cục bộ và có thể lan rộng
sang các ngân hàng khác. Đã có nhiều cách lý giải cho hiện tượng này,
(Kindleberger-1978, Diamond và Dybvid- 1983) cho rằng nguyên nhân có thể do
thông tin bất cân xứng giữa ngân hàng và người gửi tiền hoặc có thể do kết quả của
“ sự kích động tâm lý của đám đông hỗn loạn”. Các lý thuyết giải thích hiện tượng
rút tiền ồ ạt xuất phát từ yếu tố tâm lý cho rằng, mỗi người gửi tiền sẽ rút vốn khỏi
ngân hàng khi nghĩ những người gửi tiền khác đang rút vốn, thậm chí khi ngân hàng
của họ không có bất cứ vấn đề nào trong bảng cân đối tài sản.
Một hình thức lan truyền khác được đề cập đến trong nghiên cứu của
Diamond và Rajan (2002) giả định rằng các ngân hàng có một cơ chế chung về
thanh khoản. Sự sụp đổ của ngân hàng sẽ tạo ra những hạn chế về thanh khoản, từ
đó gây nên những hạn chế về khả năng thanh toán và có thể dẫn đến sự suy sụp của
một loạt các ngân hàng, thậm chí khi không có bất cứ một thông tin hoặc liên kết
nào giữa các ngân hàng. Các yếu tố vĩ mô có thể trở thành những yếu tố quan trọng
gây nên sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng, trong nhiều trường hợp sự can thiệp sớm
một cách thiếu tổng thể của Chính phủ làm cho sự suy sụp ở mức độ nhỏ trở thành
10
khủng hoảng ngân hàng. Chẳng hạn, các biện pháp chính sách nhất thời có thể gây
sự hiểu lầm cho người gửi tiền gây nên việc rút tiền ồ ạt và dẫn đến một cuộc khủng
hoảng ngân hàng toàn bộ.
Nguyên nhân phát sinh khủng hoảng ngân hàng không chỉ xuất phát từ các
yếu tố nội sinh mà đôi khi các yếu tố kinh tế bên ngoài cũng đóng vai trò rất quan
trọng. Điển hình là các cuộc khủng hoảng ngân hàng đầu thập niên 80 tại các nước
đang phát triển chủ yếu là do giá dầu biến động và một số mặt hàng xuất khẩu chủ
lực khác ở các nước này giảm sút, ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của các doanh
nghiệp. Trả nợ nhiều và trả lãi tiền vay cao cho các nước phát triển cũng góp phần
tăng nguy cơ xảy ra khủng hoảng ngân hàng.
1.1.3. Khủng hoảng nợ nước ngoài ( Debt Crisis)
IMF định nghĩa “Khủng hoảng nợ nước ngoài xảy ra khi một quốc gia không
có khả năng trả nợ nước ngoài, bao gồm khoản nợ của Chính phủ hay của khu vực
tư nhân”. Khủng hoảng nợ xảy ra nhiều ở các nước đang phát triển mà nguyên nhân
chủ yếu là do chủ các ngân hàng quốc tế. Dưới sức ép của các khoản tiền gửi ngày
một tăng lên từ phía các nước xuất khẩu khi giá mặt hàng xuất khẩu đó tăng nhanh,
các ngân hàng buộc phải tìm ra các con nợ để cho vay. Các ngân hàng quốc tế đã
cho Chính phủ các nước phát triển vay những khoản rất lớn sau khi xem qua quýt
về triển vọng trả nợ của họ. Khác với những khoản nợ tư nhân có thể thu hồi dựa
trên cơ sở pháp luật, mức độ rủi ro vỡ nợ của các Chính phủ rất lớn. Tuy nhiên, với
quan điểm gần như phổ biến là nợ Nhà nước bao giờ cũng được chính phủ hoàn trả
nên dù rủi ro cao, các ngân hàng nước ngoài vẫn sẵn sàng cho chính phủ các nước
đang phát triển vay mà không tiên liệu được khả năng là gánh nặng trả món nợ nhà
nước có thể trở nên gay go đến mức vượt quá dự trữ ngoại hối của quốc gia đó. Một
nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến khủng hoảng nữa chính là những cơn sốc kinh
tế toàn cầu do giá cả của một số hàng hóa thay đổi đột ngột và những chính sách
kinh tế ở nhiều nước cho vay.
11
1.2. Các mô hình kinh tế được sử dụng để mô phỏng quá trình khủng hoảng
1.2.1. Mô hình “Nguy cơ đồng tiền bị phá giá”
Trong giai đoạn phát triển ổn định, hầu hết các nước đều cố định đồng tiền
của mình với đô la Mỹ. Khi lạm phát của các nước này cao hơn ở các nước có đồng
tiền mạnh (như USD, FRF, JPY..) thì chính tỷ giá cố định này đã khiến cho hoạt
động xuất khẩu trở nên khó khăn hơn đồng thời cũng khuyến khích hoạt động nhập
khẩu do hàng hóa trong nước trở nên đắt hơn tương đối so với hàng hóa nhập khẩu.
Kết quả là cán cân thương mại có xu hướng xấu đi và có thể dẫn đến thâm hụt
thương mại nếu như không được cải thiện kịp thời. Để bù đắp lại khoản thâm hụt
này (trả nợ cho khoản chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu) thì Nhà nước phải
bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp trả nợ hoặc vay nợ nước ngoài để bù đắp. Thông
thường các quốc gia sẽ chọn cách thứ hai thông qua các hình thức thu hút vốn đầu
tư trực tiếp cũng như gián tiếp. Việc vay nợ nước ngoài chỉ là giải pháp mang tính
tạm thời, bên cạnh việc tích cực tăng năng suất lao động, cải thiện chất lượng hàng
hóa để cạnh tranh với hàng xuất khẩu của các nước khác nhằm giảm thâm hụt
thương mại mà vẫn giữ được lãi suất cố định. Tuy nhiên, do việc vay nợ nước ngoài
quá dễ dàng khi các nước đang phát triển mở rộng cửa nền kinh tế và tăng lãi suất
để chào đón các nhà đầu tư nước ngoài nên các nước đang phát triển đã để nền kinh
tế của nước mình phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài thay vì
tự thân vận động. Khi số nợ ngày càng nhiều thì quốc gia đó khó có thể vay thêm
nợ nước ngoài để bù đắp thâm hụt thương mại và tỷ giá cố định sẽ khó mà giữ
được. Và rõ ràng nếu rơi vào tình trạng này tỷ giá sẽ tăng lên, thu nhập của nhà đầu
tư nước ngoài nếu quy đổi ra đô la Mỹ sẽ giảm rất nhiều. Để tránh điều này, một số
nhà đầu tư đã lợi dụng ngay khi tỷ giá còn giữ cố định để bán vốn của mình bằng
đồng nội tệ để mua ngoại tệ chuyển ngay về nước làm cho cầu về ngoại tệ tăng đột
ngột. Lúc này, nếu nhà nước không có đủ ngoại tệ dự trữ để bán ra thì áp lực tăng tỷ
giá sẽ rất lớn vì ngoài cầu ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu còn có cầu về
ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài muốn rút vốn về nước. Trong trường hợp
12
nhà nước buộc phải thả nổi thì tỷ giá sẽ tăng lên rất nhanh làm cho các nhà đầu tư
còn lại và cả người dân cũng sẽ bắt đầu bán vốn và tài sản, càng làm cho cầu ngoại
tệ tăng và càng đẩy tỷ giá lên cao.
1.2.2. Mô hình “Nguy cơ phá sản doanh nghiệp”
Trong bất kỳ nền kinh tế thị trường nào, quá trình cạnh tranh sẽ đào thải
những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Chính quy luật này đã tạo ra áp lực
buộc các doanh nghiệp phải tìm cách để giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành đơn
vị, tăng khả năng cạnh tranh và coi đó là cơ sở quyết định sự tồn tại hay phá sản của
doanh nghiệp. Như vậy, quá trình cạnh tranh tất yếu sẽ làm các doanh nghiệp kém
hiệu quả nhất bị phá sản và trong trường hợp đó các nguồn lực xã hội sẽ được sử
dụng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế không có khả năng loại bỏ các doanh
nghiệp kém thì có nghĩa là đã khuyến khích cho việc sử dụng lãng phí các nguồn tài
nguyên và tích lũy dần sự yếu kém cho nền kinh tế. Lúc này, chỉ cần một tác động
làm tăng chi phí đầu vào hoặc giảm chi phí đầu ra một cách đột ngột thì sẽ khiến
cho hàng loạt doanh nghiệp phải phá sản kéo theo nhiều hậu quả về kinh tế xã hội
cho đất nước. Doanh nghiệp phá sản sẽ không trả được nợ ngân hàng và có thể kéo
theo các ngân hàng cũng phá sản theo vì mất khả năng thanh khoản.
Có nhiều nguyên nhân làm doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Doanh
nghiệp phung phí vốn, thiếu quan tâm đến hiệu quả đầu tư và làm cho nợ ngày càng
gia tăng. Nguồn vốn vay giống như “một con dao hai lưỡi”; nếu doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả, đòn bẩy nợ sẽ giúp doanh nghiệp phát triển nhanh hơn vì có chi phí
sử dụng thấp hơn tương đối so với các nguồn vốn khác; nhưng nó cũng có thể đưa
doanh nghiệp đến chỗ phá sản nhanh chóng nếu sử dụng vốn vay phung phí, không
hiệu quả. Vay vốn bất chấp hiệu quả đầu tư thì nguy cơ dẫn đến phá sản là rất lớn.
Khi quốc gia bị thâm hụt tài khoản thương mại kéo dài, Chính phủ phải nâng lãi
suất nội địa lên để thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chính lãi suất quá cao này
lại hạn chế các doanh nghiệp nội địa mượn tiền để đầu tư đổi mới trang thiết bị công
13
nghệ. Kết quả là hiệu quả sản suất vẫn không cao, khả năng cạnh tranh của hàng
hóa vẫn kém.
Cơ cấu sản phẩm và chiến lược kinh doanh không phù hợp cũng là một trong
những nguyên nhân khiến doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh đó, làn
sóng đầu tư đổi mới công nghệ đã làm giá cả nhiều loại sản phẩm giảm mạnh và
ngày càng có nhiều sản phẩm mới ra đời thay thế sản phẩm cũ. Chính vì vậy mà các
doanh nghiệp chậm đổi mới cơ cấu sản phẩm sẽ dần mất đi thị trường tiêu thụ, giảm
thu nhập và có nguy cơ phá sản rất cao.
Môi trường kinh doanh vĩ mô bị biến động nhưng Chính phủ không có sự
điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Ví dụ như trong trường hợp các nước cố gắng
duy trì tỷ giá cố định trong khi lạm phát trong nước gia tăng sẽ khiến hạn chế xuất
khẩu, khuyến khích nhập khẩu càng làm gia tăng áp lực cạnh tranh và phá sản trong
nước.
Tỷ giá hối đoái tăng mạnh gần như trở thành một đòn quyết định đốn ngã các
doanh nghiệp có nhiều khoản vay nợ nước ngoài để thanh toán hàng nhập khẩu
hoặc đầu tư. Khi tỷ giá tăng lên đột ngột khiến gánh nặng nợ nần của các doanh
nghiệp này tính bằng đồng nội tệ tăng lên, dần vượt quá khả năng thanh toán nợ của
doanh nghiệp và đi đến phá sản doanh nghiệp.
1.2.3. Mô hình “Nguy cơ phá sản các ngân hàng”
Ngân hàng và các công ty tài chính là những mắt xích quan trọng trong nền
kinh tế của một quốc gia. Hệ thống ngân hàng được ví như huyết mạch của nền kinh
tế, có chức năng thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư để sử dụng hiệu quả
hơn. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên cũng xảy ra tình trạng quản lý yếu
kém, làm ăn không hiệu quả. Nếu ngân hàng sử dụng các nguồn lực tài chính của xã
hội một cách lãng phí, cho vay bất chấp hiệu quả đầu tư thì tác hại của nó lại nhân
lên gấp bội. Trong trường hợp đó, nếu nền kinh tế không thể loại bỏ được những
ngân hàng này thì chính nền kinh đó đang tích lũy dần các điều kiện gây nên khủng
hoảng. Những yếu tố dẫn đến nguy cơ phá sản một ngân hàng:
14
Các doanh nghiệp- con nợ chính của các ngân hàng làm ăn thua lỗ, bị phá
sản. Khi các doanh nghiệp phá sản hàng loạt khiến cho số nợ khó đòi của ngân hàng
tăng lên, hậu quả là ngân hàng mất dần khả năng thanh toán và cuối cùng là đi đến
phá sản.
Nhu cầu rút vốn tăng lên đột ngột, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của
ngân hàng. Điểm nguy hiểm của hệ thống ngân hàng là tính lan truyền rất nhanh
chóng, chỉ vì có một ngân hàng yếu kém để xảy ra tình trạng trên cũng có thể kéo
theo hàng loạt các ngân hàng đang hoạt động bình thường khác cũng bị ảnh hưởng.
Nghiêm trọng hơn nữa là nếu các ngân hàng này không có đủ dự trữ hoặc không
được hỗ trợ kịp thời cũng hoàn toàn có thể xảy ra nguy cơ phá sản.
Sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động cho vay của ngân hàng, nhất là các
ngân hàng nhà nước. Chính phủ có thể can thiệp bằng nhiều cách như: buộc ngân
hàng cho vay ưu đãi hoặc bảo lãnh cho các khoản vay. Sự nhúng tay quá sâu của
Chính phủ như vậy khiến cho các thủ tục thẩm định tín dụng vốn rất cần thiết nay
chỉ mang tính hình thức, không được coi trọng đúng mức. Vì thế, vốn vay có thể
đến tay những doanh nghiệp yếu kém, khả năng trả nợ thấp khiến nợ khó đòi của
ngân hàng tăng lên và làm tăng nguy cơ phá sản của ngân hàng.
1.2.4. Mô hình “ Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán”
Đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng để phát triển
kinh tế đất nước. Song trong một số điều kiện nhất định, loại đầu tư này có thể tạo
ra nguy cơ mất khả năng thanh toán cho một quốc gia. Để thu hút đầu tư nước ngoài
thì điều kiện cần thiết là lãi suất trong nước phải cao hơn lãi suất nước đi đầu tư.
Nhưng lãi suất cao đồng nghĩa với việc số lãi phải trả tính bằng ngoại tệ càng nhiều,
nợ quốc gia càng tăng. Hơn nữa, một khi nhà đầu tư muốn chuyển lợi nhuận về
nước thì nhà nước phải bỏ ra một lượng ngoại tệ lớn để trả cho họ. Lượng ngoại tệ
này quá lớn sẽ làm giảm dự trữ ngoại hối, nếu dự trữ ngoại tệ không đủ quốc gia
mất khả năng thanh toán.
15
Một số quốc gia vay nợ ngắn hạn nhưng lại đầu tư vào những dự án dài hạn
và ít đem lại nguồn thu ngoại tệ như các công trình xây dựng nhà ở, văn phòng, viễn
thông… khi đến hạn trả quốc gia sẽ không có nguồn ngoại tệ để trả. Đây là nguy cơ
mất khả năng thanh toán do cơ cấu đầu tư không hợp lý. Ngay cả đối với những
khoản hỗ trợ chính thức như ODA mà nước nhận tài trợ lựa chọn những dự án kém
hiệu quả thì khả năng hoàn vốn cũng rất đáng lo ngại. Đến hạn trả nợ, Chính phủ
phải xuất dự trữ ngoại tệ hoặc phải vay nợ mới để trả nợ cũ làm nợ nước ngoài càng
tăng. Một khi nguy cơ mất khả năng thanh toán đến gần, quốc gia càng phải nhanh
chóng thu hút nguồn ngoại tệ bổ sung. Khi đó biện pháp cơ bản nhất được áp dụng
là tăng lãi suất cơ bản trong nước cao hơn lãi suất ở nước ngoài, điều này tiếp tục
làm tăng khả năng quốc gia mất khả năng thanh toán. Quốc gia rơi vào vòng lẩn
quẩn, càng trả nợ thì nợ lại càng tăng, nguy cơ mất khả năng thanh toán càng đến
gần.
1.3. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính
1.3.1. Lý thuyết về Bộ ba bất khả thi
Theo lý thuyết kinh tế học Bộ ba bất khả thi (Triangle of Impossibility): chính phủ
không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc ba mục tiêu chính sách vĩ mô gồm: ổn
định tỷ giá, tự do hóa dòng vốn, chính sách tiền tệ độc lập mà chỉ có thể thực hiện
đồng thời hai trong ba chính sách này mà thôi. Thuật ngữ này còn dùng để chỉ tình
thế kinh tế dễ đổ vỡ (nguy cơ khủng hoảng) khi mà một quốc gia cố tình thi hành ba
chính sách trên cùng lúc trong một khoảng thời gian dài.
Sơ đồ 1.1: Mô phỏng lý thuyết Bộ ba bất khả thi
16
Hình 1.1. Bộ ba bất khả thi (Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Ở các quốc gia khác nhau, bộ ba bất khả thi sẽ được thể hiện dưới dạng thức
cụ thể khác nhau nhưng về bản chất là không thay đổi. Tỷ giá thể hiện ở: dự trữ
ngoại tệ, cán cân thanh toán,... Tự do lưu chuyển vốn được thể hiện ở: tăng trưởng
GDP, đầu tư nước ngoài, nhập siêu, tài khóa ngân sách công, nợ nước ngoài,... và
Chính sách tiền tệ độc lập thể hiện ở: lạm phát, lãi suất, ...
Lý thuyết này được gọi là mô hình Mundell- Fleming được Robert Mundell và
Marcus Fleming phát triển trong những năm 1960. Vào năm những 1980, khi vấn
đề kiểm soát dòng vốn tại nhiều quốc gia bị thất bại do mâu thuẫn giữa việc neo tỷ
giá và chính sách tiền tệ độc lập ngày càng rõ ràng. Từ đó, lý thuyết Bộ ba bất khả
thi đã trở thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô quan trọng trong điều hành kinh tế.
Trong điều hành một nền kinh tế thì không thể theo đuổi ba mục tiêu trên cùng
một lúc. Chẳng hạn khi một quốc gia muốn thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để
kích cầu nền kinh tế lúc đó NHTW sẽ tăng cung tiền làm giảm lãi suất, lãi suất giảm
sẽ khuyến khích dòng vốn chuyển ra khỏi quốc gia. Nếu chính phủ tự do hóa giao
dịch vốn dòng vốn sẽ tạo ra áp lực tăng tỷ giá. Nếu chính phủ muốn cố định tỷ giá,
NHTW phải tăng cung ngoại tệ bằng cách bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối,
việc làm này làm giảm cung tiền. Và nếu chính phủ muốn thực hiện mục tiêu nới
lỏng tiền tệ NHTW bắt buộc phải tăng cung tiền. Cung tiền tăng tạo áp lực gia tăng
lạm phát làm ảnh hưởng đến mục tiêu kích cầu nền kinh tế. Do vậy, nếu chính phủ
17
kiên định trong thực hiện chính sách tiền tệ thì phải từ bỏ một trong hai mục tiêu
còn lại là phải kiểm soát giao dịch vốn hoặc thả nổi tỷ giá. Hoặc nếu muốn tự do
hóa giao dịch vốn và cố định tỷ giá thì không thể độc lập trong điều hành tiền tệ.
1.3.2. Lý thuyết ngang giá sức mua
Ngang giá sức mua (purchasing power parity – PPP) là một trong những mô
hình lý thuyết sớm nhất và đơn giản nhất về việc xác định tỷ giá hối đoái. Điều kiện
cân bằng mà lý thuyết PPP đưa ra cũng là một trong những cơ sở căn bản cho việc
hình thành và phát triển các lý thuyết hiện đại về tỷ giá. Lý thuyết này mô tả mối
quan hệ giữa giá cả và tỷ giá, được xem là một trong những thước đo đo lường mức
độ sai lệch của tỷ giá.
Quy luật một giá
Cơ sở hình thành lý thuyết ngang giá sức mua là quy luật một giá. Quy luật
một giá được định nghĩa là khi thị trường là cạnh tranh hoàn hảo và bỏ qua các rào
cản thương mại, chi phí vận chuyển, bảo hiểm… thì các hàng hoá giống hệt nhau
trên các thị trường khác nhau sẽ có giá như nhau khi quy về cùng một đồng tiền
chung (Ví dụ: 1 lít dầu ở Mỹ sẽ có giá bán bằng giá bán ở Việt Nam). Giá trong
nước cao hơn nước ngoài và do tỷ giá là cố định nên kinh doanh chênh lệch giá
hàng hóa làm giá cân bằng ở hai quốc gia thể hiện theo công thức như sau
Pi = S.Pi
*
Trong đó:
S: là tỷ giá giao ngay
Pi: là rổ hàng hoá và dịch vụ trong nước
Pi
*
: là giá rổ hàng hóa và dịch vụ nước ngoài
1.3.3.1. Ngang giá sức mua tuyệt đối
18
Mẫu lý thuyết ngang giá sức mua tuyệt đối xem xét mối quan hệ giữa giá cả
hàng hoá và tỷ giá hối đoái tại một thời điểm nhất định. Ngang giá sức mua tuyệt
đối được xây dựng trên các giả thuyết sau:
- Thị trường hàng hoá quốc tế cạnh tranh hoàn hảo.
- Không tồn tại cước phí vận chuyển;
- Hàng hoá được lưu chuyển tự do, không tồn tại hàng rào thuế quan và các
hàng rào phi thuế quan;
- Các nhà kinh doanh trung lập đối với rủi ro;
- Rổ hàng hoá tiêu chuẩn ở trong nước và nước ngoài có thành phần và cấu
trúc như nhau;
- Quy luật một giá được duy trì cho tất cả các hàng hoá trao đổi mua bán
quốc tế.
Nếu đẳng thức Pi = S.Pi
*
là đúng cho mọi hàng hoá và dịch vụ thì khi tính giá
một loại rổ hàng hoá và dịch vụ giống nhau ta cũng có: S = P:P*
Trong đó:
S : là tỷ giá giao ngay
P : là rổ hàng hoá và dịch vụ trong nước
P*
: là giá rổ hàng hóa và dịch vụ nước ngoài
Ta có thể xác định tỷ giá giữa hai đồng tiền của hai quốc gia nếu như chúng ta
biết mức giá của rổ hàng hoá tiêu chuẩn ở trong nước tính bằng nội tệ và mức giá
của rổ hàng hóa tiêu chuẩn ở nước ngoài tính bằng ngoại tệ. Tỷ giá niêm yết trực
tiếp S tại một thời điểm có thể xác định bằng cách lấy mức giá của rổ hàng hóa tiêu
chuẩn trong nước tính bằng nội tệ chia cho mức giá cả của rổ hàng hóa tiêu chuẩn
tính bằng ngoại tệ. Nếu mức giá cả hàng hóa tiêu chuẩn trong nước P tăng cao hơn
tương đối so với mức giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn nước ngoài P*
thì S sẽ tăng,
tức là nội tệ sẽ giảm giá so với ngoại tệ, và ngược lại.
19
Lý thuyết này giải thích sự thay đổi tỷ giá một cách đơn giản, dễ hiểu. Tuy
nhiên, lý thuyết ngang giá sức mua tuyệt đối được xây dựng trên nhiều giả thuyết,
trong đó có nhiều giả thuyết đưa ra không có tính thực tiễn. Vì rổ hàng hóa ở mỗi
quốc gia là khác nhau và tỷ trọng hàng hóa trong rổ cũng là khác nhau; trên thị
trường hàng hóa quốc tế luôn tồn tại cước phí vận chuyển; môi trường kinh doanh
và môi trường văn hóa khác nhau giữa các quốc gia cũng có thể là rào cản ảnh
hưởng đến các quyết định kinh doanh của các nhà kinh doanh hàng hóa quốc tế…
Như vậy, lý thuyết ngang giá sức mua tuyệt đối khó có thể duy trì trong thực tế.
20
1.3.3.2. Thuyết ngang giá sức mua tương đối
Ngang giá sức mua tương đối được phát triển tiếp từ ngang giá sức mua tuyệt
đối. Mẫu lý thuyết ngang giá sức mua này đưa ra mối quan hệ tương đối giữa giá cả
và tỷ giá giữa hai thời điểm bằng chênh lệch tỷ lệ lạm phát của hai đồng tiền. Đồng
tiền nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng tiền đó giảm giá. Tỷ lệ giảm giá gần
bằng chênh lệch tỷ lệ lạm phát của hai đồng tiền.
PPP tuyệt đối đưa ra mối quan hệ giữa giá cả và tỷ giá tại một thời điểm.
Trong khi đó ngang giá sức mua tương đối đưa ra mối quan hệ tương đối giữa tỷ giá
và giá cả giữa hai thời điểm. Mặc dù được phát triển từ PPP tuyệt đối, PPP tương
đối có thể dể dàng được chấp nhận hơn so với PPP tuyệt đối do PPP tương đối chấp
nhận sự tồn tại của các yếu tố như cước phí vận chuyển và các rào cản thương mại
(Moosa 2010).
Để hình thành biểu thức biểu diễn nội dung lý thuyết PPP tương đối chúng ta
sử dụng các ký hiệu:
Po
*
: giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng ngoại tệ tại thời điểm 0.
Pi
*
: giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng ngoại tệ tại thời điểm 1
Po : giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng nội tệ tại thời điểm 0
Pi : giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng nội tệ tại thời điểm 1
π : tỷ lệ lạm phát trong nước giữa hai thời điểm 0 và 1
*π : tỷ lệ lạm phát nước ngoài giữa hai thời điểm 0 và 1
e: tỷ lệ thay đổi tỷ giá giữa hai thời điểm 0 và 1
Ta có công thức sau:
PS
PS
P
P
*
00
*
11
0
1
=
e = *ππ −
21
S1 = S0.(
*1
1
π
π
+
+
)
Ví dụ 1: Tính tỷ giá theo PPP tương đối
Trong một khoảng thời gian nhất định, mức lạm phát ở Việt Nam là 10%, còn
mức lạm phát ở Mỹ là 6%. Giả sử PPP được duy trì một cách chính xác. Tỷ giá thay
đổi như thế nào nếu tỷ giá ban đầu là 21,000 – VND/USD?
Theo PPP tương đối, tỷ giá sẽ thay đổi theo một tỷ lệ là: 10% - 6% = 4%
Tỷ giá mới sẽ cao hơn tỷ giá cũ khoảng 4%, vì thế tỷ giá mới sẽ là:
S(VND/USD) = 21,000 x (1.04) = 21,840
 USD tăng giá so với VND
Ví dụ 2: Tỷ giá theo PPP tương đối và tỷ giá thị trường
Năm 2014 Năm 2015
Tỷ giá S(VND/USD) 21,300 21,500
Mức giá tại VN 100 104
Mức giá tại Mỹ 100 101
Tính tỷ giá tương thích với PPP và so sánh với tỷ giá thực tế trên thị trường?
S(VND/USD) = 21,300 x
01.01
04.01
+
+
= 21,933 VND/USD
Tỷ giá tương thích với PPP cao hơn so với tỷ giá thực tế được giao dịch trên
thị trường . USD đang được định dưới giá, có nghĩa là giá USD tại Việt Nam đang
định giá thấp hơn so với giá USD thực tế.
22
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG
NAM Á 1997
2.1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997
Khủng hoảng bắt đầu bùng phát từ Thái Lan & đất nước này đã phải gánh
chịu những tổn thất nặng nề khi bong bóng đầu tư bị vỡ vụn. Khủng hoảng mang
tính lây lan, hiệu ứng domino sang các nước trong khu vực như Indonesia,
Philippines, Malaysia, lan sang Hàn Quốc, Hồng Kong, cả Nga & Brasil cũng chịu
tác động, trong đó chịu thiệt hại nhiều nhất là Thái Lan, Indonesia & Hàn Quốc
Khuôn khổ bài nghiên cứu chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực Đông Nam Á
nên nhóm xin trình bày về diễn biến khủng hoảng tại các nước trong khu vực này,
nói thêm một vài ý về tình hình của Hàn Quốc để thấy rõ mức ảnh hưởng của nó
Thái Lan: Đất nước này bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa từ 1961, tốc độ
tăng trưởng trong thập niên 60 đạt mức 8%, 7% trong thập niên 70 & trong thập
niện 80 là 8%; tổng sản phẩm nội địa theo đầu người tăng từ mức 440usd lên 3.012
usd năm 1996; nông nghiệp giảm tỷ trọng trong nền kinh tế từ mức 39% (1961)
xuống còn 26.7% (1976) và chỉ còn 10.4% (1996). Từ những bước phát triển nhanh
trọng trong thập niên 60 & 70, chính phủ Thái Lan đã thực thi chính sách phát triển
kinh tế dựa vào xuất khẩu. Từ 1986-1990, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân
là 28%/năm; giá trị xuất khẩu tính theo đầu người đạt 630 usd/người năm 1991 lên
1177 usd/người năm 1996. Đến cuối năm 1996, Báo cáo triển vọng phát triển kinh
tế của IMF cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng, khả năng vỡ bong
bóng nhanh chóng sẽ xảy ra. Thực vậy, việc tăng chi đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng
quy mô sản xuất bằng nguồn nợ vay ngắn hạn từ các giới đầu tư quốc tế khiến cho
cán cân thanh toán vãng lai của Thái Lan thâm hụt, xuống 8% GDP năm 2996. Lo
ngại đồng baht mất giá, nhiều nhà đầu tư & người dân rút vốn hàng loạt ra khỏi các
ngân hàng & các định chế tài chính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường vốn
của đất nước này. Ngày 03-03-1997, Chính phủ phải đóng cửa thị trường chứng
23
khoán trong ngày này. Đến ngày 4 & 05-03-1997, 21.4 tỷ baht, tương đương với
820 tỷ usd bị rút ra khỏi các ngân hàng & các công ty tài chính. Ngày 09-04-1997,
phải mất 26.8 bath mới đổi được 1 usd, mức cao nhất kể từ năm 1991. Ngày 14,15-
05-1997, đồng baht bị tấn công quy mô lớn, TTCK ngập tràn lệnh bán đồng tiền
này, chính phủ buộc phải chi ra 10 tỷ usd trong 2 tuần để giữ giá baht, 25 baht ăn 1
usd. Ngày 25-06-1997, 16 công ty tài chính đóng cửa, nâng tổng số lên 91 công ty,
chiếm 61% số công ty trên cả nước. Lúc này, cung ngoại tệ tăng cao, chính phủ phải
bán ra để giảm áp lực tăng giá ngoại tệ, khiến dự trữ ngoại tệ từ 38,87 tỷ usd tháng
6/1996 xuống còn 41.4 tỷ usd vào tháng 6/1997. Ngày 30/6, thủ tướng Thái Lan vẫn
cam quyết sẽ không phá giá baht, nhưng rút cuộc lại thả nổi đồng tiền này vào ngày
2.7.1997, ngay lập tức baht bị mất giá 50%. Tháng 1/1998, 56 baht mới ăn 1 usd.
Mức vốn hóa thị trường sụt giảm từ 141.1 tỷ usd xuống còn 23.5 tỷ usd. Finance
Once-công ty tài chính lớn nhất Thái Lan bị phá sản. Ngày 11.8.98, IMF tuyên bố
sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20-08-1998,
IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. Đến năm 2003, Thái Lan đã
hoàn trợ số nợ trước thời hạn & phục hồi kinh tế đất nước. Tuy nhiên, kinh tế Thái
Lan hiện vẫn còn gặp rào cản về chính trị do cuộc đảo chính quân sự vào tháng
6/2006, lật đổ thủ tướng cầm quyền Thaksin & tồn đọng những bất đồng hiện vẫn
chưa giải quyết ổn thỏa.
Indonesia: Trước khủng hoảng, Indonesia phát triền thần kỳ với thu nhập trên vốn
đầu tư tăng gấp đôi từ năm 1990 đến 1997, nhờ vào xuất khẩu dầu & ga; kinh tế
phát triển thúc đẩy kinh tế vĩ mô phát triển bền vững, ngân sách cân bằng, lạm phát
ở mức thấp, tỷ giá cố định. Cuối năm 1996, đầu năm 1997, xuất khẩu giảm nhẹ với
thời điểm trước đó. Khủng hoảng bắt đầu lan sang Indonesia khi chính phủ Thái thả
nổi đồng baht ngày 02-7-1997, mặc dù kinh tế vĩ mô bền vững hơn Thái tại thời
điểm đó nhưng rupiah vẫn buộc phải thả nổi; đến tháng 9 & 10/1997, rupiah mất giá
hơn 10% so với thời điểm tháng 7/1997, mức giảm nhanh nhất so với các nước bị
khủng hoảng trong khu vực. Ngày 05/11/1997, IMF cam kết gói cứu trợ 10 tỷ usd
nhưng Chính phủ Indonesia đã từ chối sự giúp đỡ này. Đến tháng 6/1998, rupiah
24
chạm đáy 16.650 rupiah mới ăn 1 usd. Áp lực buộc tổng thống buộc phải từ chức.
Kinh tế dần phục hồi sau đó, tỷ giá khả quan hơn ở mức 11.075 rupiah/usd. Cuối
tháng 8/1998, tỷ giá là 8.000 rupiah/usd.
Malaysia: Nếu so sánh với một số nước trong khu vực và, có thể nói rằng về
mặt kinh tế và tài chính thì tình hình của Malaysia có tốt hơn Thái Lan, Hàn Quốc
và Indonesia. Điều này thể hiện rõ lực lượng lao động đều có việc làm, tỷ lệ lạm
phát thấp, ngân sách chính phủ thặng dư, nhưng quan trọng hơn cả là Malaysia
không có mức nợ nước ngoài cao như Hàn Quốc(154 tỷ USD), Thái Lan (92 tỷ
USD), Inđonesia (138 tỷ USD), Malaysia chỉ nợ 44,1 tỷ USD. Phần lớn nợ nước
ngoài của Malaysia là nợ trung hạn và nợ dài hạn, cho nên Malaysia không phải trả
nợ gấp như Thái Lan và Hàn Quốc. Trong khi đó, mức dự trữ ngoại tệ của
Malaysia lên tới 23 tỷ USD. Chính phủ Malaysia đã rút kinh nghiệm từ Thái Lan,
Hàn Quốc và Indonesia nên các biện pháp ngăn chặn khủng hoảng của
Malaysia được thực hiện đúng lúc và có hiệu quả hơn. Đồng ringgit của Malaysia
bị phá giá 13%.
Philippines: Giống như Malaysia, Philipines chịu tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính ít hơn so với Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia do hệ thống
ngân hàng của Philipines lành mạnh hơn. Các cơ sở kinh tế vĩ mô ổn định và cân
đối, nền kinh tế Philipines phát triển với mức độ vừa phải, không quá nóng như
Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia và Malaysia. Tuy vậy, chính phủ Philipines đã có
những biện pháp kịp thời để ngăn chặn tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng.
Đến cuối tháng 8-1997 đồng peso đã mất giá 28%.
Singapore: Đồng đôla Singapore bị phá giá ở mức 6%, đây là một trong
những quốc gia ít chịu tác động của cuộc khủng hoảng. Do vậy, ngay từ cuối
tháng 8/1997, các nước lâm vào khủng hoảng đã cố gắng bằng mọi giá cắt cơn
sốc tiền tệ như tung USD ra mua đồng nội tệ vào, đánh thuế cao vào các khoản lợi
nhuận do kinh doanh đầu cơ tiền tệ đem lại, nâng lãi suất tiền gửi đối với đông nội
tệ, tiết kiệm chi tiêu ngân sách, kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế…
25
Việt Nam: Kinh tế Việt Nam thời điểm đó thực sự chưa hội nhập sâu với
quốc tế, nền sản xuất chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng nông sản sang các nước bạn,
đầu tư nước ngoài không nhiều, chưa phát triển thị trường chứng khoán, giới đầu cơ
quốc tế không thể tấn công vnd như tấn công các đồng tiền khác trong khu vực như
baht Thái hay rupiah Indonesia. Ảnh hưởng của khủng hoảng đến Việt Nam là sự
ảnh hưởng gián tiếp trong việc xuất nhập hàng hóa từ các nước bị ảnh hưởng, dù tác
động không nhiều nhưng nhờ đó mà Việt Nam, cũng như những nước ít bị tác động
khác trong khu vực (như Laos, Bruney,… ) nhận thấy được bài học rút ra từ cuộc
khủng hoảng để củng cố chính sách vĩ mô của mình. Phần Việt Nam sẽ được trình
bảy kỹ hơn ở chương cuối của bài viết “Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc
khủng hoảng”
Các đồng tiền trong khu vực tiếp tục có nhiều biến động mạnh vào cuối năm
1997 và đã giảm giá đến mức thấp kỉ lục vào cuối năm 1997 và đã giảm đến
mức thấp kỉ lục vào cuối năm 1998. Tính đến ngày 12-6-1998, đồng rupiah của
Indonesia bị phá giá 82,4%, các đồng tiền của Philipines, Malaysia, Hàn Quốc bị
phá giá ở mức từ 35% đến 37%. Đồng đôla Đài Loan và đôla Singapore bị phá
giá ở mức thấp hơn tương ứng là 20.5% và 18%.
Sự hoảng loạn trên thị trường ngoại hối đã nhanh chónh lan sang thị trường
chứng khoán làm giá cổ phiếu của Châu Á giảm từ 30% đến 50%. Mọi người bắt
đầu hoảng sợ rằng cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á có thể không chỉ
dừng lại và trở thành một cuộc khủng hoảng toàn cầu.
2.2 Nguyên nhân cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997:
Khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông á năm 1997 được coi là một chấn động
lớn cuả thị trường tài chính thế giới trong suốt những thập kỉ vừa qua. Nghiên
cứu nguyên nhân sâu xa cũng như nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng
này sẽ giúp chúng ta có những giải pháp thực tiễn để ngăn ngừa, hạn chế việc phát
sinh các cuộc khủng hoảng sau này. Những nguyên nhân sau được coi là những
26
nguyên nhân cơ bản nhất và cũng chính là một số dấu hiệu khiến cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ hình thành và bùng nổ.
Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế thiếu tính hợp lý, chủ động:
Nhờ sự chuyển đổi chiến lược từ công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu
sang chiến lược công nghiệp hoá tập trung đẩy mạnh xuất khẩu đã tạo động lực
kinh tế, tạo đà cho sự tăng trưởng nhanh và ổn định kinh tế của Thái Lan và
một số nước Đông Nam Á trong vòng hơn 1 thập kỷ trước khi diễn ra khủng
hoảng. Điều này được biểu hiện ở mức tăng trưởng bình quân các nước từ 7.5%
đến 8%.
Tuy nhiên, các nguy cơ cũng nảy sinh từ sự thay đổi chiến lược này. Từ
năm
1995 trở lại đây với tốc độ tăng trưởng các nước công nghiệp phát triển
(cũng đối tác chính và tăng trưởng các nước quốc gia Đông Nam Á ) suy giảm
làm cho lượng cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của các quốc gia Đông Nam Á
giảm mạnh. Hơn thế nữa, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là điện tử, dệt may lại
đang đứng trước nguy cơ bão hoà trên thị trường thế giới. Do đó, khi kim ngạch
xuất khẩu giảm mạnh làm cho thâm hụt cán cân thương mại lớn và có thể nhìn
nhận thông qua số liệu sau đây :
Thêm vào đó chính sách xuất khẩu cứng nhắc và chậm đổi mới làm cho
tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam Á đối với các đối tác Mỹ và Tây Âu
giảm sút trước những khu vực thị trường năng động như Trung Quốc, Đông
Âu và Mỹ Latinh.
Kinh tế tăng trưởng nhanh đã kéo theo sự đầu tư một cách bột phát trong một
số ngành kinh tế ở các nước Đông Nam á như kinh doanh địa ốc và ngành sản
xuất hàng xuất khẩu. Tình hình đó đã dẫn đến tình trạng vay vốn đầu tư quá mức,
đặc biệt ở khu vực tư nhân và khi rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái các nhà đầu
tư đã không kịp thời điều chỉnh tạo ra sự dư thừa công suất trong các ngành. ở
Thái Lan và Indonesia vào những năm 90 nhà nước đã tập trung vốn lớn vào xây
27
dựng khách sạn và nhà ở đắt tiền bằng vốn ngắn hạn làm cho đất nước chìm ngập
trong nợ nần. Cung vượt cầu đã gây khủng hoảng lớn trong ngành kinh doanh bất
động sản, dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn và hàng loạt các hiệu ứng dây chuyền đối
với thị trường chứng khoán, tiền tệ làm tăng nguy cơ bất ổn và mất cân đối vốn
có của nền kinh tế kh vực. Các ngân hàng và các công ty tài chính bị ảnh hưởng
nặng nề khi thị trường bất động sản chao đảo và thua lỗ.
Thứ hai: Cán cân thanh toán quốc tế mất cân bằng: Thâm hụt cán cân vãng
lai liên tục, kéo dài:
Theo Keynes, công thức xác định trạng thái cán cân thương mại được xác định
theo phương trình sau:
(X-M) = (T-G) + (S-I)
Trong đó,
X: Giá trị xuất khẩu
M: Giá trị nhập khẩu
T: Thuế
G: Chi tiêu của chính phủ
S: Tiết kiệm
I: Khoản đầu tư của tư nhân
Trong phân tích, chênh lệch giá trị xuất nhập khẩu hang hóa, dịch vụ được
xem là đại diện trạng thái cán cân vãng lai do nó chiếm tỷ trọng lớn trong các giao
dịch vãng lai. Như vậy, thâm hụt cán cân vãng lai sẽ bằng với mức thâm hụt ngân
sách cộng với chênh lệch giữa tiết kiệm đầu tư của tư nhân. Theo phương trình
trên, có 3 nguyên nhân gây thâm hụt cán cân vãng lai. Một là ngân sách thâm hụt và
đầu tư lớn hơn tiết kiệm, hai là ngân sách thặng dư nhưng đầu tư quá lớn so với tiết
kiệm, ba là tiết kiệm nhiều hơn đầu tư nhưng ngân sách quốc gia bị thâm hụt lớn.
28
Về mặt lý thuyết, nếu cán cân vãng lai thâm hụt do nguyên nhân thứ hai thì
không đáng lo ngại. Bởi vì, trong trường hợp này, nguyên nhân chính gây thâm hụt
cán cân vãng lai là đầu tư vượt trội tiết kiệm. Đầu tư tang mạnh thể hiện nền kinh tế
được kỳ vọng tang trưởng. Ngân sách thặng dư cũng là dấu hiệu của nền kinh tế
đang tang trưởng hiệu quả. Đầu tư cao làm gia tang nhập khẩu máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu… gây thâm hụt cán cân vãng lai hiện tại. Tuy nhiên, đầu tư hiệu
quả sẽ góp phần gia tang giá trị xuất khẩu hoặc giảm giá trị nhập khẩu góp phần hạn
chế thâm hụt cán cân vãng lại trong dài hạn.
Trong nhiều trường hợp, thì thâm hụt cán cân thương mại là thể hiện một
nền kinh tế đang tăng trưởng tốt. Khi một nền kinh tế có tiềm năng tăng trưởng tốt,
có nhiều cơ hội đầu tư với lợi nhuận cao, nhu cầu đầu tư cao hơn khả năng tiết kiệm
trong nước, điều này sẽ làm cho các dòng vốn nước ngoài chảy vào quốc gia đó
để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Tức là một quốc gia có thể sử dụng nguồn lực của
nước khác để phát triển kinh tế trong nước. Một ví dụ điển hình là tài khoản vãng
lai của nền kinh tế Hoa Kỳ luôn ở trong tình trạng thâm hụt trong những năm gần
đây. Điều này không thể hiện Hoa Kỳ là một nền kinh tế yếu kém. Ngược lại, một
tài khoản vãng lai có thặng dư lại có thể là dấu hiệu bất ổn của nền kinh tế, dòng
vốn trong nước chảy ra nước ngoài tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt hơn. Tức là
nguồn lực không được sử dụng cho phát triển nền kinh tế trong nước. Và trong
nhiều trường hợp khác, thì sự mất cân bằng của cân cân thương mại (thặng dự hay
thâm hụt) chẳng phải là một dấu hiệu nghiêm trọng nào.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thì thâm hụt thương mại (nhập siêu) và
hệ quả là thâm hụt tài khoản vãng lai thực sự gây ra nhiều vấn đề cho một số nước.
Nhiều nước đã lâm vào khủng hoảng (khủng hoảng nợ, khủng hoảng đồng tiền) sau
khi có mức thâm hụt thương mại lớn, thường xuyên và lâu dài. Điển hình là cuộc
khủng hoảng Châu Á những năm 1997-1998.
Thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai thường được hiểu là
nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, và tiêu dùng trong nước nhiều hơn khả năng sản
29
xuất. Làm thế nào để một quốc gia có thể duy trì thâm hụt thương mại và thâm
hụt tài khoản vãng lai? Tương tự như ở một hộ gia đình, để có thể tiêu dùng nhiều
hơn thu nhập, một gia đình sẽ có hai cách để có tiền trang trải cho tiêu dùng cao
hơn thu nhập của mình. Đó là: (i) đi vay; và (ii) bán tài sản. Ở cấp quốc gia, khi có
thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai, thì để có tiền (ngoại tệ) trả cho
các khoản nhập khẩu và thâm hụt này, cần có dòng vốn chảy vào (FDI, đầu tư gián
tiếp, vay ngắn hạn, dài hạn, kiều hối, ODA). Nên thông thường, thâm hụt thương
mại (và tài khoản vãng lai) thường đi cùng với thặng dư trên tài khoản vốn. Nếu
không có thặng dư trên tài khoản vốn (tương tự như cấp ở hộ gia đình là không vay
đủ tiền), thì nước nhập siêu buộc phải sử dụng đến dự trữ ngoại hối để đáp ứng cho
các nhu cầu nhập khẩu của mình (bán tài sản). Nếu dự trữ ngoại hối không đủ đáp
ứng, thì chắc chắn sẽ dẫn tới việc đồng tiền buộc phải mất giá.
Trong suốt các năm 1991-1996 , cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị
thâm hụt, tổng cộng là 35,26 tỉ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới
14,7 tỉ USD.
Bảng 2.1.: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP)
1994 1995 1996
Hàn Quốc -0,96 -1,74 -4,42
Thái Lan -5,59 -8,05 -8,05
Malaysia -6,07 -9,73 -4,42
Indonesia -1,58 -3,18 -3,37
Philippines -4,60 -2,67 -4,77
Nguồn: NHTG, “Chỉ số phát triển thế giới 2002”.
Một lí do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được
khuyến khích do tỉ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định (25baht/USD), lạm phát
trong nước cao hơn so với ở Mỹ ( 5% so với 3%), đồng baht bị định giá cao hơn so
với đồng USD. Cũng như nhiều nền kinh tế mới công nghiệp hoá Đông Nam Á
khác, nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng chủ yếu dựa vào mức tăng trưởng của xuất
khẩu, trong đó đặc biệt lệ thuộc vào mức tăng trưởng của xuất khẩu điện tử. Thế
30
nhưng, sau năm 1996 sức tăng trưởng xuất khẩu của Thái Lan bị suy yếu nhanh
chóng. Năm 1996, xuất khẩu của Thái Lan tăng chưa đầy 4%, so với mức tăng bình
quân hơn 25% của giai đoạn 1985 - 1995. Nguyên nhân của tình hình này là sự sụt
giảm nhu cầu trên thị trường hàng điện tử của thế giới, đồng thời thị trường tiêu thụ
hàng dệt, sợi của Thái Lan cũng bị giảm sút mạnh do sự nổi lên của Trung Quốc với
tư cách là đối thủ cạnh tranh hùng mạnh nhất trong lĩnh vực này (Do giá nhân công
ở Thái Lan làm mất lợi thế cạnh tranh của mình so với Trung Quốc).
Bảng 2.2.: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%)
1994 1995 1996 1997
Thái Lan 19 20 -1 3
Hàn Quốc 14 23 4 5
Malaysia 20 21 6 1
Indonesia 8 12 9 7
Philippines 17 24 14 21
Hồng Kông 11 13 4 4
Singapore 24 18 5 -1
Đài Loan 9 17 4 4
Trung Quốc 25 19 2 21
Nguồn: NHTG, “East Asia – The Road to Recoverty”, 1998.
Ngoài ra do sự đánh giá quá cao giá trị đồng Baht trong một thời gian dài đã
làm suy yếu sức cạnh tranh xuất khẩu và giảm tính hấp dẫn của ngành du lịch. Đồng
thời cũng giống như các nước Đông Nam Á khác để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao, Thái Lan đã liên tục nhập khẩu nhiều tư bản để tài trợ các cơ hội đầu tư. Do
đó, có thể thấy Thái Lan trở thành quốc gia có mức gia tăng thâm hụt tài khoản
vãng lai lớn nhất trên thế giới. Năm 1996, mức thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái
Lan, Malaysia ngang với mức thâm hụt của Mehico năm 1994 (khoảng 8,2% GDP).
Theo tính toán của IMF nếu mức thâm hụt của tài khoản vãng lai của một nước ở
31
mức 5% của GDP thì nước đó được coi là đang đứng trước nguy cơ của cuộc khủng
hoảng.
Để bù đắp thâm hụt thương mại và để có vốn đầu tư bình quân 40%GDP mỗi
năm, con đường không tránh khỏi là vay tiền nước ngoài (từ các ngân hàng, các
doanh nghiệp, nhà đầu tư tài chính, chính phủ các nước). Vì vậy nợ nước ngoài của
Thái Lan không ngừng tăng, từ 35,99 tỉ USD năm 1991 lên 89 tỉ USD năm 1996,
gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm, và bằng 54% GDP Nợ ngắn hạn chiếm: 67% tổng
nợ nước ngoài (1995), 51% tổng nợ nước ngoài (1996). Nợ ngắn hạn năm 1995 và
1996 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Tức là Thái Lan thực tế đã mất
khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. Đến tháng 6.1997 nợ nước ngoài
của Thái Lan đã bằng 1,5 lần dự trữ ngoại tệ của Thái Lan. Kết quả là dự trữ ngoại
tệ cạn kiệt, tỉ giá hối đoái sẽ tăng, nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia sẽ
ngày càng cao.
Bảng 2.3.: Nợ nước ngoài & dữ trự ngoại hối
Thái Lan Philipin Malaysia Inđônêxia
Nợ nước ngoài
Tỷ USD 89.8 41.9 28.9 109.3
Nợ ngắn hạn/tổng nợ(%)
Nợ tư nhân/ tổng nợ(%)
40
78.8
25
34.6
25
40.7
29
51.2
Dự trữ ngoại hối
Tỷ USD
% so với nợ Nhà nước
28.3
67.2
10.1
127.5
19
171.2
20.4
59.6
Đông Nam Á rơi vào tình trạng các nhà đầu tư không còn tin rằng dự trữ
ngoại tệ đủ để trả nợ ngắn hạn. Cả các nhà đầu tư nước ngoài lẫn trong nước đều
32
muốn chuyển vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từ chối đảo nợ và ngưng cho
vay mới; còn các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và
chuyển ra ngoài. Riêng trong năm 1997, hơn 20 tỷ USD ròng được đưa ra khỏi 5
nước Đông Á chịu khủng hoảng, trong khi trong năm 1996 vẫn còn nhận được
gần 66 tỷ USD .
Bảng 2.4.: Vốn tư nhân nước ngoài ở 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan,
Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-96 - Tỷ USD
1996 1997 1998 1999
Vốn tư nhân ròng -20,4 -25,6 -24,6
Đầu tư trực tiếp ròng 8,4 10,3 8,6 10,2
Đầu tư chứng khoán ròng 20,3 12,9 -6,0 6,3
Vay thương mại và đầu tư
khác
37,1 -43,6 -28,2 -41,1
Viện trợ chính thức ròng -0,4 17,9 19,7 -4,7
Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 3/2000.
+ Chính sách tỷ giá cố định:
Các quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Philipin đã
thực hiện chính sách tỷ giá với tỷ giá được xác định rõ ràng hoặc với tỷ giá dao
động gắn chặt với đồng đôla Mỹ.
Xét về lý thuyết và thực tế những năm 80, chính sách này khá thành công
trong vai trò giữ ổn định lạm phát ở mức thấp và duy trì quan hệ mậu dịch hợp lý
với Mỹ, bạn hàng và là thị trường xuất khẩu quan trọng của Châu Á; giúp nhà
đầu tư ngân hàng và doanh nghiệp tin tưởng vào sự ổn định của đồng nội tệ ; hỗ
trợ cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Một phần nguyên nhân cho sự thành công
này là do họ lợi dụng được sự suy giảm đồng USD so với JPY, Mark Đức và gần
50% giá trị so với các đồng tiền chủ chốt khác, giúp cho đồng bản tệ ổn định,
gia tăng giá trị xuất khẩu, kiểm soát được tình hình nhập khẩu và thu hút vốn đầu
tư nước ngoài.
33
Thái Lan thi hành chính sách tỷ giá hối đoái cố định so với đồng USD. Điều
đó đồng nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht nên đã làm giảm sút
năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Thái Lan. Thật vậy, ngay từ đầu năm 1996 người
ta đã dự báo rằng các đồng tiền châu Á, trong đó có đồng Baht đã duy trì tỷ giá hối
đoái của mình căn cứ theo đồng USD, trong khi đó giá trị của đồng USD so với
đồng Yên Nhật và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa
đồng Baht so với đồng USD có tăng lên, nhưng nếu theo thuyết ngang giá trong sức
mua thì đồng Baht đã giảm giá rất nhiều (khoảng 20%) so với đồng USD mà lại chỉ
được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). Chính vì thực hiện cơ chế tỷ giá hối đoái cố
định, Chính phủ đã hy sinh chính sách độc lập tiền tệ (theo lý thuyết về “bộ ba bất
khả thi’’), các công cụ của chính sách tiền tệ chạy theo để ổn định tỷ giá.
Khi đồng nội tệ bị lên giá do quốc gia duy trì tỷ giá hối đoái gần như cố định
quá lâu, yếu kém về xuất khẩu, giữ lãi suất cho vay trong nước cao hơn lãi suất các
đồng tiền mạnh ở nước ngoài, thì trước sau nguy cơ mất khả năng thanh toán sẽ
ngày càng lớn, khả năng giữ tỷ giá hối đoái cố định sẽ ngày càng suy yếu và việc
phải thả nổi đồng tiền nội địa-tức tăng tỷ giá hối đoái chỉ là vấn đề thời gian. Khi
một số nhà đầu tư nước ngoài tiên đoán chính phủ nước sở tại sắp hết dự trữ ngoại
tệ để duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì họ sẽ bán tài sản họ đã đầu tư, đổi lấy ngoại
tệ mang ra nước ngoài. Lúc đầu, chính phủ các nước thường bán dự trữ ngoại tệ để
duy trì tỷ giá cũ, song đến một lúc nào đó, không còn khả năng bán nữa thì sẽ thả
nổi tỷ giá hối đoái. Lúc này các nhà đầu tư nước ngoài chưa bán tài sản (sổ phiếu,
trái phiếu, tín phiếu) thì sẽ tìm cách bán thật nhanh và đổi sang ngoại tệ để tối thiểu
hóa thiệt hại cho mình. Áp lực này càng làm cho tỷ giá hối đoái tăng vọt.
Hơn nữa khi các nhà đầu cơ dự đoán thấy đồng Baht được định giá quá cao họ
sẽ đua nhau đi vay đồng Baht ở ngân hàng, rồi đem số tiền đó để đi mua USD và
chờ đợi khi đồng Baht bị phá giá thì họ sẽ thu lợi lớn. Quá trình này đã thúc đẩy
cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan chóng xảy ra.
34
Khi tỷ giá hối đoái tăng mạnh dư nợ ngoại tệ của các doanh nghiệp tính bằng
tiền nội tệ sẽ tăng vọt, cùng với việc các ngân hàng, công ty tài chính phá sản sẽ
không có khả năng cung ứng tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động nữa. Các
doanh nghiệp nào hoạt động vốn đã kém hiệu quả, thì giờ đây sẽ không có đủ vốn
để kinh doanh, càng sớm bị đảy tới thua lỗ và phá sản. Khi doanh nghiệp thua lỗ thì
các ngân hàng, công ty tài chính không đòi được nợ, sẽ càng phá sản nhanh hơn
Mặt khác, để giữ đồng Baht ngang giá với USD, chính phủ nước này đã
thực hiện chính sách lãi suất đồng Baht cao. Các doanh nghiệp trong nước phải cơ
cấu lại các món nợ từ đồng nội tệ sang ngoại tệ (với mức lãi suất thực thấp hơn),
còn các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn ngắn hạn vào trong nước do sự đầu cơ
đồng Baht. Các nhà tài chính mất niềm tin vào việc chính phủ Thái Lan có thể duy
trì chính sách lãi suất cao liên tục trong thời gian dài, cùng với sự giảm sút xuất
khẩu, họ đã bắt đầu rút vốn ra khỏi Đông Nam Á. Khi luồng vốn bị rút ra liên tục,
chính phủ Thái Lan không thể nào khống chế được, và buộc phải thả nổi đồng
tiền. Tình trạng cũng tương tự với Philipin, Indonesia và Malaysia.
Thứ ba: Tự do hóa tài khoản vốn, đầu tư tăng liên tục nhưng cơ cấu thiếu tính
ổn định:
Trong giai đoạn trước khủng hoảng, nguồn vốn nước ngoài đổ vào khu
vực Đông Nam Á liên tục tăng lên, góp phần duy trì mức tăng trưởng kinh tế ở
mức 7.5%-8%/năm. Từ năm 1990 đến 1997, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước
đang phát triển tang 5 lần từ 42 tỷ USD lên 256 tỷ USD. Đông Á là nơi thu hút
một lượng lớn dòng vốn này, chiếm tới 60% trong nửa đầu thập niên 90 (theo
NHTG 1998).
Bảng 2.5.: Vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á (Hàn Quốc,
Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-96 - Tỷ USD
1991 1992 1993 1994 1995 1996
Vốn tư nhân ròng
24,8
29,
0
31,
8
36,
1
74,
2
65,
8
35
Đầu tư trực tiếp ròng 6,2 7,3 7,6 8,8 7,5 8,4
Đầu tư chứng khoán ròng 3,2 6,4 17, 9,9 17, 20,
Vay thương mại và đầu tư
khác
15,4 15,
3
7,0 17,
4
49,
2
37,
1Viện trợ chính thức ròng 4,4 2,0 0,6 0,3 0,7 -
0,4Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 5/1998 và 3/2000.
Suất sinh lợi thấp ở các nền kinh tế phát triển và sự thần kỳ trong tăng
trưởng của Đông Á là những động lực thúc đẩy dòng vốn dịch chuyển từ Nhật
Bản, Hoa Kỳ và EU tới các nền kinh tế Đông Á. Chênh lệch lãi suất giữa các nền
kinh tế Đông Á và các trung tâm tiền tệ quốc tế luôn ở mức dương. Dòng vốn tư
nhân càng được thúc đẩy vào giữa thập niên 90 với chính sách tiền tệ mở rộng ở
Hoa Kỳ, nới lỏng kiểm soát tài chính ở châu Âu và tình trạng bong bóng đồng yên
ở Nhật Bản. Thêm vào đó, một số chính phủ Đông Á (ví dụ như Hàn Quốc) đã tự
do hóa tài khoản vốn theo hướng khuyến khích dòng vốn nước ngoài ngắn hạn.
Cụ thể, chính sách của Hàn Quốc là hạn chế đầu tư nước ngoài dài hạn dưới dạng
FDI hay đầu tư chứng khoán, trong khi chỉ cho phép các ngân hàng được vay ngắn
hạn nước ngoài. Tỷ giá hối đoái cố định mà nhiều chính phủ Đông Á duy trì cũng
là yếu tố khuyến khích dòng vốn nước ngoài do rủi ro tỷ giá được loại bỏ. Lãi suất
nước ngoài thấp hơn lãi suất nội địa trong khi tỷ giá được cố định rõ ràng là một
khuyến khích cho các tổ chức kinh doanh và tài chính nội địa đi vay vốn nước
ngoài. Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện đối với dòng vốn nước ngoài. Các nhà đầu tư
nước ngoài khi cho các tổ chức tài chính trong nước vay cũng ngầm giả định
rằng khoản cho vay của mình sẽ được chính phủ nước sở tại bảo lãnh khi nhìn
thấy quan hệ gần gũi giữa chính phủ với các ngân hàng nội địa. Khi kinh tế tăng
trưởng khá, lượng vốn nước ngoài chảy vào nhiều thì không ai nghĩ rằng lại có
thể không đảo được nợ hay vay mới khi các khoản vay trước đây đến kỳ đáo hạn.
Dòng vốn chảy vào đã tạo nên sự bùng nổ tín dụng trong khu vực. Trong thập
niên 1990, tín dụng ngân hàng cấp cho khu vực tư nhân tăng lên nhanh chóng. Tới
cuối năm 1996, tổng giá trị nợ tài chính của khu vực tư nhân trên GDP lên tới hơn
36
140% ở Hàn Quốc và Thái Lan (bảng 2). Mức cung tiền M2 ở Hàn Quốc, Thái
Lan, Philippines, Malaysia và Indonesia tăng gần 20%/năm trong năm 1996 và
1997.
Bảng 2.6.: Nợ tài chính của khu vực tư nhân so với GDP (%)
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996
Korea 103.1 110. 121.3 128.8 133. 140.9
Thailand 88.6 98.4 110.8 128.1 142. 141.9
Nguồn: Radelet và Sachs (1998).
Tuy nhiên, cơ cấu vốn đầu tư lại không hợp lý chỉ khoảng 20-30% là vốn
đầu tư trực tiếp còn lại là vốn ngắn hạn đầu tư gián tiếp vào cổ phiếu, tín phiếu…
Luồng vốn nóng làm nền kinh tế các nước Đông Nam Á lệ thuộc tương đối vào
nước ngoài. Vốn ngắn hạn nước ngoài gây ra sức ép đồng nội tệ tăng giá và khi
luồng vốn bị rút ra ồ ạt sẽ gây ảnh hưởng, làm rối loạn hệ thống tài chính, đồng
nội tệ giảm giá và giá cổ phiếu giảm mạnh.
Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay nước ngoài ngắn hạn
được đầu tư dài hạn. Một tỷ trọng lớn vốn cho vay của ngân hàng và các tổ chức
tài chính phi ngân hàng được tập trung vào khu vực bất động sản. Ở Indonesia,
các khoản cho vay khu vực bất động sản tang 37%/năm trong giai đoạn 1992-
95 (trong khi tổng tín dụng ngân hàng chỉ tăng 22%/năm). Ở Thái Lan, các
khoản cho vay bất động sản của những công ty tài chính tăng 41%/năm trong giai
đoạn 1990-95 (trong khi tổng tín dụng chỉ tăng 33%/năm). Ở Hàn Quốc, các
khoản cho vay của ngân hàng được tập trung chủ yếu vào các tập đoàn lớn
(Chaebol).
37
Hình 2.1.: Tỷ lệ % giá trị cho vay bất động sản và công nghiệp chế biến của
các công ty tài chính Thái Lan trong tổng dư nợ (%)
Nguồn: Marcus Miller và Pongsak Luangaram (1998).
Thứ tư: Sự quản lý và điều hành yếu kém trong khu vực tài chính ngân hàng:
Có thể thấy rằng, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động chưa có hiệu quả,
quá phụ thuộc vào sự giúp đỡ của chính phủ. Không những thế, lại mạo hiểm nhận
vốn nước ngoài, trong đó một khối lượng lớn là các khoản vay nóng đưa vào đầu
tư dài hạn, thêm nữa, sai lầm trong chính sách vĩ mô về duy trì tỷ giá cứng, buộc
chặt đồng đôla Mỹ và lãi suất trần, sàn không bắt kịp tiến trình toàn cầu hoá…
Trong điều kiện thâm hụt cán cân vãng lai để duy trì tốc độ tăng trưởng
nóng và tỷ giá hối đoái cố định, ngân hàng các quốc gia Đông Nam Á lại phải tiếp
tục vay nóng từ các ngân hàng nước ngoài, đã đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ
nợ vượt quá dự trữ ngoại tệ trong nước. Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính
phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần
làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các
ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn
hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ khó đòi trong hệ thống
ngân hàng tăng lên, một phần là do các khoản cho vay không sinh lợi cấp cho các
38
doanh nghiệp nội địa, một phần là do các khoản cho vay các cá nhân đầu tư chứng
khoán, giờ đây không thể hoàn trả so giá chứng khoán giảm sút.
Thứ năm: Sự tấn công của các tổ chức tài chính nước ngoài:
Các nhà đầu tư lớn rút vốn có thể gây tác động lớn đến nền kinh tế mà họ
đã đầu tư. Tương tự như vậy, họ cũng có thể đầu cơ và đánh cược vào tình hình tài
chính của một nền kinh tế. Theo như lời buộc tội của Thủ tướng Malaysia Mahatir,
cuộc khủng hoảng 1997/98 là do hành động của các nhà đầu cơ lớn, các quỹ đầu tư
chứng khoán chênh lệch giá (mà nhân vật được nêu tên là George Soros). Thực tế
của nhiều cuộc khủng hoảng tiền tệ trước cho thấy khi tỷ giá kỳ hạn được định
dựa trên tỷ giá cố định thì các nhà đầu cơ có thể kiềm lời bằng cách bán khống
đồng nội tệ (hay mua ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn, tương lai) và rút ngoại tệ khi
đồng nội tệ sụt giá.
Tuy nhiên, tại Đông Á không thấy có bằng chứng rõ ràng cho thấy có hoạt
động đầu cơ lớn. Chí có trường hợp dolla Hong Kong là có dấu hiệu đầu cơ, tuy
nhiên đã thất bại. Một số quỹ đầu tư chứng khoán chênh lệch giá đúng là có bán
khống đồng baht nhưng vào thời điểm giữa năm 1997 thì nhiều nhà đầu tư trong
nước cũng làm như vậy. Có vẻ như là các nhà đầu cơ theo đuôi các công ty trong
nước chứ không phải là ngược lại.
2.1.3. Tác động của cuôc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới:
Tác động tiêu cực:
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở một số nước Đông Nam Á năm 1997
đã gây ra những chấn động lớn về kinh tế, xã hội ở mỗi nước, đồng thời ảnh
hưởng đến các nước khác ở khu vực. Tác động của cuộc khủng hoảng này là để
lại những hậu quả nặng nề, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Đối với các nước trong khu vực, trung tâm của “vòng xoáy” khủng hoảng: Có
thể nói sự mất giá nhanh với quy mô chưa từng có của đồng tiền 5 quốc gia (Thái
39
Lan, Philipines, Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc ) là tác động bên ngoài dễ thấy
nhất của sự bùng nổ khủng hoảng kinh tế tài chính ở các nước này:
Bảng 2.7.: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 199
Năm
Thái Lan
(Baht/usd)
Philippines
(peso/uds)
Malaysia
(ringgit/usd)
Indonesia
(rupiah/usd)
Hàn Quốc
(won/usd)
1996 26 26 3 2,308 844
1997 47 40 4 5,400 1,696
Tác động bên ngoài thứ hai của tình trạng khủng hoảng kinh tế tài chính là
sự thua lỗ và phá sản với tốc độ và quy mô bất thường của hệ thống ngân hàng tài
chính quốc gia:
Bảng 2.8.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng tài
chính
Nước
Năm tài chính từ 1/4/97 đến 31/3/98
Năm tài chính
từ 1/4/1996
đến 31/1/1997
(tổng số Ngân
hàng)
Số ngân
hàng bị
đình chỉ
hoạt
động
Số ngân
hàng bị
quốc
hữu hóa
Số ngân
hàng bị
sát
nhập
Số
ngân
hàng bị
bán
cho
công ty
nước
ngoài
Tổng số
ngân hàng
có vấn đề
lớn
Thái Lan 108 56 4 0 4 65 (59%)
Malaysia 60 0 0 41 0 41(68%)
40
Inđônêxia 228 16 56 11 0 83(36%)
Hàn quốc 56 16 2 0 0 18(32%)
Tác động thứ ba của sự khủng hoảng là sự thua lỗ, phá sản với quy mô và
tốc độ bất thường của các doanh nghiệp:
Bảng 2.9.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp
Nước Năm Số doanh nghiệp phá sản
Thái Lan 1/1998-5/1998 582
Malaysia
1996
1997
489
6583
Inđônêxia 1998 Khoảng 80% doanh nghiệp ngừng hoạt động
Hàn Quốc
1997
1998
14000
53000
41
Sự phát triển của hàng loạt các ngân hàng, doanh nghiệp dẫn đến hai hậu quả
trực tiếp là số người thất nghiệp tăng mạnh, và tăng trưởng quốc gia giảm sút
Bảng 2.10.: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế tài chính
Nước
Tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ thất nghiệp
(%)
1996 1997 1998 1996 1997 1998
Thái Lan 6.70 (0.40) (8.30) 3.30 3.70
Malaysia 8.20 7.00 2.00 2.60 2.70 5.00
Inđônêxia 7.80 4.60 (13.70) 2.20 3.00
Philipin 5.80 5.20 (0.50) 9.50 10.40 13.80
HànQuốc 7.10 5.50 (5.80) 2.30 2.50 8.00
Không những thế, khủng hoảng tài chính còn ảnh hưởng đến cả tỷ lệ lạm phát,
giảm dòng vốn đầu tư, tăng các món nợ nước ngoài, ảnh hưởng đên lãi suất cho vay ở
các nước này.
42
Bảng 2.11.: Chỉ số lạm phát, dòng vốn vào, nợ nước ngoài, lãi suất cho vay
Nước
Lạm phát (%) Dòng vốn vào (tỷ usd) Nợ nước ngoài (tỷ usd) Lãi suất cho vay(%)
1996 1997 1998 1996 1997 1998 1996 1997 1998 1996 1997 1998
Thái Lan
4.
80
5.
60
8.
10
19.
50
(9.
10)
(9.
50)
89.
00
97.
00
15.
00
18.
00
11.
50
Malaysia
3.
80
2.
80
7.
00
9.
50
2.
70
33.
90
31.
00
93.
20
9.
20
8.
40
11.
05
Inđônêxia
6.
60
11.
60
47.
00
10.
80
(0.
60)
115.
00
129.
00
140.
00
19.
20
21.
80
34.
00
Philipin
7.
10
7.
30
10.
30
43.
00
45.
00
47.
00
14.
40
15.
40
14.
80
16.
20
13.
50
Hàn
Quốc
5.
00
9.
50
6.
70
23.
90
-9. 2
112.
00
137.
00
154.
00
8.
80
9.
00
Đối với thị trường tài chính tiền tệ thế giới: Nguồn vốn đầu tư tư nhân vào nền
kinh tế trong tháng 12 tại Thái Lan giảm 23% so với cùng kỳ năm trước. Các khoản
cho vay từ ngân hàng cũng giảm mạnh ở Hồng Kông, Singapores, Thái Lan và
Malaysia. Các chính sách kinh tế chống khủng hoảng bắt đầu bằng chính sách thắt lưng
buộc bụng để thúc đẩy tìm tới ổn định, sau đó là nới lỏng chính sách này và quản lý các
nhu cầu xã hội trong bối cảnh nền tài chính tiền tệ toàn cầu không dẫn đến một sự phát
triển bền vững.
Cuộc khủng hoảng đã đẩy 40% nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Các nền
kinh tế lớn như Nhật Bản, Nga, Brazil…đã bị cuốn vào vòng xoáy của nó. IMF gần
như mất khả năng đóng vai trò “người chữa cháy” của nền kinh tế toàn cầu.
Sau khi bùng nổ cuộc khủng hoảng đồng Bạt ở Thái Lan tháng 7/1997. Các công
ty Nhật Bản đã vội vã rút vốn khỏi châu Á do sợ suy thoái kinh tế Nhật Bản kéo dài.
Những thay đổi trong chính sách tỷ giá hối đoái và buôn bán của Mỹ đối với Châu
Á đã tác động tiêu cực đến các nền kinh tế khu vực này. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở
Châu Á trước hết do cơ cấu yếu kém của nền kinh tế trong nước nhưng bị trầm trọng
43
thêm do những biến động nên ngoài liên quan đến môi trường tài chính quốc tế và trật
tự buôn bán quốc tế.
Thị trường tiền tệ thế giới đang bị tác động mạnh của sự lưu chuyển vốn ồ ạt và
ngắn hạn. Vì vậy, những biến động ngắn hạn về tỷ giá hối đoái trở nên nhạy cảm và
được quy định bởi sự thay đổi không thể dự báo trước của quan hệ cung cầu tiền tệ.
Nguồn vốn thế giới chảy vào các nền kinh tế mới nổi ở khu vực này giảm mạnh từ mức
196 tỷ USD năm 1996 xuống còn 39 tỷ USD năm 1998, trong khi các nền kinh tế Âu
Mỹ phát triển ổn định khiến nguồn vốn lại chảy ngược từ các nước Châu Á trở lại Âu
Mỹ. GDP của Mỹ đạt 8000 tỷ USD năm 1998, còn GDP của EU đạt 6000 tỷ. Nền kinh
tế Mỹ phát triển mạnh làm cho đồng đôla Mỹ tiếp tục tăng mạnh lên so với các đồng
tiền Châu á. Đến tháng 12/1998 các đồng tiền Châu á vẫn mất giá từ 13% - 16% so
với trước khủng hoảng. Cho đến tận nửa cuối tháng 3-1999 đồngYên cần được giao
dịch với tỷ giá 123-124 Yên cho một đôla Mỹ. Xu hướng giảm giá của đồng Yên
Nhật Bản cùng với khả năng lạm phát cao được gọi là cần thiết để kích thích nhu cầu
trong nước. Tuy nhiên, biên độ giao động tỷ giá lớn giữa đồng Yên và đồng đôla Mỹ
không có lợi cho các nền kinh tế Châu á.
Stanley Fischer, Phó giám đốc điều hành IMF kêu gọi một sự ổn định tiền tệ lớn
hơn để ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ phá hoại các nền kinh tế mới nổi ở Châu
Á. Các nước này cần xác định một cơ chế phù hợp cho mình để cùng tìm ra một chính
sách tỷ giá thích hợp. Trong khi khối lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường tài
chính gấp 50 lần khối lượng tiền tệ giao dịch trên thị trường hàng hoá, đồng USD vẫn
là đồng tiền chi phối trên thị trường tài chính toàn cầu và mang lại cho Mỹ một lợi
thế vô cùng to lớn. Do mở cửa thị trường vốn toàn cầu và những tiến bộ trong công
nghệ máy tính và thông tin, Mỹ càng ngày tăng cường được ảnh hưởng đối với các nền
kinh tế mới nổi với tư cách là nền tài chính lớn và mạnh nhất thế giới.
IMF báo động rằng tình hình trên thị trường vốn quốc tế chứa đựng những nguy
cơ bất ổn định lớn cũng như khả năng biến động cao và những điều chỉnh lớn về giá
44
bất động sản. Thế giới phải chứng kiến cuộc khủng hoảng lớn trên thị trường vốn của
các nước mới nổi.
Tác động tích cực:
Bên cạnh những tác hại của khủng hoảng kinh tế gây ra nó cũng có nhiều mặt tích
cực, mở đầu giai đoạn mới đầy triển vọng.
Việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp chính phủ giảm thiểu lượng
ngoại tệ can thiệp, giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu
dài, khuyến khích, tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đỏ cải thiện những cân đối tài
chính của đất nước.
Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippin sẽ nhận được lượng tín dụng quốc tế
chính thức với khối lượng lớn phục vụ các mục tiêu cải cách và phát triển kinh tế. Cuộc
khủng hoảng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, thúc đẩy sản xuất sản phẩm
mới có suất cạnh tranh xuất khẩu cao hơn. Các khoản chi phí kém hiệu quả sẽ bị cắt
giảm, các dự án cá nhân được khuyến khích.
45
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
NĂM 1997 TẠI VIỆT NAM
3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tới Việt Nam
Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam được chia thành hai giai đoạn chính:
thời kỳ trước đổi mới từ năm 1976 đến năm 1985 và sau đổi mới từ năm 1986. Từ khi đổi
mới, Việt Nam ngày càng mở rộng cửa hướng tới khu vực và thị trường thế giới. Do đó,
là một quốc gia nằm trong khu vực ảnh hưởng, Việt Nam cũng đã phải chịu những ảnh
hưởng nhất định từ cuộc khủng hoảng một cách trực tiếp và gián tiếp, tích cực và tiêu cực
đến các mặt kinh tế - xã hội.
3.1.1. Tác động về thương mại:
Theo ước tính thì khoảng 70% kim ngạch mậu dịch của Việt Nam là với các nước
Đông Á và phần lớn được thanh toán bằng USD. Cho nên trong khi các đồng tiền khác
trong khu vực đã bị phá giá từ 80% đến 250% so với đồng USD, đồng tiền Việt Nam mới
chỉ mất giá khoảng trên 10% so với đồng USD, điều này làm cho hàng nhập khẩu từ các
nước Đông Á vào Việt Nam với mức rẻ gần như tương ứng với mức phá giá của đồng
tiền các nước. Do đó hàng nhập từ Đông Á sẽ lấn át hàng nội của chúng ta do giá rẻ,
lượng hàng nhập khẩu tăng cao bằng cả hai con đường chính thống và buôn lậu. Theo
Báo cáo của Bộ thương mại giá máy móc thiết bị giảm từ 20% đến 40%, linh kiệm điện
tử giảm từ 10 -30 %, bông xơ các loại giảm từ 10 -15% đều này sẽ gây áp lực lên cán cân
thanh toán vãng lai cũng như việc sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong nước. Tuy
nhiên, đây cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng các cơ hội đầu tư, giảm chi phí đầu vào
và tiếp cận công nghệ sản xuất
Đồng thời, do các đồng tiền Đông Á bị phá giá ở mức cao, đã tạo sức ép đối với
hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này phải giảm giá. Do vậy nguồn thu vì
xuất khẩu sẽ giảm vì giá xuất khẩu hạ thì doanh nghiệp nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu có
thể phải ngừng sản xuất vì doanh thu không đủ trang trải cho các yếu tố đầu vào. Ngoài
ra, những doanh nghiệp lớn có thể tìm được thị trường khác khi bị ép giá, nhưng lượng
46
xuất khẩu giảm đi, đồng thời doanh thu cũng giảm xuống do giá xuất khẩu hạ. Riêng sáu
tháng cuối năm 1997, lợi tức của Việt Nam chỉ tính từ xuất khẩu của mặt hàng nông sản
đã bị mất khoảng 500 triệu USD. Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra và lan
rộng, xuất khẩu của Việt Nam thời gian này giảm từ 2.252 triệu USD (1996) xuống còn
1.787 triệu USD (1997), mức giảm là 465 triệu USD. Số liệu đầu năm 1998 cho thấy xuất
khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN đã giảm 57% so với tháng 12 năm 1997, tốc
độ tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm 1998 chỉ tăng 10,2% trong khi cùng kỳ năm 1997
tăng 32%.
3.1.2. Tác động về tỷ giá:
Do các đồng tiền Đông Á bị phá giá với tỉ lệ lớn, nên đã tác động mạnh mẽ đến
tâm lý của các nhà đầu tư, đã tạo ra tình trạng đầu cơ, nắm giữ ngoại tệ.Ở nước ta thể
hiện rõ nhất qua việc rút tiền tiết kiệm hàng loạt của dân cư và tổ chức kinh tế quy đổi
sang ngoại tệ hay các loại tài sản khác. Đồng thời, khủng hoảng đã làm cho lượng tiền
gửi bằng đồng Việt Nam tăng chậm, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh kể cả tiền gửi tiết
kiệm của dân chúng. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại luôn muốn vượt trần
gây sức ép phá giá đồng tiền Việt Nam. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị
trường ngoại hối nói chung cầu luôn luôn cao hơn cung.
Thời kỳ 1997 – 1998 cũng ghi nhận ba lần điều chỉnh tỷ giá vào tháng 7-1997
(bình quân 11.690 VND/USD), tháng 2-1998 (bình quân 12.664 VND/USD) và tháng 8-
1998 (bình quân 13.715 VND/USD). Ngoại tệ có nguy cơ tăng giá bất ngờ đã làm tăng
nhu cầu vay vốn bằng đồng Việt Nam để tránh rủi ro về tỷ giá và do vậy làm tăng lãi suất
đồng Việt Nam. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm cho nhiều doanh nghiệp không mua được
USD hoặc phải mua với giá cao để thanh toán đơn hàng đã phải chịu lỗ nặng.
Ngoại trừ đồng SGD bị phá giá 8,3%, bốn đồng tiền khác của khu vực ĐNA bị
phá giá từ 32% đến 56% so với USD, trong khi đó đồng Việt Nam chỉ bị mất giá ít so với
USD (ngày 17/10 ta mới bắt đầu phá giá 4,5% giá trị đồng Việt Nam)
47
Bảng 3.1: Tình hình phá giá của các đồng tiền Đông Nam Á
Đồng
Tỷ giá so với USD Mức độ
phá giáNgày 1/7 Ngày 6/10
Baht / USD 25,65 36,37 42%
Rupi / USD 24,75 38,65 56%
Peso / USD 26,37 34,92 32%
MR / USD 2,5 3,38 35%
SGD / USD 1,43 1,548 8,3%
Nguồn : Tổng hợp của tác giả
3.1.3. Tác động về đầu tư
Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70% so với năm 1996. Đó
là do 70% FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông A', là những nước đang
bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng. Cho nên cũng giống như đối với Trung
Quốc, họ không muốn đầu tư vào nước ta vì nhu cầu khắc phục kinh tế của bản thân nước
họ, tạo thành làn sóng rút vốn đầu tư ra khỏi châu Á. Những nhà đầu tư lớn vào Việt Nam
đến từ các quốc gia láng giềng trong khu vực cũng tức thì lâm vào trạng thái thiếu tiền
mặt. Số lượng dự án đăng ký mới giảm sút từ 349 năm 1997 xuống còn 285 và 327 trong
các năm 1998 và 1999. Nhưng quy mô vốn đầu tư mới thực sự là yếu tố suy giảm mạnh.
Năm 1997 có 5,6 tỉ USD FDI đăng ký vào Việt Nam. Con số này chỉ còn 5 tỉ USD trong
năm 1998. Và trong hai năm tiếp theo, lượng vốn đăng ký chỉ còn khoảng 50% của năm
1997. Số vốn thực hiện trong ba năm liên tiếp từ 1998 – 2000 dừng ở mức trên 2,3 tỉ
USD mỗi năm.
Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, nền kinh tế các nước trong xu thế mở
cửa, hướng ngoại thì khủng hoảng kinh tế tại một nước, hay một khu vực sẽ có những
ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như từng nền kinh tế riêng
48
biệt, do đó việc Việt Nam phải chịu những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính 1997
là không thể tránh khỏi.
Nền kinh tế nước ta cũng chứa đựng những yếu tố mang tính nguyên nhân của cuộc
khủng hoảng tương tự như một số nước trong khu vực như:
• Nền kinh tế chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao một phần quan trọng là do
tốc độ tăng xuất khẩu cao 20-30%/năm, đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Mức tăng
trưởng GDP chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vốn FDI và ODA nên khi nguồn nay
giảm sẽ gây những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế. Cán cân
thanh toán vãng lai thâm hụt trong nhiều năm (từ năm 1992) ở mức cao so với
GDP. Thâm hụt cán cân vãng lai gây sức ép đến tỷ giá hối đoái và tăng dư nợ
nước ngoài của Việt Nam. Riêng năm 1996 thâm hụt cán cân vãng lai 2 tỷ đô la
(chiếm khoảng 10% GDP) và năm 1997 mặc dù đã giảm nhưng vẫn thâm hụt cao
(khoảng 1,5 tỷ USD).
• Bội chi ngân sách nhà nước kéo dài. Đặc biệt là việc bao cấp cho một số doanh
nghiệp nhà nước chưa được giải quyết triệt để, ngân sách thường xuyên bi bội chi
gây sức ép lớn đến nhu cầu vốn ngoại tệ từ bên ngoài và lượng dự trữ quốc gia
còn eo hẹp.
• Chế độ tỷ giá ổn định kéo dài nhằm mục đích tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn
định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài đổ vào nhiều đã tạo
nên sự ổn định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại tệ, tuy nhiên lại tiềm ẩn rủi ro khi tỷ giá
tăng về lâu dài dẫn đến gánh nặng nợ không còn là con số ước tính ban đầu, ảnh
hưởng không nhỏ đến cán cân thanh toán và nhu cầu ngoại tệ khi đến hạn, nhất là
khi các khoản vay nước ngoài sử dụng không hiệu quả, thất thoát hay doanh
nghiệp mất khả năng trả nợ. Ngoài ra còn do hệ thống thông tin thiếu minh bạch,
thị trường tài chính sơ khai chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế.
Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước trong khu vực ĐNA (về mức độ biến động tỷ giá,
thương mại và đầu tư) thì ảnh hưởng của Việt Nam trước cuộc khủng hoảng là không
đáng kể. Có một vài nguyên nhân để giải thích cho luận điểm trên:
49
• Thứ nhất, thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam mới ở giai đoạn sơ khai, chưa
phát triển đầy đủ để có thể hoà nhập vào thị trường tài chính khu vực. Ngoài ra
việc đầu tư của nước ngoài vào giấy tờ có giá trong nước vẫn còn bị kiểm soát
chặt chẽ chưa được cho phép nên khả năng đầu cơ gây bất lợi cho tiền đồng Việt
Nam được hạn chế. Nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam, chủ yếu dưới dạng đầu tư
trực tiếp, thời hạn dài theo các dự án sản xuất nên các nhà đầu tư nước ngoài cũng
không thể lập tức chuyển vốn ra. Vì vậy sức ép của việc chuyển vốn ngắn hạn ra
khỏi Việt Nam không thể gây ra những cú sốc đột biến.
• Thứ hai, chế độ quản lý ngoại hối của Việt Nam tương đối chặt chẽ, kể cả các
giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, góp phần tạo ra một rào cản trước những áp
lực của luồng ngoại tệ chảy ra ngoài hoặc những hoạt động đầu cơ. Chính sách tỷ
giá từng bước linh hoạt trên cơ sở ổn định giá trị đối nội và đối ngoại, tạo điều
kiện cho đồng Việt Nam được phản ánh tương đối sát thực với cung cầu ngoại tệ
góp phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng xuất khẩu. Cụ thể, năm
1986-1998 ta chủ động điều chỉnh tỷ giá để đạt mục tiêu nói trên: từ năm 1986-
1990, tỷ giá VND/USD đã tăng dần từ 80đ/USD lên tới 6.500đ/USD, năm 1991
lên tới 12.00đ/USD. Trước khi khủng hoảng kinh tế khu vực xảy ra ta có giải pháp
nâng dần tỷ giá chính thức của ngân hàng thương mại từ 1 đến 5% so với tỷ giá
chính thức tháng 2.1997 là 10% và tháng 8.1998 là 7%). Những giải pháp này đã
kịp thời góp phần giảm bớt sức ép đối với tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam. Trong
khi đó, nhiều nước bị khủng hoảng đã giữ tỷ giá cố định quá lâu, nên đã mất nhiều
dự trữ để can thiệp bảo vệ cho mức tỷ giá đó trước khi phải thả nổi hoàn toàn.
Chẳng hạn như Thái Lan giữ cố định mức tỷ giá 25 Baht đổi 1 USD trong suốt 13
năm và vừa qua bỏ ra hơn 6 tỷ USD để can thiệp.
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm
1997
Có thể nói cuộc khủng hoảng tài chính 1997 là một cơ hội để các nước nhìn nhận và xây
dựng chiến lược phát triển để đối phó và ngăn ngừa các biến động trong tương lai.
đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop
đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop
đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop
đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop
đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop
đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

More Related Content

What's hot

chuong 4 Tỷ giá và can thiệp chính sách
chuong 4 Tỷ giá và can thiệp chính sáchchuong 4 Tỷ giá và can thiệp chính sách
chuong 4 Tỷ giá và can thiệp chính sách
baconga
 
Khung hoang tai chinh 2008 - Tran Thi Thuy Tram
Khung hoang tai chinh 2008 - Tran Thi Thuy TramKhung hoang tai chinh 2008 - Tran Thi Thuy Tram
Khung hoang tai chinh 2008 - Tran Thi Thuy Tram
Tram Tran
 
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giáPhân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
GoodbyemyBaBy
 
Hệ thống tiền tệ thế giới
Hệ thống tiền tệ thế giớiHệ thống tiền tệ thế giới
Hệ thống tiền tệ thế giới
Hieu Chau
 
đô La hóa
đô La hóađô La hóa
đô La hóa
Thanh Vu
 
Ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ươngNgân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương
Jenny Pham
 
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính tiền tệ (vb2)
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính   tiền tệ (vb2)Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính   tiền tệ (vb2)
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính tiền tệ (vb2)
Tạ Đình Chương
 
Sự vận động của tỷ giá hối đoái
Sự vận động của tỷ giá hối đoáiSự vận động của tỷ giá hối đoái
Sự vận động của tỷ giá hối đoái
pikachukt04
 
Tỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sáchTỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sách
PhanQuocTri
 

What's hot (20)

PTĐTCK
PTĐTCKPTĐTCK
PTĐTCK
 
chuong 4 Tỷ giá và can thiệp chính sách
chuong 4 Tỷ giá và can thiệp chính sáchchuong 4 Tỷ giá và can thiệp chính sách
chuong 4 Tỷ giá và can thiệp chính sách
 
Khung hoang tai chinh 2008 - Tran Thi Thuy Tram
Khung hoang tai chinh 2008 - Tran Thi Thuy TramKhung hoang tai chinh 2008 - Tran Thi Thuy Tram
Khung hoang tai chinh 2008 - Tran Thi Thuy Tram
 
Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015
Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015
Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015
 
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giáPhân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
 
Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)
Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)
Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)
 
Đề tài: Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay, HAY
Đề tài: Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay, HAYĐề tài: Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay, HAY
Đề tài: Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Chuyên đề 6: Quản trị rủi ro tỷ giá
Chuyên đề 6: Quản trị rủi ro tỷ giáChuyên đề 6: Quản trị rủi ro tỷ giá
Chuyên đề 6: Quản trị rủi ro tỷ giá
 
CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾCÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
 
Các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở Việt Nam
Các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở Việt NamCác công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở Việt Nam
Các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở Việt Nam
 
Nhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nước
Nhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nướcNhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nước
Nhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nước
 
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010
 
Hệ thống tiền tệ thế giới
Hệ thống tiền tệ thế giớiHệ thống tiền tệ thế giới
Hệ thống tiền tệ thế giới
 
đô La hóa
đô La hóađô La hóa
đô La hóa
 
ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH...
ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH...ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH...
ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH...
 
Ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ươngNgân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương
 
Công thức phân tích tài chính doanh nghiệp
Công thức phân tích tài chính doanh nghiệpCông thức phân tích tài chính doanh nghiệp
Công thức phân tích tài chính doanh nghiệp
 
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính tiền tệ (vb2)
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính   tiền tệ (vb2)Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính   tiền tệ (vb2)
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính tiền tệ (vb2)
 
Sự vận động của tỷ giá hối đoái
Sự vận động của tỷ giá hối đoáiSự vận động của tỷ giá hối đoái
Sự vận động của tỷ giá hối đoái
 
Tỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sáchTỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sách
 

Similar to đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a) bai gui lop

Kinh nghiem chinh sach cac nuoc
Kinh nghiem chinh sach  cac nuocKinh nghiem chinh sach  cac nuoc
Kinh nghiem chinh sach cac nuoc
MrCây Xanh
 
Tl bo sung thay trang
Tl bo sung   thay trangTl bo sung   thay trang
Tl bo sung thay trang
Loan Le
 
Tieu luan bo ba bat kha thi
Tieu luan bo ba bat kha thiTieu luan bo ba bat kha thi
Tieu luan bo ba bat kha thi
ngapham96
 
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
phamquyenbt9191
 
Thảo luận tài chính quốc tế 1 diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
Thảo luận tài chính quốc tế 1  diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...Thảo luận tài chính quốc tế 1  diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
Thảo luận tài chính quốc tế 1 diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
minhanh2812
 
Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docx
Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docxDiễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docx
Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docx
ulawteamwork
 
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảngCâc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
SanSan Nguyễn
 

Similar to đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a) bai gui lop (20)

Kinh tế vĩ mô.doc
Kinh tế vĩ mô.docKinh tế vĩ mô.doc
Kinh tế vĩ mô.doc
 
IMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu Á
IMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu ÁIMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu Á
IMF - Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Châu Á
 
Lecture 4a capital flows - bop - monetary policy
Lecture 4a capital flows - bop - monetary policyLecture 4a capital flows - bop - monetary policy
Lecture 4a capital flows - bop - monetary policy
 
Gih1
Gih1Gih1
Gih1
 
Kinh nghiem chinh sach cac nuoc
Kinh nghiem chinh sach  cac nuocKinh nghiem chinh sach  cac nuoc
Kinh nghiem chinh sach cac nuoc
 
Bài thảo luận nhóm 02
Bài thảo luận nhóm 02Bài thảo luận nhóm 02
Bài thảo luận nhóm 02
 
Tl bo sung thay trang
Tl bo sung   thay trangTl bo sung   thay trang
Tl bo sung thay trang
 
Tieu luan bo ba bat kha thi
Tieu luan bo ba bat kha thiTieu luan bo ba bat kha thi
Tieu luan bo ba bat kha thi
 
Presentation1
Presentation1Presentation1
Presentation1
 
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
 
Thảo luận tài chính quốc tế 1 diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
Thảo luận tài chính quốc tế 1  diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...Thảo luận tài chính quốc tế 1  diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
Thảo luận tài chính quốc tế 1 diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính châu á nă...
 
Khủng hoảng tài chính k hung hoảng nợ công hy lạp
Khủng hoảng tài chính k hung hoảng nợ công hy lạpKhủng hoảng tài chính k hung hoảng nợ công hy lạp
Khủng hoảng tài chính k hung hoảng nợ công hy lạp
 
NGHIÊN CỨU VỀ HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM (TẢI FREE ZALO: 09...
NGHIÊN CỨU VỀ HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM (TẢI FREE ZALO: 09...NGHIÊN CỨU VỀ HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM (TẢI FREE ZALO: 09...
NGHIÊN CỨU VỀ HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM (TẢI FREE ZALO: 09...
 
Bài mẫu tiểu luận về lạm phát ở Việt Nam, HAY
Bài mẫu tiểu luận về lạm phát ở Việt Nam, HAYBài mẫu tiểu luận về lạm phát ở Việt Nam, HAY
Bài mẫu tiểu luận về lạm phát ở Việt Nam, HAY
 
Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docx
Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docxDiễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docx
Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 (Autosaved).docx
 
Vietnamese Inflation
Vietnamese InflationVietnamese Inflation
Vietnamese Inflation
 
Đề tài: Cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng lạm phát, đề ...
Đề tài: Cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng lạm phát, đề ...Đề tài: Cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng lạm phát, đề ...
Đề tài: Cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng lạm phát, đề ...
 
Seminar vepr 15
Seminar vepr 15Seminar vepr 15
Seminar vepr 15
 
Seminar vepr 15
Seminar vepr 15Seminar vepr 15
Seminar vepr 15
 
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảngCâc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
Câc gói kích cầu của VN sau cuộc khủng hoảng
 

đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a) bai gui lop

  • 1. 1 NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH TIỂU LUẬN MÔN HỌC TÀI CHÍNH QUỐC TẾ ĐỀ TÀI: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG NAM Á NĂM 1997 GVHD : PGS., TS. LÊ PHAN THỊ DIỆU THẢO HV THỰC HIỆN : NHÓM 4 LỚP : CAO HỌC 16A TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 5 NĂM 2015
  • 2. 2 LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt là tự do hóa thị trường tài chính đã trở nên phổ biến ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng nằm trong số những quốc gia này, Đảng và nhân dân ta đã và đang tích cực cải thiện, phát triển các định chế kinh tế để Việt Nam có thể trở thành một phần trong guồng máy thương mại thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực như dễ dàng tiếp cận và tận dụng được những kinh nghiệm, công nghệ cũng như những nguồn vốn hỗ trợ lớn từ các nước công nghiệp đã phát triển, chúng ta hiện phải đối mặt với những mặt tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình toàn cầu hóa làm gia tăng tính phụ thuộc giữa các quốc gia với nhau. Khi xảy ra những rủi ro tài chính ở một quốc gia nào đó hậu quả của nó không chỉ tác động đến nền kinh tế của nước này mà là hàng loạt những ảnh hưởng đến tất cả các nước khác có liên hệ và hợp tác với quốc gia đó, đặc biệt là khi khủng hoảng tài chính lại xảy ra ở Mỹ - nền kinh tế hùng mạnh nhất hành tinh. Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, đặt biệt là sự phát triển của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, ngân hàng – các tổ chức tín dụng, đã và đang thu hút một lượng lớn nguồn ngoại tệ đầu tư từ nước ngoài. Đây là nguồn ngoại tệ lớn, quan trọng giúp tốc độ tăng trưởng kinh tế phát triển mạnh. Bên cạnh đó, nó hàm chứa nhưng nguy cơ rủi ro cao và có khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính - kinh tế. Để sử dụng tốt nguồn ngoại tệ này, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được những cơ chế, chính sách phù hợp. Muốn làm được như vậy, Việt Nam cần tìm hiểu các bài học kinh nghiệm từ những cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính - tiền tệ đã xảy ra trước đây trong khu vực và trên thế giới. Bằng phương pháp mô tả và phân tích các số liệu, thông tin về hiện trạng nền kinh tế Đông Nam Á thập niên 90 của thế kỷ XX, đề tài “Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm 1997” được thực hiện nhằm làm rõ những nguyên nhân
  • 3. 3 cũng như ảnh hưởng của khủng hoảng và đề xuất các giải pháp đối phó với khủng hoảng tài chính để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Bài nghiên cứu gồm 3 phần: Phần 1: Cơ sở lý luận về khủng hoảng tài chinh Phần 2: Phân tích cuộc khủng hoàng tài chính Đông Nam Á 1997 Phần 3: Liên hệ thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 tại Việt Nam
  • 4. 4 BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC STT Họ và tên Nội dung thực hiện 1 Phạm Thị Thúy Hằng Viết phần nội dung chương 3 2 Đặng Thị Thúy Nga Viết phần 2.1 & tổng hợp 3 Vũ Nguyễn Hồng Ngọc Viết phần 2.2 & thuyết trình 4 Nguyễn Thị Vân Nhung Viết phần nội dung chương 3 & thuyết trình 5 Trần Thị Bích Phương Viết phần 2.3 & làm Powerpoint 6 Tạ Ngọc Thiện Thảo Viết phần nội dung chương 1
  • 6. 6 DANH MỤC BẢNG BIỂU & HÌNH BẢNG: Bảng 2.1.: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP) Bảng 2.2.: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%) Bảng 2.3.: Nợ nước ngoài & dữ trự ngoại hối Bảng 2.4.: Vốn tư nhân nước ngoài ở 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-96 - Tỷ USD Bảng 2.5.: Vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-1996 - Tỷ USD Bảng 2.6.: Nợ tài chính của khu vực tư nhân so với GDP (%). Bảng 2.7.: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997 Bảng 2.8.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng tài chính Bảng 2.9.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp Bảng 2.10.: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế tài chính Bảng 2.11.: Chỉ số lạm phát, dòng vốn vào, nợ nước ngoài, lãi suất cho vay Bảng 3.1: Tình hình phá giá của các đồng tiền Đông Nam Á Bảng phụ lục.: Các chỉ tiêu kinh tế khu vực Đông Á giai đoạn 1990-199 HÌNH ẢNH Hình 1.1: Bộ ba bất khả thi Hình 2.1: Tỷ lệ % giá trị cho vay bất động sản và công nghiệp chế biến của các công ty tài chính Thái Lan trong tổng dư nợ (%) Hình phụ lục: Biểu diễn các chỉ số kinh tế khu vực ASENA-4
  • 7. 7 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 1.1. Khái niệm, phân loại khủng hoảng tài chính Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Một số dấu hiệu của khủng hoảng tài chính như các ngân hàng thương mại không thể hoàn trả các khoản tiền gửi của người gửi tiền, các khách hàng vay vốn (cá nhân, tập thể, chính phủ) gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả các khoản vay cho ngân hàng, chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Khủng hoảng tài chính được chia làm ba dạng: khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng nợ. 1.1.1. Khủng hoảng tiền tệ (Currency Crisis) Theo định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF: “khủng hoảng tiền tệ là trạng thái mà ở đó một cuộc tấn công vào đồng nội tệ dẫn tới sự thâm hụt phần lớn dự trữ ngoại tệ và làm đồng tiền nội tệ mất giá nhanh chóng hoặc buộc các cơ quan chức năng phải có biện pháp phòng vệ bằng cách sử dụng một lượng dự trữ ngoại tệ lớn hoặc nâng cao mức lãi suất”. Khủng hoảng tiền tệ chiếm vị trí trung tâm trong các nghiên cứu về khủng hoảng tài chính vì khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ thường đi kèm hoặc kéo theo các dạng khủng hoảng khác, chẳng hạn như khủng hoảng ngân hàng (còn được gọi là “khủng hoảng kép”). Lý thuyết nghiên cứu về khủng hoảng tiền tệ Các mô hình nghiên cứu về khủng hoảng tiền tệ ra đời cùng với các cuộc khủng hoảng tiền tệ đã từng diễn ra trong lịch sử và được xây dựng thành ba mô hình tương ứng với ba cuộc khủng hoảng. Mô hình thứ nhất dùng để giải thích cho cuộc khủng hoảng xảy ra tại các nước Châu Mỹ Latinh vào những năm cuối thập kỷ 70 do Krugman(1979) phát triển trên cơ sở các nghiên cứu trước đó của Salant và Henderson (1978). Trọng tâm của các nghiên cứu này là các chính sách vĩ mô với tỷ giá hối đoái được neo giữ cố
  • 8. 8 định. Tình trạng thiếu đồng bộ trong các chính sách kinh tế tạo ra nhiều bất ổn cho nền tảng kinh tế, khiến tỷ giá hối đoái cố định không thể tiếp tục duy trì và hệ quả tất yếu là sẽ có sự điều chỉnh về tỷ giá. Các nguyên nhân vĩ mô của khủng hoảng loại này là do tăng trưởng kinh tế quá nóng, những yếu kém trong hệ thống ngân sách và do nền kinh tế hoạt động nghèo nàn. Mô hình thứ hai bắt đầu bằng những nghiên cứu của Obsbteld (1986 và 1996). Khủng hoảng tiền tệ xảy ra do có sự dịch chuyển từ trạng thái cân bằng này sang trạng thái cân bằng khác, như từ tỷ giá hối đoái cố định sang tỷ giá hối đoái thả nổi hoặc từ tỷ giá hối đoái cố định sang tỷ giá hối đoái cố định khác nhưng với tỷ giá thấp hơn. Một điển hình khác của loại khủng hoảng này liên quan tới các khoản thâm hụt tài chính của Chính phủ dẫn đến việc các nhà cho vay đồng loạt thu hồi lại vốn cho vay và gây sụp đổ hệ thống tiền tệ hoặc do hoạt động đầu cơ của các quỹ đầu tư lớn. Lý thuyết về khủng hoảng tiền tệ có thêm một bước tiến mới sau khủng hoảng tài chính ở Đông Á năm 1997. Những nghiên cứu từ cuộc khủng hoảng này đã phát triển thành mô hình khủng hoảng thuộc thế hệ thứ ba của khủng hoảng tiền tệ. Khủng hoảng xảy ra khi đất nước bị sụt giảm nhanh chóng về nguồn vốn do những hoảng sợ về tài chính đến từ phía các nhà đầu tư nước ngoài. Trong một số trường hợp, các nước duy trì một tỷ giá cố định với chức năng như một “hợp đồng bảo hiểm rủi ro tỷ giá” cho các nhà đầu tư nước ngoài. Một khi có dự báo về việc tỷ giá cố định không thể tiếp tục được duy trì sẽ khiến các nhà đầu tư cảm thấy khoản đầu tư của mình không an toàn nữa và đồng loạt rút vốn để đầu tư vào những tài sản ít biến động hơn. Sự ra đi ồ ạt của các khoản vay ngân hàng làm cho đất nước thiếu hụt trầm trọng dự trữ ngoại tệ và yếu kém về khả năng thanh toán. 1.1.2. Khủng hoảng ngân hàng ( Banking Crisis) Khủng hoảng ngân hàng là trạng thái theo đó các ngân hàng lâm vào tình trạng rút tiền ồ ạt và bị phá sản. Các ngân hàng buộc phải dừng việc thanh toán các cam kết của mình, hoặc để tránh tình trạng này nhà nước phải can thiệp bằng các
  • 9. 9 biện pháp hỗ trợ đặc biệt. Khủng hoảng ngân hàng có thể bùng phát tại một ngân hàng và lan ra toàn bộ hệ thống. Lý thuyết phân tích khủng hoảng ngân hàng Trước thập niên 70, thế giới chỉ xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng vào diện rộng vào những năm 1929- 1933. Nhưng từ thập niên 70 trở lại đây, khủng hoảng ngân hàng theo kiểu dây chuyền đã xảy ra ở rất nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển, đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Đặc biệt là tại Châu Mỹ Latinh, khủng hoảng tài chính- ngân hàng đã xảy ra đôi ba lần ở cùng một quốc gia (hai lần ở Brazil, Venezuela và Chile, ba lần ở Argentina, Costa Rica và Mexico). Khủng hoảng còn xảy ra ở Đông Á năm 1997, ngân hàng của nhiều nước Châu phi cũng lâm vào tình trạng tương tự. Đặc trưng của khủng hoảng ngân hàng là hiện tượng rút tiền ồ ạt ra khỏi các ngân hàng gây nên tình trạng mất khả năng thanh toán cục bộ và có thể lan rộng sang các ngân hàng khác. Đã có nhiều cách lý giải cho hiện tượng này, (Kindleberger-1978, Diamond và Dybvid- 1983) cho rằng nguyên nhân có thể do thông tin bất cân xứng giữa ngân hàng và người gửi tiền hoặc có thể do kết quả của “ sự kích động tâm lý của đám đông hỗn loạn”. Các lý thuyết giải thích hiện tượng rút tiền ồ ạt xuất phát từ yếu tố tâm lý cho rằng, mỗi người gửi tiền sẽ rút vốn khỏi ngân hàng khi nghĩ những người gửi tiền khác đang rút vốn, thậm chí khi ngân hàng của họ không có bất cứ vấn đề nào trong bảng cân đối tài sản. Một hình thức lan truyền khác được đề cập đến trong nghiên cứu của Diamond và Rajan (2002) giả định rằng các ngân hàng có một cơ chế chung về thanh khoản. Sự sụp đổ của ngân hàng sẽ tạo ra những hạn chế về thanh khoản, từ đó gây nên những hạn chế về khả năng thanh toán và có thể dẫn đến sự suy sụp của một loạt các ngân hàng, thậm chí khi không có bất cứ một thông tin hoặc liên kết nào giữa các ngân hàng. Các yếu tố vĩ mô có thể trở thành những yếu tố quan trọng gây nên sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng, trong nhiều trường hợp sự can thiệp sớm một cách thiếu tổng thể của Chính phủ làm cho sự suy sụp ở mức độ nhỏ trở thành
  • 10. 10 khủng hoảng ngân hàng. Chẳng hạn, các biện pháp chính sách nhất thời có thể gây sự hiểu lầm cho người gửi tiền gây nên việc rút tiền ồ ạt và dẫn đến một cuộc khủng hoảng ngân hàng toàn bộ. Nguyên nhân phát sinh khủng hoảng ngân hàng không chỉ xuất phát từ các yếu tố nội sinh mà đôi khi các yếu tố kinh tế bên ngoài cũng đóng vai trò rất quan trọng. Điển hình là các cuộc khủng hoảng ngân hàng đầu thập niên 80 tại các nước đang phát triển chủ yếu là do giá dầu biến động và một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác ở các nước này giảm sút, ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Trả nợ nhiều và trả lãi tiền vay cao cho các nước phát triển cũng góp phần tăng nguy cơ xảy ra khủng hoảng ngân hàng. 1.1.3. Khủng hoảng nợ nước ngoài ( Debt Crisis) IMF định nghĩa “Khủng hoảng nợ nước ngoài xảy ra khi một quốc gia không có khả năng trả nợ nước ngoài, bao gồm khoản nợ của Chính phủ hay của khu vực tư nhân”. Khủng hoảng nợ xảy ra nhiều ở các nước đang phát triển mà nguyên nhân chủ yếu là do chủ các ngân hàng quốc tế. Dưới sức ép của các khoản tiền gửi ngày một tăng lên từ phía các nước xuất khẩu khi giá mặt hàng xuất khẩu đó tăng nhanh, các ngân hàng buộc phải tìm ra các con nợ để cho vay. Các ngân hàng quốc tế đã cho Chính phủ các nước phát triển vay những khoản rất lớn sau khi xem qua quýt về triển vọng trả nợ của họ. Khác với những khoản nợ tư nhân có thể thu hồi dựa trên cơ sở pháp luật, mức độ rủi ro vỡ nợ của các Chính phủ rất lớn. Tuy nhiên, với quan điểm gần như phổ biến là nợ Nhà nước bao giờ cũng được chính phủ hoàn trả nên dù rủi ro cao, các ngân hàng nước ngoài vẫn sẵn sàng cho chính phủ các nước đang phát triển vay mà không tiên liệu được khả năng là gánh nặng trả món nợ nhà nước có thể trở nên gay go đến mức vượt quá dự trữ ngoại hối của quốc gia đó. Một nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến khủng hoảng nữa chính là những cơn sốc kinh tế toàn cầu do giá cả của một số hàng hóa thay đổi đột ngột và những chính sách kinh tế ở nhiều nước cho vay.
  • 11. 11 1.2. Các mô hình kinh tế được sử dụng để mô phỏng quá trình khủng hoảng 1.2.1. Mô hình “Nguy cơ đồng tiền bị phá giá” Trong giai đoạn phát triển ổn định, hầu hết các nước đều cố định đồng tiền của mình với đô la Mỹ. Khi lạm phát của các nước này cao hơn ở các nước có đồng tiền mạnh (như USD, FRF, JPY..) thì chính tỷ giá cố định này đã khiến cho hoạt động xuất khẩu trở nên khó khăn hơn đồng thời cũng khuyến khích hoạt động nhập khẩu do hàng hóa trong nước trở nên đắt hơn tương đối so với hàng hóa nhập khẩu. Kết quả là cán cân thương mại có xu hướng xấu đi và có thể dẫn đến thâm hụt thương mại nếu như không được cải thiện kịp thời. Để bù đắp lại khoản thâm hụt này (trả nợ cho khoản chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu) thì Nhà nước phải bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp trả nợ hoặc vay nợ nước ngoài để bù đắp. Thông thường các quốc gia sẽ chọn cách thứ hai thông qua các hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp. Việc vay nợ nước ngoài chỉ là giải pháp mang tính tạm thời, bên cạnh việc tích cực tăng năng suất lao động, cải thiện chất lượng hàng hóa để cạnh tranh với hàng xuất khẩu của các nước khác nhằm giảm thâm hụt thương mại mà vẫn giữ được lãi suất cố định. Tuy nhiên, do việc vay nợ nước ngoài quá dễ dàng khi các nước đang phát triển mở rộng cửa nền kinh tế và tăng lãi suất để chào đón các nhà đầu tư nước ngoài nên các nước đang phát triển đã để nền kinh tế của nước mình phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài thay vì tự thân vận động. Khi số nợ ngày càng nhiều thì quốc gia đó khó có thể vay thêm nợ nước ngoài để bù đắp thâm hụt thương mại và tỷ giá cố định sẽ khó mà giữ được. Và rõ ràng nếu rơi vào tình trạng này tỷ giá sẽ tăng lên, thu nhập của nhà đầu tư nước ngoài nếu quy đổi ra đô la Mỹ sẽ giảm rất nhiều. Để tránh điều này, một số nhà đầu tư đã lợi dụng ngay khi tỷ giá còn giữ cố định để bán vốn của mình bằng đồng nội tệ để mua ngoại tệ chuyển ngay về nước làm cho cầu về ngoại tệ tăng đột ngột. Lúc này, nếu nhà nước không có đủ ngoại tệ dự trữ để bán ra thì áp lực tăng tỷ giá sẽ rất lớn vì ngoài cầu ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu còn có cầu về ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài muốn rút vốn về nước. Trong trường hợp
  • 12. 12 nhà nước buộc phải thả nổi thì tỷ giá sẽ tăng lên rất nhanh làm cho các nhà đầu tư còn lại và cả người dân cũng sẽ bắt đầu bán vốn và tài sản, càng làm cho cầu ngoại tệ tăng và càng đẩy tỷ giá lên cao. 1.2.2. Mô hình “Nguy cơ phá sản doanh nghiệp” Trong bất kỳ nền kinh tế thị trường nào, quá trình cạnh tranh sẽ đào thải những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Chính quy luật này đã tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải tìm cách để giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành đơn vị, tăng khả năng cạnh tranh và coi đó là cơ sở quyết định sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp. Như vậy, quá trình cạnh tranh tất yếu sẽ làm các doanh nghiệp kém hiệu quả nhất bị phá sản và trong trường hợp đó các nguồn lực xã hội sẽ được sử dụng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế không có khả năng loại bỏ các doanh nghiệp kém thì có nghĩa là đã khuyến khích cho việc sử dụng lãng phí các nguồn tài nguyên và tích lũy dần sự yếu kém cho nền kinh tế. Lúc này, chỉ cần một tác động làm tăng chi phí đầu vào hoặc giảm chi phí đầu ra một cách đột ngột thì sẽ khiến cho hàng loạt doanh nghiệp phải phá sản kéo theo nhiều hậu quả về kinh tế xã hội cho đất nước. Doanh nghiệp phá sản sẽ không trả được nợ ngân hàng và có thể kéo theo các ngân hàng cũng phá sản theo vì mất khả năng thanh khoản. Có nhiều nguyên nhân làm doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Doanh nghiệp phung phí vốn, thiếu quan tâm đến hiệu quả đầu tư và làm cho nợ ngày càng gia tăng. Nguồn vốn vay giống như “một con dao hai lưỡi”; nếu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, đòn bẩy nợ sẽ giúp doanh nghiệp phát triển nhanh hơn vì có chi phí sử dụng thấp hơn tương đối so với các nguồn vốn khác; nhưng nó cũng có thể đưa doanh nghiệp đến chỗ phá sản nhanh chóng nếu sử dụng vốn vay phung phí, không hiệu quả. Vay vốn bất chấp hiệu quả đầu tư thì nguy cơ dẫn đến phá sản là rất lớn. Khi quốc gia bị thâm hụt tài khoản thương mại kéo dài, Chính phủ phải nâng lãi suất nội địa lên để thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chính lãi suất quá cao này lại hạn chế các doanh nghiệp nội địa mượn tiền để đầu tư đổi mới trang thiết bị công
  • 13. 13 nghệ. Kết quả là hiệu quả sản suất vẫn không cao, khả năng cạnh tranh của hàng hóa vẫn kém. Cơ cấu sản phẩm và chiến lược kinh doanh không phù hợp cũng là một trong những nguyên nhân khiến doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh đó, làn sóng đầu tư đổi mới công nghệ đã làm giá cả nhiều loại sản phẩm giảm mạnh và ngày càng có nhiều sản phẩm mới ra đời thay thế sản phẩm cũ. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp chậm đổi mới cơ cấu sản phẩm sẽ dần mất đi thị trường tiêu thụ, giảm thu nhập và có nguy cơ phá sản rất cao. Môi trường kinh doanh vĩ mô bị biến động nhưng Chính phủ không có sự điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Ví dụ như trong trường hợp các nước cố gắng duy trì tỷ giá cố định trong khi lạm phát trong nước gia tăng sẽ khiến hạn chế xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu càng làm gia tăng áp lực cạnh tranh và phá sản trong nước. Tỷ giá hối đoái tăng mạnh gần như trở thành một đòn quyết định đốn ngã các doanh nghiệp có nhiều khoản vay nợ nước ngoài để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc đầu tư. Khi tỷ giá tăng lên đột ngột khiến gánh nặng nợ nần của các doanh nghiệp này tính bằng đồng nội tệ tăng lên, dần vượt quá khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp và đi đến phá sản doanh nghiệp. 1.2.3. Mô hình “Nguy cơ phá sản các ngân hàng” Ngân hàng và các công ty tài chính là những mắt xích quan trọng trong nền kinh tế của một quốc gia. Hệ thống ngân hàng được ví như huyết mạch của nền kinh tế, có chức năng thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư để sử dụng hiệu quả hơn. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên cũng xảy ra tình trạng quản lý yếu kém, làm ăn không hiệu quả. Nếu ngân hàng sử dụng các nguồn lực tài chính của xã hội một cách lãng phí, cho vay bất chấp hiệu quả đầu tư thì tác hại của nó lại nhân lên gấp bội. Trong trường hợp đó, nếu nền kinh tế không thể loại bỏ được những ngân hàng này thì chính nền kinh đó đang tích lũy dần các điều kiện gây nên khủng hoảng. Những yếu tố dẫn đến nguy cơ phá sản một ngân hàng:
  • 14. 14 Các doanh nghiệp- con nợ chính của các ngân hàng làm ăn thua lỗ, bị phá sản. Khi các doanh nghiệp phá sản hàng loạt khiến cho số nợ khó đòi của ngân hàng tăng lên, hậu quả là ngân hàng mất dần khả năng thanh toán và cuối cùng là đi đến phá sản. Nhu cầu rút vốn tăng lên đột ngột, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Điểm nguy hiểm của hệ thống ngân hàng là tính lan truyền rất nhanh chóng, chỉ vì có một ngân hàng yếu kém để xảy ra tình trạng trên cũng có thể kéo theo hàng loạt các ngân hàng đang hoạt động bình thường khác cũng bị ảnh hưởng. Nghiêm trọng hơn nữa là nếu các ngân hàng này không có đủ dự trữ hoặc không được hỗ trợ kịp thời cũng hoàn toàn có thể xảy ra nguy cơ phá sản. Sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động cho vay của ngân hàng, nhất là các ngân hàng nhà nước. Chính phủ có thể can thiệp bằng nhiều cách như: buộc ngân hàng cho vay ưu đãi hoặc bảo lãnh cho các khoản vay. Sự nhúng tay quá sâu của Chính phủ như vậy khiến cho các thủ tục thẩm định tín dụng vốn rất cần thiết nay chỉ mang tính hình thức, không được coi trọng đúng mức. Vì thế, vốn vay có thể đến tay những doanh nghiệp yếu kém, khả năng trả nợ thấp khiến nợ khó đòi của ngân hàng tăng lên và làm tăng nguy cơ phá sản của ngân hàng. 1.2.4. Mô hình “ Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán” Đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh tế đất nước. Song trong một số điều kiện nhất định, loại đầu tư này có thể tạo ra nguy cơ mất khả năng thanh toán cho một quốc gia. Để thu hút đầu tư nước ngoài thì điều kiện cần thiết là lãi suất trong nước phải cao hơn lãi suất nước đi đầu tư. Nhưng lãi suất cao đồng nghĩa với việc số lãi phải trả tính bằng ngoại tệ càng nhiều, nợ quốc gia càng tăng. Hơn nữa, một khi nhà đầu tư muốn chuyển lợi nhuận về nước thì nhà nước phải bỏ ra một lượng ngoại tệ lớn để trả cho họ. Lượng ngoại tệ này quá lớn sẽ làm giảm dự trữ ngoại hối, nếu dự trữ ngoại tệ không đủ quốc gia mất khả năng thanh toán.
  • 15. 15 Một số quốc gia vay nợ ngắn hạn nhưng lại đầu tư vào những dự án dài hạn và ít đem lại nguồn thu ngoại tệ như các công trình xây dựng nhà ở, văn phòng, viễn thông… khi đến hạn trả quốc gia sẽ không có nguồn ngoại tệ để trả. Đây là nguy cơ mất khả năng thanh toán do cơ cấu đầu tư không hợp lý. Ngay cả đối với những khoản hỗ trợ chính thức như ODA mà nước nhận tài trợ lựa chọn những dự án kém hiệu quả thì khả năng hoàn vốn cũng rất đáng lo ngại. Đến hạn trả nợ, Chính phủ phải xuất dự trữ ngoại tệ hoặc phải vay nợ mới để trả nợ cũ làm nợ nước ngoài càng tăng. Một khi nguy cơ mất khả năng thanh toán đến gần, quốc gia càng phải nhanh chóng thu hút nguồn ngoại tệ bổ sung. Khi đó biện pháp cơ bản nhất được áp dụng là tăng lãi suất cơ bản trong nước cao hơn lãi suất ở nước ngoài, điều này tiếp tục làm tăng khả năng quốc gia mất khả năng thanh toán. Quốc gia rơi vào vòng lẩn quẩn, càng trả nợ thì nợ lại càng tăng, nguy cơ mất khả năng thanh toán càng đến gần. 1.3. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính 1.3.1. Lý thuyết về Bộ ba bất khả thi Theo lý thuyết kinh tế học Bộ ba bất khả thi (Triangle of Impossibility): chính phủ không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc ba mục tiêu chính sách vĩ mô gồm: ổn định tỷ giá, tự do hóa dòng vốn, chính sách tiền tệ độc lập mà chỉ có thể thực hiện đồng thời hai trong ba chính sách này mà thôi. Thuật ngữ này còn dùng để chỉ tình thế kinh tế dễ đổ vỡ (nguy cơ khủng hoảng) khi mà một quốc gia cố tình thi hành ba chính sách trên cùng lúc trong một khoảng thời gian dài. Sơ đồ 1.1: Mô phỏng lý thuyết Bộ ba bất khả thi
  • 16. 16 Hình 1.1. Bộ ba bất khả thi (Nguồn: Tổng hợp của tác giả) Ở các quốc gia khác nhau, bộ ba bất khả thi sẽ được thể hiện dưới dạng thức cụ thể khác nhau nhưng về bản chất là không thay đổi. Tỷ giá thể hiện ở: dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán,... Tự do lưu chuyển vốn được thể hiện ở: tăng trưởng GDP, đầu tư nước ngoài, nhập siêu, tài khóa ngân sách công, nợ nước ngoài,... và Chính sách tiền tệ độc lập thể hiện ở: lạm phát, lãi suất, ... Lý thuyết này được gọi là mô hình Mundell- Fleming được Robert Mundell và Marcus Fleming phát triển trong những năm 1960. Vào năm những 1980, khi vấn đề kiểm soát dòng vốn tại nhiều quốc gia bị thất bại do mâu thuẫn giữa việc neo tỷ giá và chính sách tiền tệ độc lập ngày càng rõ ràng. Từ đó, lý thuyết Bộ ba bất khả thi đã trở thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô quan trọng trong điều hành kinh tế. Trong điều hành một nền kinh tế thì không thể theo đuổi ba mục tiêu trên cùng một lúc. Chẳng hạn khi một quốc gia muốn thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để kích cầu nền kinh tế lúc đó NHTW sẽ tăng cung tiền làm giảm lãi suất, lãi suất giảm sẽ khuyến khích dòng vốn chuyển ra khỏi quốc gia. Nếu chính phủ tự do hóa giao dịch vốn dòng vốn sẽ tạo ra áp lực tăng tỷ giá. Nếu chính phủ muốn cố định tỷ giá, NHTW phải tăng cung ngoại tệ bằng cách bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, việc làm này làm giảm cung tiền. Và nếu chính phủ muốn thực hiện mục tiêu nới lỏng tiền tệ NHTW bắt buộc phải tăng cung tiền. Cung tiền tăng tạo áp lực gia tăng lạm phát làm ảnh hưởng đến mục tiêu kích cầu nền kinh tế. Do vậy, nếu chính phủ
  • 17. 17 kiên định trong thực hiện chính sách tiền tệ thì phải từ bỏ một trong hai mục tiêu còn lại là phải kiểm soát giao dịch vốn hoặc thả nổi tỷ giá. Hoặc nếu muốn tự do hóa giao dịch vốn và cố định tỷ giá thì không thể độc lập trong điều hành tiền tệ. 1.3.2. Lý thuyết ngang giá sức mua Ngang giá sức mua (purchasing power parity – PPP) là một trong những mô hình lý thuyết sớm nhất và đơn giản nhất về việc xác định tỷ giá hối đoái. Điều kiện cân bằng mà lý thuyết PPP đưa ra cũng là một trong những cơ sở căn bản cho việc hình thành và phát triển các lý thuyết hiện đại về tỷ giá. Lý thuyết này mô tả mối quan hệ giữa giá cả và tỷ giá, được xem là một trong những thước đo đo lường mức độ sai lệch của tỷ giá. Quy luật một giá Cơ sở hình thành lý thuyết ngang giá sức mua là quy luật một giá. Quy luật một giá được định nghĩa là khi thị trường là cạnh tranh hoàn hảo và bỏ qua các rào cản thương mại, chi phí vận chuyển, bảo hiểm… thì các hàng hoá giống hệt nhau trên các thị trường khác nhau sẽ có giá như nhau khi quy về cùng một đồng tiền chung (Ví dụ: 1 lít dầu ở Mỹ sẽ có giá bán bằng giá bán ở Việt Nam). Giá trong nước cao hơn nước ngoài và do tỷ giá là cố định nên kinh doanh chênh lệch giá hàng hóa làm giá cân bằng ở hai quốc gia thể hiện theo công thức như sau Pi = S.Pi * Trong đó: S: là tỷ giá giao ngay Pi: là rổ hàng hoá và dịch vụ trong nước Pi * : là giá rổ hàng hóa và dịch vụ nước ngoài 1.3.3.1. Ngang giá sức mua tuyệt đối
  • 18. 18 Mẫu lý thuyết ngang giá sức mua tuyệt đối xem xét mối quan hệ giữa giá cả hàng hoá và tỷ giá hối đoái tại một thời điểm nhất định. Ngang giá sức mua tuyệt đối được xây dựng trên các giả thuyết sau: - Thị trường hàng hoá quốc tế cạnh tranh hoàn hảo. - Không tồn tại cước phí vận chuyển; - Hàng hoá được lưu chuyển tự do, không tồn tại hàng rào thuế quan và các hàng rào phi thuế quan; - Các nhà kinh doanh trung lập đối với rủi ro; - Rổ hàng hoá tiêu chuẩn ở trong nước và nước ngoài có thành phần và cấu trúc như nhau; - Quy luật một giá được duy trì cho tất cả các hàng hoá trao đổi mua bán quốc tế. Nếu đẳng thức Pi = S.Pi * là đúng cho mọi hàng hoá và dịch vụ thì khi tính giá một loại rổ hàng hoá và dịch vụ giống nhau ta cũng có: S = P:P* Trong đó: S : là tỷ giá giao ngay P : là rổ hàng hoá và dịch vụ trong nước P* : là giá rổ hàng hóa và dịch vụ nước ngoài Ta có thể xác định tỷ giá giữa hai đồng tiền của hai quốc gia nếu như chúng ta biết mức giá của rổ hàng hoá tiêu chuẩn ở trong nước tính bằng nội tệ và mức giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn ở nước ngoài tính bằng ngoại tệ. Tỷ giá niêm yết trực tiếp S tại một thời điểm có thể xác định bằng cách lấy mức giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn trong nước tính bằng nội tệ chia cho mức giá cả của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng ngoại tệ. Nếu mức giá cả hàng hóa tiêu chuẩn trong nước P tăng cao hơn tương đối so với mức giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn nước ngoài P* thì S sẽ tăng, tức là nội tệ sẽ giảm giá so với ngoại tệ, và ngược lại.
  • 19. 19 Lý thuyết này giải thích sự thay đổi tỷ giá một cách đơn giản, dễ hiểu. Tuy nhiên, lý thuyết ngang giá sức mua tuyệt đối được xây dựng trên nhiều giả thuyết, trong đó có nhiều giả thuyết đưa ra không có tính thực tiễn. Vì rổ hàng hóa ở mỗi quốc gia là khác nhau và tỷ trọng hàng hóa trong rổ cũng là khác nhau; trên thị trường hàng hóa quốc tế luôn tồn tại cước phí vận chuyển; môi trường kinh doanh và môi trường văn hóa khác nhau giữa các quốc gia cũng có thể là rào cản ảnh hưởng đến các quyết định kinh doanh của các nhà kinh doanh hàng hóa quốc tế… Như vậy, lý thuyết ngang giá sức mua tuyệt đối khó có thể duy trì trong thực tế.
  • 20. 20 1.3.3.2. Thuyết ngang giá sức mua tương đối Ngang giá sức mua tương đối được phát triển tiếp từ ngang giá sức mua tuyệt đối. Mẫu lý thuyết ngang giá sức mua này đưa ra mối quan hệ tương đối giữa giá cả và tỷ giá giữa hai thời điểm bằng chênh lệch tỷ lệ lạm phát của hai đồng tiền. Đồng tiền nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng tiền đó giảm giá. Tỷ lệ giảm giá gần bằng chênh lệch tỷ lệ lạm phát của hai đồng tiền. PPP tuyệt đối đưa ra mối quan hệ giữa giá cả và tỷ giá tại một thời điểm. Trong khi đó ngang giá sức mua tương đối đưa ra mối quan hệ tương đối giữa tỷ giá và giá cả giữa hai thời điểm. Mặc dù được phát triển từ PPP tuyệt đối, PPP tương đối có thể dể dàng được chấp nhận hơn so với PPP tuyệt đối do PPP tương đối chấp nhận sự tồn tại của các yếu tố như cước phí vận chuyển và các rào cản thương mại (Moosa 2010). Để hình thành biểu thức biểu diễn nội dung lý thuyết PPP tương đối chúng ta sử dụng các ký hiệu: Po * : giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng ngoại tệ tại thời điểm 0. Pi * : giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng ngoại tệ tại thời điểm 1 Po : giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng nội tệ tại thời điểm 0 Pi : giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng nội tệ tại thời điểm 1 π : tỷ lệ lạm phát trong nước giữa hai thời điểm 0 và 1 *π : tỷ lệ lạm phát nước ngoài giữa hai thời điểm 0 và 1 e: tỷ lệ thay đổi tỷ giá giữa hai thời điểm 0 và 1 Ta có công thức sau: PS PS P P * 00 * 11 0 1 = e = *ππ −
  • 21. 21 S1 = S0.( *1 1 π π + + ) Ví dụ 1: Tính tỷ giá theo PPP tương đối Trong một khoảng thời gian nhất định, mức lạm phát ở Việt Nam là 10%, còn mức lạm phát ở Mỹ là 6%. Giả sử PPP được duy trì một cách chính xác. Tỷ giá thay đổi như thế nào nếu tỷ giá ban đầu là 21,000 – VND/USD? Theo PPP tương đối, tỷ giá sẽ thay đổi theo một tỷ lệ là: 10% - 6% = 4% Tỷ giá mới sẽ cao hơn tỷ giá cũ khoảng 4%, vì thế tỷ giá mới sẽ là: S(VND/USD) = 21,000 x (1.04) = 21,840  USD tăng giá so với VND Ví dụ 2: Tỷ giá theo PPP tương đối và tỷ giá thị trường Năm 2014 Năm 2015 Tỷ giá S(VND/USD) 21,300 21,500 Mức giá tại VN 100 104 Mức giá tại Mỹ 100 101 Tính tỷ giá tương thích với PPP và so sánh với tỷ giá thực tế trên thị trường? S(VND/USD) = 21,300 x 01.01 04.01 + + = 21,933 VND/USD Tỷ giá tương thích với PPP cao hơn so với tỷ giá thực tế được giao dịch trên thị trường . USD đang được định dưới giá, có nghĩa là giá USD tại Việt Nam đang định giá thấp hơn so với giá USD thực tế.
  • 22. 22 CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG NAM Á 1997 2.1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997 Khủng hoảng bắt đầu bùng phát từ Thái Lan & đất nước này đã phải gánh chịu những tổn thất nặng nề khi bong bóng đầu tư bị vỡ vụn. Khủng hoảng mang tính lây lan, hiệu ứng domino sang các nước trong khu vực như Indonesia, Philippines, Malaysia, lan sang Hàn Quốc, Hồng Kong, cả Nga & Brasil cũng chịu tác động, trong đó chịu thiệt hại nhiều nhất là Thái Lan, Indonesia & Hàn Quốc Khuôn khổ bài nghiên cứu chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực Đông Nam Á nên nhóm xin trình bày về diễn biến khủng hoảng tại các nước trong khu vực này, nói thêm một vài ý về tình hình của Hàn Quốc để thấy rõ mức ảnh hưởng của nó Thái Lan: Đất nước này bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa từ 1961, tốc độ tăng trưởng trong thập niên 60 đạt mức 8%, 7% trong thập niên 70 & trong thập niện 80 là 8%; tổng sản phẩm nội địa theo đầu người tăng từ mức 440usd lên 3.012 usd năm 1996; nông nghiệp giảm tỷ trọng trong nền kinh tế từ mức 39% (1961) xuống còn 26.7% (1976) và chỉ còn 10.4% (1996). Từ những bước phát triển nhanh trọng trong thập niên 60 & 70, chính phủ Thái Lan đã thực thi chính sách phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu. Từ 1986-1990, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân là 28%/năm; giá trị xuất khẩu tính theo đầu người đạt 630 usd/người năm 1991 lên 1177 usd/người năm 1996. Đến cuối năm 1996, Báo cáo triển vọng phát triển kinh tế của IMF cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng, khả năng vỡ bong bóng nhanh chóng sẽ xảy ra. Thực vậy, việc tăng chi đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng quy mô sản xuất bằng nguồn nợ vay ngắn hạn từ các giới đầu tư quốc tế khiến cho cán cân thanh toán vãng lai của Thái Lan thâm hụt, xuống 8% GDP năm 2996. Lo ngại đồng baht mất giá, nhiều nhà đầu tư & người dân rút vốn hàng loạt ra khỏi các ngân hàng & các định chế tài chính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường vốn của đất nước này. Ngày 03-03-1997, Chính phủ phải đóng cửa thị trường chứng
  • 23. 23 khoán trong ngày này. Đến ngày 4 & 05-03-1997, 21.4 tỷ baht, tương đương với 820 tỷ usd bị rút ra khỏi các ngân hàng & các công ty tài chính. Ngày 09-04-1997, phải mất 26.8 bath mới đổi được 1 usd, mức cao nhất kể từ năm 1991. Ngày 14,15- 05-1997, đồng baht bị tấn công quy mô lớn, TTCK ngập tràn lệnh bán đồng tiền này, chính phủ buộc phải chi ra 10 tỷ usd trong 2 tuần để giữ giá baht, 25 baht ăn 1 usd. Ngày 25-06-1997, 16 công ty tài chính đóng cửa, nâng tổng số lên 91 công ty, chiếm 61% số công ty trên cả nước. Lúc này, cung ngoại tệ tăng cao, chính phủ phải bán ra để giảm áp lực tăng giá ngoại tệ, khiến dự trữ ngoại tệ từ 38,87 tỷ usd tháng 6/1996 xuống còn 41.4 tỷ usd vào tháng 6/1997. Ngày 30/6, thủ tướng Thái Lan vẫn cam quyết sẽ không phá giá baht, nhưng rút cuộc lại thả nổi đồng tiền này vào ngày 2.7.1997, ngay lập tức baht bị mất giá 50%. Tháng 1/1998, 56 baht mới ăn 1 usd. Mức vốn hóa thị trường sụt giảm từ 141.1 tỷ usd xuống còn 23.5 tỷ usd. Finance Once-công ty tài chính lớn nhất Thái Lan bị phá sản. Ngày 11.8.98, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20-08-1998, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. Đến năm 2003, Thái Lan đã hoàn trợ số nợ trước thời hạn & phục hồi kinh tế đất nước. Tuy nhiên, kinh tế Thái Lan hiện vẫn còn gặp rào cản về chính trị do cuộc đảo chính quân sự vào tháng 6/2006, lật đổ thủ tướng cầm quyền Thaksin & tồn đọng những bất đồng hiện vẫn chưa giải quyết ổn thỏa. Indonesia: Trước khủng hoảng, Indonesia phát triền thần kỳ với thu nhập trên vốn đầu tư tăng gấp đôi từ năm 1990 đến 1997, nhờ vào xuất khẩu dầu & ga; kinh tế phát triển thúc đẩy kinh tế vĩ mô phát triển bền vững, ngân sách cân bằng, lạm phát ở mức thấp, tỷ giá cố định. Cuối năm 1996, đầu năm 1997, xuất khẩu giảm nhẹ với thời điểm trước đó. Khủng hoảng bắt đầu lan sang Indonesia khi chính phủ Thái thả nổi đồng baht ngày 02-7-1997, mặc dù kinh tế vĩ mô bền vững hơn Thái tại thời điểm đó nhưng rupiah vẫn buộc phải thả nổi; đến tháng 9 & 10/1997, rupiah mất giá hơn 10% so với thời điểm tháng 7/1997, mức giảm nhanh nhất so với các nước bị khủng hoảng trong khu vực. Ngày 05/11/1997, IMF cam kết gói cứu trợ 10 tỷ usd nhưng Chính phủ Indonesia đã từ chối sự giúp đỡ này. Đến tháng 6/1998, rupiah
  • 24. 24 chạm đáy 16.650 rupiah mới ăn 1 usd. Áp lực buộc tổng thống buộc phải từ chức. Kinh tế dần phục hồi sau đó, tỷ giá khả quan hơn ở mức 11.075 rupiah/usd. Cuối tháng 8/1998, tỷ giá là 8.000 rupiah/usd. Malaysia: Nếu so sánh với một số nước trong khu vực và, có thể nói rằng về mặt kinh tế và tài chính thì tình hình của Malaysia có tốt hơn Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia. Điều này thể hiện rõ lực lượng lao động đều có việc làm, tỷ lệ lạm phát thấp, ngân sách chính phủ thặng dư, nhưng quan trọng hơn cả là Malaysia không có mức nợ nước ngoài cao như Hàn Quốc(154 tỷ USD), Thái Lan (92 tỷ USD), Inđonesia (138 tỷ USD), Malaysia chỉ nợ 44,1 tỷ USD. Phần lớn nợ nước ngoài của Malaysia là nợ trung hạn và nợ dài hạn, cho nên Malaysia không phải trả nợ gấp như Thái Lan và Hàn Quốc. Trong khi đó, mức dự trữ ngoại tệ của Malaysia lên tới 23 tỷ USD. Chính phủ Malaysia đã rút kinh nghiệm từ Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia nên các biện pháp ngăn chặn khủng hoảng của Malaysia được thực hiện đúng lúc và có hiệu quả hơn. Đồng ringgit của Malaysia bị phá giá 13%. Philippines: Giống như Malaysia, Philipines chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ít hơn so với Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia do hệ thống ngân hàng của Philipines lành mạnh hơn. Các cơ sở kinh tế vĩ mô ổn định và cân đối, nền kinh tế Philipines phát triển với mức độ vừa phải, không quá nóng như Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia và Malaysia. Tuy vậy, chính phủ Philipines đã có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng. Đến cuối tháng 8-1997 đồng peso đã mất giá 28%. Singapore: Đồng đôla Singapore bị phá giá ở mức 6%, đây là một trong những quốc gia ít chịu tác động của cuộc khủng hoảng. Do vậy, ngay từ cuối tháng 8/1997, các nước lâm vào khủng hoảng đã cố gắng bằng mọi giá cắt cơn sốc tiền tệ như tung USD ra mua đồng nội tệ vào, đánh thuế cao vào các khoản lợi nhuận do kinh doanh đầu cơ tiền tệ đem lại, nâng lãi suất tiền gửi đối với đông nội tệ, tiết kiệm chi tiêu ngân sách, kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế…
  • 25. 25 Việt Nam: Kinh tế Việt Nam thời điểm đó thực sự chưa hội nhập sâu với quốc tế, nền sản xuất chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng nông sản sang các nước bạn, đầu tư nước ngoài không nhiều, chưa phát triển thị trường chứng khoán, giới đầu cơ quốc tế không thể tấn công vnd như tấn công các đồng tiền khác trong khu vực như baht Thái hay rupiah Indonesia. Ảnh hưởng của khủng hoảng đến Việt Nam là sự ảnh hưởng gián tiếp trong việc xuất nhập hàng hóa từ các nước bị ảnh hưởng, dù tác động không nhiều nhưng nhờ đó mà Việt Nam, cũng như những nước ít bị tác động khác trong khu vực (như Laos, Bruney,… ) nhận thấy được bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng để củng cố chính sách vĩ mô của mình. Phần Việt Nam sẽ được trình bảy kỹ hơn ở chương cuối của bài viết “Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng” Các đồng tiền trong khu vực tiếp tục có nhiều biến động mạnh vào cuối năm 1997 và đã giảm giá đến mức thấp kỉ lục vào cuối năm 1997 và đã giảm đến mức thấp kỉ lục vào cuối năm 1998. Tính đến ngày 12-6-1998, đồng rupiah của Indonesia bị phá giá 82,4%, các đồng tiền của Philipines, Malaysia, Hàn Quốc bị phá giá ở mức từ 35% đến 37%. Đồng đôla Đài Loan và đôla Singapore bị phá giá ở mức thấp hơn tương ứng là 20.5% và 18%. Sự hoảng loạn trên thị trường ngoại hối đã nhanh chónh lan sang thị trường chứng khoán làm giá cổ phiếu của Châu Á giảm từ 30% đến 50%. Mọi người bắt đầu hoảng sợ rằng cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á có thể không chỉ dừng lại và trở thành một cuộc khủng hoảng toàn cầu. 2.2 Nguyên nhân cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997: Khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông á năm 1997 được coi là một chấn động lớn cuả thị trường tài chính thế giới trong suốt những thập kỉ vừa qua. Nghiên cứu nguyên nhân sâu xa cũng như nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng này sẽ giúp chúng ta có những giải pháp thực tiễn để ngăn ngừa, hạn chế việc phát sinh các cuộc khủng hoảng sau này. Những nguyên nhân sau được coi là những
  • 26. 26 nguyên nhân cơ bản nhất và cũng chính là một số dấu hiệu khiến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ hình thành và bùng nổ. Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế thiếu tính hợp lý, chủ động: Nhờ sự chuyển đổi chiến lược từ công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu sang chiến lược công nghiệp hoá tập trung đẩy mạnh xuất khẩu đã tạo động lực kinh tế, tạo đà cho sự tăng trưởng nhanh và ổn định kinh tế của Thái Lan và một số nước Đông Nam Á trong vòng hơn 1 thập kỷ trước khi diễn ra khủng hoảng. Điều này được biểu hiện ở mức tăng trưởng bình quân các nước từ 7.5% đến 8%. Tuy nhiên, các nguy cơ cũng nảy sinh từ sự thay đổi chiến lược này. Từ năm 1995 trở lại đây với tốc độ tăng trưởng các nước công nghiệp phát triển (cũng đối tác chính và tăng trưởng các nước quốc gia Đông Nam Á ) suy giảm làm cho lượng cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của các quốc gia Đông Nam Á giảm mạnh. Hơn thế nữa, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là điện tử, dệt may lại đang đứng trước nguy cơ bão hoà trên thị trường thế giới. Do đó, khi kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh làm cho thâm hụt cán cân thương mại lớn và có thể nhìn nhận thông qua số liệu sau đây : Thêm vào đó chính sách xuất khẩu cứng nhắc và chậm đổi mới làm cho tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam Á đối với các đối tác Mỹ và Tây Âu giảm sút trước những khu vực thị trường năng động như Trung Quốc, Đông Âu và Mỹ Latinh. Kinh tế tăng trưởng nhanh đã kéo theo sự đầu tư một cách bột phát trong một số ngành kinh tế ở các nước Đông Nam á như kinh doanh địa ốc và ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Tình hình đó đã dẫn đến tình trạng vay vốn đầu tư quá mức, đặc biệt ở khu vực tư nhân và khi rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái các nhà đầu tư đã không kịp thời điều chỉnh tạo ra sự dư thừa công suất trong các ngành. ở Thái Lan và Indonesia vào những năm 90 nhà nước đã tập trung vốn lớn vào xây
  • 27. 27 dựng khách sạn và nhà ở đắt tiền bằng vốn ngắn hạn làm cho đất nước chìm ngập trong nợ nần. Cung vượt cầu đã gây khủng hoảng lớn trong ngành kinh doanh bất động sản, dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn và hàng loạt các hiệu ứng dây chuyền đối với thị trường chứng khoán, tiền tệ làm tăng nguy cơ bất ổn và mất cân đối vốn có của nền kinh tế kh vực. Các ngân hàng và các công ty tài chính bị ảnh hưởng nặng nề khi thị trường bất động sản chao đảo và thua lỗ. Thứ hai: Cán cân thanh toán quốc tế mất cân bằng: Thâm hụt cán cân vãng lai liên tục, kéo dài: Theo Keynes, công thức xác định trạng thái cán cân thương mại được xác định theo phương trình sau: (X-M) = (T-G) + (S-I) Trong đó, X: Giá trị xuất khẩu M: Giá trị nhập khẩu T: Thuế G: Chi tiêu của chính phủ S: Tiết kiệm I: Khoản đầu tư của tư nhân Trong phân tích, chênh lệch giá trị xuất nhập khẩu hang hóa, dịch vụ được xem là đại diện trạng thái cán cân vãng lai do nó chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch vãng lai. Như vậy, thâm hụt cán cân vãng lai sẽ bằng với mức thâm hụt ngân sách cộng với chênh lệch giữa tiết kiệm đầu tư của tư nhân. Theo phương trình trên, có 3 nguyên nhân gây thâm hụt cán cân vãng lai. Một là ngân sách thâm hụt và đầu tư lớn hơn tiết kiệm, hai là ngân sách thặng dư nhưng đầu tư quá lớn so với tiết kiệm, ba là tiết kiệm nhiều hơn đầu tư nhưng ngân sách quốc gia bị thâm hụt lớn.
  • 28. 28 Về mặt lý thuyết, nếu cán cân vãng lai thâm hụt do nguyên nhân thứ hai thì không đáng lo ngại. Bởi vì, trong trường hợp này, nguyên nhân chính gây thâm hụt cán cân vãng lai là đầu tư vượt trội tiết kiệm. Đầu tư tang mạnh thể hiện nền kinh tế được kỳ vọng tang trưởng. Ngân sách thặng dư cũng là dấu hiệu của nền kinh tế đang tang trưởng hiệu quả. Đầu tư cao làm gia tang nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… gây thâm hụt cán cân vãng lai hiện tại. Tuy nhiên, đầu tư hiệu quả sẽ góp phần gia tang giá trị xuất khẩu hoặc giảm giá trị nhập khẩu góp phần hạn chế thâm hụt cán cân vãng lại trong dài hạn. Trong nhiều trường hợp, thì thâm hụt cán cân thương mại là thể hiện một nền kinh tế đang tăng trưởng tốt. Khi một nền kinh tế có tiềm năng tăng trưởng tốt, có nhiều cơ hội đầu tư với lợi nhuận cao, nhu cầu đầu tư cao hơn khả năng tiết kiệm trong nước, điều này sẽ làm cho các dòng vốn nước ngoài chảy vào quốc gia đó để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Tức là một quốc gia có thể sử dụng nguồn lực của nước khác để phát triển kinh tế trong nước. Một ví dụ điển hình là tài khoản vãng lai của nền kinh tế Hoa Kỳ luôn ở trong tình trạng thâm hụt trong những năm gần đây. Điều này không thể hiện Hoa Kỳ là một nền kinh tế yếu kém. Ngược lại, một tài khoản vãng lai có thặng dư lại có thể là dấu hiệu bất ổn của nền kinh tế, dòng vốn trong nước chảy ra nước ngoài tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt hơn. Tức là nguồn lực không được sử dụng cho phát triển nền kinh tế trong nước. Và trong nhiều trường hợp khác, thì sự mất cân bằng của cân cân thương mại (thặng dự hay thâm hụt) chẳng phải là một dấu hiệu nghiêm trọng nào. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thì thâm hụt thương mại (nhập siêu) và hệ quả là thâm hụt tài khoản vãng lai thực sự gây ra nhiều vấn đề cho một số nước. Nhiều nước đã lâm vào khủng hoảng (khủng hoảng nợ, khủng hoảng đồng tiền) sau khi có mức thâm hụt thương mại lớn, thường xuyên và lâu dài. Điển hình là cuộc khủng hoảng Châu Á những năm 1997-1998. Thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai thường được hiểu là nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, và tiêu dùng trong nước nhiều hơn khả năng sản
  • 29. 29 xuất. Làm thế nào để một quốc gia có thể duy trì thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai? Tương tự như ở một hộ gia đình, để có thể tiêu dùng nhiều hơn thu nhập, một gia đình sẽ có hai cách để có tiền trang trải cho tiêu dùng cao hơn thu nhập của mình. Đó là: (i) đi vay; và (ii) bán tài sản. Ở cấp quốc gia, khi có thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai, thì để có tiền (ngoại tệ) trả cho các khoản nhập khẩu và thâm hụt này, cần có dòng vốn chảy vào (FDI, đầu tư gián tiếp, vay ngắn hạn, dài hạn, kiều hối, ODA). Nên thông thường, thâm hụt thương mại (và tài khoản vãng lai) thường đi cùng với thặng dư trên tài khoản vốn. Nếu không có thặng dư trên tài khoản vốn (tương tự như cấp ở hộ gia đình là không vay đủ tiền), thì nước nhập siêu buộc phải sử dụng đến dự trữ ngoại hối để đáp ứng cho các nhu cầu nhập khẩu của mình (bán tài sản). Nếu dự trữ ngoại hối không đủ đáp ứng, thì chắc chắn sẽ dẫn tới việc đồng tiền buộc phải mất giá. Trong suốt các năm 1991-1996 , cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm hụt, tổng cộng là 35,26 tỉ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới 14,7 tỉ USD. Bảng 2.1.: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP) 1994 1995 1996 Hàn Quốc -0,96 -1,74 -4,42 Thái Lan -5,59 -8,05 -8,05 Malaysia -6,07 -9,73 -4,42 Indonesia -1,58 -3,18 -3,37 Philippines -4,60 -2,67 -4,77 Nguồn: NHTG, “Chỉ số phát triển thế giới 2002”. Một lí do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được khuyến khích do tỉ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định (25baht/USD), lạm phát trong nước cao hơn so với ở Mỹ ( 5% so với 3%), đồng baht bị định giá cao hơn so với đồng USD. Cũng như nhiều nền kinh tế mới công nghiệp hoá Đông Nam Á khác, nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng chủ yếu dựa vào mức tăng trưởng của xuất khẩu, trong đó đặc biệt lệ thuộc vào mức tăng trưởng của xuất khẩu điện tử. Thế
  • 30. 30 nhưng, sau năm 1996 sức tăng trưởng xuất khẩu của Thái Lan bị suy yếu nhanh chóng. Năm 1996, xuất khẩu của Thái Lan tăng chưa đầy 4%, so với mức tăng bình quân hơn 25% của giai đoạn 1985 - 1995. Nguyên nhân của tình hình này là sự sụt giảm nhu cầu trên thị trường hàng điện tử của thế giới, đồng thời thị trường tiêu thụ hàng dệt, sợi của Thái Lan cũng bị giảm sút mạnh do sự nổi lên của Trung Quốc với tư cách là đối thủ cạnh tranh hùng mạnh nhất trong lĩnh vực này (Do giá nhân công ở Thái Lan làm mất lợi thế cạnh tranh của mình so với Trung Quốc). Bảng 2.2.: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%) 1994 1995 1996 1997 Thái Lan 19 20 -1 3 Hàn Quốc 14 23 4 5 Malaysia 20 21 6 1 Indonesia 8 12 9 7 Philippines 17 24 14 21 Hồng Kông 11 13 4 4 Singapore 24 18 5 -1 Đài Loan 9 17 4 4 Trung Quốc 25 19 2 21 Nguồn: NHTG, “East Asia – The Road to Recoverty”, 1998. Ngoài ra do sự đánh giá quá cao giá trị đồng Baht trong một thời gian dài đã làm suy yếu sức cạnh tranh xuất khẩu và giảm tính hấp dẫn của ngành du lịch. Đồng thời cũng giống như các nước Đông Nam Á khác để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Thái Lan đã liên tục nhập khẩu nhiều tư bản để tài trợ các cơ hội đầu tư. Do đó, có thể thấy Thái Lan trở thành quốc gia có mức gia tăng thâm hụt tài khoản vãng lai lớn nhất trên thế giới. Năm 1996, mức thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan, Malaysia ngang với mức thâm hụt của Mehico năm 1994 (khoảng 8,2% GDP). Theo tính toán của IMF nếu mức thâm hụt của tài khoản vãng lai của một nước ở
  • 31. 31 mức 5% của GDP thì nước đó được coi là đang đứng trước nguy cơ của cuộc khủng hoảng. Để bù đắp thâm hụt thương mại và để có vốn đầu tư bình quân 40%GDP mỗi năm, con đường không tránh khỏi là vay tiền nước ngoài (từ các ngân hàng, các doanh nghiệp, nhà đầu tư tài chính, chính phủ các nước). Vì vậy nợ nước ngoài của Thái Lan không ngừng tăng, từ 35,99 tỉ USD năm 1991 lên 89 tỉ USD năm 1996, gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm, và bằng 54% GDP Nợ ngắn hạn chiếm: 67% tổng nợ nước ngoài (1995), 51% tổng nợ nước ngoài (1996). Nợ ngắn hạn năm 1995 và 1996 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Tức là Thái Lan thực tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. Đến tháng 6.1997 nợ nước ngoài của Thái Lan đã bằng 1,5 lần dự trữ ngoại tệ của Thái Lan. Kết quả là dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, tỉ giá hối đoái sẽ tăng, nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia sẽ ngày càng cao. Bảng 2.3.: Nợ nước ngoài & dữ trự ngoại hối Thái Lan Philipin Malaysia Inđônêxia Nợ nước ngoài Tỷ USD 89.8 41.9 28.9 109.3 Nợ ngắn hạn/tổng nợ(%) Nợ tư nhân/ tổng nợ(%) 40 78.8 25 34.6 25 40.7 29 51.2 Dự trữ ngoại hối Tỷ USD % so với nợ Nhà nước 28.3 67.2 10.1 127.5 19 171.2 20.4 59.6 Đông Nam Á rơi vào tình trạng các nhà đầu tư không còn tin rằng dự trữ ngoại tệ đủ để trả nợ ngắn hạn. Cả các nhà đầu tư nước ngoài lẫn trong nước đều
  • 32. 32 muốn chuyển vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từ chối đảo nợ và ngưng cho vay mới; còn các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và chuyển ra ngoài. Riêng trong năm 1997, hơn 20 tỷ USD ròng được đưa ra khỏi 5 nước Đông Á chịu khủng hoảng, trong khi trong năm 1996 vẫn còn nhận được gần 66 tỷ USD . Bảng 2.4.: Vốn tư nhân nước ngoài ở 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-96 - Tỷ USD 1996 1997 1998 1999 Vốn tư nhân ròng -20,4 -25,6 -24,6 Đầu tư trực tiếp ròng 8,4 10,3 8,6 10,2 Đầu tư chứng khoán ròng 20,3 12,9 -6,0 6,3 Vay thương mại và đầu tư khác 37,1 -43,6 -28,2 -41,1 Viện trợ chính thức ròng -0,4 17,9 19,7 -4,7 Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 3/2000. + Chính sách tỷ giá cố định: Các quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Philipin đã thực hiện chính sách tỷ giá với tỷ giá được xác định rõ ràng hoặc với tỷ giá dao động gắn chặt với đồng đôla Mỹ. Xét về lý thuyết và thực tế những năm 80, chính sách này khá thành công trong vai trò giữ ổn định lạm phát ở mức thấp và duy trì quan hệ mậu dịch hợp lý với Mỹ, bạn hàng và là thị trường xuất khẩu quan trọng của Châu Á; giúp nhà đầu tư ngân hàng và doanh nghiệp tin tưởng vào sự ổn định của đồng nội tệ ; hỗ trợ cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Một phần nguyên nhân cho sự thành công này là do họ lợi dụng được sự suy giảm đồng USD so với JPY, Mark Đức và gần 50% giá trị so với các đồng tiền chủ chốt khác, giúp cho đồng bản tệ ổn định, gia tăng giá trị xuất khẩu, kiểm soát được tình hình nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
  • 33. 33 Thái Lan thi hành chính sách tỷ giá hối đoái cố định so với đồng USD. Điều đó đồng nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht nên đã làm giảm sút năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Thái Lan. Thật vậy, ngay từ đầu năm 1996 người ta đã dự báo rằng các đồng tiền châu Á, trong đó có đồng Baht đã duy trì tỷ giá hối đoái của mình căn cứ theo đồng USD, trong khi đó giá trị của đồng USD so với đồng Yên Nhật và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa đồng Baht so với đồng USD có tăng lên, nhưng nếu theo thuyết ngang giá trong sức mua thì đồng Baht đã giảm giá rất nhiều (khoảng 20%) so với đồng USD mà lại chỉ được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). Chính vì thực hiện cơ chế tỷ giá hối đoái cố định, Chính phủ đã hy sinh chính sách độc lập tiền tệ (theo lý thuyết về “bộ ba bất khả thi’’), các công cụ của chính sách tiền tệ chạy theo để ổn định tỷ giá. Khi đồng nội tệ bị lên giá do quốc gia duy trì tỷ giá hối đoái gần như cố định quá lâu, yếu kém về xuất khẩu, giữ lãi suất cho vay trong nước cao hơn lãi suất các đồng tiền mạnh ở nước ngoài, thì trước sau nguy cơ mất khả năng thanh toán sẽ ngày càng lớn, khả năng giữ tỷ giá hối đoái cố định sẽ ngày càng suy yếu và việc phải thả nổi đồng tiền nội địa-tức tăng tỷ giá hối đoái chỉ là vấn đề thời gian. Khi một số nhà đầu tư nước ngoài tiên đoán chính phủ nước sở tại sắp hết dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì họ sẽ bán tài sản họ đã đầu tư, đổi lấy ngoại tệ mang ra nước ngoài. Lúc đầu, chính phủ các nước thường bán dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá cũ, song đến một lúc nào đó, không còn khả năng bán nữa thì sẽ thả nổi tỷ giá hối đoái. Lúc này các nhà đầu tư nước ngoài chưa bán tài sản (sổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu) thì sẽ tìm cách bán thật nhanh và đổi sang ngoại tệ để tối thiểu hóa thiệt hại cho mình. Áp lực này càng làm cho tỷ giá hối đoái tăng vọt. Hơn nữa khi các nhà đầu cơ dự đoán thấy đồng Baht được định giá quá cao họ sẽ đua nhau đi vay đồng Baht ở ngân hàng, rồi đem số tiền đó để đi mua USD và chờ đợi khi đồng Baht bị phá giá thì họ sẽ thu lợi lớn. Quá trình này đã thúc đẩy cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan chóng xảy ra.
  • 34. 34 Khi tỷ giá hối đoái tăng mạnh dư nợ ngoại tệ của các doanh nghiệp tính bằng tiền nội tệ sẽ tăng vọt, cùng với việc các ngân hàng, công ty tài chính phá sản sẽ không có khả năng cung ứng tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động nữa. Các doanh nghiệp nào hoạt động vốn đã kém hiệu quả, thì giờ đây sẽ không có đủ vốn để kinh doanh, càng sớm bị đảy tới thua lỗ và phá sản. Khi doanh nghiệp thua lỗ thì các ngân hàng, công ty tài chính không đòi được nợ, sẽ càng phá sản nhanh hơn Mặt khác, để giữ đồng Baht ngang giá với USD, chính phủ nước này đã thực hiện chính sách lãi suất đồng Baht cao. Các doanh nghiệp trong nước phải cơ cấu lại các món nợ từ đồng nội tệ sang ngoại tệ (với mức lãi suất thực thấp hơn), còn các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn ngắn hạn vào trong nước do sự đầu cơ đồng Baht. Các nhà tài chính mất niềm tin vào việc chính phủ Thái Lan có thể duy trì chính sách lãi suất cao liên tục trong thời gian dài, cùng với sự giảm sút xuất khẩu, họ đã bắt đầu rút vốn ra khỏi Đông Nam Á. Khi luồng vốn bị rút ra liên tục, chính phủ Thái Lan không thể nào khống chế được, và buộc phải thả nổi đồng tiền. Tình trạng cũng tương tự với Philipin, Indonesia và Malaysia. Thứ ba: Tự do hóa tài khoản vốn, đầu tư tăng liên tục nhưng cơ cấu thiếu tính ổn định: Trong giai đoạn trước khủng hoảng, nguồn vốn nước ngoài đổ vào khu vực Đông Nam Á liên tục tăng lên, góp phần duy trì mức tăng trưởng kinh tế ở mức 7.5%-8%/năm. Từ năm 1990 đến 1997, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển tang 5 lần từ 42 tỷ USD lên 256 tỷ USD. Đông Á là nơi thu hút một lượng lớn dòng vốn này, chiếm tới 60% trong nửa đầu thập niên 90 (theo NHTG 1998). Bảng 2.5.: Vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-96 - Tỷ USD 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Vốn tư nhân ròng 24,8 29, 0 31, 8 36, 1 74, 2 65, 8
  • 35. 35 Đầu tư trực tiếp ròng 6,2 7,3 7,6 8,8 7,5 8,4 Đầu tư chứng khoán ròng 3,2 6,4 17, 9,9 17, 20, Vay thương mại và đầu tư khác 15,4 15, 3 7,0 17, 4 49, 2 37, 1Viện trợ chính thức ròng 4,4 2,0 0,6 0,3 0,7 - 0,4Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 5/1998 và 3/2000. Suất sinh lợi thấp ở các nền kinh tế phát triển và sự thần kỳ trong tăng trưởng của Đông Á là những động lực thúc đẩy dòng vốn dịch chuyển từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU tới các nền kinh tế Đông Á. Chênh lệch lãi suất giữa các nền kinh tế Đông Á và các trung tâm tiền tệ quốc tế luôn ở mức dương. Dòng vốn tư nhân càng được thúc đẩy vào giữa thập niên 90 với chính sách tiền tệ mở rộng ở Hoa Kỳ, nới lỏng kiểm soát tài chính ở châu Âu và tình trạng bong bóng đồng yên ở Nhật Bản. Thêm vào đó, một số chính phủ Đông Á (ví dụ như Hàn Quốc) đã tự do hóa tài khoản vốn theo hướng khuyến khích dòng vốn nước ngoài ngắn hạn. Cụ thể, chính sách của Hàn Quốc là hạn chế đầu tư nước ngoài dài hạn dưới dạng FDI hay đầu tư chứng khoán, trong khi chỉ cho phép các ngân hàng được vay ngắn hạn nước ngoài. Tỷ giá hối đoái cố định mà nhiều chính phủ Đông Á duy trì cũng là yếu tố khuyến khích dòng vốn nước ngoài do rủi ro tỷ giá được loại bỏ. Lãi suất nước ngoài thấp hơn lãi suất nội địa trong khi tỷ giá được cố định rõ ràng là một khuyến khích cho các tổ chức kinh doanh và tài chính nội địa đi vay vốn nước ngoài. Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện đối với dòng vốn nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài khi cho các tổ chức tài chính trong nước vay cũng ngầm giả định rằng khoản cho vay của mình sẽ được chính phủ nước sở tại bảo lãnh khi nhìn thấy quan hệ gần gũi giữa chính phủ với các ngân hàng nội địa. Khi kinh tế tăng trưởng khá, lượng vốn nước ngoài chảy vào nhiều thì không ai nghĩ rằng lại có thể không đảo được nợ hay vay mới khi các khoản vay trước đây đến kỳ đáo hạn. Dòng vốn chảy vào đã tạo nên sự bùng nổ tín dụng trong khu vực. Trong thập niên 1990, tín dụng ngân hàng cấp cho khu vực tư nhân tăng lên nhanh chóng. Tới cuối năm 1996, tổng giá trị nợ tài chính của khu vực tư nhân trên GDP lên tới hơn
  • 36. 36 140% ở Hàn Quốc và Thái Lan (bảng 2). Mức cung tiền M2 ở Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Indonesia tăng gần 20%/năm trong năm 1996 và 1997. Bảng 2.6.: Nợ tài chính của khu vực tư nhân so với GDP (%) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Korea 103.1 110. 121.3 128.8 133. 140.9 Thailand 88.6 98.4 110.8 128.1 142. 141.9 Nguồn: Radelet và Sachs (1998). Tuy nhiên, cơ cấu vốn đầu tư lại không hợp lý chỉ khoảng 20-30% là vốn đầu tư trực tiếp còn lại là vốn ngắn hạn đầu tư gián tiếp vào cổ phiếu, tín phiếu… Luồng vốn nóng làm nền kinh tế các nước Đông Nam Á lệ thuộc tương đối vào nước ngoài. Vốn ngắn hạn nước ngoài gây ra sức ép đồng nội tệ tăng giá và khi luồng vốn bị rút ra ồ ạt sẽ gây ảnh hưởng, làm rối loạn hệ thống tài chính, đồng nội tệ giảm giá và giá cổ phiếu giảm mạnh. Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay nước ngoài ngắn hạn được đầu tư dài hạn. Một tỷ trọng lớn vốn cho vay của ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng được tập trung vào khu vực bất động sản. Ở Indonesia, các khoản cho vay khu vực bất động sản tang 37%/năm trong giai đoạn 1992- 95 (trong khi tổng tín dụng ngân hàng chỉ tăng 22%/năm). Ở Thái Lan, các khoản cho vay bất động sản của những công ty tài chính tăng 41%/năm trong giai đoạn 1990-95 (trong khi tổng tín dụng chỉ tăng 33%/năm). Ở Hàn Quốc, các khoản cho vay của ngân hàng được tập trung chủ yếu vào các tập đoàn lớn (Chaebol).
  • 37. 37 Hình 2.1.: Tỷ lệ % giá trị cho vay bất động sản và công nghiệp chế biến của các công ty tài chính Thái Lan trong tổng dư nợ (%) Nguồn: Marcus Miller và Pongsak Luangaram (1998). Thứ tư: Sự quản lý và điều hành yếu kém trong khu vực tài chính ngân hàng: Có thể thấy rằng, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động chưa có hiệu quả, quá phụ thuộc vào sự giúp đỡ của chính phủ. Không những thế, lại mạo hiểm nhận vốn nước ngoài, trong đó một khối lượng lớn là các khoản vay nóng đưa vào đầu tư dài hạn, thêm nữa, sai lầm trong chính sách vĩ mô về duy trì tỷ giá cứng, buộc chặt đồng đôla Mỹ và lãi suất trần, sàn không bắt kịp tiến trình toàn cầu hoá… Trong điều kiện thâm hụt cán cân vãng lai để duy trì tốc độ tăng trưởng nóng và tỷ giá hối đoái cố định, ngân hàng các quốc gia Đông Nam Á lại phải tiếp tục vay nóng từ các ngân hàng nước ngoài, đã đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ nợ vượt quá dự trữ ngoại tệ trong nước. Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ khó đòi trong hệ thống ngân hàng tăng lên, một phần là do các khoản cho vay không sinh lợi cấp cho các
  • 38. 38 doanh nghiệp nội địa, một phần là do các khoản cho vay các cá nhân đầu tư chứng khoán, giờ đây không thể hoàn trả so giá chứng khoán giảm sút. Thứ năm: Sự tấn công của các tổ chức tài chính nước ngoài: Các nhà đầu tư lớn rút vốn có thể gây tác động lớn đến nền kinh tế mà họ đã đầu tư. Tương tự như vậy, họ cũng có thể đầu cơ và đánh cược vào tình hình tài chính của một nền kinh tế. Theo như lời buộc tội của Thủ tướng Malaysia Mahatir, cuộc khủng hoảng 1997/98 là do hành động của các nhà đầu cơ lớn, các quỹ đầu tư chứng khoán chênh lệch giá (mà nhân vật được nêu tên là George Soros). Thực tế của nhiều cuộc khủng hoảng tiền tệ trước cho thấy khi tỷ giá kỳ hạn được định dựa trên tỷ giá cố định thì các nhà đầu cơ có thể kiềm lời bằng cách bán khống đồng nội tệ (hay mua ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn, tương lai) và rút ngoại tệ khi đồng nội tệ sụt giá. Tuy nhiên, tại Đông Á không thấy có bằng chứng rõ ràng cho thấy có hoạt động đầu cơ lớn. Chí có trường hợp dolla Hong Kong là có dấu hiệu đầu cơ, tuy nhiên đã thất bại. Một số quỹ đầu tư chứng khoán chênh lệch giá đúng là có bán khống đồng baht nhưng vào thời điểm giữa năm 1997 thì nhiều nhà đầu tư trong nước cũng làm như vậy. Có vẻ như là các nhà đầu cơ theo đuôi các công ty trong nước chứ không phải là ngược lại. 2.1.3. Tác động của cuôc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới: Tác động tiêu cực: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở một số nước Đông Nam Á năm 1997 đã gây ra những chấn động lớn về kinh tế, xã hội ở mỗi nước, đồng thời ảnh hưởng đến các nước khác ở khu vực. Tác động của cuộc khủng hoảng này là để lại những hậu quả nặng nề, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Đối với các nước trong khu vực, trung tâm của “vòng xoáy” khủng hoảng: Có thể nói sự mất giá nhanh với quy mô chưa từng có của đồng tiền 5 quốc gia (Thái
  • 39. 39 Lan, Philipines, Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc ) là tác động bên ngoài dễ thấy nhất của sự bùng nổ khủng hoảng kinh tế tài chính ở các nước này: Bảng 2.7.: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 199 Năm Thái Lan (Baht/usd) Philippines (peso/uds) Malaysia (ringgit/usd) Indonesia (rupiah/usd) Hàn Quốc (won/usd) 1996 26 26 3 2,308 844 1997 47 40 4 5,400 1,696 Tác động bên ngoài thứ hai của tình trạng khủng hoảng kinh tế tài chính là sự thua lỗ và phá sản với tốc độ và quy mô bất thường của hệ thống ngân hàng tài chính quốc gia: Bảng 2.8.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng tài chính Nước Năm tài chính từ 1/4/97 đến 31/3/98 Năm tài chính từ 1/4/1996 đến 31/1/1997 (tổng số Ngân hàng) Số ngân hàng bị đình chỉ hoạt động Số ngân hàng bị quốc hữu hóa Số ngân hàng bị sát nhập Số ngân hàng bị bán cho công ty nước ngoài Tổng số ngân hàng có vấn đề lớn Thái Lan 108 56 4 0 4 65 (59%) Malaysia 60 0 0 41 0 41(68%)
  • 40. 40 Inđônêxia 228 16 56 11 0 83(36%) Hàn quốc 56 16 2 0 0 18(32%) Tác động thứ ba của sự khủng hoảng là sự thua lỗ, phá sản với quy mô và tốc độ bất thường của các doanh nghiệp: Bảng 2.9.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp Nước Năm Số doanh nghiệp phá sản Thái Lan 1/1998-5/1998 582 Malaysia 1996 1997 489 6583 Inđônêxia 1998 Khoảng 80% doanh nghiệp ngừng hoạt động Hàn Quốc 1997 1998 14000 53000
  • 41. 41 Sự phát triển của hàng loạt các ngân hàng, doanh nghiệp dẫn đến hai hậu quả trực tiếp là số người thất nghiệp tăng mạnh, và tăng trưởng quốc gia giảm sút Bảng 2.10.: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế tài chính Nước Tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ thất nghiệp (%) 1996 1997 1998 1996 1997 1998 Thái Lan 6.70 (0.40) (8.30) 3.30 3.70 Malaysia 8.20 7.00 2.00 2.60 2.70 5.00 Inđônêxia 7.80 4.60 (13.70) 2.20 3.00 Philipin 5.80 5.20 (0.50) 9.50 10.40 13.80 HànQuốc 7.10 5.50 (5.80) 2.30 2.50 8.00 Không những thế, khủng hoảng tài chính còn ảnh hưởng đến cả tỷ lệ lạm phát, giảm dòng vốn đầu tư, tăng các món nợ nước ngoài, ảnh hưởng đên lãi suất cho vay ở các nước này.
  • 42. 42 Bảng 2.11.: Chỉ số lạm phát, dòng vốn vào, nợ nước ngoài, lãi suất cho vay Nước Lạm phát (%) Dòng vốn vào (tỷ usd) Nợ nước ngoài (tỷ usd) Lãi suất cho vay(%) 1996 1997 1998 1996 1997 1998 1996 1997 1998 1996 1997 1998 Thái Lan 4. 80 5. 60 8. 10 19. 50 (9. 10) (9. 50) 89. 00 97. 00 15. 00 18. 00 11. 50 Malaysia 3. 80 2. 80 7. 00 9. 50 2. 70 33. 90 31. 00 93. 20 9. 20 8. 40 11. 05 Inđônêxia 6. 60 11. 60 47. 00 10. 80 (0. 60) 115. 00 129. 00 140. 00 19. 20 21. 80 34. 00 Philipin 7. 10 7. 30 10. 30 43. 00 45. 00 47. 00 14. 40 15. 40 14. 80 16. 20 13. 50 Hàn Quốc 5. 00 9. 50 6. 70 23. 90 -9. 2 112. 00 137. 00 154. 00 8. 80 9. 00 Đối với thị trường tài chính tiền tệ thế giới: Nguồn vốn đầu tư tư nhân vào nền kinh tế trong tháng 12 tại Thái Lan giảm 23% so với cùng kỳ năm trước. Các khoản cho vay từ ngân hàng cũng giảm mạnh ở Hồng Kông, Singapores, Thái Lan và Malaysia. Các chính sách kinh tế chống khủng hoảng bắt đầu bằng chính sách thắt lưng buộc bụng để thúc đẩy tìm tới ổn định, sau đó là nới lỏng chính sách này và quản lý các nhu cầu xã hội trong bối cảnh nền tài chính tiền tệ toàn cầu không dẫn đến một sự phát triển bền vững. Cuộc khủng hoảng đã đẩy 40% nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế lớn như Nhật Bản, Nga, Brazil…đã bị cuốn vào vòng xoáy của nó. IMF gần như mất khả năng đóng vai trò “người chữa cháy” của nền kinh tế toàn cầu. Sau khi bùng nổ cuộc khủng hoảng đồng Bạt ở Thái Lan tháng 7/1997. Các công ty Nhật Bản đã vội vã rút vốn khỏi châu Á do sợ suy thoái kinh tế Nhật Bản kéo dài. Những thay đổi trong chính sách tỷ giá hối đoái và buôn bán của Mỹ đối với Châu Á đã tác động tiêu cực đến các nền kinh tế khu vực này. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu Á trước hết do cơ cấu yếu kém của nền kinh tế trong nước nhưng bị trầm trọng
  • 43. 43 thêm do những biến động nên ngoài liên quan đến môi trường tài chính quốc tế và trật tự buôn bán quốc tế. Thị trường tiền tệ thế giới đang bị tác động mạnh của sự lưu chuyển vốn ồ ạt và ngắn hạn. Vì vậy, những biến động ngắn hạn về tỷ giá hối đoái trở nên nhạy cảm và được quy định bởi sự thay đổi không thể dự báo trước của quan hệ cung cầu tiền tệ. Nguồn vốn thế giới chảy vào các nền kinh tế mới nổi ở khu vực này giảm mạnh từ mức 196 tỷ USD năm 1996 xuống còn 39 tỷ USD năm 1998, trong khi các nền kinh tế Âu Mỹ phát triển ổn định khiến nguồn vốn lại chảy ngược từ các nước Châu Á trở lại Âu Mỹ. GDP của Mỹ đạt 8000 tỷ USD năm 1998, còn GDP của EU đạt 6000 tỷ. Nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh làm cho đồng đôla Mỹ tiếp tục tăng mạnh lên so với các đồng tiền Châu á. Đến tháng 12/1998 các đồng tiền Châu á vẫn mất giá từ 13% - 16% so với trước khủng hoảng. Cho đến tận nửa cuối tháng 3-1999 đồngYên cần được giao dịch với tỷ giá 123-124 Yên cho một đôla Mỹ. Xu hướng giảm giá của đồng Yên Nhật Bản cùng với khả năng lạm phát cao được gọi là cần thiết để kích thích nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, biên độ giao động tỷ giá lớn giữa đồng Yên và đồng đôla Mỹ không có lợi cho các nền kinh tế Châu á. Stanley Fischer, Phó giám đốc điều hành IMF kêu gọi một sự ổn định tiền tệ lớn hơn để ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ phá hoại các nền kinh tế mới nổi ở Châu Á. Các nước này cần xác định một cơ chế phù hợp cho mình để cùng tìm ra một chính sách tỷ giá thích hợp. Trong khi khối lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường tài chính gấp 50 lần khối lượng tiền tệ giao dịch trên thị trường hàng hoá, đồng USD vẫn là đồng tiền chi phối trên thị trường tài chính toàn cầu và mang lại cho Mỹ một lợi thế vô cùng to lớn. Do mở cửa thị trường vốn toàn cầu và những tiến bộ trong công nghệ máy tính và thông tin, Mỹ càng ngày tăng cường được ảnh hưởng đối với các nền kinh tế mới nổi với tư cách là nền tài chính lớn và mạnh nhất thế giới. IMF báo động rằng tình hình trên thị trường vốn quốc tế chứa đựng những nguy cơ bất ổn định lớn cũng như khả năng biến động cao và những điều chỉnh lớn về giá
  • 44. 44 bất động sản. Thế giới phải chứng kiến cuộc khủng hoảng lớn trên thị trường vốn của các nước mới nổi. Tác động tích cực: Bên cạnh những tác hại của khủng hoảng kinh tế gây ra nó cũng có nhiều mặt tích cực, mở đầu giai đoạn mới đầy triển vọng. Việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp chính phủ giảm thiểu lượng ngoại tệ can thiệp, giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu dài, khuyến khích, tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đỏ cải thiện những cân đối tài chính của đất nước. Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippin sẽ nhận được lượng tín dụng quốc tế chính thức với khối lượng lớn phục vụ các mục tiêu cải cách và phát triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, thúc đẩy sản xuất sản phẩm mới có suất cạnh tranh xuất khẩu cao hơn. Các khoản chi phí kém hiệu quả sẽ bị cắt giảm, các dự án cá nhân được khuyến khích.
  • 45. 45 CHƯƠNG III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH NĂM 1997 TẠI VIỆT NAM 3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tới Việt Nam Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam được chia thành hai giai đoạn chính: thời kỳ trước đổi mới từ năm 1976 đến năm 1985 và sau đổi mới từ năm 1986. Từ khi đổi mới, Việt Nam ngày càng mở rộng cửa hướng tới khu vực và thị trường thế giới. Do đó, là một quốc gia nằm trong khu vực ảnh hưởng, Việt Nam cũng đã phải chịu những ảnh hưởng nhất định từ cuộc khủng hoảng một cách trực tiếp và gián tiếp, tích cực và tiêu cực đến các mặt kinh tế - xã hội. 3.1.1. Tác động về thương mại: Theo ước tính thì khoảng 70% kim ngạch mậu dịch của Việt Nam là với các nước Đông Á và phần lớn được thanh toán bằng USD. Cho nên trong khi các đồng tiền khác trong khu vực đã bị phá giá từ 80% đến 250% so với đồng USD, đồng tiền Việt Nam mới chỉ mất giá khoảng trên 10% so với đồng USD, điều này làm cho hàng nhập khẩu từ các nước Đông Á vào Việt Nam với mức rẻ gần như tương ứng với mức phá giá của đồng tiền các nước. Do đó hàng nhập từ Đông Á sẽ lấn át hàng nội của chúng ta do giá rẻ, lượng hàng nhập khẩu tăng cao bằng cả hai con đường chính thống và buôn lậu. Theo Báo cáo của Bộ thương mại giá máy móc thiết bị giảm từ 20% đến 40%, linh kiệm điện tử giảm từ 10 -30 %, bông xơ các loại giảm từ 10 -15% đều này sẽ gây áp lực lên cán cân thanh toán vãng lai cũng như việc sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong nước. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng các cơ hội đầu tư, giảm chi phí đầu vào và tiếp cận công nghệ sản xuất Đồng thời, do các đồng tiền Đông Á bị phá giá ở mức cao, đã tạo sức ép đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này phải giảm giá. Do vậy nguồn thu vì xuất khẩu sẽ giảm vì giá xuất khẩu hạ thì doanh nghiệp nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu có thể phải ngừng sản xuất vì doanh thu không đủ trang trải cho các yếu tố đầu vào. Ngoài ra, những doanh nghiệp lớn có thể tìm được thị trường khác khi bị ép giá, nhưng lượng
  • 46. 46 xuất khẩu giảm đi, đồng thời doanh thu cũng giảm xuống do giá xuất khẩu hạ. Riêng sáu tháng cuối năm 1997, lợi tức của Việt Nam chỉ tính từ xuất khẩu của mặt hàng nông sản đã bị mất khoảng 500 triệu USD. Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra và lan rộng, xuất khẩu của Việt Nam thời gian này giảm từ 2.252 triệu USD (1996) xuống còn 1.787 triệu USD (1997), mức giảm là 465 triệu USD. Số liệu đầu năm 1998 cho thấy xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN đã giảm 57% so với tháng 12 năm 1997, tốc độ tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm 1998 chỉ tăng 10,2% trong khi cùng kỳ năm 1997 tăng 32%. 3.1.2. Tác động về tỷ giá: Do các đồng tiền Đông Á bị phá giá với tỉ lệ lớn, nên đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà đầu tư, đã tạo ra tình trạng đầu cơ, nắm giữ ngoại tệ.Ở nước ta thể hiện rõ nhất qua việc rút tiền tiết kiệm hàng loạt của dân cư và tổ chức kinh tế quy đổi sang ngoại tệ hay các loại tài sản khác. Đồng thời, khủng hoảng đã làm cho lượng tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng chậm, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh kể cả tiền gửi tiết kiệm của dân chúng. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại luôn muốn vượt trần gây sức ép phá giá đồng tiền Việt Nam. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối nói chung cầu luôn luôn cao hơn cung. Thời kỳ 1997 – 1998 cũng ghi nhận ba lần điều chỉnh tỷ giá vào tháng 7-1997 (bình quân 11.690 VND/USD), tháng 2-1998 (bình quân 12.664 VND/USD) và tháng 8- 1998 (bình quân 13.715 VND/USD). Ngoại tệ có nguy cơ tăng giá bất ngờ đã làm tăng nhu cầu vay vốn bằng đồng Việt Nam để tránh rủi ro về tỷ giá và do vậy làm tăng lãi suất đồng Việt Nam. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm cho nhiều doanh nghiệp không mua được USD hoặc phải mua với giá cao để thanh toán đơn hàng đã phải chịu lỗ nặng. Ngoại trừ đồng SGD bị phá giá 8,3%, bốn đồng tiền khác của khu vực ĐNA bị phá giá từ 32% đến 56% so với USD, trong khi đó đồng Việt Nam chỉ bị mất giá ít so với USD (ngày 17/10 ta mới bắt đầu phá giá 4,5% giá trị đồng Việt Nam)
  • 47. 47 Bảng 3.1: Tình hình phá giá của các đồng tiền Đông Nam Á Đồng Tỷ giá so với USD Mức độ phá giáNgày 1/7 Ngày 6/10 Baht / USD 25,65 36,37 42% Rupi / USD 24,75 38,65 56% Peso / USD 26,37 34,92 32% MR / USD 2,5 3,38 35% SGD / USD 1,43 1,548 8,3% Nguồn : Tổng hợp của tác giả 3.1.3. Tác động về đầu tư Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70% so với năm 1996. Đó là do 70% FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông A', là những nước đang bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng. Cho nên cũng giống như đối với Trung Quốc, họ không muốn đầu tư vào nước ta vì nhu cầu khắc phục kinh tế của bản thân nước họ, tạo thành làn sóng rút vốn đầu tư ra khỏi châu Á. Những nhà đầu tư lớn vào Việt Nam đến từ các quốc gia láng giềng trong khu vực cũng tức thì lâm vào trạng thái thiếu tiền mặt. Số lượng dự án đăng ký mới giảm sút từ 349 năm 1997 xuống còn 285 và 327 trong các năm 1998 và 1999. Nhưng quy mô vốn đầu tư mới thực sự là yếu tố suy giảm mạnh. Năm 1997 có 5,6 tỉ USD FDI đăng ký vào Việt Nam. Con số này chỉ còn 5 tỉ USD trong năm 1998. Và trong hai năm tiếp theo, lượng vốn đăng ký chỉ còn khoảng 50% của năm 1997. Số vốn thực hiện trong ba năm liên tiếp từ 1998 – 2000 dừng ở mức trên 2,3 tỉ USD mỗi năm. Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, nền kinh tế các nước trong xu thế mở cửa, hướng ngoại thì khủng hoảng kinh tế tại một nước, hay một khu vực sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như từng nền kinh tế riêng
  • 48. 48 biệt, do đó việc Việt Nam phải chịu những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính 1997 là không thể tránh khỏi. Nền kinh tế nước ta cũng chứa đựng những yếu tố mang tính nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tương tự như một số nước trong khu vực như: • Nền kinh tế chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao một phần quan trọng là do tốc độ tăng xuất khẩu cao 20-30%/năm, đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Mức tăng trưởng GDP chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vốn FDI và ODA nên khi nguồn nay giảm sẽ gây những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế. Cán cân thanh toán vãng lai thâm hụt trong nhiều năm (từ năm 1992) ở mức cao so với GDP. Thâm hụt cán cân vãng lai gây sức ép đến tỷ giá hối đoái và tăng dư nợ nước ngoài của Việt Nam. Riêng năm 1996 thâm hụt cán cân vãng lai 2 tỷ đô la (chiếm khoảng 10% GDP) và năm 1997 mặc dù đã giảm nhưng vẫn thâm hụt cao (khoảng 1,5 tỷ USD). • Bội chi ngân sách nhà nước kéo dài. Đặc biệt là việc bao cấp cho một số doanh nghiệp nhà nước chưa được giải quyết triệt để, ngân sách thường xuyên bi bội chi gây sức ép lớn đến nhu cầu vốn ngoại tệ từ bên ngoài và lượng dự trữ quốc gia còn eo hẹp. • Chế độ tỷ giá ổn định kéo dài nhằm mục đích tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài đổ vào nhiều đã tạo nên sự ổn định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại tệ, tuy nhiên lại tiềm ẩn rủi ro khi tỷ giá tăng về lâu dài dẫn đến gánh nặng nợ không còn là con số ước tính ban đầu, ảnh hưởng không nhỏ đến cán cân thanh toán và nhu cầu ngoại tệ khi đến hạn, nhất là khi các khoản vay nước ngoài sử dụng không hiệu quả, thất thoát hay doanh nghiệp mất khả năng trả nợ. Ngoài ra còn do hệ thống thông tin thiếu minh bạch, thị trường tài chính sơ khai chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước trong khu vực ĐNA (về mức độ biến động tỷ giá, thương mại và đầu tư) thì ảnh hưởng của Việt Nam trước cuộc khủng hoảng là không đáng kể. Có một vài nguyên nhân để giải thích cho luận điểm trên:
  • 49. 49 • Thứ nhất, thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam mới ở giai đoạn sơ khai, chưa phát triển đầy đủ để có thể hoà nhập vào thị trường tài chính khu vực. Ngoài ra việc đầu tư của nước ngoài vào giấy tờ có giá trong nước vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ chưa được cho phép nên khả năng đầu cơ gây bất lợi cho tiền đồng Việt Nam được hạn chế. Nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam, chủ yếu dưới dạng đầu tư trực tiếp, thời hạn dài theo các dự án sản xuất nên các nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể lập tức chuyển vốn ra. Vì vậy sức ép của việc chuyển vốn ngắn hạn ra khỏi Việt Nam không thể gây ra những cú sốc đột biến. • Thứ hai, chế độ quản lý ngoại hối của Việt Nam tương đối chặt chẽ, kể cả các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, góp phần tạo ra một rào cản trước những áp lực của luồng ngoại tệ chảy ra ngoài hoặc những hoạt động đầu cơ. Chính sách tỷ giá từng bước linh hoạt trên cơ sở ổn định giá trị đối nội và đối ngoại, tạo điều kiện cho đồng Việt Nam được phản ánh tương đối sát thực với cung cầu ngoại tệ góp phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng xuất khẩu. Cụ thể, năm 1986-1998 ta chủ động điều chỉnh tỷ giá để đạt mục tiêu nói trên: từ năm 1986- 1990, tỷ giá VND/USD đã tăng dần từ 80đ/USD lên tới 6.500đ/USD, năm 1991 lên tới 12.00đ/USD. Trước khi khủng hoảng kinh tế khu vực xảy ra ta có giải pháp nâng dần tỷ giá chính thức của ngân hàng thương mại từ 1 đến 5% so với tỷ giá chính thức tháng 2.1997 là 10% và tháng 8.1998 là 7%). Những giải pháp này đã kịp thời góp phần giảm bớt sức ép đối với tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam. Trong khi đó, nhiều nước bị khủng hoảng đã giữ tỷ giá cố định quá lâu, nên đã mất nhiều dự trữ để can thiệp bảo vệ cho mức tỷ giá đó trước khi phải thả nổi hoàn toàn. Chẳng hạn như Thái Lan giữ cố định mức tỷ giá 25 Baht đổi 1 USD trong suốt 13 năm và vừa qua bỏ ra hơn 6 tỷ USD để can thiệp. 3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm 1997 Có thể nói cuộc khủng hoảng tài chính 1997 là một cơ hội để các nước nhìn nhận và xây dựng chiến lược phát triển để đối phó và ngăn ngừa các biến động trong tương lai.