SlideShare a Scribd company logo
1 of 33
Download to read offline
Xuất nhập khẩu gỗ tròn và
gỗ xẻ của Việt Nam năm 2014
Tô Xuân Phúc (Forest Trends)
Huỳnh Văn Hạnh (Hội Gỗ Mỹ nghệ Thành phố Hồ Chí Minh)
Trần Lê Huy (Hiệp hội Gỗ và Lâm Sản Bình Định)
Cao Thị Cẩm (Hiệp hội Gỗ và Lâm Sản Việt Nam)
Tháng 3 năm 2015
2
Mục lục
Tóm tắt báo cáo ...........................................................................................................................................4
I. Giới thiệu.........................................................................................................................................7
II. Xuất nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam năm 2014......................................................................9
II.1 Nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ ..........................................................................................................9
II.2 Xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ .........................................................................................................10
III. Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam...............................................................12
III.1 Thị trường nhập khẩu gỗ tròn....................................................................................................12
III.2 Thị trường nhập khẩu gỗ xẻ.......................................................................................................15
IV. Các thị trường xuất khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam.....................................................................18
IV.1 Thị trường Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn.....................................................................................18
IV.2 Thị trường Việt Nam xuất khẩu gỗ xẻ........................................................................................19
V. Một số cửa khẩu chính trong thương mại gỗ tròn và xẻ của Việt Nam........................................21
V.1 Các cửa khẩu nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ chính của Việt Nam từ Lào.......................................22
V.2 Các cửa khẩu nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ chính của Việt Nam từ Campuchia ..........................24
V.3. Các cửa khẩu xuất khẩu gỗ tròn và xẻ từ Việt Nam sang Trung Quốc ......................................25
V.4. Các cửa khẩu chính Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và xẻ sang Hồng Kông...................................26
V.5. Các cửa khẩu chính Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và xẻ sang Đài Loan......................................26
V.6. Cửa khẩu với Hàn Quốc .............................................................................................................27
V.7 Cửa khẩu xuất khẩu đi Ấn Độ .....................................................................................................27
VI. Một số thảo luận.......................................................................................................................27
VII. Kết luận.....................................................................................................................................31
3
Danh sách các Bảng
Bảng 1. Việt Nam nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ năm 2014 ................................................................9
Bảng 2. Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ năm 2014...............................................................10
Bảng 3.Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn lớn nhất của Việt Nam năm 2014......................................12
Bảng 4. Các loại gỗ tròn chính nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào năm 2014 ........................................13
Bảng 5. Các thị trường nhập khẩu gỗ xẻ lớn nhất của Việt Nam năm 2014........................................15
Bảng 6. Các loại gỗ xẻ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào năm 2014 ...................................16
Bảng 7. Các loại gỗ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Campuchia năm 2014 .............................17
Bảng 8. Các loại gỗ xẻ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Hoa Kỳ năm 2014...............................17
Bảng 9. Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn chính của Việt Nam năm 2014.........................................18
Bảng 10. Các thị trường nhập khẩu gỗ xẻ chính của Việt Nam năm 2014..........................................19
Bảng 11. Các loại gỗ xẻ chính Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam năm 2014 ....................................20
Bảng 12. Các cửa khẩu quốc tế chính nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ từ Lào vào Việt Nam năm 2014..........23
Danh sách các Hình
Hình 1. Việt Nam nhập khẩu gỗ tròn và xẻ năm 2014...................................................................10
Hình 2. Lượng gỗ tròn và xẻ xuất khẩu của Việt Nam năm 2014.....................................................11
Hình 3. Tỷ trọng xuất - nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam năm 2014 .........................................11
4
Tóm tắt báo cáo
Đến nay Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm chế biến trong chuỗi cung gỗ
toàn cầu, với các sản phẩm gỗ chế biến của Việt Nam hiện đang được tiêu thụ tại trên 120
quốc gia và vùng lãnh thổ. Do Việt Nam không phải là quốc gia có nguồn cung gỗ nguyên
liệu, đặc biệt là gỗ nhiệt đới có nguồn gốc từ rừng tự nhiên, ngành chế biến gỗ của Việt Nam
hiện vẫn đang phụ thuộc tương đối lớn vào nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu, trong đó bao
gồm các mặt hàng thuộc nhóm gỗ tròn và gỗ xẻ. Nhằm đánh giá tầm quan trọng của nguồn
gỗ tròn và xẻ nhập khẩu đối với ngành chế biến, Báo cáo Xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ
của Việt Nam năm 2014 hình thành dựa trên nguồn dữ liệu thống kê của Tổng cục Hải quan,
kết hợp với nguồn thông tin từ các Hiệp hội gỗ. Báo cáo phân tích tình hình xuất nhập khẩu
các mặt hàng thuộc 2 nhóm gỗ này của Việt Nam năm 2014. Báo cáo góp phần trả lời câu
hỏi về mức độ lệ thuộc của ngành chế biến đối với nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu. Bên
cạnh đó, Báo cáo còn cung cấp thông tin về thực trạng xuất khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt
Nam, từ đó phần nào cho thấy bức tranh về tình hình tạm nhập tái xuất các mặt hàng này.
Nhập khẩu gỗ tròn - xẻ năm 2014
Việt Nam nhập khẩu 2 triệu m3 gỗ xẻ (tương đương với 2,8 triệu m3 gỗ quy tròn) và 1,4 triệu
m3 gỗ tròn, từ 115 quốc gia và vùng lãnh thổ. Bình quân mỗi tháng Việt Nam nhập khẩu
khoảng 350.000 m3 gỗ cả tròn và xẻ. Tổng giá trị nhập khẩu của cả gỗ tròn và xẻ đạt gần 1,72
tỉ USD, tương đương với khoảng 27,5% so với tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và các mặt hàng
gỗ của Việt Nam trong cùng năm (6,23 tỉ USD). Giá trị kim ngạch nhập khẩu gỗ tròn trong
năm đạt 0,5 tỉ USD, chiếm 41,6% giá trị kim ngạch nhập khẩu gỗ xẻ (1,2 tỉ USD).
Đối với gỗ tròn, lượng cung từ 10 quốc gia có nguồn cung lớn nhất cho Việt Nam chiếm 1,15
triệu m3, chiếm 82% tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu vào Việt Nam. Việt Nam nhập khẩu một
lượng lớn gỗ tròn từ Hoa Kỳ (khoảng 61.600m3), Đức (57.000m3) và Malaysia (212.300m3) –
các quốc gia có tính hợp pháp của gỗ nguyên liệu thường rất cao. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn
nhập khẩu một lượng lớn gỗ tròn từ các quốc gia trong Tiểu vùng sông Mê Kông, bao gồm
Lào và Myanmar. Lượng cung gỗ tròn từ Lào trong năm lên tới 308.600m3 (đứng số 1 trong
số 10 quốc gia có lượng cung lớn nhất) và từ Myanmar là 84.300m3 (đứng thứ 5). Gỗ tròn
nhập khẩu từ Lào và Myanmar bao gồm một số loài gỗ quý như giổi, trắc, hương và tếch.
Đối với gỗ xẻ, lượng cung từ 10 nước nhập khẩu gỗ xẻ nhiều nhất cho Việt Nam lên tới 1,65
triệu m3, tương đương 82% tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu. Trong số 10 quốc gia này, Lào có
lượng cung lớn nhất, với hơn 495.000 m3, tiếp đến là Hoa Kỳ (gần 486.000), New Zealand
(trên 155.700m3) và Campuchia (khoảng 153.500m3). Gỗ xẻ từ Lào và Campuchia thường là
các loại gỗ quý như hương, trắc, cẩm, với mức giá nhập khẩu bình quân dao động khoảng
1.000 USD/m3. Gỗ xẻ nhập khẩu từ các quốc gia như Hoa Kỳ, New Zealand chủ yểu là sồi,
dương, thông. Các loại gỗ này có mức giá thấp hơn nhiều so với các loại gỗ nhập khẩu từ Lào
và Campuchia.
5
Xuất khẩu gỗ tròn - xẻ năm 2014
Tuy không phải là quốc gia sản xuất gỗ nguyên liệu đặc biệt là gỗ từ rừng tự nhiên, hàng
năm Việt Nam vẫn xuất khẩu một lượng tương đối lớn gỗ nguyên liệu có nguồn gốc từ rừng
tự nhiên. Điều này chỉ ra rằng gỗ tròn và xẻ Việt Nam xuất khẩu là gỗ có nguồn gốc từ nhập
khẩu. Nói cách khác, gỗ tròn và xẻ xuất khẩu từ Việt Nam được thực hiện theo hình thức
tạm nhập tái xuất.
Đối với gỗ tròn, năm 2014 Việt Nam xuất khẩu khoảng 89.100m3 gỗ tròn, tương đương với
42,3 triệu USD về kim ngạch. Lượng gỗ tròn xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 6,2% tổng lượng gỗ
tròn nhập khẩu trong năm. Lượng gỗ tròn còn lại (1,39 triệu m3, chiếm 93,8% trong tổng
lượng nhập khẩu) có thể được đưa vào chế biến, phục vụ thị trường nội địa hoặc xuất khẩu,
hoặc cả hai. Cũng có thể một lượng gỗ tròn nhập khẩu hiện vẫn chưa được đưa vào chuỗi
cung và đang được dự trữ bởi các doanh nghiệp.
Các nước nhập khẩu gỗ tròn nhiều nhất của Việt Nam bao gồm Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan,
Trung Quốc và Hồng Kông. Trong khi gỗ tròn nhập khẩu vào Ấn Độ chủ yếu là gỗ dầu, các
loại gỗ chính được nhập khẩu vào Trung Quốc và Hồng Kông chủ yếu là trắc, hương, samu
và tếch.
Đối với gỗ xẻ, năm 2014 Việt Nam xuất khẩu gần 456.700m3, tương đương với 204,8 triệu
USD về kim ngạch. Lượng gỗ xẻ xuất khẩu chiếm 22,7% tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt
Nam. Nói cách khác, khoảng 1,5 triệu m3 gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam (77,3% tổng lượng
gỗ xẻ nhập khẩu) được đưa vào chế biến phục vụ thị trường trong nước hoặc xuất khẩu,
hoặc cả hai. Có thể một phần trong lượng gỗ xẻ nhập khẩu hiện vẫn chưa được đưa vào lưu
thông.
Các nước nhập khẩu gỗ xẻ chính của Việt nam bao gồm Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc,
Hồng Kông và Nhật Bản. Các loại gỗ xẻ chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu vào các thị trường
này bao gồm gỗ cao su, hương, trắc, cẩm.
Ý nghĩa về chính sách
Việt Nam hàng năm vẫn phải nhập một lượng lớn gỗ tròn và xẻ phục vụ chế biến cho thấy
mức độ phụ thuộc của ngành chế biến vào nguồn gỗ nhập khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam
nhập khẩu một lượng lớn gỗ nhập khẩu có nguồn gốc từ các quốc gia có các quy định chặt
chẽ về tính hợp pháp của gỗ, bao gồm cả nguồn gỗ nguyên liệu có chứng chỉ là những tín
hiệu tích cực cho ngành, thể hiện mức độ tuân thủ của các doanh nghiệp chế biến để đáp
ứng các yêu cầu chặt chẽ về tính hợp pháp của nguồn gỗ nguyên liệu từ một số thị trường
xuất khẩu.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn nhập khẩu một lượng gỗ nguyên liệu từ các quốc gia nơi nguồn gốc
gỗ vẫn còn nhiều tranh cãi cho thấy sự phát triển của ngành vẫnt tiềm ẩn nhiều rủi ro về
mặt thị trường. Để có thể khẳng định ngành chế biến đang có những dịch chuyển trong việc
6
sử dụng gỗ nguyên liệu, bao gồm cả nguồn cung từ nhập khẩu từ các nguồn không rõ ràng
về nguồn gốc sang các nguồn hợp pháp và bền vững đòi hỏi cần phải có những đánh giá
theo chuỗi thời gian.
Con số 115 quốc gia và vùng lãnh thổ cung cấp gỗ tròn và xẻ cho Việt Nam cho thấy tính
phức tạp trong chuỗi cung gỗ của Việt Nam hiện nay. Đảm bảo các chuỗi cung sạch, với
nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào hợp pháp đòi hỏi phải có các cơ chế kiểm soát hết sức hiệu
quả, từ cả khía cạnh doanh nghiệp và các nhà quản lý. Thiết lập các các cơ chế này cũng đòi
hỏi phải có những đầu tư thỏa đáng, về các khía cạnh kỹ thuật, tài chính và con người, đặc
biệt trong bối cảnh phức tạp của nguồn cung gỗ đầu vào. Các doanh nghiệp chế biến và các
cơ quan quản lý của Việt Nam cần có lộ trình và kế hoạch phù hợp nhằm kiểm soát hiệu quả
chuỗi cung.
Có thể nói một lượng lớn gỗ tròn và xẻ nhập khẩu vào Việt Nam được đưa vào chế biến,
phục vụ thị trường trong nước hoặc xuất khẩu, hoặc cả hai, thể hiện tính hạn chế về hiệu
quả của chính sách tạm dừng kinh doanh tậm nhập tái xuất gỗ tròn, gỗ xẻ từ rừng tự nhiên
của Lào và Campuchia được Chính phủ ban hành trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, thực
hiện chính sách trong thời gian vừa qua cũng có thể làm cho xuất khẩu nguyên liệu gỗ của
Việt Nam có nguồn gốc từ nhập khẩu, bao gồm cả nguồn gỗ nhập khẩu từ Lào và Campuchia
bị chững lại. Để khẳng định điều này cần phải có những so sánh về động thái xuất nhập khẩu
gỗ tròn, gỗ xẻ của Việt Nam trước và sau khi Chính sách được ban hành. Nếu Chính sách có
mục tiêu làm tăng hiệu quả kinh tế và xã hội của nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu (thay vì gỗ
nhập khẩu được tái xuất như trước kia, gỗ nhập khẩu được đưa vào chế biến sau đó xuất
khẩu) thì hiệu quả của Chính sách là hạn chế, bởi một lượng lớn gỗ nguyên liệu nhập khẩu
từ Lào và Campuchia hiện vẫn chưa được đưa vào chế biến.
Báo cáo cũng chỉ ra những biến động lớn của một số thị trường xuất nhập khẩu gỗ tròn, gỗ
xẻ của Việt Nam, đặc biệt đối với thị trường Myanmar và Trung Quốc. Chính phủ Myanmar
áp dụng chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn kể từ đầu năm 2014 làm cho cung gỗ từ nguồn
này mất hoàn toàn. Hiện thị trường Trung Quốc vẫn đóng vai trò là động lực chính, thúc đẩy
Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu gỗ nguyên liệu, bao gồm cả nguồn gỗ từ Lào và Campuchia.
Những thay đổi lớn của nguồn cung nguyên liệu do những thay đổi về chính sách của quốc
gia, hay việc lệ quá lớn vào thị trường Trung Quốc là các yếu tố gây bất ổn đến thương mại
gỗ tròn và xẻ của các doanh nghiệp Việt Nam. Điều này đòi các doanh nghiệp tham gia
thương mại các mặt hàng này cần phải có chiến lược nhằm giảm thiểu rủi ro do biến động
của thị trường mang lại.
7
I. Giới thiệu
Ngành chế biến gỗ của Việt Nam là một trong những ngành phát triển năng động nhất trong
những năm vừa qua. Hiện ngành đang hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế, với các sản
phẩm gỗ của Việt Nam đang có mặt tại khoảng 120 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2014,
kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ của Việt Nam đạt 6,23 tỉ đô la, nằm trong 5 mặt hàng
đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất của năm. Đến nay, Việt Nam có khoảng 4.200 doanh
nghiệp trực tiếp tham gia vào chế biến và thương mại gỗ; ngoài ra còn có hàng chục nghìn
hộ gia đình với hàng trăm nghìn lao động đang hoạt động tại các làng nghề (Tô Xuân Phúc và
cộng sự 2012). Các con số này không chỉ cho thấy ý nghĩa quan trọng của ngành gỗ về các
khía cạnh kinh tế và xã hội.
Việt Nam là một trong số ít nước trên thế giới có tính đặc thù khi tham gia vào chuỗi cung
các sản phẩm gỗ toàn cầu - Việt Nam không phải là quốc gia sản xuất gỗ nguyên liệu trong
khi kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ lại thuộc các nước có kim ngạch cao nhất tại Châu
Á (chỉ sau Trung Quốc đối với mặt hàng đồ gỗ). Đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong
những trung tâm chế biến đồ gỗ của Thế giới. Chính phủ Việt Nam hiện không cho phép khai
thác gỗ từ rừng tự nhiên trừ phần diện tích đã được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững1.
Nguồn gỗ rừng trồng trong nước ngày càng trở nên quan trọng, với lượng khai thác hàng
năm lên tới 17-18 triệu m3 gỗ quy tròn (Tô Xuân Phúc và cộng sự 2014). Tuy nhiên, khoảng
70-80% lượng gỗ khai thác từ rừng trồng là gỗ nhỏ, do vậy được sử dụng làm nguyên liệu
cho ngành chế biến dăm phục vụ xuất khẩu; phần còn lại (20-30%) được đưa vào chế đồ gỗ,
ván ghép thanh, v.v. phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. Lượng cung gỗ nguyên liệu
trong nước (chủ yếu là gỗ rừng trồng, còn lại là khoảng 2 triệu ha gỗ từ các vườn cao su
thanh lý) không đủ đáp ứng nhu cầu chế biến. Do vậy, hàng năm Việt Nam phải nhập khoảng
4,2 triệu m3 gỗ nguyên liệu quy tròn từ 115 quốc gia và vùng lãnh thổ.2
Hàng năm Việt Nam nhập khẩu một khối lượng lớn gỗ nguyên liệu đã làm nảy sinh một số
tranh luận về tầm quan trọng của nguồn gỗ nhập khẩu đối với với ngành chế biến gỗ của
Việt Nam nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Một số nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng
hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng 70% nguyên liệu cho ngành chế biến (Trần
Hữu Nghị và Nguyễn Tôn Quyền 2011). Tuy nhiên, trong thời gian gần đây các cơ quan quản
lý thường đưa ra con số là khoảng 50-60%. Sự khác nhau về con số liên quan đến tỷ trọng gỗ
nguyên liệu nhập khẩu phần nào phản ánh sự thiếu hụt thông tin về lượng gỗ nguyên liệu
nhập khẩu, lượng gỗ được tiêu thụ tại thị trường nội địa và lượng gỗ xuất khẩu nằm trong
các sản phẩm đã được chế biến (Tô Xuân Phúc và cộng sự 2014).
1
Đến nay Việt nam có khoảng 48.800 ha rừng tự nhiên đã được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, trong
đó diện tích thuộc Công ty Lâm nghiệp Đắc Tô là 15.700 ha, và diện tích của Công ty Long Đại là 33.149 ha
(Nguồn: FSC 2015).
2
Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu khoảng 2 triệu m3 gỗ xẻ (tương đương với 2,8 triệu m3
gỗ quy tròn) và 1,4
triệu m3
gỗ tròn.
8
Các tranh luận về tầm quan trọng của nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu không làm giảm
được mối quan tâm lớn của các cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp hiện nay. Một
số cơ quan quản lý cho rằng phụ thuộc vào nguồn cung gỗ nguyên liệu từ bên ngoài làm cho
ngành chế biến không chủ động trong sản xuất kinh doanh, và điều này thể hiện tính không
bền vững trong phát triển của ngành. Theo các nhà quản lý, để ngành phát triển bền vững
nguồn cung gỗ rừng trồng trong nước cần phải được đẩy mạnh, từng bước thay thế nguồn
gỗ nguyên liệu nhập khẩu. Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp của Việt Nam đề ra mục tiêu
đến 2020 lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu sẽ chỉ còn 30% trong tổng lượng gỗ nguyên liệu
phục vụ chế biến và 70% lượng còn lại sẽ được đáp ứng bởi nguồn cung gỗ rừng trồng trong
nước (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2006).
Tuy nhiên, một số doanh nghiệp lại cho rằng trong nền kinh tế hội nhập toàn cầu, với mỗi
quốc gia có thể chỉ đóng vai trò trong những khâu nhất định của chuỗi cung. Do vậy, phụ
thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu không nhất thiết phản ánh tính không bền vững
trong phát triển của ngành. Tuy nhiên, các theo các doanh nghiệp này, vấn đề quan trọng là
làm thế nào để có những cơ chế hiệu quả nhằm đảm bảo tính hợp pháp của nguồn gỗ nhập
khẩu, từ đó giảm rủi ro cho các doanh nghiệp khi tham gia chuỗi cung toàn cầu, đặc biệt
trong bối cảnh các quy định của thị trường xuất khẩu càng ngày càng chặt chẽ hơn về mặt
nguồn gốc và tính hợp pháp của gỗ nguyên liệu.
Gỗ tròn và gỗ xẻ là 2 nhóm mặt hàng gỗ nguyên liệu quan trọng nhất được nhập khẩu vào
Việt Nam. Dựa trên dữ liệu thống kê của Tổng cục Hải quan năm 2014, Báo cáo mô tả thực
trạng xuất nhập khẩu đối với 2 nhóm mặt hàng này. Các mặt hàng thuộc nhóm gỗ tròn (mã
Hải quan HS 4403) (sau đây được gọi tắt là gỗ tròn) bao gồm gỗ cây đã hoặc chưa bóc vỏ
hoặc dác gỗ hoặc đẽo vuông thô. Các mặt hàng thuộc nhóm gỗ xẻ (HS 4407) (gỗ xẻ) bao
gồm gỗ đã cưa xẻ theo chiều dọc, lạng hoặc bóc, đã hoặc chưa bào, đánh giấy ráp hoặc ghép
nối đầu, có bề dầy trên 6 mm. Chi tiết các loại gỗ trong mỗi nhóm được mô tả tại website
của Tổng cục Hải quan theo địa chỉ http://www.customs.gov.vn/SitePages/Tariff.aspx.
Báo cáo này chỉ tập trung mô tả thực trạng xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam
năm 2014. Những thay đổi về xuất nhập khẩu 2 nhóm mặt hàng này trong giai đoạn 2012 -
2014 nằm trong khuôn khổ của một báo cáo khác đang được soạn thảo bởi nhóm tác giả.
Mối quan hệ tương tác giữa xuất khẩu và nhập khẩu đối với mặt hàng gỗ tròn và xẻ của Việt
Nam chỉ ra một số khía cạnh quan trọng có liên quan đến các chính sách về thương mại gỗ
như tạm nhập tái xuất, thay đổi của thị trường và nỗ lực của Chính phủ và doanh nghiệp
trong việc kiểm soát tính hợp pháp của nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu.
Báo cáo được chia làm 7 phần chính. Sau phần Giới thiệu (Phần I), phần Tổng quan (Phần II)
mô tả những nét chính về thị trường xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ, thể hiện qua các con
số về kim ngạch và lượng xuất nhập khẩu được phân theo các thị trường. Phần III đi sâu vào
thị trường nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ chính của Việt Nam; trong khi Phần IV mô tả các thị
trường xuất khẩu chính. Trong Phần V, Báo cáo trình bày hoạt động xuất nhập khẩu gỗ tròn
và xẻ của Việt Nam qua các kênh nhập khẩu khác nhau. Phần VI (Thảo luận) đưa ra một số
9
nhận xét về mối quan hệ giữa thực trạng xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam với
các chính sách hiện hành của quốc gia và và của một số quốc gia khác có liên quan. Phần VII
kết luận kết thúc báo cáo.
II. Xuất nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam năm 2014
II.1 Nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ
Trong năm 2014, Việt Nam nhập khẩu tổng 2 triệu m3 gỗ xẻ (tương đương 2,8 triệu m3 gỗ
quy tròn) và 1,4 triệu m3 gỗ tròn.
Giá trị kim ngạch nhập khẩu của 2 mặt hàng này đạt gần 1,72 tỉ USD. Nếu so với tổng kim
ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2014 (6,23 tỉ USD), giá trị kim ngạch nhập khẩu gỗ
tròn và xẻ tương đương với 27,5%. Bảng 1 thể hiện số lượng và kim ngạch nhập khẩu gỗ
tròn và xẻ của Việt Nam.
Bảng 1. Việt Nam nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ năm 2014
Gỗ tròn Gỗ xẻ Tổng gỗ tròn và xẻ
Số lượng
(m3)
Giá trị
(triệu USD)
Số lượng
(m3)
Giá trị
(triệu USD)
Số lượng
(m3)
Giá trị
(triệu USD)
1.424.567 505,7 2.006.675 1.212,86 3.431.242 1.718,6
Lượng gỗ xẻ nhập khẩu cao gấp 1,4 lần lượng gỗ tròn nhập khẩu. Tổng kim ngạch gỗ xẻ nhập
khẩu cao gấp 2,4 lần kim ngạch gỗ tròn nhập khẩu.
Bình quân mỗi m3 gỗ tròn nhập khẩu giá khoảng 355 USD; mỗi m3 gỗ xẻ nhập khẩu giá giá
604 USD. Nói cách khác, gỗ xẻ nhập khẩu thường là các loại gỗ có giá trị cao hơn gỗ tròn
nhập khẩu.
Trong năm 2014 bình quân mỗi tháng Việt Nam nhập khẩu gần 350.000m3 gỗ quy tròn cho
cả 2 loại tròn và xẻ. Hình 1 thể hiện sự thay đổi về lượng gỗ tròn và gỗ xẻ mà Việt Nam nhập
khẩu.
10
Hình 1. Việt Nam nhập khẩu gỗ tròn và xẻ năm 2014
II.2 Xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ
Mặc dù Chính phủ Việt Nam không khuyến khích xuất khẩu gỗ nguyên liệu3, năm 2014 các
doanh nghiệp của Việt Nam xuất khẩu trên 545.000m3 gỗ cả tròn và xẻ, tương đương với
247 triệu USD về kim ngạch (Bảng 2).
Bảng 2. Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ năm 2014
Gỗ tròn Gỗ xẻ Tổng gỗ tròn và xẻ
Số lượng
(m3)
Giá trị
(triệu USD)
Số lượng
(m3)
Giá trị
(triệu USD)
Số lượng
(m3)
Giá trị
(triệu USD)
89.157 42,3 456.696 204,8 545.853 247,1
Do Việt Nam không phải là quốc gia sản xuất gỗ nguyên liệu, toàn bộ nguồn gỗ tròn và một
số lượng lớn gỗ xẻ xuất khẩu từ Việt Nam có nguồn gốc từ nhập khẩu. Một số ý kiến cho
rằng có thể Việt Nam xuất khẩu gỗ cao su có nguồn gốc từ trong nước. Tuy nhiên, mặc dù
lượng cung gỗ cao su của Việt Nam tương đối lớn, lượng gỗ cao su xuất khẩu chiếm tỉ trọng
rất nhỏ so với lượng gỗ cao su nhập khẩu.
Trong năm 2014 xuất khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam có nhiều biến động (Hình 2)
3
Định hướng này đã được thể hiện rất rõ trong các cơ chế chính sách của Chính phủ, bao gồm Chiến lược Phát
triển Lâm nghiệp đến 2020, Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp (2013), Quy hoạch ngành Chế biến gỗ (2010).
11
Hình 2. Lượng gỗ tròn và xẻ xuất khẩu của Việt Nam năm 2014
Tổng lượng gỗ tròn và xẻ Việt Nam xuất khẩu tương đương 15,9% tổng lượng gỗ tròn và xẻ
nhập khẩu. Điều này có nghĩa rằng 84,1% lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu vào Việt Nam được
chế biến ở trong nước, phục vụ thị trường nội địa hoặc thị trường xuất khẩu, hoặc cả hai.
Cũng có thể có phần nào đó của lượng gỗ nhập khẩu hiện vẫn chưa được đưa vào lưu thông
và đang được dự trữ bởi các doanh nghiệp.
Lượng gỗ tròn xuất khẩu chỉ chiếm 6,3% trong tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu. Lượng gỗ xẻ
xuất khẩu chiếm 22,7% tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu.
Đến nay vẫn chưa có đánh giá về tỷ trọng của lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu đưa vào chế
biến phục vụ thị trường nội địa và/hoặc thị trường xuất khẩu, và tỷ trọng lượng gỗ nguyên
liệu nhập khẩu chưa được đưa vào lưu thông.
Hình 3 chỉ ra sự khác nhau về lượng giữa xuất - nhập khẩu gỗ tròn và xẻ năm 2014.
Hình 3. Tỷ trọng xuất - nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam năm 2014
12
Bình quân mỗi m3 gỗ tròn xuất khẩu có giá là 474 USD; mỗi m3 gỗ xẻ xuất khẩu có giá là 507
USD. Hộp 1 chỉ ra động lực về giá xuất nhập khẩu.
III. Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam
III.1 Thị trường nhập khẩu gỗ tròn
Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu gỗ tròn từ 78 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm:
 Châu Âu: 21 quốc gia và vùng lãnh thổ
 Châu Phi: 19 quốc gia và vũng lãnh thổ
 Châu Á: 17 quốc gia và vùng lãnh thổ
 Châu Mỹ La Tinh: 15 quốc gia và vùng lãnh thổ
 Châu Đại Dương: 4 quốc gia và vùng lãnh thổ
 Bắc Mỹ: 2 quốc gia
Trong cùng năm, Việt Nam nhập khẩu khoảng 1,4 triệu m3 gỗ tròn. Bảng 3 thể hiện số lượng
và giá trị kim ngạch gỗ tròn mà Việt Nam nhập khẩu từ 10 quốc gia đứng đầu.
Bảng 3.Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn lớn nhất của Việt Nam năm 2014
Stt Thị trường Lượng nhập (m3) Giá trị (triệu USD)
1 Lào 308.647 149,5
2 Malaysia 212.342 34,5
3 Cameroon 190.863 91,2
4 UruGuay 93.306 15,2
5 Myanmar 84.306 44,7
6 Papua New Guinea 66.136 10,9
Hộp 1. Giá xuất - nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam
Đối với mỗi m3 gỗ tròn, giá nhập khẩu vào Việt Nam ở mức bình
quân 355 USD/m3, cao hơn 119 USD đối với mỗi m3 xuất khẩu. Đối
với gỗ xẻ, giá mỗi m3 xuất khẩu bình quân ở mức 507 USD, thấp hơn
97 USD so với giá nhập khẩu. Đối với gỗ tròn, toàn bộ lượng xuất
khẩu có nguồn gốc từ nhập khẩu và sự chênh lệch giữa mức giá xuất
khẩu và nhập khẩu thể hiện các chi phí và lãi xuất của doanh nghiệp.
Tuy nhiên đối với gỗ xẻ, giá xuất khẩu thấp hơn giá nhập khẩu có
thể do loại gỗ xẻ xuất khẩu của Việt Nam khác với chủng loại gỗ xẻ
nhập khẩu, hoặc giá xuất khẩu của gỗ xẻ của không phản ánh đúng
giá thị trường. Sự phức tạp trong cơ cấu giá xuất nhập khẩu cho
thấy các bên liên quan cần thận trọng trong việc sử dụng các thông
tin về giá trong việc ra quyết định.
13
7 Hoa Kỳ 61.628 27,4
8 Đức 57.071 15,8
9 Bỉ 49.595 13,4
10 Nigeria 31.797 15,0
Tổng số 10 nước 1.155.692 417,6
Lượng gỗ tròn nhập từ 10 quốc gia đứng đầu là 1,15 triệu m3, chiếm trên 82% tổng lượng gỗ
tròn nhập khẩu vào Việt Nam.
Một số thị trường chính phân theo loại gỗ tròn nhập khẩu
Lào
Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 308.647m3 gỗ tròn từ Lào, chiếm 21,5% trong tổng lượng gỗ
tròn nhập khẩu vào Việt Nam, tương đương với 149,5 triệu USD về kim ngạch. Bảng 4 thể
hiện 10 loại gỗ tròn nhập khẩu nhiều nhất vào Việt Nam từ Lào năm 2014.
Bảng 4. Các loại gỗ tròn chính nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào năm 2014
Loại gỗ Lượng nhập (m3)
Dầu 40.888
Giổi 36.254
Trắc 24.251
Gụ 22.371
Sến 18.750
Táu 17.923
Hương 15.703
Kiền kiền 13.130
Chò 11.621
Sao 10.273
Myanmar
Tổng lượng gỗ tròn Việt Nam nhập khẩu từ Myanmar năm 2014 là 84.305m3, tương đương
với gần 44,7 triệu USD về kim ngạch. Căm xe là loại gỗ được nhập khẩu nhiều nhất, với
lượng nhập lên tới 71.154m3, tương đương gần 85% trong tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu từ
quốc gia này. Tuy nhiên, từ tháng 7 năm 2014 nhập khẩu gỗ tròn từ Myanmar vào Việt Nam
chấm dứt bởi chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn của Chính phủ Myanmar, bắt đầu có hiệu
lực từ 31 tháng 3 năm 2014.4 Gỗ tròn từ Myanmar vẫn được nhập khẩu vào Việt Nam cho
tới tháng 7 năm 2014, 4 tháng sau khi lệnh cấm có hiệu lực, bởi Chính phủ Myanmar vẫn
cho phép thực hiện các hợp đồng đã được ký kết trước đó. Kết quả của chính sách cấm xuất
4
Thông tin về lệnh cấm của Chính phủ có thể tham khảo tại một số website như
http://news.mongabay.com/2014/0424-morgan-myanmar-ban.html, hoặc
http://www.ibtimes.com/myanmar-imposes-export-ban-stop-its-timber-foreign-exploitation-goal-establish-
domestic-wood-1565294
14
khẩu gỗ tròn của Myanmar dẫn đến lượng nhập khẩu vào Việt Nam từ nguồn này giảm từ
trên 20.000m3/tháng trong khoảng từ tháng 3 đến 5 xuống còn khoảng 1.000m3 trong tháng
6 và dừng hẳn trong tháng 7.
Việc mất nguồn cung gỗ tròn từ Myanmar trong bối cảnh nguồn cung gỗ xẻ từ nguồn này
hầu như chưa hình thành (xem phần gỗ xẻ nhập khẩu từ Myamnar phía dưới) đòi hỏi cần
phải có nguồn cung thay thế. Các loại gỗ tròn mà Việt Nam nhập khẩu từ Myanmar chủ yếu
căm xe, chiêu liêu, và tếch. Nguồn cung thay thế thuận lợi nhất cho Việt Nam là từ Lào và
Campuchia. Điều này có nghĩa rằng có thể trong tương lai lượng gỗ tròn nhập khẩu vào Việt
Nam từ Lào và Campuchia, đặc biệt đối với các loại gỗ tương tự như từ nguồn Myanmar, sẽ
tăng.
Malaysia
Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 180.482m3 gỗ tròn từ Malaysia, tương đương 28 triệu USD
về kim ngạch.
Khoảng 85.000m3 là gỗ MLH (gỗ tạp thuộc nhóm gỗ từ 5 đến 8), chiếm gần 53% trong tổng
lượng gỗ tròn nhập khẩu.
Lượng gỗ thích nhập khẩu từ thị trường này khoảng 30.500m3, tương đương 16% trong tổng
khối lượng. Lượng gỗ keo nhập khẩu là 22.100m3, chiếm 12% trong tổng khối lượng.
Các loại gỗ nhập khẩu từ Malaysia thường có giá trị thị trường không cao, chủ yếu được sử
dụng làm ván sàn và các loại tủ.
Cameroon
Trong những năm gần đây, Cameroon đã trở thành nguồn cung gỗ tròn quan trọng nhất của
Việt Nam tại Châu Phi.
Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 189.298m3 gỗ tròn từ Cameroon, tương đương 90 triệu USD
về kim ngạch. Gỗ lim chiếm số lượng lớn nhất, khoảng 171.806m3, tương đương 90% trong
tổng lượng nhập khẩu. Ngoài ra Việt Nam còn nhập khẩu một lượng nhỏ gỗ sến (9.560m3),
gỗ xoan (2.360m3), và gỗ hương (2.067m3) từ quốc gia này.
Năm 2014 Việt Nam nhập 650m3 gỗ cẩm và mun từ Cameroon.
Uruguay
Uruguay cũng là một trong những thị trường cung gỗ tròn quan trọng cho Việt Nam. Năm
2014, Việt Nam nhập khẩu khoảng 93.300m3 từ nguồn này, với toàn bộ là gỗ bạch đàn. Tổng
giá trị gỗ nhập khẩu từ thị trường này khoảng trên 15 triệu USD.
Hoa Kỳ
Năm 2014 Hoa Kỳ cung cấp gần 61.628m3 gỗ tròn cho Việt Nam, tương đương với 27,4 triệu
USD về kim ngạch. Sồi là loại gỗ chiếm tỉ trọng cao nhất về lượng nhập khẩu, với 30.428m3
15
(52% trong tổng lượng nhập khẩu từ nguồn này). Tần bì, thông, anh đào là 3 loại gỗ tròn
khác có lượng nhập tương đối lớn, tương ứng với 8.346m3, 5.286m3 và 4.716m3. Các loại gỗ
tròn được nhập khẩu từ Hoa Kỳ được đưa vào chế biến tại Việt Nam và xuất khẩu ngược lại
thị trường này và thị trường Châu Âu.
III.2 Thị trường nhập khẩu gỗ xẻ
Trong năm 2014 Việt Nam nhập khẩu gỗ xẻ từ 96 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm:
 Châu Âu: 30 quốc gia và vùng lãnh thổ
 Châu Á: 22 quốc gia và vùng lãnh thổ
 Châu Phi: 22 quốc gia và vùng lãnh thổ
 Châu Mỹ La Tinh: 16 quốc gia và vùng lãnh thổ
 Châu Đại Dương: 4 quốc gia và vùng lãnh thổ
 Bắc Mỹ: 2 quốc gia
Bảng 4 liệt kê 10 quốc gia có lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam lớn nhất trong năm 2014.
Tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu từ 10 quốc gia này năm 2014 là hơn 1,65 triệu m3, chiếm trên
82% tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam.
Bảng 5. Các thị trường nhập khẩu gỗ xẻ lớn nhất của Việt Nam năm 2014
Stt Thị trường Lượng (m3) Giá trị (triệu USD)
1 Lào 495.126 410,0
2 Hoa Kỳ 485.884 214,2
3 New Zealand 155.719 47,7
4 Campuchia 153.547 256,5
5 Chile 138.159 38,5
6 Brazil 85.749 27,8
7 Đức 43.835 18,5
8 Phần Lan 36.076 10,9
9 Gabon 31.437 24,1
10 Colombia 27.349 7,8
Tổng 10 nước 1.652.881 1.055,8
Việt Nam nhập khẩu một lượng lớn gỗ xẻ từ các quốc gia nơi gỗ có tính hợp pháp cao như
Mỹ, New Zealand và một số nước Châu Âu.
16
Lượng gỗ xẻ mà Việt Nam nhập khẩu từ Lào và Campuchia vẫn chiếm tỉ trọng lớn. Năm 2014
tổng lượng gỗ xẻ Việt Nam nhập khẩu từ 2 quốc gia này lên tới 648.673m3, chiếm 32,3%
trong tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam trong cùng năm.
Bình quân 1m3 gỗ từ xẻ nhập khẩu từ Lào có giá 828 USD. Mỗi m3 gỗ xẻ nhập khẩu từ Hoa
Kỳ giá 440 USD. Mỗi m3 gỗ xẻ nhập khẩu từ Campuchia có mức giá trung bình 1.670 USD,
cao nhất so với mức giá nhập khẩu từ các quốc gia khác. Mặc dù lượng gỗ xẻ nhập khẩu từ
Campuchia chỉ đứng thứ 4 về lượng, kim ngạch nhập khẩu gỗ xẻ từ thị trường này lại đứng
thứ 2 trong bảng xếp hạng.
Mức giá khác nhau của các loại gỗ phần nào phản ánh giá trị các loại gỗ nhập khẩu vào Việt
Nam từ các quốc gia này. Nói cách khác, gỗ nhập khẩu từ Campuchia là các loại gỗ từ rừng
tự nhiên, có giá trị cao hơn gỗ nhập khẩu từ Lào, và cao hơn nhiều so với các loại gỗ nhập
khẩu từ Hoa Kỳ.
Phần dưới đây sẽ mô tả một số nguồn cung chủ yếu gỗ xẻ cho Việt Nam năm 2014.
Lào
Lào là quốc gia cung cấp một lượng gỗ xẻ lớn nhất cho Việt Nam năm 2014, với gần
500.000m3. Bảng 5 chỉ ra 10 loại gỗ xẻ lớn nhất được nhập khẩu từ Lào trong cùng năm.
Bảng 6. Các loại gỗ xẻ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào năm 2014
Loại gỗ Lượng nhập (m3)
Hương 176.158
Cẩm 58.725
Gụ 44.782
Kiền kiền 24.401
Giổi 21.907
Gõ 19.787
Xoan 19.196
Trò 18.610
Lim 18.487
Nghiến 10.474
Campuchia
Toàn bộ lượng gỗ được nhập khẩu từ Campuchia vào Việt Nam là gỗ xẻ. Đây là kết quả của
chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn của chính phủ Campuchia được thực hiện từ cuối thập kỷ
90.5 Năm 2014, Việt Nam nhập khẩu 153.547m3 gỗ xẻ từ Campuchia, tương đương với
5
Thông tin chi tiết về các chính sách lâm nghiệp của Campuchia có liên quan đến sản xuất và thương mại gỗ,
bao gồm cả chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn có thể tham khảo tại nguồn Báo cáo “An overview of forest
products statistics in South and Southeast Asia’ của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) và Cộng đồng
Châu Âu (EU) (ftp://ftp.fao.org/docrep/fao/005/AC778E/AC778E00.pdf), và Báo cáo “Timber trade and wood
17
256,5 triệu USD về kim ngạch. Bảng 6 chỉ ra các loại gỗ chính được nhập khẩu từ Campuchia
vào Việt Nam.
Bảng 7. Các loại gỗ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Campuchia năm 2014
Loại gỗ Lượng nhập (m3)
Hương 74.152
Căm xe 23.890
Điều 19.959
Cẩm 14.679
Trắc 5.969
Gõ 3.513
Cao su 3.092
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ cũng là một trong những nguồn cung gỗ xẻ quan trọng nhất của Việt Nam. Năm
2014, Việt Nam nhập khẩu 485.884m3 gỗ xẻ từ nguồn này, tương đương với 214,2 triệu USD
về kim ngạch. Bảng 7 chỉ ra các loại gỗ xẻ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Hoa Kỳ.
Bảng 8. Các loại gỗ xẻ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Hoa Kỳ năm 2014
Loại gỗ Lượng nhập (m3)
Dương 284.374
Sồi 93.189
Trăn xe 26.520
Thông 25.136
Tần bì 14.219
Óc chó 12.761
Thích 4.629
Các loại gỗ xẻ được nhập khẩu từ Hoa Kỳ được đưa vào chế biến và xuất khẩu ngược lại thị
trường này và các thị trường khác như tại EU.
New Zealand
Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 155.719m3 gỗ xẻ từ New Zealand, tương đương với 47,7
triệu USD về kim ngạch. Hầu hết (99,7%) gỗ nhập khẩu là gỗ thông.
Brazil
Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 85.749m3 gỗ xẻ từ Brazil, tương đương với 27,8 triệu USD về
kim ngạch. Thông và bạch đàn là 2 loại gỗ chính được nhập khẩu từ thị trường này, với
flows study: Cambodia” (http://www.mekonginfo.org/assets/midocs/0002312-environment-timber-trade-and-
wood-flow-study-cambodia.pdf)
18
lượng nhập chiếm trên 96% tổng lượng gỗ nhập khẩu. Lượng gỗ thông nhập khẩu chiếm tỉ lệ
lớn nhất (47.408m3), tiếp đến là bạch đàn (35.511m3).
IV. Các thị trường xuất khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam
Mặc dù Việt Nam không sản xuất gỗ nguyên liệu, lượng gỗ tròn và gỗ xẻ xuất khẩu của Việt
Nam năm 2014 tương đối lớn, với trên 89.000m3 gỗ tròn và 456.696m3 gỗ xẻ.
IV.1 Thị trường Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn
Năm 2014 Việt Nam xuất khẩu 89.157m3 gỗ tròn, tương đương với khoảng 42,2 triệu USD
về kim ngạch. Bảng 5 chỉ ra các thị trường nhập khẩu gỗ tròn chính của Việt Nam.
Bảng 9. Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn chính của Việt Nam năm 2014
Stt Thị trường nhập khẩu Lượng (m3) Giá trị (triệu USD)
1 Ấn Độ 42.022 13,9
2 Hàn Quốc 14.721 1,0
3 Đài Loan 9.811 1,5
4 Trung Quốc 8.915 12,5
5 Hồng Kông 8.305 11,3
6 Bangladesh 2.883 0,77
7 Ả Rập Thống nhất 1.427 0,07
8 Nhật Bản 1.005 2,1
Lượng gỗ tròn mà Việt Nam xuất khẩu nhỏ, chỉ chiếm 6,2% trong tổng lượng gỗ tròn nhập
khẩu. Lượng gỗ tròn nhập khẩu còn lại (93,8%, tương đương với 1,33 triệu m3) có thể được
đưa vào chế biến phục vụ thị trường trong nước hoặc xuất khẩu, hoặc cả hai. Cũng có thể có
một lượng gỗ từ nguồn này hiện chưa được đưa vào chế biến.
Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Hồng Kông là các thị trường nhập khẩu gỗ tròn
lớn nhất của Việt Nam.
Do Việt Nam không có nguồn gỗ tròn phục vụ xuất khẩu, có thể nói hầu hết gỗ tròn xuất
khẩu từ Việt Nam có nguồn gốc từ nhập khẩu. Việt Nam có thể xuất một lượng gỗ cao su có
nguồn gốc từ các khu rừng cao su thanh lý tại Việt Nam và gỗ tràm, nhưng lượng xuất nếu
có là rất nhỏ.
Năm 2014 mỗi m3 gỗ tròn xuất khẩu của Việt Nam có mức giá bình quân gần 474 USD. Phần
dưới mô tả các thị trường nhập khẩu gỗ tròn chính của Việt Nam:
19
Ấn Độ
Trong số các nước nhập khẩu gỗ tròn của Việt Nam, Ấn Độ là quốc gia nhập khẩu nhiều
nhất, với lượng nhập năm 2014 lên tới 42.000m3. Các loại gỗ chính mà Ấn Độ nhập khẩu từ
Việt Nam bao gồm:
 Dầu 29.013m3
 Keo 6.922m3
 Chò 5.724m3
Đài Loan
Năm 2014 Đài Loan nhập khẩu 9.811m3 gỗ tròn từ Việt Nam. Các loại gỗ chính bao gồm:
 Sa mu 3.692m3
 Cao su 2.850m3
 Tràm 2.800m3
Trung Quốc
Năm 2014 tổng lượng gỗ tròn Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam là 8.845m3. Các loại gỗ
chính bao gồm:
 Trắc 3.742m3
 Sa mu 2.101m3
 Hương 1.386m3
Hồng Kông
Năm 2014 Hồng Kông nhập khẩu 8.305m3 gỗ tròn từ Việt Nam. Các loại gỗ chính bao gồm:
 Hương 5.879m3
 Trắc 2.156m3
 Tếch 153m3
IV.2 Thị trường Việt Nam xuất khẩu gỗ xẻ
Năm 2014 Việt Nam xuất khẩu gỗ xẻ tới 24 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng lượng xuất
khẩu lên đến 456.696m3, tương đương gần 231,8 triệu USD về kim ngạch. Năm 2014 lượng
gỗ xẻ Việt Nam xuất khẩu chiếm 22,7% tổng lượng gỗ xẻ Việt Nam nhập khẩu.
Bình quân gỗ xẻ xuất khẩu của Việt Nam có mức giá gần 508 USD/m3.
Chủ yếu lượng gỗ xẻ xuất khẩu từ Việt Nam có nguồn gốc từ nhập khẩu. Bảng 6 thể hiện 5
thị trường nhập khẩu gỗ xẻ lớn nhất của Việt Nam.
Bảng 10. Các thị trường nhập khẩu gỗ xẻ chính của Việt Nam năm 2014
Stt Thị trường Lượng (m3) Giá trị (triệu USD)
1 Trung Quốc 257.034 146,2
2 Đài Loan 84.413 13,4
3 Hàn Quốc 72.964 8,4
4 Hồng Kông 33.155 54,4
5 Nhật Bản 6.908 7,8
20
Phần dưới đây mô tả các thị trường nhập khẩu gỗ xẻ chính của Việt Nam
Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia nhập khẩu gỗ xẻ lớn nhất của Việt Nam, với 256.446m3 gỗ xẻ được
nhập khẩu từ Việt Nam vào quốc gia này năm 2014, tương đương với gần 145,9 triệu USD
về kim ngạch. Bảng 7 liệt kê các loại gỗ xẻ chính mà Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam.
Bảng 11. Các loại gỗ xẻ chính Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam năm 2014
Loại gỗ Lượng (m3)
Cao su 151.663
Hương 77.332
Cẩm 19.739
Keo 3.616
Trắc 2.662
Đài loan
Lượng gỗ xẻ mà Đài Loan nhập khẩu từ Việt Nam năm 2014 lên tới 84.271m3, tương đương
với khoảng 13,3 triệu USD về kim ngạch. Khoảng gần 93% trong tổng lượng gỗ xẻ mà Đài
Loan nhập khẩu là gỗ keo (78.061m3), còn lại là gỗ pơ mu (2.033m3), sa mu (1.711m3) và
một số loại gỗ khác.
Lượng gỗ keo mà Việt Nam xuất khẩu sang Đài Loan có nguồn gốc từ rừng trồng của Việt
Nam; giá xuất khẩu bình quân của mỗi m3 khoảng 134 USD.
Hàn Quốc
Năm 2014 Hàn Quốc nhập khẩu 72.926m3 gỗ xẻ từ Việt Nam, tương đương với 8,4 triệu
USD về kim ngạch. Trên 98% lượng gỗ xẻ nhập khẩu (71.910m3) là gỗ keo. Ngoài ra, Hàn
Quốc còn nhập khẩu một lượng nhỏ gỗ cao su (673m3) và gỗ quế (101m3) từ Việt Nam.
Hồng Kông
Năm 2014 lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Hồng Kông từ Việt Nam khoảng 33.155m3, tương
đương với 54,4 triệu USD về kim ngạch. Gỗ hương và gỗ cẩm là 2 loại gỗ chính được nhập
khẩu từ Việt Nam vào Hồng Kông, với lượng nhập của 2 loại gỗ này chiếm trên 98% tổng
lượng gỗ xẻ được nhập khẩu vào thị trường này. Cụ thể:
 Gỗ hương: 23.947m3
 Gỗ cẩm: 8.625m3
Nhật Bản
Năm 2014 Nhật Bản nhập khẩu khoảng 6.904m3 gỗ xẻ từ Việt Nam, bao gồm 2 loại gỗ chính:
 Gỗ hương: 4.407m3
 Gỗ cẩm: 1.011m3
21
Hiện có một số lượng lớn doanh nghiệp của Việt Nam tham gia vào xuất nhập khẩu gỗ và
sản phẩm gỗ, bao gồm cả mặt hàng gỗ tròn và xẻ. Hộp 2 thể hiện số lượng các doanh nghiệp
của tham gia vào thương mại gỗ và sản phẩm gỗ tại các thị trường quan trọng của Việt Nam.
Đối với các thị trường như Hồng Kông, Lào và Campuchia hầu hết các doanh nghiệp của Việt
Nam tham gia các thị trường này đều là các doanh nghiệp tham gia vào xuất nhập khẩu gỗ
tròn và gỗ xẻ. Đặc biệt, số doanh nghiệp Việt Nam tham gia nhập khẩu gỗ từ Lào lên tới gần
500, cao hơn nhiều so với số doanh nghiệp tham gia các thị trường khác như Hồng Kông và
Campuchia. Điều này lý giải tại sao lượng gỗ nhập khẩu từ Lào vào Việt Nam có số lượng cao
nhất so so với lượng nhập từ các quốc gia khác. Phần V dưới đây mô tả một số cửa khẩu
quan trọng trong thương mại gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam.
V. Một số cửa khẩu chính trong thương mại gỗ tròn và xẻ của Việt
Nam
Nghị định 112/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2014 bởi Thủ tướng Chính phủ quy định 4
loại cửa khẩu biên giới đất liền, bao gồm cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính (hay còn được
gọi là cửa khẩu song phương), cửa khẩu phụ và lối mở biên giới. Hộp 3 trích từ Điều 4 của
Nghị định, quy định chức năng của các cửa khẩu.
Hộp 2. Doanh nghiệp của Việt Nam tham gia vào thương mại gỗ với
một số thị trường quan trọng năm 2014
 726 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang
Trung Quốc. Con số này bao gồm các công ty tham gia xuất khẩu
gỗ tròn và xẻ.
 195 doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang Hồng Kông
 549 doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩmg gỗ sang Nhật Bản
 374 doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang Đài Loan
 492 doanh nghiệp nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ từ Lào
 123 doanh nghiệp nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ từ Campuchia
22
Cùng có chung đường biên với Việt Nam, các cửa khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia Lào,
Campuchia và Trung Quốc đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc lưu thông hàng hóa,
bao gồm của gỗ tròn và gỗ xẻ.6 Phần dưới đây mô tả thương mại gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt
Nam được thực hiện qua các loại cửa khẩu đường biên với các nước.
V.1 Các cửa khẩu nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ chính của Việt Nam từ Lào
Như trên đã đề cập, năm 2014 Việt Nam nhập tổng số 803.772m3 gỗ cả tròn và xẻ từ Lào,
trong đó lượng gỗ xẻ chiếm 308.647m3, còn lại là gỗ tròn. Lượng gỗ này được nhập khẩu
qua 4 loại cửa khẩu như sau:
Cửa khẩu Quốc tế
618.063m3 gỗ cả tròn và xẻ, tương đương với gần 77% tổng lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu
vào Việt Nam từ Lào được nhập khẩu thông qua 8 cửa khẩu quốc tế. Bảng 8 chỉ ra lượng gỗ
tròn và xẻ nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào qua 6 cửa khẩu Quốc tế chính.
6
Từ nguồn số liệu của Tổng cục Hải quan, tên của các cửa khẩu nơi gỗ được nhập vào và xuất đi từ Việt Nam
bao gồm cả tên cửa khẩu của Việt Nam và tên cửa khẩu nước ngoài. Điều này có liên quan trực tiếp đến
phương thức giao hàng được kê khai trong tờ khai hải quan. Cụ thể, đối với trường hợp nhập khẩu gỗ vào Việt
Nam, nếu các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu gỗ xuất hàng theo phương thức FOB (Free on Board) (tạm dịch
là miễn trách nhiệm trên boong tàu nơi đi) thì tên cửa khẩu trên tờ khai sẽ được ghi tên nước ngoài. Tuy
nhiên, nếu các doanh nghiệp sử dụng phương thức giao hàng CIF (Cost, Insurance and Freight) (tạm dịch là giá
thành, bảo hiểm và cước) thì tên cửa khẩu trên tờ khai hải quan sẽ là tên cửa khẩu nơi nhập hàng của Việt
Nam. Tương tự đối với trường hợp doanh nghiệp của Việt Nam xuất khẩu gỗ: sử dụng phương thức FOB sẽ có
tên của cửa khẩu Việt Nam trên tờ khai hải quan; sử dụng phương thức giao hàng CIF sẽ có tên của cửa khẩu
nhập khẩu nước ngoài.
Hộp 3. Bốn loại cửa khẩu biên giới đất liền
 Cửa khẩu quốc tế: được mở cho người, phương tiện của Việt Nam và
nước ngoài xuất cảnh, nhập cảnh; hàng hóa, vật phẩm xuất khẩu, nhập
khẩu.
 Cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương) được mở cho người, phương
tiện Việt Nam và nước láng giềng có chung cửa khẩu xuất cảnh, nhập
cảnh; hàng hóa, vật phẩm xuất khẩu, nhập khẩu.
 Cửa khẩu phụ được mở cho người, phương tiện Việt Nam và nước láng
giềng thuộc tỉnh biên giới hai bên xuất cảnh, nhập cảnh; hàng hóa, vật
phẩm xuất khẩu, nhập khẩu.
 Lối mở biên giới (đường qua lại chợ biên giới, cặp chợ biên giới; điểm
thông quan hàng hóa biên giới; đường qua lại tạm thời) được mở cho
cư dân biên giới hai bên, phương tiện, hàng hóa của cư dân biên giới
hai bên qua lại và các trường hợp khác nhằm thực hiện chính, sách
thương mại biên giới theo quy định của Thủ tướng Chính phủ; hoặc
được mở trong trường hợp bất khả kháng hay yêu cầu đặc biệt của hai
bên biên giới.
23
Bảng 12. Các cửa khẩu quốc tế chính nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ từ Lào vào Việt Nam năm 2014
Các cửa khẩu chính Gỗ tròn nhập khẩu
(m3)
Gỗ xẻ nhập khẩu
(m3)
Tổng số gỗ tròn và
xẻ nhập khẩu (m3)
Lao Bảo (Quảng Trị) 23.034 149.110 172.145
Bờ Y (Kon Tum) 97.402 33.621 131.023
Na Mèo (Thanh
Hóa)
176.34 109.445 109.622
Cầu Treo (Hà Tĩnh) 8.247 88.909 97.156
Nậm Cắn (Nghệ An) 56.808 2.418 59.225
Cha Lo (Quảng Bình) 8.145 38.708 46.853
Gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Lao Bảo phần lớn là các loại gỗ như hương, cẩm, lim, gõ và trắc.
Bình quân mỗi m3 gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu này có giá khoảng 1.400 USD.
Gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Nậm Cắn chủ yếu gồm các loại như giổi, kiền kiền, hương, xoan,
chò, phay. Mức giá bình quân cho mỗi m3 gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu này vào khoảng 225
USD.
Gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Bờ Y chủ yếu là gỗ tròn, với các loại như gỗ dầu, vên vên và kiền
kiền. Mức giá bình quân cho mỗi m3 gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu này khoảng 507 USD.
Gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Cầu Treo chủ yếu là giổi, kiền kiền, hương, xoan, chò và phay.
Mức giá bình quân nhập khẩu qua cửa khẩu này khoảng 429 USD/m3
So với các cửa khẩu như Lao Bảo, Nậm Cắn và Bờ Y, lượng gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Cha
Lo không nhiều, với tổng số 46.853m3. Tuy nhiên, giá gỗ nhập khẩu bình quân cao, khoảng
1.123 USD/m3, chỉ đứng sau so với mức giá gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Lao Bảo.
Cửa khẩu quốc gia (cửa khẩu chính)
Có 16 cửa khẩu quốc gia đã được sử dụng để nhập khẩu gỗ tròn và xẻ từ Lào vào Việt Nam
trong năm 2014, với tổng lượng gỗ nhập khẩu khoảng 144.468m3, trong đó bao gồm
66.837m3 gỗ xẻ, còn lại là gỗ tròn.
Hai cửa khẩu quan trọng nhất trong 16 cửa khẩu, với lượng nhập trên 10.000m3 gỗ, bao
gồm cửa khẩu La Lay (Quảng Trị) và cửa khẩu Thanh Thủy (Nghệ An), cụ thể:
 Cửa khẩu La Lay: Tổng lượng nhập 88.454m3, trong đó có 44.165m3 gỗ tròn, còn lại
là gỗ xẻ
 Cửa khẩu Thanh Thủy: Tổng lượng nhập 34.229m3, trong đó có 2.773m3 gỗ xẻ, còn
lại là gỗ tròn
Một số cửa khẩu quốc gia khác như Cà Roong (Quảng Bình), Nam Giang (Quảng Nam), Tây
Giang (Quảng Nam) và Thông Thụ có lượng nhập khẩu giao động khoảng 4.000m3 -
6.000m3/năm đối với mỗi cửa khẩu.
24
Cửa khẩu phụ
Năm 2014, lượng gỗ nhập khẩu từ Lào vào Việt Nam qua các cửa khẩu phụ tương đối lớn,
lên tới 35.330m3, trong đó gỗ tròn chiếm chủ yếu (33.378m3) và phần ít là gỗ xẻ. Tổng số chỉ
có 2 cửa khẩu phụ được sử dụng để nhập khẩu gỗ Lào trong năm 2014, trong đó cửa khẩu
Tam Hợp (Nghệ An) đóng vai trò chủ yếu, với lượng nhập lên tới 27.893m3. Lượng nhập qua
cửa khẩu phụ Buộc Mú (Nghệ An) là không đáng kể.
Lối mở đường mòn
Năm 2014 có 4 lối mở đường mòn giữa Việt Nam và Lào được sử dụng để nhập khẩu gỗ tròn
và xẻ vào Việt Nam. Lượng gỗ được nhập khẩu qua kênh này nhỏ, chiếm 5.911m3, trong đó
lượng gỗ nhập khẩu qua lối mở Cao Vều (Nghệ An) là chủ yếu, chiếm 3.931m3.
V.2 Các cửa khẩu nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ chính của Việt Nam từ
Campuchia
Như đã đề cập ở trên, trong năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 153.929m3 gỗ từ Campuchia,
trong đó chủ yếu là gỗ xẻ (153.547m3). Lượng gỗ này được nhập khẩu qua các cửa khẩu
quốc tế, quốc gia, cửa khẩu phụ và lối mòn.
Cửa khẩu quốc tế
Năm 2014 có 3 cửa khẩu quốc tế được sử dụng để nhập khẩu gỗ từ Campuchia vào Việt
Nam, với tổng lượng gỗ được nhập khẩu khoảng 28.484m3. Các cửa khẩu này bao gồm:
 Cửa khẩu Xa Mát (Tây Ninh): 24.753m3. Các loại gỗ chính nhập khẩu chủ yếu là gỗ
điều và hương. Mức giá gỗ nhập khẩu bình quân qua cửa khẩu này vào khoảng 268
USD/m3
 Cửa khẩu Dinh Ba (Đồng Tháp): 735m3
 Cửa khẩu Lệ Thanh (Gia Lai): 2.996m3. Các loại gỗ chính nhập khẩu là hương, cẩm,
trắc.
Cửa khẩu quốc gia
Tổng số có 20 cửa khẩu quốc gia đã được sử dụng để nhập khẩu 122.722m3 gỗ từ
Campuchia vào Việt Nam trong năm 2014. Các cửa khẩu quốc gia chính bao gồm:
 Cửa khẩu Chàng Riệc (Tây Ninh): 50.007m3. Loại gỗ nhập khẩu chủ yếu qua cửa khẩu
này là gỗ hương, cẩm và trắc. Bình quân mỗi m3 gỗ nhập khẩu vào Việt Nam từ
Campuchia qua cửa khẩu này có giá 2.463 USD.
 Cửa khẩu Katum (Tây Ninh): 29.047m3. Các loại gỗ chính nhập khẩu giống như các
loại nhập khẩu qua cửa khẩu Chàng Riệc.
 Cửa khẩu Tà Vát (Bình Phước): 9.829m3
 Cửa khẩu Lộc Thịnh (Bình Phước): 8.051m3. Hầu hết gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu này
là gỗ điều và cao su.
25
 Cửa khẩu Mỹ Quý Tây (Long An): 5.038m3
 Cảng Cát Lái (TP Hồ Chính Minh): 3.816m3. Các loại gỗ được nhập khẩu vào Việt Nam
từ Campuchia theo cửa khẩu này thường là các loại gỗ quý, với mức giá bình quân ở
mức 2.422 USD/ m3.
Cửa khẩu phụ
Cửa khẩu 751 (Đắc Lắk) là cửa khẩu phụ duy nhất được sử dụng để nhập khẩu gỗ từ
Campuchia vào Việt Nam. Trong năm 2014 lượng gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu này là
6.821m3.
Lối mở đường mòn
Năm 2014 Việt Nam sử dụng 3 lối mở đường mòn để nhập khẩu 5.902m3 gỗ từ Campuchia.
V.3. Các cửa khẩu xuất khẩu gỗ tròn và xẻ từ Việt Nam sang Trung Quốc
Trung Quốc là thị trường nhập khẩu gỗ tròn và xẻ quan trọng nhất của Việt Nam. Trong năm
2014, tổng lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu vào Trung Quốc từ Việt Nam gần 266.000m3,
trong đó lượng gỗ xẻ chiếm tới 97%, còn lại là gỗ tròn (3%).
Vào đầu những năm 2000, lượng gỗ tròn và xẻ Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam nhỏ,
khoảng dưới 10.000m3 trong năm 2000. Lượng nhập khẩu sau đó tăng lên khoảng 40.000 -
50.000m3/năm trong giai đoạn 2004 - 2005, và tăng đột biến lên khoảng 160.000m3 năm
2006 và 250.000m3 năm 2007. Khủng hoảng kinh tế làm lượng gỗ nhập khẩu vào Trung
Quốc từ Việt Nam tụt giảm nghiêm trọng trong giai đoạn 2008-2009, với lượng nhập còn
khoảng 50.000 - 60.000m3/năm. Tuy nhiên, lượng nhập tăng trở lại sau giai đoạn suy thoái,
và đạt khoảng gần 260.000m3 năm 2013 (Forest Trends 2015).
Tỷ trọng gỗ tròn - xẻ trong tổng lượng gỗ xuất khẩu từ Việt Nam vào Trung Quốc thay đổi rõ
rệt theo thời gian. Trước năm 2007 - 2008, gỗ xuất khẩu vào Trung Quốc chủ yếu là gỗ tròn
(chiếm tới 80 -90% trong tổng lượng gỗ tròn và xẻ xuất khẩu sang thị trường này). Những
năm gần đây lượng gỗ tròn Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm tỉ lệ khoảng 20%;
lượng gỗ xẻ chiếm ưu thế.
Cửa khẩu quốc tế
Năm 2014 khoảng 71.878m3 gỗ tròn và xẻ đã được nhập khẩu vào Trung Quốc từ Việt Nam
thông qua 7 cửa khẩu Quốc tế chính, trong đó có 1 cửa khẩu của Trung Quốc (Hà Khẩu), còn
lại là các cửa khẩu của Việt Nam. Chủ yếu gỗ Việt Nam xuất khẩu qua các cửa khẩu này là gỗ
xẻ, chiếm 65.308m3. Lượng gỗ tròn chiếm tỉ lệ thấp (6.570m3). Các cửa khẩu quốc tế quan
trọng bao gồm:
 Cảng Tiên Sa (Đà Nẵng): 41.255m3 tổng số, trong đó bao gồm 38.859m3 gỗ xẻ, còn lại
là gỗ tròn. Gỗ xuất qua cửa khẩu này chủ yếu là gỗ hương, cẩm
26
 Cảng Quy Nhơn (Bình Định): 16.346m3 tổng số, hầu hết là gỗ xẻ (16.232m3), chủ yếu
là gỗ cao su.
 Cảng Hải Phòng: 7.396m3, chủ yếu là gỗ xẻ (6.788m3), bao gồm các loại như hương,
trắc, cẩm
 Cửa khẩu Hữu Nghị (Lạng Sơn): 3.775m3, trong đó chủ yếu là gỗ xẻ (2.827m3), bao
gồm hương, trắc, cẩm.
Cửa khẩu quốc gia
Năm 2014 có 42 cửa khẩu quốc gia, bao gồm cả cửa khẩu của phía Việt Nam và Trung Quốc
được sử dụng để nhập khẩu gỗ từ Việt Nam vào Trung Quốc. Lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu
qua 42 cửa khẩu này rất lớn, chiếm 185.054m3, trong đó chủ yếu là gỗ xẻ (183.343m3), còn
lại là gỗ tròn (1.711m3).
Cửa khẩu phụ và lối mở đường mòn
Khoảng 9.018m3, chủ yếu là gỗ xẻ, được nhập khẩu vào Trung Quốc từ Việt Nam qua các
cửa khẩu cửa phụ lối mòn.
V.4. Các cửa khẩu chính Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và xẻ sang Hồng Kông
2014 Hồng Kông nhập khẩu 41.460m3 gỗ tròn và xẻ từ Việt Nam, trong đó lượng gỗ xẻ
chiếm gần 80%, còn lại là gỗ tròn.
Các cảng chính mà Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn sang Hồng Kông bao gồm:
 Cảng Tiên Sa: 6.578m3, chủ yếu là hương, trắc, cẩm
 Móng Cái: 473m3, chủ yếu là trắc
 Cảng Hải Phòng: 543m3 (trắc, hương, cẩm)
Các cảng chính mà Việt Nam xuất khẩu gỗ xẻ vào Hồng Kông bao gồm:
 Cảng Tiên Sa: 13.117m3, chủ yếu là gỗ cẩm, hương, trắc
 Cảng Cát Lái: 4,472m3, chủ yếu là cẩm, hương, cao su
 Cảng Hải Phòng: 3.833m3, chủ yếu là hương, cẩm, căm xe
V.5. Các cửa khẩu chính Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và xẻ sang Đài Loan
Trong năm 2014 Đài Loan nhập khẩu tổng số 91.674m3 gỗ tròn và xẻ từ Việt Nam, trong đó
lượng gỗ xẻ chiếm trên 84%, còn lại là gỗ tròn.
Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn sang Đài Loan thông qua 9 cửa khẩu khác nhau, trong đó các
cửa khẩu quan trọng nhất bao gồm:
 Cảng Cát Lái: 2.916m3, chủ yếu gỗ cao su, tràm
 Cảng Chùa Vẽ: 1.183m3, chủ yếu gỗ sa mu, pơ mu
27
Việt Nam xuất khẩu gỗ xẻ vào Đài Loan qua 20 cửa khẩu khác nhau, trong đó các cửa khẩu
quan trọng nhất bao gồm:
 Cảng Hải Phòng: 20.569m3, chủ yếu gỗ keo, pơ mu
 Cảng Green Port (Hải Phòng): 18,646m3, chủ yếu gỗ keo
 Tân cảng Hải Phòng: 11.751m3, chủ yếu gỗ keo, pơ mu
V.6. Cửa khẩu với Hàn Quốc
Cát Lái là cảng quan trọng nhất của Việt Nam trong việc xuất khẩu gỗ tròn sang Hàn Quốc.
Lượng gỗ xuất khẩu vào Hàn Quốc từ Việt Nam từ cảng này chủ yếu là gỗ keo.
V.7 Cửa khẩu xuất khẩu đi Ấn Độ
Ấn độ chủ yếu nhập khẩu gỗ dầu từ Việt Nam. Cửa khẩu quan trọng nhất của Việt Nam
trong xuất khẩu gỗ đi Ấn Độ (chủ yếu là gỗ tròn) là các cảng sau:
 Quy Nhơn: 18.630m3
 Cái Lân: 6.922m3
 Tiên Sa: 5.123m3
Tóm lại, Việt Nam sử dụng hệ thống cửa khẩu rất đa dạng, bao gồm cả cửa khẩu quốc tế,
quốc gia, cửa khẩu phụ, lối mở đường mòn. Chủng loại gỗ nhập và xuất khẩu thông qua các
cửa khẩu này khác nhau.
VI. Một số thảo luận
Thương mại gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam giữ vị thế quan trọng đối với ngành gỗ của quốc
gia, cả về khía cạnh khối lượng và kim ngạch xuất nhập khẩu. Trong thời gian vừa qua, xuất
nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam đã có một số biến động, thể hiện qua các mặt sau
đây:
Chính sách quản lý hoạt động tạm nhập tái xuất của Việt Nam
Thông tư 37/2014/TT-BCT ban hành ngày 24 tháng 10 năm 2014 (bắt đầu có hiệu lực kể từ
ngày 8 tháng 12 năm 2014) của Bộ Công Thương quy định việc tạm ngừng kinh doanh tạm
nhập, tái xuất gỗ tròn, gỗ xẻ từ rừng tự nhiên của Lào và Campuchia. Thông tư nêu rõ Chính
phủ Việt Nam “Tạm ngừng hoạt động kinh doanh tạm nhập từ Lào và Campuchia để tái xuất
sang nước thứ ba đối với gỗ tròn, gỗ xẻ từ rừng tự nhiên thuộc nhóm HS 44.03 và 44.07 theo
Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam.”
Hiện chưa có thông tin đầy đủ về tác động của Thông tư này tới thương mại gỗ tròn và xẻ
của Việt Nam với Lào và Campuchia trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, theo ý kiến của một
số doanh nghiệp trực tiếp tham gia thương mại gỗ với 2 quốc gia này cho thấy Thông tư đã
tạo ra những hạn chế nhất định trong việc thương mại gỗ của các doanh nghiệp từ 2 quốc
28
gia này, từ đó tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, và hoạt động xuất
khẩu đến các thị trường Trung Quốc và Hồng Kông.
Năm 2014, Việt Nam nhập khẩu 308.647m3 gỗ tròn từ Lào, trong khi tổng lượng gỗ tròn
được Việt Nam xuất khẩu trong cùng năm là 89.157m3. Việc Chính phủ Việt Nam hạn chế
việc tạm nhập tái xuất gỗ tròn và gỗ xẻ từ Lào sẽ có tác động trực tiếp đến thương mại gỗ
tròn giữa Việt Nam và Lào, bởi hầu hết lượng gỗ tròn mà Việt Nam xuất khẩu đều là gỗ nhập
khẩu, trong đó chủ yếu từ Lào. Chính sách bãi bỏ tạm nhập tái xuất mặt hàng gỗ tròn từ Lào
vào Việt Nam có thể làm mất đi các thị trường truyền thống nhập khẩu gỗ tròn của Việt
Nam như Ấn Độ, Trung Quốc, Hồng Kông.
Lượng gỗ xẻ mà Việt Nam xuất khẩu năm 2014 lên tới 456.696m3, chiếm 22,7% tổng lượng
gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam.
Trong năm 2014 lượng gỗ xẻ từ Việt Nam nhập khẩu vào Trung Quốc và Hồng Kông lên tới
290.000m3. Khoảng 130.000m3 gỗ xẻ nhập khẩu từ Việt Nam vào 2 thị trường này là các loại
gỗ quý, có giá thị trường rất cao, có nguồn gốc từ Lào và Campuchia. Như vậy, chính sách
tạm ngừng hoạt động tạm nhập tái xuất gỗ tròn và gỗ xẻ từ Lào và Campuchia có tác động
lớn và trực tiếp đến thương mại gỗ xẻ của Việt Nam của các doanh nghiệp Việt Nam nhập
khẩu gỗ Lào, Campuchia nhằm phục vụ thị trường Trung Quốc và Hồng Kông.
Có thể Chính sách tạm dừng tạm nhập tái xuất của Việt Nam phần nào đáp ứng được mối
quan tâm của nhiều hộ gia đình thuộc các làng nghề gỗ như Phù Khê (Hà Nội), Đồng Kỵ (Bắc
Ninh), nơi nguồn gỗ tròn và xẻ nhập khẩu từ Lào và Campuchia đóng vai trò quan trọng, là
nguồn cung nguyên liệu đầu vào duy nhất cho các hoạt động chế biến và thương mại của
các làng nghề này. Khoảng 90 - 95% các sản phẩm gỗ được tạo ra bởi các làng nghề được
xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc (Tô Xuân Phúc và cộng sự 2012). Trong những năm
gần đây, hoạt động chế biến và thương mại gỗ của các làng nghề này đã trải qua những thay
đổi lớn, với các hoạt động chế biến đã và đang co dần lại, thay thế bằng các hoạt động
thương mại gỗ nguyên liệu đơn thuần. Hộp 3 mô tả một số tác động của sự dịch chuyển từ
chế biến sang thương mại tại các làng nghề.
29
Chính sách tạm dừng hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất gỗ tròn và xẻ từ Lào và
Campuchia có thể tạo ra sự thay đổi khi lượng gỗ nhập khẩu từ 2 quốc gia này được giữ lại
và đưa vào chế biến trước khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, đến nay
vẫn chưa có minh chứng nào được đưa ra về lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu từ Lào và
Campuchia được tiêu thụ tại các cơ sở chế biến, trong đó đặc biệt là tại các làng nghề gia
tăng. Có thể Chính sách tạm dừng hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất đã không tạo
được hiệu quả xã hội như kỳ vọng, bởi lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu từ Lào và Campuchia
đưa vào chế biến không gia tăng. Thay vào đó, thực hiện Chính sách có thể làm hạn chế lưu
thông thương mại các mặt hàng gỗ nguyên liệu này, và dẫn đến việc các doanh nghiệp Việt
Nam dự trữ gỗ, chờ giá lên hoặc chờ cho chính sách thay đổi.
Các làng nghề sử dụng nguyên liệu gỗ nhập khẩu từ Lào và Campuchia lệ thuộc gần như
hoàn toàn vào thị trường Trung Quốc làm cho các làng nghề đó hầu như không có vị thế khi
tham gia thị trường này. Bên cạnh đó, nếu lượng gỗ nhập khẩu từ các nguồn này được đưa
vào chế biến chắc chắn sẽ có rủi ro khi các sản phẩm này được tiêu thụ tại thị trường nội địa
cũng như xuất khẩu. Điều này có thể làm giảm hiệu quả mong đợi của chính sách.
Biến động của thị trường nhập khẩu
Trong năm 2014 biến động lớn nhất về thị trường gỗ nguyên liệu nhập khẩu vào Việt Nam là
Myanmar. Chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn của Chính phủ Myanmar vào đầu năm 2014
làm cho nguồn cung gỗ tròn từ thị trường này cho Việt Nam mất hoàn toàn. Trước đó, mỗi
Hộp 3. Thay đổi tại các làng nghề gỗ truyền thống
“Trước đây hầu hết các thành viên trong gia đình từ lớn đến nhỏ, như
trẻ em 13-14 tuổi đều tham gia vào hoạt động chế biến. Người có tay
nghề cao thì làm thiết kế, pha gỗ… người có tay nghề thấp hơn thì đục
đẽo theo thiết kế… người không có tay nghề thì làm các công việc đơn
giản như bào, đánh bóng, phun sơn. Gia đình làm không hết việc, nhà
nào cũng phải thuê thêm 6 - 7 lao động từ các làng khác. Gần đây thay
đổi hết rồi, chuyển sang làm thương mại hết. Nhà nào cũng vay tiền
ngân hàng, lấy tiền mua gỗ rồi ra chợ ngồi bán, người nọ bán cho người
kia, cuối cùng thì cũng là khách Trung Quốc thu gom mang về Trung
Quốc hết. Bán ở chợ mỗi nhà chỉ cần 1 người bán thôi, mọi người còn lại
trong gia đình trở thành thất nghiệp hết, cả làng trở thành thất nghiệp.
Nhà nước cần có chính sách hiệu quả để bắt Trung Quốc phải mua sản
phẩm của mình, thay vì việc mua gỗ nguyên liệu như hiện nay, nếu
không dân mình chẳng được lợi gì, mà chỉ có một số ít người chuyên
buôn bán gỗ thôi.”
(Nguồn: Phỏng vấn Chủ tịch Hội gỗ Mỹ nghệ Đồng Kỵ, tháng 12 năm
2014)
30
năm Myanmar cung cấp cho Việt Nam hàng trăm nghìn m3 gỗ tròn. Sự mất đi nguồn cung
này đòi hỏi các doanh nghiệp của Việt Nam phải tìm kiếm có nguồn cung khác thay thế nếu
họ muốn tiếp tục các hoạt động kinh doanh của mình. Điều này có thể dẫn đến việc các
doanh nghiệp gia tăng tìm kiếm nguồn cung từ các thị trường thay thế, đặc biệt là các thị
trường có các lợi thế về khoảng cách về mặt địa lý với Việt Nam và/hoặc có cùng chủng loại
gỗ với Myanmar. Trong bối cảnh này, Lào và Campuchia có vẻ sẽ trở thành thị trường thay
thế cho Myanmar.
Nguồn cung gỗ tròn từ Mynamar mất đi có thể cho thấy nguồn cung gỗ nguyên liệu cho Việt
Nam có thể thay đổi nhanh do thay đổi về các chính sách của quốc gia cung gỗ. Sự lệ thuộc
lớn vào một vài quốc gia cung gỗ tròn và xẻ cho các doanh nghiệp Việt Nam như từ Lào và
Campuchia đặt các doanh nghiệp của Việt Nam tham gia các thị trường này trước những rủi
ro lớn, bởi chính sách từ các quốc gia này có thể thay đổi như Myanmar. Những biến động
của nguồn cung không chỉ tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp của Việt Nam tham gia
thương mại với các thị trường này mà còn ảnh hưởng đến hàng nghìn hộ gia đình với hàng
trăm ngàn lao động tham gia vào chế biến và thương mại các sản phẩm gỗ có nguồn gốc từ
nhập khẩu.
Biến động của thị trường xuất khẩu
Sự lệ thuộc lớn vào một vài thị trường xuất khẩu cũng đặt các doanh nghiệp tham gia
thương mại gỗ của Việt Nam trước những rủi ro lớn về thị trường. Đến nay, nhiều sản phẩm
gỗ của Việt Nam, bao gồm cả gỗ tròn và gỗ xẻ là các loại gỗ quý có nguồn gốc từ nhập khẩu,
có giá trị thị trường cao được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc và Hồng Kông. Sự kiện
dàn khoan 981 của Trung Quốc có ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường xuất khẩu các loại
hàng hóa của Việt Nam, bao gồm cả các loại gỗ tròn và xẻ được xuất khẩu vào thị trường
Trung Quốc, Hồng Kông và ở nhiều thị trường khác. Nói cách khác, những thay đổi về chính
trị xảy ra trong vùng có tác động lớn đến thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Điều này đòi
hỏi Chính phủ và các doanh nghiệp của Việt Nam cần phải có những bước đi phù hợp trong
bối cảnh luôn có những biến động trong vùng.
Yêu cầu về tính hợp pháp của gỗ
Xu hướng tiêu dùng hiện nay đối với các sản phẩm gỗ có nguồn gốc từ rừng nhiệt đới là
ngày càng chặt chẽ hơn. Tại các thị trường phát triển, cơ chế kiểm soát nguồn gốc các sản
phẩm gỗ nhập khẩu được tiêu thụ tại các thị trường này ngày càng chặt chẽ. Tham gia các
thị trường này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu về
tính hợp pháp của gỗ.
Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu khoảng 4,2 triệu m3 gỗ quy tròn từ 115 quốc gia và vùng
lãnh thổ khác nhau, trong đó có một lượng lớn gỗ nguyên liệu có nguồn gốc từ các quốc gia
nơi tính hợp pháp của gỗ còn có nhiều tranh cãi. Một số ý kiến cho rằng có thể lượng gỗ mà
Việt Nam nhập khẩu từ các quốc gia này không được đưa vào chuỗi cung để phục vụ các thị
31
trường xuất khẩu nhạy cảm về mặt môi trường. Tuy nhiên, việc nhập khẩu một lượng gỗ tự
nhiên rất lớn từ các quốc gia đó đặt các doanh nghiệp nói riêng và ngành gỗ của Việt Nam
nói chung trước những rủi ro lớn. Hiện Việt Nam có khoảng 4.200 doanh nghiệp gỗ khác
nhau tham gia thị trường; bên cạnh đó còn có hàng nghìn hộ gia đình hoạt động tại các làng
nghề. Làm thế nào để có thể có những cơ chế kiểm soát tính hợp pháp của nguồn gỗ nguyên
liệu đầu vào khả thi và hiệu quả trong bối cảnh nguồn lực hạn chế như hiện nay là một câu
hỏi khó đặt ra cho các nhà quản lý và các doanh nghiệp của Việt Nam.
Đã có những thảo luận trong khối doanh nghiệp và các cơ quan quản lý về lợi ích thực sự
cho Việt Nam từ việc nhập khẩu gỗ tròn và xẻ từ các quốc gia nơi tính hợp pháp của gỗ còn
đang có những tranh cãi như Lào và Campuchia. Các doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào
thương mại gỗ với các quốc gia này đưa ra quan điểm rằng nguồn cung gỗ từ các quốc gia
này là cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia thị trường vì nếu không cơ hội này cũng sẽ bị
các quốc gia nhập khẩu gỗ khác như Thái Lan và Trung Quốc lấy mấy. Theo quan điểm của
các doanh nghiệp của Việt Nam trực tiếp tham gia chuỗi cung này, lợi ích của thương mại gỗ
với Lào và Campuchia không chỉ đơn thuần là lợi ích của doanh nghiệp mà còn có lợi ích xã
hội khác.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp không tham gia thương mại gỗ với các quốc gia này thì cho
rằng do một số doanh nghiệp của Việt Nam nhập khẩu gỗ có nguồn gốc pháp lý chưa rõ ràng
làm cho toàn bộ hệ thống doanh nghiệp của Việt Nam và hình ảnh của quốc gia bị ảnh
hưởng. Theo các doanh nghiệp này, ngành gỗ Việt Nam trong giai đoạn hội nhập cần tuân
thủ chặt chẽ các yêu cầu của thị trường xuất khẩu và điều này mới đảm bảo sự phát triển
bền vững cho ngành. Hiện các tranh luận này vẫn đang diễn ra, thể hiện tính phức tạp của
ngành gỗ về khía cạnh lợi ích của các nhóm khác nhau trong ngành.
Sử dụng gỗ nguyên liệu nhập khẩu từ các nguồn không rõ ràng về mặt pháp lý làm cho chuỗi
cung trở lên hết sức phức tạp. Từ góc độ quản lý, thiết lập các cơ chế kiểm soát chặt chẽ
chuỗi cung để đảm bảo rằng gỗ đưa vào các chuỗi là gỗ hợp pháp sẽ rất khó khăn và cần chi
phí lớn. Điều này đòi hỏi Chính phủ phải có thông tin đầy đủ, từ đó đưa ra các chính sách
phù hợp, trên các ưu tiên cho lợi ích của số đông doanh nghiệp theo hướng lâu dài. Điều này
sẽ góp phần xây dựng và gìn giữ hình ảnh của ngành gỗ Việt Nam. Các ưu tiên này cũng cần
cân nhắc tới việc hạn chế chuyển đổi từ mô hình chế biến sang thương mại gỗ nguyên liệu
hiện đang diễn ra tại các làng nghề, bởi điều này sẽ góp phần tối đa hóa lợi ích xã hội của
chính sách.
VII. Kết luận
Thương mại các mặt hàng gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam vẫn đang diễn ra với quy mô lớn,
thể hiện cả ở khía cạnh khối lượng gỗ và kim nghạch xuất nhập khẩu. Hàng năm, Việt Nam
nhập một khối lượng gỗ tròn và gỗ xẻ lớn, tương đương với 4,2 triệu m3 gỗ quy tròn và kim
ngạch nhập khẩu lên tới 1,7 tỉ USD. Quy mô xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam nhỏ
hơn nhiều so với nhập khẩu, với lượng xuất khẩu hàng năm khoảng gần 0,54 triệu m3, trong
32
đó chủ yếu là gỗ xẻ, tương đương với 273 triệu USD về kim ngạch. Lượng gỗ chênh lệch giữa
nhập và xuất khẩu có thể được đưa vào chế biến phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, hoặc
phần nào đó vẫn chưa được đưa vào chuỗi cung và đang được dự trữ bởi các doanh nghiệp.
Có nhiều tín hiệu tốt đối với thương mại gỗ tròn và xẻ của Việt Nam, bao gồm sự gia tăng về
lượng gỗ nhập khẩu vào Việt Nam từ các quốc gia có nguồn gốc gỗ rõ ràng. Điều này có thể
là những dấu hiệu thể hiện những dịch chuyển trong nội tại của ngành gỗ trong việc hướng
tới các thị trường gỗ nguyên liệu nhập khẩu minh bạch và ổn định hơn, đáp ứng các yêu cầu
khó tính của thị trường xuất khẩu. Một số tín hiện tốt cũng phần nào đang được thể hiện
đối với nguồn gỗ xuất khẩu thông qua lượng gỗ xẻ xuất khẩu có nguồn gốc từ rừng trồng
của Việt Nam có sự gia tăng. Điều này thể hiện tiềm năng của nguồn gỗ rừng trồng trong
nước không chỉ trong việc dần thay thế nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu mà còn là có tiềm
năng to lớn trong việc tạo nguồn cung cho xuất khẩu. Nói cách khác, đầu tư vào rừng trồng
theo hướng thúc đẩy sản xuất gỗ lớn nguyên liệu là những đầu tư hiệu quả cả về khía cạnh
kinh tế và xã hội. Chính sách của Chính phủ cần mạnh mẽ hơn, nhằm thúc đẩy nguồn gỗ
rừng trồng, đặc biệt tập trung cho các hộ gia đình có đất rừng sản xuất.
Tuy nhiên, với lượng nhập gỗ nguyên liệu hàng năm lên tới 4,2 triệu m3 gỗ quy tròn, trong
đó có tới hàng triệu m3 gỗ tròn và xẻ từ các quốc gia nơi nguồn gốc gỗ vẫn còn nhiều tranh
cãi, Việt Nam hiện vẫn đang và sẽ tiếp tục đối mặt với những khó khăn trong việc minh
chứng tính hợp pháp của nguồn gỗ nhập khẩu. Điều này càng trở lên khó khăn hơn trong bối
cảnh hội nhập, với các doanh nghiệp của Việt Nam đang tham gia vào thị trường quốc tế, và
điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của thị trường
nếu muốn muốn duy trì và mở rộng thị phần của mình. Cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý
của Việt Nam cần chuẩn bị về chiến lược và lộ trình hợp lý nhằm giảm sự lệ thuộc vào các
nguồn cung gỗ nguyên liệu đặc biệt từ các nguồn không rõ nguồn gốc. Quá trình hoạch định
chính sách của Việt Nam cần cân nhắc kỹ đến các yếu tố, đặc biệt là các khía cạnh như lợi ích
của toàn ngành, xây dựng và gìn giữ hình ảnh của quốc gia và lợi ích xã hội do xuất nhập gỗ
tròn và xẻ mang lại cho Việt Nam.
33
Tài liệu tham khảo
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Đề Án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp. Hà Nội, 2014.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Đề án tái cơ cấu ngành gỗ. Hà Nội, 2014.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Chiến Lược phát Triển Lâm nghiệp Việt Nam đến
2020. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội, 2007
Forest Trends. 2015. Thương mại gỗ của Trung Quốc. Báo cáo chuẩn bị xuất bản
Nguyễn Tôn Quyền và Trần Hữu Nghị. How Viet Nam is prepared to meet legal requirements
of timber export market. Tropenbos International. Hanoi, 2011.
Tô Xuân Phúc, Nguyễn Tôn Quyền, Lê Duy Phương, Cao Thị Cẩm, Ngụy Thị Hồng. Làng nghề
gỗ trong bối cảnh thực thi FLEGT và REDD+ tại Việt Nam. Forest Trends và VIFORES. Hà Nội,
2012.
Tô Xuân Phúc, Trần Lê Huy, Cao Thị Cẩm, Nguyễn Tôn Quyền. Tổng quan cung – cầu gỗ Việt
Nam. Báo cáo Trình Bài tại Hội thảo Tổng quan Cung cầu Gỗ Việt Nam. Forest Trends,
VIFORES, FPB Binh Định, HAWA. Hà Nội, 2014.

More Related Content

What's hot

What's hot (15)

Ban tin 70 HAWA - Go & Noi that
Ban tin 70 HAWA - Go & Noi thatBan tin 70 HAWA - Go & Noi that
Ban tin 70 HAWA - Go & Noi that
 
Xac dinh tinh kha thi cua du an
Xac dinh tinh kha thi cua du anXac dinh tinh kha thi cua du an
Xac dinh tinh kha thi cua du an
 
5 bao cao so bo ket qua khao sat doanh nghiep hue 7.9.2018
5 bao cao so bo ket qua khao sat doanh nghiep hue 7.9.20185 bao cao so bo ket qua khao sat doanh nghiep hue 7.9.2018
5 bao cao so bo ket qua khao sat doanh nghiep hue 7.9.2018
 
Gỗ & Nội thất - Vol 76
Gỗ & Nội thất - Vol 76Gỗ & Nội thất - Vol 76
Gỗ & Nội thất - Vol 76
 
Gỗ & Nội thất số 75
Gỗ & Nội thất số 75Gỗ & Nội thất số 75
Gỗ & Nội thất số 75
 
Vol 74 - Ngành Gỗ hậu dịch Covid19
Vol 74 - Ngành Gỗ hậu dịch Covid19Vol 74 - Ngành Gỗ hậu dịch Covid19
Vol 74 - Ngành Gỗ hậu dịch Covid19
 
Ban tin 73 HAWA - Go & Noi that
Ban tin 73 HAWA - Go & Noi thatBan tin 73 HAWA - Go & Noi that
Ban tin 73 HAWA - Go & Noi that
 
Gỗ & Nội thất - VOL 81
Gỗ & Nội thất - VOL 81Gỗ & Nội thất - VOL 81
Gỗ & Nội thất - VOL 81
 
Caosu q4 1
Caosu q4 1Caosu q4 1
Caosu q4 1
 
Dddn bài 4 ngành gỗ vn xây dựng những bước đi phù hợp
Dddn bài 4 ngành gỗ vn xây dựng những bước đi phù hợpDddn bài 4 ngành gỗ vn xây dựng những bước đi phù hợp
Dddn bài 4 ngành gỗ vn xây dựng những bước đi phù hợp
 
Ban tin 71 HAWA - Go & Noi that
Ban tin 71 HAWA - Go & Noi thatBan tin 71 HAWA - Go & Noi that
Ban tin 71 HAWA - Go & Noi that
 
Bản tin thị trường NLTS_03/03/2020_shared by Advantage Logistics
Bản tin thị trường NLTS_03/03/2020_shared by Advantage LogisticsBản tin thị trường NLTS_03/03/2020_shared by Advantage Logistics
Bản tin thị trường NLTS_03/03/2020_shared by Advantage Logistics
 
Vov bai6 dncbg_lac_quan_truoc_xu_the_hoi_nhap
Vov bai6 dncbg_lac_quan_truoc_xu_the_hoi_nhapVov bai6 dncbg_lac_quan_truoc_xu_the_hoi_nhap
Vov bai6 dncbg_lac_quan_truoc_xu_the_hoi_nhap
 
19191
1919119191
19191
 
Caosu q2 1
Caosu q2 1Caosu q2 1
Caosu q2 1
 

More from Minh Vu

More from Minh Vu (20)

Cach thuyet trinh khoa hoc va poster
Cach thuyet trinh khoa hoc va posterCach thuyet trinh khoa hoc va poster
Cach thuyet trinh khoa hoc va poster
 
Cach viet bai bao khoa hoc
Cach viet bai bao khoa hocCach viet bai bao khoa hoc
Cach viet bai bao khoa hoc
 
Phương pháp điều hành hội nghị hội thảo
Phương pháp điều hành hội nghị hội thảoPhương pháp điều hành hội nghị hội thảo
Phương pháp điều hành hội nghị hội thảo
 
Quan tri su menh ceo kojisakamoto
Quan tri su menh ceo kojisakamotoQuan tri su menh ceo kojisakamoto
Quan tri su menh ceo kojisakamoto
 
Flegt vpa21102016
Flegt vpa21102016Flegt vpa21102016
Flegt vpa21102016
 
Indonesia - European FLEGT-VPA Vietnam.pptx vietnam
Indonesia - European FLEGT-VPA Vietnam.pptx vietnamIndonesia - European FLEGT-VPA Vietnam.pptx vietnam
Indonesia - European FLEGT-VPA Vietnam.pptx vietnam
 
Tcbc indo flegt_final_18102016
Tcbc indo flegt_final_18102016Tcbc indo flegt_final_18102016
Tcbc indo flegt_final_18102016
 
Hoi thaoindoflegt final
Hoi thaoindoflegt finalHoi thaoindoflegt final
Hoi thaoindoflegt final
 
Hoi thao flegt indo vietnam update 4 10 2016 edited
Hoi thao flegt indo vietnam update 4 10 2016 editedHoi thao flegt indo vietnam update 4 10 2016 edited
Hoi thao flegt indo vietnam update 4 10 2016 edited
 
Svlk development anna
Svlk development annaSvlk development anna
Svlk development anna
 
Indonesia tlas (svlk) & flegt vpa 18 okt 2016
Indonesia tlas (svlk) & flegt vpa 18 okt 2016Indonesia tlas (svlk) & flegt vpa 18 okt 2016
Indonesia tlas (svlk) & flegt vpa 18 okt 2016
 
Green id airquality report_web_final
Green id airquality report_web_finalGreen id airquality report_web_final
Green id airquality report_web_final
 
Giới thiệu dự án – bộ công cụ duong thi lien nepcon
Giới thiệu dự án – bộ công cụ duong thi lien nepconGiới thiệu dự án – bộ công cụ duong thi lien nepcon
Giới thiệu dự án – bộ công cụ duong thi lien nepcon
 
Du an ced trinh bay 23092016
Du an ced trinh bay 23092016Du an ced trinh bay 23092016
Du an ced trinh bay 23092016
 
1. invitation letter to national business forum
1. invitation letter to national business forum1. invitation letter to national business forum
1. invitation letter to national business forum
 
2. noi dung dien dan doanh nghiep t9.2016 hanoi
2. noi dung dien dan doanh nghiep t9.2016 hanoi2. noi dung dien dan doanh nghiep t9.2016 hanoi
2. noi dung dien dan doanh nghiep t9.2016 hanoi
 
E newsletter Vol 01 16-09-2016 - final
E newsletter Vol 01 16-09-2016 - final E newsletter Vol 01 16-09-2016 - final
E newsletter Vol 01 16-09-2016 - final
 
Media monitoring vu anhminh_19 thang 5
Media monitoring vu anhminh_19 thang 5Media monitoring vu anhminh_19 thang 5
Media monitoring vu anhminh_19 thang 5
 
Media relations vu anhminh_20 thang 5
Media relations vu anhminh_20 thang 5Media relations vu anhminh_20 thang 5
Media relations vu anhminh_20 thang 5
 
Media studies vu anhminh_19 thang 5
Media studies vu anhminh_19 thang 5Media studies vu anhminh_19 thang 5
Media studies vu anhminh_19 thang 5
 

Thương mại gỗ tròn xẻ 2014 - 4 may 2015 - final

  • 1. Xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam năm 2014 Tô Xuân Phúc (Forest Trends) Huỳnh Văn Hạnh (Hội Gỗ Mỹ nghệ Thành phố Hồ Chí Minh) Trần Lê Huy (Hiệp hội Gỗ và Lâm Sản Bình Định) Cao Thị Cẩm (Hiệp hội Gỗ và Lâm Sản Việt Nam) Tháng 3 năm 2015
  • 2. 2 Mục lục Tóm tắt báo cáo ...........................................................................................................................................4 I. Giới thiệu.........................................................................................................................................7 II. Xuất nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam năm 2014......................................................................9 II.1 Nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ ..........................................................................................................9 II.2 Xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ .........................................................................................................10 III. Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam...............................................................12 III.1 Thị trường nhập khẩu gỗ tròn....................................................................................................12 III.2 Thị trường nhập khẩu gỗ xẻ.......................................................................................................15 IV. Các thị trường xuất khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam.....................................................................18 IV.1 Thị trường Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn.....................................................................................18 IV.2 Thị trường Việt Nam xuất khẩu gỗ xẻ........................................................................................19 V. Một số cửa khẩu chính trong thương mại gỗ tròn và xẻ của Việt Nam........................................21 V.1 Các cửa khẩu nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ chính của Việt Nam từ Lào.......................................22 V.2 Các cửa khẩu nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ chính của Việt Nam từ Campuchia ..........................24 V.3. Các cửa khẩu xuất khẩu gỗ tròn và xẻ từ Việt Nam sang Trung Quốc ......................................25 V.4. Các cửa khẩu chính Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và xẻ sang Hồng Kông...................................26 V.5. Các cửa khẩu chính Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và xẻ sang Đài Loan......................................26 V.6. Cửa khẩu với Hàn Quốc .............................................................................................................27 V.7 Cửa khẩu xuất khẩu đi Ấn Độ .....................................................................................................27 VI. Một số thảo luận.......................................................................................................................27 VII. Kết luận.....................................................................................................................................31
  • 3. 3 Danh sách các Bảng Bảng 1. Việt Nam nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ năm 2014 ................................................................9 Bảng 2. Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ năm 2014...............................................................10 Bảng 3.Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn lớn nhất của Việt Nam năm 2014......................................12 Bảng 4. Các loại gỗ tròn chính nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào năm 2014 ........................................13 Bảng 5. Các thị trường nhập khẩu gỗ xẻ lớn nhất của Việt Nam năm 2014........................................15 Bảng 6. Các loại gỗ xẻ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào năm 2014 ...................................16 Bảng 7. Các loại gỗ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Campuchia năm 2014 .............................17 Bảng 8. Các loại gỗ xẻ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Hoa Kỳ năm 2014...............................17 Bảng 9. Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn chính của Việt Nam năm 2014.........................................18 Bảng 10. Các thị trường nhập khẩu gỗ xẻ chính của Việt Nam năm 2014..........................................19 Bảng 11. Các loại gỗ xẻ chính Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam năm 2014 ....................................20 Bảng 12. Các cửa khẩu quốc tế chính nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ từ Lào vào Việt Nam năm 2014..........23 Danh sách các Hình Hình 1. Việt Nam nhập khẩu gỗ tròn và xẻ năm 2014...................................................................10 Hình 2. Lượng gỗ tròn và xẻ xuất khẩu của Việt Nam năm 2014.....................................................11 Hình 3. Tỷ trọng xuất - nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam năm 2014 .........................................11
  • 4. 4 Tóm tắt báo cáo Đến nay Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm chế biến trong chuỗi cung gỗ toàn cầu, với các sản phẩm gỗ chế biến của Việt Nam hiện đang được tiêu thụ tại trên 120 quốc gia và vùng lãnh thổ. Do Việt Nam không phải là quốc gia có nguồn cung gỗ nguyên liệu, đặc biệt là gỗ nhiệt đới có nguồn gốc từ rừng tự nhiên, ngành chế biến gỗ của Việt Nam hiện vẫn đang phụ thuộc tương đối lớn vào nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu, trong đó bao gồm các mặt hàng thuộc nhóm gỗ tròn và gỗ xẻ. Nhằm đánh giá tầm quan trọng của nguồn gỗ tròn và xẻ nhập khẩu đối với ngành chế biến, Báo cáo Xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam năm 2014 hình thành dựa trên nguồn dữ liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kết hợp với nguồn thông tin từ các Hiệp hội gỗ. Báo cáo phân tích tình hình xuất nhập khẩu các mặt hàng thuộc 2 nhóm gỗ này của Việt Nam năm 2014. Báo cáo góp phần trả lời câu hỏi về mức độ lệ thuộc của ngành chế biến đối với nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu. Bên cạnh đó, Báo cáo còn cung cấp thông tin về thực trạng xuất khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam, từ đó phần nào cho thấy bức tranh về tình hình tạm nhập tái xuất các mặt hàng này. Nhập khẩu gỗ tròn - xẻ năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 2 triệu m3 gỗ xẻ (tương đương với 2,8 triệu m3 gỗ quy tròn) và 1,4 triệu m3 gỗ tròn, từ 115 quốc gia và vùng lãnh thổ. Bình quân mỗi tháng Việt Nam nhập khẩu khoảng 350.000 m3 gỗ cả tròn và xẻ. Tổng giá trị nhập khẩu của cả gỗ tròn và xẻ đạt gần 1,72 tỉ USD, tương đương với khoảng 27,5% so với tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và các mặt hàng gỗ của Việt Nam trong cùng năm (6,23 tỉ USD). Giá trị kim ngạch nhập khẩu gỗ tròn trong năm đạt 0,5 tỉ USD, chiếm 41,6% giá trị kim ngạch nhập khẩu gỗ xẻ (1,2 tỉ USD). Đối với gỗ tròn, lượng cung từ 10 quốc gia có nguồn cung lớn nhất cho Việt Nam chiếm 1,15 triệu m3, chiếm 82% tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu vào Việt Nam. Việt Nam nhập khẩu một lượng lớn gỗ tròn từ Hoa Kỳ (khoảng 61.600m3), Đức (57.000m3) và Malaysia (212.300m3) – các quốc gia có tính hợp pháp của gỗ nguyên liệu thường rất cao. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn nhập khẩu một lượng lớn gỗ tròn từ các quốc gia trong Tiểu vùng sông Mê Kông, bao gồm Lào và Myanmar. Lượng cung gỗ tròn từ Lào trong năm lên tới 308.600m3 (đứng số 1 trong số 10 quốc gia có lượng cung lớn nhất) và từ Myanmar là 84.300m3 (đứng thứ 5). Gỗ tròn nhập khẩu từ Lào và Myanmar bao gồm một số loài gỗ quý như giổi, trắc, hương và tếch. Đối với gỗ xẻ, lượng cung từ 10 nước nhập khẩu gỗ xẻ nhiều nhất cho Việt Nam lên tới 1,65 triệu m3, tương đương 82% tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu. Trong số 10 quốc gia này, Lào có lượng cung lớn nhất, với hơn 495.000 m3, tiếp đến là Hoa Kỳ (gần 486.000), New Zealand (trên 155.700m3) và Campuchia (khoảng 153.500m3). Gỗ xẻ từ Lào và Campuchia thường là các loại gỗ quý như hương, trắc, cẩm, với mức giá nhập khẩu bình quân dao động khoảng 1.000 USD/m3. Gỗ xẻ nhập khẩu từ các quốc gia như Hoa Kỳ, New Zealand chủ yểu là sồi, dương, thông. Các loại gỗ này có mức giá thấp hơn nhiều so với các loại gỗ nhập khẩu từ Lào và Campuchia.
  • 5. 5 Xuất khẩu gỗ tròn - xẻ năm 2014 Tuy không phải là quốc gia sản xuất gỗ nguyên liệu đặc biệt là gỗ từ rừng tự nhiên, hàng năm Việt Nam vẫn xuất khẩu một lượng tương đối lớn gỗ nguyên liệu có nguồn gốc từ rừng tự nhiên. Điều này chỉ ra rằng gỗ tròn và xẻ Việt Nam xuất khẩu là gỗ có nguồn gốc từ nhập khẩu. Nói cách khác, gỗ tròn và xẻ xuất khẩu từ Việt Nam được thực hiện theo hình thức tạm nhập tái xuất. Đối với gỗ tròn, năm 2014 Việt Nam xuất khẩu khoảng 89.100m3 gỗ tròn, tương đương với 42,3 triệu USD về kim ngạch. Lượng gỗ tròn xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 6,2% tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu trong năm. Lượng gỗ tròn còn lại (1,39 triệu m3, chiếm 93,8% trong tổng lượng nhập khẩu) có thể được đưa vào chế biến, phục vụ thị trường nội địa hoặc xuất khẩu, hoặc cả hai. Cũng có thể một lượng gỗ tròn nhập khẩu hiện vẫn chưa được đưa vào chuỗi cung và đang được dự trữ bởi các doanh nghiệp. Các nước nhập khẩu gỗ tròn nhiều nhất của Việt Nam bao gồm Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Hồng Kông. Trong khi gỗ tròn nhập khẩu vào Ấn Độ chủ yếu là gỗ dầu, các loại gỗ chính được nhập khẩu vào Trung Quốc và Hồng Kông chủ yếu là trắc, hương, samu và tếch. Đối với gỗ xẻ, năm 2014 Việt Nam xuất khẩu gần 456.700m3, tương đương với 204,8 triệu USD về kim ngạch. Lượng gỗ xẻ xuất khẩu chiếm 22,7% tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam. Nói cách khác, khoảng 1,5 triệu m3 gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam (77,3% tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu) được đưa vào chế biến phục vụ thị trường trong nước hoặc xuất khẩu, hoặc cả hai. Có thể một phần trong lượng gỗ xẻ nhập khẩu hiện vẫn chưa được đưa vào lưu thông. Các nước nhập khẩu gỗ xẻ chính của Việt nam bao gồm Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông và Nhật Bản. Các loại gỗ xẻ chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu vào các thị trường này bao gồm gỗ cao su, hương, trắc, cẩm. Ý nghĩa về chính sách Việt Nam hàng năm vẫn phải nhập một lượng lớn gỗ tròn và xẻ phục vụ chế biến cho thấy mức độ phụ thuộc của ngành chế biến vào nguồn gỗ nhập khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu một lượng lớn gỗ nhập khẩu có nguồn gốc từ các quốc gia có các quy định chặt chẽ về tính hợp pháp của gỗ, bao gồm cả nguồn gỗ nguyên liệu có chứng chỉ là những tín hiệu tích cực cho ngành, thể hiện mức độ tuân thủ của các doanh nghiệp chế biến để đáp ứng các yêu cầu chặt chẽ về tính hợp pháp của nguồn gỗ nguyên liệu từ một số thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn nhập khẩu một lượng gỗ nguyên liệu từ các quốc gia nơi nguồn gốc gỗ vẫn còn nhiều tranh cãi cho thấy sự phát triển của ngành vẫnt tiềm ẩn nhiều rủi ro về mặt thị trường. Để có thể khẳng định ngành chế biến đang có những dịch chuyển trong việc
  • 6. 6 sử dụng gỗ nguyên liệu, bao gồm cả nguồn cung từ nhập khẩu từ các nguồn không rõ ràng về nguồn gốc sang các nguồn hợp pháp và bền vững đòi hỏi cần phải có những đánh giá theo chuỗi thời gian. Con số 115 quốc gia và vùng lãnh thổ cung cấp gỗ tròn và xẻ cho Việt Nam cho thấy tính phức tạp trong chuỗi cung gỗ của Việt Nam hiện nay. Đảm bảo các chuỗi cung sạch, với nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào hợp pháp đòi hỏi phải có các cơ chế kiểm soát hết sức hiệu quả, từ cả khía cạnh doanh nghiệp và các nhà quản lý. Thiết lập các các cơ chế này cũng đòi hỏi phải có những đầu tư thỏa đáng, về các khía cạnh kỹ thuật, tài chính và con người, đặc biệt trong bối cảnh phức tạp của nguồn cung gỗ đầu vào. Các doanh nghiệp chế biến và các cơ quan quản lý của Việt Nam cần có lộ trình và kế hoạch phù hợp nhằm kiểm soát hiệu quả chuỗi cung. Có thể nói một lượng lớn gỗ tròn và xẻ nhập khẩu vào Việt Nam được đưa vào chế biến, phục vụ thị trường trong nước hoặc xuất khẩu, hoặc cả hai, thể hiện tính hạn chế về hiệu quả của chính sách tạm dừng kinh doanh tậm nhập tái xuất gỗ tròn, gỗ xẻ từ rừng tự nhiên của Lào và Campuchia được Chính phủ ban hành trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, thực hiện chính sách trong thời gian vừa qua cũng có thể làm cho xuất khẩu nguyên liệu gỗ của Việt Nam có nguồn gốc từ nhập khẩu, bao gồm cả nguồn gỗ nhập khẩu từ Lào và Campuchia bị chững lại. Để khẳng định điều này cần phải có những so sánh về động thái xuất nhập khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ của Việt Nam trước và sau khi Chính sách được ban hành. Nếu Chính sách có mục tiêu làm tăng hiệu quả kinh tế và xã hội của nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu (thay vì gỗ nhập khẩu được tái xuất như trước kia, gỗ nhập khẩu được đưa vào chế biến sau đó xuất khẩu) thì hiệu quả của Chính sách là hạn chế, bởi một lượng lớn gỗ nguyên liệu nhập khẩu từ Lào và Campuchia hiện vẫn chưa được đưa vào chế biến. Báo cáo cũng chỉ ra những biến động lớn của một số thị trường xuất nhập khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ của Việt Nam, đặc biệt đối với thị trường Myanmar và Trung Quốc. Chính phủ Myanmar áp dụng chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn kể từ đầu năm 2014 làm cho cung gỗ từ nguồn này mất hoàn toàn. Hiện thị trường Trung Quốc vẫn đóng vai trò là động lực chính, thúc đẩy Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu gỗ nguyên liệu, bao gồm cả nguồn gỗ từ Lào và Campuchia. Những thay đổi lớn của nguồn cung nguyên liệu do những thay đổi về chính sách của quốc gia, hay việc lệ quá lớn vào thị trường Trung Quốc là các yếu tố gây bất ổn đến thương mại gỗ tròn và xẻ của các doanh nghiệp Việt Nam. Điều này đòi các doanh nghiệp tham gia thương mại các mặt hàng này cần phải có chiến lược nhằm giảm thiểu rủi ro do biến động của thị trường mang lại.
  • 7. 7 I. Giới thiệu Ngành chế biến gỗ của Việt Nam là một trong những ngành phát triển năng động nhất trong những năm vừa qua. Hiện ngành đang hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế, với các sản phẩm gỗ của Việt Nam đang có mặt tại khoảng 120 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ của Việt Nam đạt 6,23 tỉ đô la, nằm trong 5 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất của năm. Đến nay, Việt Nam có khoảng 4.200 doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào chế biến và thương mại gỗ; ngoài ra còn có hàng chục nghìn hộ gia đình với hàng trăm nghìn lao động đang hoạt động tại các làng nghề (Tô Xuân Phúc và cộng sự 2012). Các con số này không chỉ cho thấy ý nghĩa quan trọng của ngành gỗ về các khía cạnh kinh tế và xã hội. Việt Nam là một trong số ít nước trên thế giới có tính đặc thù khi tham gia vào chuỗi cung các sản phẩm gỗ toàn cầu - Việt Nam không phải là quốc gia sản xuất gỗ nguyên liệu trong khi kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ lại thuộc các nước có kim ngạch cao nhất tại Châu Á (chỉ sau Trung Quốc đối với mặt hàng đồ gỗ). Đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm chế biến đồ gỗ của Thế giới. Chính phủ Việt Nam hiện không cho phép khai thác gỗ từ rừng tự nhiên trừ phần diện tích đã được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững1. Nguồn gỗ rừng trồng trong nước ngày càng trở nên quan trọng, với lượng khai thác hàng năm lên tới 17-18 triệu m3 gỗ quy tròn (Tô Xuân Phúc và cộng sự 2014). Tuy nhiên, khoảng 70-80% lượng gỗ khai thác từ rừng trồng là gỗ nhỏ, do vậy được sử dụng làm nguyên liệu cho ngành chế biến dăm phục vụ xuất khẩu; phần còn lại (20-30%) được đưa vào chế đồ gỗ, ván ghép thanh, v.v. phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. Lượng cung gỗ nguyên liệu trong nước (chủ yếu là gỗ rừng trồng, còn lại là khoảng 2 triệu ha gỗ từ các vườn cao su thanh lý) không đủ đáp ứng nhu cầu chế biến. Do vậy, hàng năm Việt Nam phải nhập khoảng 4,2 triệu m3 gỗ nguyên liệu quy tròn từ 115 quốc gia và vùng lãnh thổ.2 Hàng năm Việt Nam nhập khẩu một khối lượng lớn gỗ nguyên liệu đã làm nảy sinh một số tranh luận về tầm quan trọng của nguồn gỗ nhập khẩu đối với với ngành chế biến gỗ của Việt Nam nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Một số nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng 70% nguyên liệu cho ngành chế biến (Trần Hữu Nghị và Nguyễn Tôn Quyền 2011). Tuy nhiên, trong thời gian gần đây các cơ quan quản lý thường đưa ra con số là khoảng 50-60%. Sự khác nhau về con số liên quan đến tỷ trọng gỗ nguyên liệu nhập khẩu phần nào phản ánh sự thiếu hụt thông tin về lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu, lượng gỗ được tiêu thụ tại thị trường nội địa và lượng gỗ xuất khẩu nằm trong các sản phẩm đã được chế biến (Tô Xuân Phúc và cộng sự 2014). 1 Đến nay Việt nam có khoảng 48.800 ha rừng tự nhiên đã được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, trong đó diện tích thuộc Công ty Lâm nghiệp Đắc Tô là 15.700 ha, và diện tích của Công ty Long Đại là 33.149 ha (Nguồn: FSC 2015). 2 Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu khoảng 2 triệu m3 gỗ xẻ (tương đương với 2,8 triệu m3 gỗ quy tròn) và 1,4 triệu m3 gỗ tròn.
  • 8. 8 Các tranh luận về tầm quan trọng của nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu không làm giảm được mối quan tâm lớn của các cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp hiện nay. Một số cơ quan quản lý cho rằng phụ thuộc vào nguồn cung gỗ nguyên liệu từ bên ngoài làm cho ngành chế biến không chủ động trong sản xuất kinh doanh, và điều này thể hiện tính không bền vững trong phát triển của ngành. Theo các nhà quản lý, để ngành phát triển bền vững nguồn cung gỗ rừng trồng trong nước cần phải được đẩy mạnh, từng bước thay thế nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu. Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp của Việt Nam đề ra mục tiêu đến 2020 lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu sẽ chỉ còn 30% trong tổng lượng gỗ nguyên liệu phục vụ chế biến và 70% lượng còn lại sẽ được đáp ứng bởi nguồn cung gỗ rừng trồng trong nước (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2006). Tuy nhiên, một số doanh nghiệp lại cho rằng trong nền kinh tế hội nhập toàn cầu, với mỗi quốc gia có thể chỉ đóng vai trò trong những khâu nhất định của chuỗi cung. Do vậy, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu không nhất thiết phản ánh tính không bền vững trong phát triển của ngành. Tuy nhiên, các theo các doanh nghiệp này, vấn đề quan trọng là làm thế nào để có những cơ chế hiệu quả nhằm đảm bảo tính hợp pháp của nguồn gỗ nhập khẩu, từ đó giảm rủi ro cho các doanh nghiệp khi tham gia chuỗi cung toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh các quy định của thị trường xuất khẩu càng ngày càng chặt chẽ hơn về mặt nguồn gốc và tính hợp pháp của gỗ nguyên liệu. Gỗ tròn và gỗ xẻ là 2 nhóm mặt hàng gỗ nguyên liệu quan trọng nhất được nhập khẩu vào Việt Nam. Dựa trên dữ liệu thống kê của Tổng cục Hải quan năm 2014, Báo cáo mô tả thực trạng xuất nhập khẩu đối với 2 nhóm mặt hàng này. Các mặt hàng thuộc nhóm gỗ tròn (mã Hải quan HS 4403) (sau đây được gọi tắt là gỗ tròn) bao gồm gỗ cây đã hoặc chưa bóc vỏ hoặc dác gỗ hoặc đẽo vuông thô. Các mặt hàng thuộc nhóm gỗ xẻ (HS 4407) (gỗ xẻ) bao gồm gỗ đã cưa xẻ theo chiều dọc, lạng hoặc bóc, đã hoặc chưa bào, đánh giấy ráp hoặc ghép nối đầu, có bề dầy trên 6 mm. Chi tiết các loại gỗ trong mỗi nhóm được mô tả tại website của Tổng cục Hải quan theo địa chỉ http://www.customs.gov.vn/SitePages/Tariff.aspx. Báo cáo này chỉ tập trung mô tả thực trạng xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam năm 2014. Những thay đổi về xuất nhập khẩu 2 nhóm mặt hàng này trong giai đoạn 2012 - 2014 nằm trong khuôn khổ của một báo cáo khác đang được soạn thảo bởi nhóm tác giả. Mối quan hệ tương tác giữa xuất khẩu và nhập khẩu đối với mặt hàng gỗ tròn và xẻ của Việt Nam chỉ ra một số khía cạnh quan trọng có liên quan đến các chính sách về thương mại gỗ như tạm nhập tái xuất, thay đổi của thị trường và nỗ lực của Chính phủ và doanh nghiệp trong việc kiểm soát tính hợp pháp của nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu. Báo cáo được chia làm 7 phần chính. Sau phần Giới thiệu (Phần I), phần Tổng quan (Phần II) mô tả những nét chính về thị trường xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ, thể hiện qua các con số về kim ngạch và lượng xuất nhập khẩu được phân theo các thị trường. Phần III đi sâu vào thị trường nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ chính của Việt Nam; trong khi Phần IV mô tả các thị trường xuất khẩu chính. Trong Phần V, Báo cáo trình bày hoạt động xuất nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam qua các kênh nhập khẩu khác nhau. Phần VI (Thảo luận) đưa ra một số
  • 9. 9 nhận xét về mối quan hệ giữa thực trạng xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam với các chính sách hiện hành của quốc gia và và của một số quốc gia khác có liên quan. Phần VII kết luận kết thúc báo cáo. II. Xuất nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam năm 2014 II.1 Nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ Trong năm 2014, Việt Nam nhập khẩu tổng 2 triệu m3 gỗ xẻ (tương đương 2,8 triệu m3 gỗ quy tròn) và 1,4 triệu m3 gỗ tròn. Giá trị kim ngạch nhập khẩu của 2 mặt hàng này đạt gần 1,72 tỉ USD. Nếu so với tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2014 (6,23 tỉ USD), giá trị kim ngạch nhập khẩu gỗ tròn và xẻ tương đương với 27,5%. Bảng 1 thể hiện số lượng và kim ngạch nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam. Bảng 1. Việt Nam nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ năm 2014 Gỗ tròn Gỗ xẻ Tổng gỗ tròn và xẻ Số lượng (m3) Giá trị (triệu USD) Số lượng (m3) Giá trị (triệu USD) Số lượng (m3) Giá trị (triệu USD) 1.424.567 505,7 2.006.675 1.212,86 3.431.242 1.718,6 Lượng gỗ xẻ nhập khẩu cao gấp 1,4 lần lượng gỗ tròn nhập khẩu. Tổng kim ngạch gỗ xẻ nhập khẩu cao gấp 2,4 lần kim ngạch gỗ tròn nhập khẩu. Bình quân mỗi m3 gỗ tròn nhập khẩu giá khoảng 355 USD; mỗi m3 gỗ xẻ nhập khẩu giá giá 604 USD. Nói cách khác, gỗ xẻ nhập khẩu thường là các loại gỗ có giá trị cao hơn gỗ tròn nhập khẩu. Trong năm 2014 bình quân mỗi tháng Việt Nam nhập khẩu gần 350.000m3 gỗ quy tròn cho cả 2 loại tròn và xẻ. Hình 1 thể hiện sự thay đổi về lượng gỗ tròn và gỗ xẻ mà Việt Nam nhập khẩu.
  • 10. 10 Hình 1. Việt Nam nhập khẩu gỗ tròn và xẻ năm 2014 II.2 Xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ Mặc dù Chính phủ Việt Nam không khuyến khích xuất khẩu gỗ nguyên liệu3, năm 2014 các doanh nghiệp của Việt Nam xuất khẩu trên 545.000m3 gỗ cả tròn và xẻ, tương đương với 247 triệu USD về kim ngạch (Bảng 2). Bảng 2. Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ năm 2014 Gỗ tròn Gỗ xẻ Tổng gỗ tròn và xẻ Số lượng (m3) Giá trị (triệu USD) Số lượng (m3) Giá trị (triệu USD) Số lượng (m3) Giá trị (triệu USD) 89.157 42,3 456.696 204,8 545.853 247,1 Do Việt Nam không phải là quốc gia sản xuất gỗ nguyên liệu, toàn bộ nguồn gỗ tròn và một số lượng lớn gỗ xẻ xuất khẩu từ Việt Nam có nguồn gốc từ nhập khẩu. Một số ý kiến cho rằng có thể Việt Nam xuất khẩu gỗ cao su có nguồn gốc từ trong nước. Tuy nhiên, mặc dù lượng cung gỗ cao su của Việt Nam tương đối lớn, lượng gỗ cao su xuất khẩu chiếm tỉ trọng rất nhỏ so với lượng gỗ cao su nhập khẩu. Trong năm 2014 xuất khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam có nhiều biến động (Hình 2) 3 Định hướng này đã được thể hiện rất rõ trong các cơ chế chính sách của Chính phủ, bao gồm Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp đến 2020, Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp (2013), Quy hoạch ngành Chế biến gỗ (2010).
  • 11. 11 Hình 2. Lượng gỗ tròn và xẻ xuất khẩu của Việt Nam năm 2014 Tổng lượng gỗ tròn và xẻ Việt Nam xuất khẩu tương đương 15,9% tổng lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu. Điều này có nghĩa rằng 84,1% lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu vào Việt Nam được chế biến ở trong nước, phục vụ thị trường nội địa hoặc thị trường xuất khẩu, hoặc cả hai. Cũng có thể có phần nào đó của lượng gỗ nhập khẩu hiện vẫn chưa được đưa vào lưu thông và đang được dự trữ bởi các doanh nghiệp. Lượng gỗ tròn xuất khẩu chỉ chiếm 6,3% trong tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu. Lượng gỗ xẻ xuất khẩu chiếm 22,7% tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu. Đến nay vẫn chưa có đánh giá về tỷ trọng của lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu đưa vào chế biến phục vụ thị trường nội địa và/hoặc thị trường xuất khẩu, và tỷ trọng lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu chưa được đưa vào lưu thông. Hình 3 chỉ ra sự khác nhau về lượng giữa xuất - nhập khẩu gỗ tròn và xẻ năm 2014. Hình 3. Tỷ trọng xuất - nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam năm 2014
  • 12. 12 Bình quân mỗi m3 gỗ tròn xuất khẩu có giá là 474 USD; mỗi m3 gỗ xẻ xuất khẩu có giá là 507 USD. Hộp 1 chỉ ra động lực về giá xuất nhập khẩu. III. Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam III.1 Thị trường nhập khẩu gỗ tròn Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu gỗ tròn từ 78 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm:  Châu Âu: 21 quốc gia và vùng lãnh thổ  Châu Phi: 19 quốc gia và vũng lãnh thổ  Châu Á: 17 quốc gia và vùng lãnh thổ  Châu Mỹ La Tinh: 15 quốc gia và vùng lãnh thổ  Châu Đại Dương: 4 quốc gia và vùng lãnh thổ  Bắc Mỹ: 2 quốc gia Trong cùng năm, Việt Nam nhập khẩu khoảng 1,4 triệu m3 gỗ tròn. Bảng 3 thể hiện số lượng và giá trị kim ngạch gỗ tròn mà Việt Nam nhập khẩu từ 10 quốc gia đứng đầu. Bảng 3.Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn lớn nhất của Việt Nam năm 2014 Stt Thị trường Lượng nhập (m3) Giá trị (triệu USD) 1 Lào 308.647 149,5 2 Malaysia 212.342 34,5 3 Cameroon 190.863 91,2 4 UruGuay 93.306 15,2 5 Myanmar 84.306 44,7 6 Papua New Guinea 66.136 10,9 Hộp 1. Giá xuất - nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam Đối với mỗi m3 gỗ tròn, giá nhập khẩu vào Việt Nam ở mức bình quân 355 USD/m3, cao hơn 119 USD đối với mỗi m3 xuất khẩu. Đối với gỗ xẻ, giá mỗi m3 xuất khẩu bình quân ở mức 507 USD, thấp hơn 97 USD so với giá nhập khẩu. Đối với gỗ tròn, toàn bộ lượng xuất khẩu có nguồn gốc từ nhập khẩu và sự chênh lệch giữa mức giá xuất khẩu và nhập khẩu thể hiện các chi phí và lãi xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với gỗ xẻ, giá xuất khẩu thấp hơn giá nhập khẩu có thể do loại gỗ xẻ xuất khẩu của Việt Nam khác với chủng loại gỗ xẻ nhập khẩu, hoặc giá xuất khẩu của gỗ xẻ của không phản ánh đúng giá thị trường. Sự phức tạp trong cơ cấu giá xuất nhập khẩu cho thấy các bên liên quan cần thận trọng trong việc sử dụng các thông tin về giá trong việc ra quyết định.
  • 13. 13 7 Hoa Kỳ 61.628 27,4 8 Đức 57.071 15,8 9 Bỉ 49.595 13,4 10 Nigeria 31.797 15,0 Tổng số 10 nước 1.155.692 417,6 Lượng gỗ tròn nhập từ 10 quốc gia đứng đầu là 1,15 triệu m3, chiếm trên 82% tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu vào Việt Nam. Một số thị trường chính phân theo loại gỗ tròn nhập khẩu Lào Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 308.647m3 gỗ tròn từ Lào, chiếm 21,5% trong tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu vào Việt Nam, tương đương với 149,5 triệu USD về kim ngạch. Bảng 4 thể hiện 10 loại gỗ tròn nhập khẩu nhiều nhất vào Việt Nam từ Lào năm 2014. Bảng 4. Các loại gỗ tròn chính nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào năm 2014 Loại gỗ Lượng nhập (m3) Dầu 40.888 Giổi 36.254 Trắc 24.251 Gụ 22.371 Sến 18.750 Táu 17.923 Hương 15.703 Kiền kiền 13.130 Chò 11.621 Sao 10.273 Myanmar Tổng lượng gỗ tròn Việt Nam nhập khẩu từ Myanmar năm 2014 là 84.305m3, tương đương với gần 44,7 triệu USD về kim ngạch. Căm xe là loại gỗ được nhập khẩu nhiều nhất, với lượng nhập lên tới 71.154m3, tương đương gần 85% trong tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu từ quốc gia này. Tuy nhiên, từ tháng 7 năm 2014 nhập khẩu gỗ tròn từ Myanmar vào Việt Nam chấm dứt bởi chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn của Chính phủ Myanmar, bắt đầu có hiệu lực từ 31 tháng 3 năm 2014.4 Gỗ tròn từ Myanmar vẫn được nhập khẩu vào Việt Nam cho tới tháng 7 năm 2014, 4 tháng sau khi lệnh cấm có hiệu lực, bởi Chính phủ Myanmar vẫn cho phép thực hiện các hợp đồng đã được ký kết trước đó. Kết quả của chính sách cấm xuất 4 Thông tin về lệnh cấm của Chính phủ có thể tham khảo tại một số website như http://news.mongabay.com/2014/0424-morgan-myanmar-ban.html, hoặc http://www.ibtimes.com/myanmar-imposes-export-ban-stop-its-timber-foreign-exploitation-goal-establish- domestic-wood-1565294
  • 14. 14 khẩu gỗ tròn của Myanmar dẫn đến lượng nhập khẩu vào Việt Nam từ nguồn này giảm từ trên 20.000m3/tháng trong khoảng từ tháng 3 đến 5 xuống còn khoảng 1.000m3 trong tháng 6 và dừng hẳn trong tháng 7. Việc mất nguồn cung gỗ tròn từ Myanmar trong bối cảnh nguồn cung gỗ xẻ từ nguồn này hầu như chưa hình thành (xem phần gỗ xẻ nhập khẩu từ Myamnar phía dưới) đòi hỏi cần phải có nguồn cung thay thế. Các loại gỗ tròn mà Việt Nam nhập khẩu từ Myanmar chủ yếu căm xe, chiêu liêu, và tếch. Nguồn cung thay thế thuận lợi nhất cho Việt Nam là từ Lào và Campuchia. Điều này có nghĩa rằng có thể trong tương lai lượng gỗ tròn nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào và Campuchia, đặc biệt đối với các loại gỗ tương tự như từ nguồn Myanmar, sẽ tăng. Malaysia Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 180.482m3 gỗ tròn từ Malaysia, tương đương 28 triệu USD về kim ngạch. Khoảng 85.000m3 là gỗ MLH (gỗ tạp thuộc nhóm gỗ từ 5 đến 8), chiếm gần 53% trong tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu. Lượng gỗ thích nhập khẩu từ thị trường này khoảng 30.500m3, tương đương 16% trong tổng khối lượng. Lượng gỗ keo nhập khẩu là 22.100m3, chiếm 12% trong tổng khối lượng. Các loại gỗ nhập khẩu từ Malaysia thường có giá trị thị trường không cao, chủ yếu được sử dụng làm ván sàn và các loại tủ. Cameroon Trong những năm gần đây, Cameroon đã trở thành nguồn cung gỗ tròn quan trọng nhất của Việt Nam tại Châu Phi. Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 189.298m3 gỗ tròn từ Cameroon, tương đương 90 triệu USD về kim ngạch. Gỗ lim chiếm số lượng lớn nhất, khoảng 171.806m3, tương đương 90% trong tổng lượng nhập khẩu. Ngoài ra Việt Nam còn nhập khẩu một lượng nhỏ gỗ sến (9.560m3), gỗ xoan (2.360m3), và gỗ hương (2.067m3) từ quốc gia này. Năm 2014 Việt Nam nhập 650m3 gỗ cẩm và mun từ Cameroon. Uruguay Uruguay cũng là một trong những thị trường cung gỗ tròn quan trọng cho Việt Nam. Năm 2014, Việt Nam nhập khẩu khoảng 93.300m3 từ nguồn này, với toàn bộ là gỗ bạch đàn. Tổng giá trị gỗ nhập khẩu từ thị trường này khoảng trên 15 triệu USD. Hoa Kỳ Năm 2014 Hoa Kỳ cung cấp gần 61.628m3 gỗ tròn cho Việt Nam, tương đương với 27,4 triệu USD về kim ngạch. Sồi là loại gỗ chiếm tỉ trọng cao nhất về lượng nhập khẩu, với 30.428m3
  • 15. 15 (52% trong tổng lượng nhập khẩu từ nguồn này). Tần bì, thông, anh đào là 3 loại gỗ tròn khác có lượng nhập tương đối lớn, tương ứng với 8.346m3, 5.286m3 và 4.716m3. Các loại gỗ tròn được nhập khẩu từ Hoa Kỳ được đưa vào chế biến tại Việt Nam và xuất khẩu ngược lại thị trường này và thị trường Châu Âu. III.2 Thị trường nhập khẩu gỗ xẻ Trong năm 2014 Việt Nam nhập khẩu gỗ xẻ từ 96 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm:  Châu Âu: 30 quốc gia và vùng lãnh thổ  Châu Á: 22 quốc gia và vùng lãnh thổ  Châu Phi: 22 quốc gia và vùng lãnh thổ  Châu Mỹ La Tinh: 16 quốc gia và vùng lãnh thổ  Châu Đại Dương: 4 quốc gia và vùng lãnh thổ  Bắc Mỹ: 2 quốc gia Bảng 4 liệt kê 10 quốc gia có lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam lớn nhất trong năm 2014. Tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu từ 10 quốc gia này năm 2014 là hơn 1,65 triệu m3, chiếm trên 82% tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam. Bảng 5. Các thị trường nhập khẩu gỗ xẻ lớn nhất của Việt Nam năm 2014 Stt Thị trường Lượng (m3) Giá trị (triệu USD) 1 Lào 495.126 410,0 2 Hoa Kỳ 485.884 214,2 3 New Zealand 155.719 47,7 4 Campuchia 153.547 256,5 5 Chile 138.159 38,5 6 Brazil 85.749 27,8 7 Đức 43.835 18,5 8 Phần Lan 36.076 10,9 9 Gabon 31.437 24,1 10 Colombia 27.349 7,8 Tổng 10 nước 1.652.881 1.055,8 Việt Nam nhập khẩu một lượng lớn gỗ xẻ từ các quốc gia nơi gỗ có tính hợp pháp cao như Mỹ, New Zealand và một số nước Châu Âu.
  • 16. 16 Lượng gỗ xẻ mà Việt Nam nhập khẩu từ Lào và Campuchia vẫn chiếm tỉ trọng lớn. Năm 2014 tổng lượng gỗ xẻ Việt Nam nhập khẩu từ 2 quốc gia này lên tới 648.673m3, chiếm 32,3% trong tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam trong cùng năm. Bình quân 1m3 gỗ từ xẻ nhập khẩu từ Lào có giá 828 USD. Mỗi m3 gỗ xẻ nhập khẩu từ Hoa Kỳ giá 440 USD. Mỗi m3 gỗ xẻ nhập khẩu từ Campuchia có mức giá trung bình 1.670 USD, cao nhất so với mức giá nhập khẩu từ các quốc gia khác. Mặc dù lượng gỗ xẻ nhập khẩu từ Campuchia chỉ đứng thứ 4 về lượng, kim ngạch nhập khẩu gỗ xẻ từ thị trường này lại đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng. Mức giá khác nhau của các loại gỗ phần nào phản ánh giá trị các loại gỗ nhập khẩu vào Việt Nam từ các quốc gia này. Nói cách khác, gỗ nhập khẩu từ Campuchia là các loại gỗ từ rừng tự nhiên, có giá trị cao hơn gỗ nhập khẩu từ Lào, và cao hơn nhiều so với các loại gỗ nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Phần dưới đây sẽ mô tả một số nguồn cung chủ yếu gỗ xẻ cho Việt Nam năm 2014. Lào Lào là quốc gia cung cấp một lượng gỗ xẻ lớn nhất cho Việt Nam năm 2014, với gần 500.000m3. Bảng 5 chỉ ra 10 loại gỗ xẻ lớn nhất được nhập khẩu từ Lào trong cùng năm. Bảng 6. Các loại gỗ xẻ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào năm 2014 Loại gỗ Lượng nhập (m3) Hương 176.158 Cẩm 58.725 Gụ 44.782 Kiền kiền 24.401 Giổi 21.907 Gõ 19.787 Xoan 19.196 Trò 18.610 Lim 18.487 Nghiến 10.474 Campuchia Toàn bộ lượng gỗ được nhập khẩu từ Campuchia vào Việt Nam là gỗ xẻ. Đây là kết quả của chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn của chính phủ Campuchia được thực hiện từ cuối thập kỷ 90.5 Năm 2014, Việt Nam nhập khẩu 153.547m3 gỗ xẻ từ Campuchia, tương đương với 5 Thông tin chi tiết về các chính sách lâm nghiệp của Campuchia có liên quan đến sản xuất và thương mại gỗ, bao gồm cả chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn có thể tham khảo tại nguồn Báo cáo “An overview of forest products statistics in South and Southeast Asia’ của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) và Cộng đồng Châu Âu (EU) (ftp://ftp.fao.org/docrep/fao/005/AC778E/AC778E00.pdf), và Báo cáo “Timber trade and wood
  • 17. 17 256,5 triệu USD về kim ngạch. Bảng 6 chỉ ra các loại gỗ chính được nhập khẩu từ Campuchia vào Việt Nam. Bảng 7. Các loại gỗ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Campuchia năm 2014 Loại gỗ Lượng nhập (m3) Hương 74.152 Căm xe 23.890 Điều 19.959 Cẩm 14.679 Trắc 5.969 Gõ 3.513 Cao su 3.092 Hoa Kỳ Hoa Kỳ cũng là một trong những nguồn cung gỗ xẻ quan trọng nhất của Việt Nam. Năm 2014, Việt Nam nhập khẩu 485.884m3 gỗ xẻ từ nguồn này, tương đương với 214,2 triệu USD về kim ngạch. Bảng 7 chỉ ra các loại gỗ xẻ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Hoa Kỳ. Bảng 8. Các loại gỗ xẻ chính được nhập khẩu vào Việt Nam từ Hoa Kỳ năm 2014 Loại gỗ Lượng nhập (m3) Dương 284.374 Sồi 93.189 Trăn xe 26.520 Thông 25.136 Tần bì 14.219 Óc chó 12.761 Thích 4.629 Các loại gỗ xẻ được nhập khẩu từ Hoa Kỳ được đưa vào chế biến và xuất khẩu ngược lại thị trường này và các thị trường khác như tại EU. New Zealand Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 155.719m3 gỗ xẻ từ New Zealand, tương đương với 47,7 triệu USD về kim ngạch. Hầu hết (99,7%) gỗ nhập khẩu là gỗ thông. Brazil Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 85.749m3 gỗ xẻ từ Brazil, tương đương với 27,8 triệu USD về kim ngạch. Thông và bạch đàn là 2 loại gỗ chính được nhập khẩu từ thị trường này, với flows study: Cambodia” (http://www.mekonginfo.org/assets/midocs/0002312-environment-timber-trade-and- wood-flow-study-cambodia.pdf)
  • 18. 18 lượng nhập chiếm trên 96% tổng lượng gỗ nhập khẩu. Lượng gỗ thông nhập khẩu chiếm tỉ lệ lớn nhất (47.408m3), tiếp đến là bạch đàn (35.511m3). IV. Các thị trường xuất khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam Mặc dù Việt Nam không sản xuất gỗ nguyên liệu, lượng gỗ tròn và gỗ xẻ xuất khẩu của Việt Nam năm 2014 tương đối lớn, với trên 89.000m3 gỗ tròn và 456.696m3 gỗ xẻ. IV.1 Thị trường Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn Năm 2014 Việt Nam xuất khẩu 89.157m3 gỗ tròn, tương đương với khoảng 42,2 triệu USD về kim ngạch. Bảng 5 chỉ ra các thị trường nhập khẩu gỗ tròn chính của Việt Nam. Bảng 9. Các thị trường nhập khẩu gỗ tròn chính của Việt Nam năm 2014 Stt Thị trường nhập khẩu Lượng (m3) Giá trị (triệu USD) 1 Ấn Độ 42.022 13,9 2 Hàn Quốc 14.721 1,0 3 Đài Loan 9.811 1,5 4 Trung Quốc 8.915 12,5 5 Hồng Kông 8.305 11,3 6 Bangladesh 2.883 0,77 7 Ả Rập Thống nhất 1.427 0,07 8 Nhật Bản 1.005 2,1 Lượng gỗ tròn mà Việt Nam xuất khẩu nhỏ, chỉ chiếm 6,2% trong tổng lượng gỗ tròn nhập khẩu. Lượng gỗ tròn nhập khẩu còn lại (93,8%, tương đương với 1,33 triệu m3) có thể được đưa vào chế biến phục vụ thị trường trong nước hoặc xuất khẩu, hoặc cả hai. Cũng có thể có một lượng gỗ từ nguồn này hiện chưa được đưa vào chế biến. Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Hồng Kông là các thị trường nhập khẩu gỗ tròn lớn nhất của Việt Nam. Do Việt Nam không có nguồn gỗ tròn phục vụ xuất khẩu, có thể nói hầu hết gỗ tròn xuất khẩu từ Việt Nam có nguồn gốc từ nhập khẩu. Việt Nam có thể xuất một lượng gỗ cao su có nguồn gốc từ các khu rừng cao su thanh lý tại Việt Nam và gỗ tràm, nhưng lượng xuất nếu có là rất nhỏ. Năm 2014 mỗi m3 gỗ tròn xuất khẩu của Việt Nam có mức giá bình quân gần 474 USD. Phần dưới mô tả các thị trường nhập khẩu gỗ tròn chính của Việt Nam:
  • 19. 19 Ấn Độ Trong số các nước nhập khẩu gỗ tròn của Việt Nam, Ấn Độ là quốc gia nhập khẩu nhiều nhất, với lượng nhập năm 2014 lên tới 42.000m3. Các loại gỗ chính mà Ấn Độ nhập khẩu từ Việt Nam bao gồm:  Dầu 29.013m3  Keo 6.922m3  Chò 5.724m3 Đài Loan Năm 2014 Đài Loan nhập khẩu 9.811m3 gỗ tròn từ Việt Nam. Các loại gỗ chính bao gồm:  Sa mu 3.692m3  Cao su 2.850m3  Tràm 2.800m3 Trung Quốc Năm 2014 tổng lượng gỗ tròn Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam là 8.845m3. Các loại gỗ chính bao gồm:  Trắc 3.742m3  Sa mu 2.101m3  Hương 1.386m3 Hồng Kông Năm 2014 Hồng Kông nhập khẩu 8.305m3 gỗ tròn từ Việt Nam. Các loại gỗ chính bao gồm:  Hương 5.879m3  Trắc 2.156m3  Tếch 153m3 IV.2 Thị trường Việt Nam xuất khẩu gỗ xẻ Năm 2014 Việt Nam xuất khẩu gỗ xẻ tới 24 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng lượng xuất khẩu lên đến 456.696m3, tương đương gần 231,8 triệu USD về kim ngạch. Năm 2014 lượng gỗ xẻ Việt Nam xuất khẩu chiếm 22,7% tổng lượng gỗ xẻ Việt Nam nhập khẩu. Bình quân gỗ xẻ xuất khẩu của Việt Nam có mức giá gần 508 USD/m3. Chủ yếu lượng gỗ xẻ xuất khẩu từ Việt Nam có nguồn gốc từ nhập khẩu. Bảng 6 thể hiện 5 thị trường nhập khẩu gỗ xẻ lớn nhất của Việt Nam. Bảng 10. Các thị trường nhập khẩu gỗ xẻ chính của Việt Nam năm 2014 Stt Thị trường Lượng (m3) Giá trị (triệu USD) 1 Trung Quốc 257.034 146,2 2 Đài Loan 84.413 13,4 3 Hàn Quốc 72.964 8,4 4 Hồng Kông 33.155 54,4 5 Nhật Bản 6.908 7,8
  • 20. 20 Phần dưới đây mô tả các thị trường nhập khẩu gỗ xẻ chính của Việt Nam Trung Quốc Trung Quốc là quốc gia nhập khẩu gỗ xẻ lớn nhất của Việt Nam, với 256.446m3 gỗ xẻ được nhập khẩu từ Việt Nam vào quốc gia này năm 2014, tương đương với gần 145,9 triệu USD về kim ngạch. Bảng 7 liệt kê các loại gỗ xẻ chính mà Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam. Bảng 11. Các loại gỗ xẻ chính Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam năm 2014 Loại gỗ Lượng (m3) Cao su 151.663 Hương 77.332 Cẩm 19.739 Keo 3.616 Trắc 2.662 Đài loan Lượng gỗ xẻ mà Đài Loan nhập khẩu từ Việt Nam năm 2014 lên tới 84.271m3, tương đương với khoảng 13,3 triệu USD về kim ngạch. Khoảng gần 93% trong tổng lượng gỗ xẻ mà Đài Loan nhập khẩu là gỗ keo (78.061m3), còn lại là gỗ pơ mu (2.033m3), sa mu (1.711m3) và một số loại gỗ khác. Lượng gỗ keo mà Việt Nam xuất khẩu sang Đài Loan có nguồn gốc từ rừng trồng của Việt Nam; giá xuất khẩu bình quân của mỗi m3 khoảng 134 USD. Hàn Quốc Năm 2014 Hàn Quốc nhập khẩu 72.926m3 gỗ xẻ từ Việt Nam, tương đương với 8,4 triệu USD về kim ngạch. Trên 98% lượng gỗ xẻ nhập khẩu (71.910m3) là gỗ keo. Ngoài ra, Hàn Quốc còn nhập khẩu một lượng nhỏ gỗ cao su (673m3) và gỗ quế (101m3) từ Việt Nam. Hồng Kông Năm 2014 lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Hồng Kông từ Việt Nam khoảng 33.155m3, tương đương với 54,4 triệu USD về kim ngạch. Gỗ hương và gỗ cẩm là 2 loại gỗ chính được nhập khẩu từ Việt Nam vào Hồng Kông, với lượng nhập của 2 loại gỗ này chiếm trên 98% tổng lượng gỗ xẻ được nhập khẩu vào thị trường này. Cụ thể:  Gỗ hương: 23.947m3  Gỗ cẩm: 8.625m3 Nhật Bản Năm 2014 Nhật Bản nhập khẩu khoảng 6.904m3 gỗ xẻ từ Việt Nam, bao gồm 2 loại gỗ chính:  Gỗ hương: 4.407m3  Gỗ cẩm: 1.011m3
  • 21. 21 Hiện có một số lượng lớn doanh nghiệp của Việt Nam tham gia vào xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, bao gồm cả mặt hàng gỗ tròn và xẻ. Hộp 2 thể hiện số lượng các doanh nghiệp của tham gia vào thương mại gỗ và sản phẩm gỗ tại các thị trường quan trọng của Việt Nam. Đối với các thị trường như Hồng Kông, Lào và Campuchia hầu hết các doanh nghiệp của Việt Nam tham gia các thị trường này đều là các doanh nghiệp tham gia vào xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ. Đặc biệt, số doanh nghiệp Việt Nam tham gia nhập khẩu gỗ từ Lào lên tới gần 500, cao hơn nhiều so với số doanh nghiệp tham gia các thị trường khác như Hồng Kông và Campuchia. Điều này lý giải tại sao lượng gỗ nhập khẩu từ Lào vào Việt Nam có số lượng cao nhất so so với lượng nhập từ các quốc gia khác. Phần V dưới đây mô tả một số cửa khẩu quan trọng trong thương mại gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam. V. Một số cửa khẩu chính trong thương mại gỗ tròn và xẻ của Việt Nam Nghị định 112/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2014 bởi Thủ tướng Chính phủ quy định 4 loại cửa khẩu biên giới đất liền, bao gồm cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính (hay còn được gọi là cửa khẩu song phương), cửa khẩu phụ và lối mở biên giới. Hộp 3 trích từ Điều 4 của Nghị định, quy định chức năng của các cửa khẩu. Hộp 2. Doanh nghiệp của Việt Nam tham gia vào thương mại gỗ với một số thị trường quan trọng năm 2014  726 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang Trung Quốc. Con số này bao gồm các công ty tham gia xuất khẩu gỗ tròn và xẻ.  195 doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang Hồng Kông  549 doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩmg gỗ sang Nhật Bản  374 doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang Đài Loan  492 doanh nghiệp nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ từ Lào  123 doanh nghiệp nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ từ Campuchia
  • 22. 22 Cùng có chung đường biên với Việt Nam, các cửa khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia Lào, Campuchia và Trung Quốc đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc lưu thông hàng hóa, bao gồm của gỗ tròn và gỗ xẻ.6 Phần dưới đây mô tả thương mại gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam được thực hiện qua các loại cửa khẩu đường biên với các nước. V.1 Các cửa khẩu nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ chính của Việt Nam từ Lào Như trên đã đề cập, năm 2014 Việt Nam nhập tổng số 803.772m3 gỗ cả tròn và xẻ từ Lào, trong đó lượng gỗ xẻ chiếm 308.647m3, còn lại là gỗ tròn. Lượng gỗ này được nhập khẩu qua 4 loại cửa khẩu như sau: Cửa khẩu Quốc tế 618.063m3 gỗ cả tròn và xẻ, tương đương với gần 77% tổng lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào được nhập khẩu thông qua 8 cửa khẩu quốc tế. Bảng 8 chỉ ra lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu vào Việt Nam từ Lào qua 6 cửa khẩu Quốc tế chính. 6 Từ nguồn số liệu của Tổng cục Hải quan, tên của các cửa khẩu nơi gỗ được nhập vào và xuất đi từ Việt Nam bao gồm cả tên cửa khẩu của Việt Nam và tên cửa khẩu nước ngoài. Điều này có liên quan trực tiếp đến phương thức giao hàng được kê khai trong tờ khai hải quan. Cụ thể, đối với trường hợp nhập khẩu gỗ vào Việt Nam, nếu các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu gỗ xuất hàng theo phương thức FOB (Free on Board) (tạm dịch là miễn trách nhiệm trên boong tàu nơi đi) thì tên cửa khẩu trên tờ khai sẽ được ghi tên nước ngoài. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp sử dụng phương thức giao hàng CIF (Cost, Insurance and Freight) (tạm dịch là giá thành, bảo hiểm và cước) thì tên cửa khẩu trên tờ khai hải quan sẽ là tên cửa khẩu nơi nhập hàng của Việt Nam. Tương tự đối với trường hợp doanh nghiệp của Việt Nam xuất khẩu gỗ: sử dụng phương thức FOB sẽ có tên của cửa khẩu Việt Nam trên tờ khai hải quan; sử dụng phương thức giao hàng CIF sẽ có tên của cửa khẩu nhập khẩu nước ngoài. Hộp 3. Bốn loại cửa khẩu biên giới đất liền  Cửa khẩu quốc tế: được mở cho người, phương tiện của Việt Nam và nước ngoài xuất cảnh, nhập cảnh; hàng hóa, vật phẩm xuất khẩu, nhập khẩu.  Cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương) được mở cho người, phương tiện Việt Nam và nước láng giềng có chung cửa khẩu xuất cảnh, nhập cảnh; hàng hóa, vật phẩm xuất khẩu, nhập khẩu.  Cửa khẩu phụ được mở cho người, phương tiện Việt Nam và nước láng giềng thuộc tỉnh biên giới hai bên xuất cảnh, nhập cảnh; hàng hóa, vật phẩm xuất khẩu, nhập khẩu.  Lối mở biên giới (đường qua lại chợ biên giới, cặp chợ biên giới; điểm thông quan hàng hóa biên giới; đường qua lại tạm thời) được mở cho cư dân biên giới hai bên, phương tiện, hàng hóa của cư dân biên giới hai bên qua lại và các trường hợp khác nhằm thực hiện chính, sách thương mại biên giới theo quy định của Thủ tướng Chính phủ; hoặc được mở trong trường hợp bất khả kháng hay yêu cầu đặc biệt của hai bên biên giới.
  • 23. 23 Bảng 12. Các cửa khẩu quốc tế chính nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ từ Lào vào Việt Nam năm 2014 Các cửa khẩu chính Gỗ tròn nhập khẩu (m3) Gỗ xẻ nhập khẩu (m3) Tổng số gỗ tròn và xẻ nhập khẩu (m3) Lao Bảo (Quảng Trị) 23.034 149.110 172.145 Bờ Y (Kon Tum) 97.402 33.621 131.023 Na Mèo (Thanh Hóa) 176.34 109.445 109.622 Cầu Treo (Hà Tĩnh) 8.247 88.909 97.156 Nậm Cắn (Nghệ An) 56.808 2.418 59.225 Cha Lo (Quảng Bình) 8.145 38.708 46.853 Gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Lao Bảo phần lớn là các loại gỗ như hương, cẩm, lim, gõ và trắc. Bình quân mỗi m3 gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu này có giá khoảng 1.400 USD. Gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Nậm Cắn chủ yếu gồm các loại như giổi, kiền kiền, hương, xoan, chò, phay. Mức giá bình quân cho mỗi m3 gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu này vào khoảng 225 USD. Gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Bờ Y chủ yếu là gỗ tròn, với các loại như gỗ dầu, vên vên và kiền kiền. Mức giá bình quân cho mỗi m3 gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu này khoảng 507 USD. Gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Cầu Treo chủ yếu là giổi, kiền kiền, hương, xoan, chò và phay. Mức giá bình quân nhập khẩu qua cửa khẩu này khoảng 429 USD/m3 So với các cửa khẩu như Lao Bảo, Nậm Cắn và Bờ Y, lượng gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Cha Lo không nhiều, với tổng số 46.853m3. Tuy nhiên, giá gỗ nhập khẩu bình quân cao, khoảng 1.123 USD/m3, chỉ đứng sau so với mức giá gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu Lao Bảo. Cửa khẩu quốc gia (cửa khẩu chính) Có 16 cửa khẩu quốc gia đã được sử dụng để nhập khẩu gỗ tròn và xẻ từ Lào vào Việt Nam trong năm 2014, với tổng lượng gỗ nhập khẩu khoảng 144.468m3, trong đó bao gồm 66.837m3 gỗ xẻ, còn lại là gỗ tròn. Hai cửa khẩu quan trọng nhất trong 16 cửa khẩu, với lượng nhập trên 10.000m3 gỗ, bao gồm cửa khẩu La Lay (Quảng Trị) và cửa khẩu Thanh Thủy (Nghệ An), cụ thể:  Cửa khẩu La Lay: Tổng lượng nhập 88.454m3, trong đó có 44.165m3 gỗ tròn, còn lại là gỗ xẻ  Cửa khẩu Thanh Thủy: Tổng lượng nhập 34.229m3, trong đó có 2.773m3 gỗ xẻ, còn lại là gỗ tròn Một số cửa khẩu quốc gia khác như Cà Roong (Quảng Bình), Nam Giang (Quảng Nam), Tây Giang (Quảng Nam) và Thông Thụ có lượng nhập khẩu giao động khoảng 4.000m3 - 6.000m3/năm đối với mỗi cửa khẩu.
  • 24. 24 Cửa khẩu phụ Năm 2014, lượng gỗ nhập khẩu từ Lào vào Việt Nam qua các cửa khẩu phụ tương đối lớn, lên tới 35.330m3, trong đó gỗ tròn chiếm chủ yếu (33.378m3) và phần ít là gỗ xẻ. Tổng số chỉ có 2 cửa khẩu phụ được sử dụng để nhập khẩu gỗ Lào trong năm 2014, trong đó cửa khẩu Tam Hợp (Nghệ An) đóng vai trò chủ yếu, với lượng nhập lên tới 27.893m3. Lượng nhập qua cửa khẩu phụ Buộc Mú (Nghệ An) là không đáng kể. Lối mở đường mòn Năm 2014 có 4 lối mở đường mòn giữa Việt Nam và Lào được sử dụng để nhập khẩu gỗ tròn và xẻ vào Việt Nam. Lượng gỗ được nhập khẩu qua kênh này nhỏ, chiếm 5.911m3, trong đó lượng gỗ nhập khẩu qua lối mở Cao Vều (Nghệ An) là chủ yếu, chiếm 3.931m3. V.2 Các cửa khẩu nhập khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ chính của Việt Nam từ Campuchia Như đã đề cập ở trên, trong năm 2014 Việt Nam nhập khẩu 153.929m3 gỗ từ Campuchia, trong đó chủ yếu là gỗ xẻ (153.547m3). Lượng gỗ này được nhập khẩu qua các cửa khẩu quốc tế, quốc gia, cửa khẩu phụ và lối mòn. Cửa khẩu quốc tế Năm 2014 có 3 cửa khẩu quốc tế được sử dụng để nhập khẩu gỗ từ Campuchia vào Việt Nam, với tổng lượng gỗ được nhập khẩu khoảng 28.484m3. Các cửa khẩu này bao gồm:  Cửa khẩu Xa Mát (Tây Ninh): 24.753m3. Các loại gỗ chính nhập khẩu chủ yếu là gỗ điều và hương. Mức giá gỗ nhập khẩu bình quân qua cửa khẩu này vào khoảng 268 USD/m3  Cửa khẩu Dinh Ba (Đồng Tháp): 735m3  Cửa khẩu Lệ Thanh (Gia Lai): 2.996m3. Các loại gỗ chính nhập khẩu là hương, cẩm, trắc. Cửa khẩu quốc gia Tổng số có 20 cửa khẩu quốc gia đã được sử dụng để nhập khẩu 122.722m3 gỗ từ Campuchia vào Việt Nam trong năm 2014. Các cửa khẩu quốc gia chính bao gồm:  Cửa khẩu Chàng Riệc (Tây Ninh): 50.007m3. Loại gỗ nhập khẩu chủ yếu qua cửa khẩu này là gỗ hương, cẩm và trắc. Bình quân mỗi m3 gỗ nhập khẩu vào Việt Nam từ Campuchia qua cửa khẩu này có giá 2.463 USD.  Cửa khẩu Katum (Tây Ninh): 29.047m3. Các loại gỗ chính nhập khẩu giống như các loại nhập khẩu qua cửa khẩu Chàng Riệc.  Cửa khẩu Tà Vát (Bình Phước): 9.829m3  Cửa khẩu Lộc Thịnh (Bình Phước): 8.051m3. Hầu hết gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu này là gỗ điều và cao su.
  • 25. 25  Cửa khẩu Mỹ Quý Tây (Long An): 5.038m3  Cảng Cát Lái (TP Hồ Chính Minh): 3.816m3. Các loại gỗ được nhập khẩu vào Việt Nam từ Campuchia theo cửa khẩu này thường là các loại gỗ quý, với mức giá bình quân ở mức 2.422 USD/ m3. Cửa khẩu phụ Cửa khẩu 751 (Đắc Lắk) là cửa khẩu phụ duy nhất được sử dụng để nhập khẩu gỗ từ Campuchia vào Việt Nam. Trong năm 2014 lượng gỗ nhập khẩu qua cửa khẩu này là 6.821m3. Lối mở đường mòn Năm 2014 Việt Nam sử dụng 3 lối mở đường mòn để nhập khẩu 5.902m3 gỗ từ Campuchia. V.3. Các cửa khẩu xuất khẩu gỗ tròn và xẻ từ Việt Nam sang Trung Quốc Trung Quốc là thị trường nhập khẩu gỗ tròn và xẻ quan trọng nhất của Việt Nam. Trong năm 2014, tổng lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu vào Trung Quốc từ Việt Nam gần 266.000m3, trong đó lượng gỗ xẻ chiếm tới 97%, còn lại là gỗ tròn (3%). Vào đầu những năm 2000, lượng gỗ tròn và xẻ Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam nhỏ, khoảng dưới 10.000m3 trong năm 2000. Lượng nhập khẩu sau đó tăng lên khoảng 40.000 - 50.000m3/năm trong giai đoạn 2004 - 2005, và tăng đột biến lên khoảng 160.000m3 năm 2006 và 250.000m3 năm 2007. Khủng hoảng kinh tế làm lượng gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc từ Việt Nam tụt giảm nghiêm trọng trong giai đoạn 2008-2009, với lượng nhập còn khoảng 50.000 - 60.000m3/năm. Tuy nhiên, lượng nhập tăng trở lại sau giai đoạn suy thoái, và đạt khoảng gần 260.000m3 năm 2013 (Forest Trends 2015). Tỷ trọng gỗ tròn - xẻ trong tổng lượng gỗ xuất khẩu từ Việt Nam vào Trung Quốc thay đổi rõ rệt theo thời gian. Trước năm 2007 - 2008, gỗ xuất khẩu vào Trung Quốc chủ yếu là gỗ tròn (chiếm tới 80 -90% trong tổng lượng gỗ tròn và xẻ xuất khẩu sang thị trường này). Những năm gần đây lượng gỗ tròn Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm tỉ lệ khoảng 20%; lượng gỗ xẻ chiếm ưu thế. Cửa khẩu quốc tế Năm 2014 khoảng 71.878m3 gỗ tròn và xẻ đã được nhập khẩu vào Trung Quốc từ Việt Nam thông qua 7 cửa khẩu Quốc tế chính, trong đó có 1 cửa khẩu của Trung Quốc (Hà Khẩu), còn lại là các cửa khẩu của Việt Nam. Chủ yếu gỗ Việt Nam xuất khẩu qua các cửa khẩu này là gỗ xẻ, chiếm 65.308m3. Lượng gỗ tròn chiếm tỉ lệ thấp (6.570m3). Các cửa khẩu quốc tế quan trọng bao gồm:  Cảng Tiên Sa (Đà Nẵng): 41.255m3 tổng số, trong đó bao gồm 38.859m3 gỗ xẻ, còn lại là gỗ tròn. Gỗ xuất qua cửa khẩu này chủ yếu là gỗ hương, cẩm
  • 26. 26  Cảng Quy Nhơn (Bình Định): 16.346m3 tổng số, hầu hết là gỗ xẻ (16.232m3), chủ yếu là gỗ cao su.  Cảng Hải Phòng: 7.396m3, chủ yếu là gỗ xẻ (6.788m3), bao gồm các loại như hương, trắc, cẩm  Cửa khẩu Hữu Nghị (Lạng Sơn): 3.775m3, trong đó chủ yếu là gỗ xẻ (2.827m3), bao gồm hương, trắc, cẩm. Cửa khẩu quốc gia Năm 2014 có 42 cửa khẩu quốc gia, bao gồm cả cửa khẩu của phía Việt Nam và Trung Quốc được sử dụng để nhập khẩu gỗ từ Việt Nam vào Trung Quốc. Lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu qua 42 cửa khẩu này rất lớn, chiếm 185.054m3, trong đó chủ yếu là gỗ xẻ (183.343m3), còn lại là gỗ tròn (1.711m3). Cửa khẩu phụ và lối mở đường mòn Khoảng 9.018m3, chủ yếu là gỗ xẻ, được nhập khẩu vào Trung Quốc từ Việt Nam qua các cửa khẩu cửa phụ lối mòn. V.4. Các cửa khẩu chính Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và xẻ sang Hồng Kông 2014 Hồng Kông nhập khẩu 41.460m3 gỗ tròn và xẻ từ Việt Nam, trong đó lượng gỗ xẻ chiếm gần 80%, còn lại là gỗ tròn. Các cảng chính mà Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn sang Hồng Kông bao gồm:  Cảng Tiên Sa: 6.578m3, chủ yếu là hương, trắc, cẩm  Móng Cái: 473m3, chủ yếu là trắc  Cảng Hải Phòng: 543m3 (trắc, hương, cẩm) Các cảng chính mà Việt Nam xuất khẩu gỗ xẻ vào Hồng Kông bao gồm:  Cảng Tiên Sa: 13.117m3, chủ yếu là gỗ cẩm, hương, trắc  Cảng Cát Lái: 4,472m3, chủ yếu là cẩm, hương, cao su  Cảng Hải Phòng: 3.833m3, chủ yếu là hương, cẩm, căm xe V.5. Các cửa khẩu chính Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn và xẻ sang Đài Loan Trong năm 2014 Đài Loan nhập khẩu tổng số 91.674m3 gỗ tròn và xẻ từ Việt Nam, trong đó lượng gỗ xẻ chiếm trên 84%, còn lại là gỗ tròn. Việt Nam xuất khẩu gỗ tròn sang Đài Loan thông qua 9 cửa khẩu khác nhau, trong đó các cửa khẩu quan trọng nhất bao gồm:  Cảng Cát Lái: 2.916m3, chủ yếu gỗ cao su, tràm  Cảng Chùa Vẽ: 1.183m3, chủ yếu gỗ sa mu, pơ mu
  • 27. 27 Việt Nam xuất khẩu gỗ xẻ vào Đài Loan qua 20 cửa khẩu khác nhau, trong đó các cửa khẩu quan trọng nhất bao gồm:  Cảng Hải Phòng: 20.569m3, chủ yếu gỗ keo, pơ mu  Cảng Green Port (Hải Phòng): 18,646m3, chủ yếu gỗ keo  Tân cảng Hải Phòng: 11.751m3, chủ yếu gỗ keo, pơ mu V.6. Cửa khẩu với Hàn Quốc Cát Lái là cảng quan trọng nhất của Việt Nam trong việc xuất khẩu gỗ tròn sang Hàn Quốc. Lượng gỗ xuất khẩu vào Hàn Quốc từ Việt Nam từ cảng này chủ yếu là gỗ keo. V.7 Cửa khẩu xuất khẩu đi Ấn Độ Ấn độ chủ yếu nhập khẩu gỗ dầu từ Việt Nam. Cửa khẩu quan trọng nhất của Việt Nam trong xuất khẩu gỗ đi Ấn Độ (chủ yếu là gỗ tròn) là các cảng sau:  Quy Nhơn: 18.630m3  Cái Lân: 6.922m3  Tiên Sa: 5.123m3 Tóm lại, Việt Nam sử dụng hệ thống cửa khẩu rất đa dạng, bao gồm cả cửa khẩu quốc tế, quốc gia, cửa khẩu phụ, lối mở đường mòn. Chủng loại gỗ nhập và xuất khẩu thông qua các cửa khẩu này khác nhau. VI. Một số thảo luận Thương mại gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam giữ vị thế quan trọng đối với ngành gỗ của quốc gia, cả về khía cạnh khối lượng và kim ngạch xuất nhập khẩu. Trong thời gian vừa qua, xuất nhập khẩu gỗ tròn và xẻ của Việt Nam đã có một số biến động, thể hiện qua các mặt sau đây: Chính sách quản lý hoạt động tạm nhập tái xuất của Việt Nam Thông tư 37/2014/TT-BCT ban hành ngày 24 tháng 10 năm 2014 (bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 8 tháng 12 năm 2014) của Bộ Công Thương quy định việc tạm ngừng kinh doanh tạm nhập, tái xuất gỗ tròn, gỗ xẻ từ rừng tự nhiên của Lào và Campuchia. Thông tư nêu rõ Chính phủ Việt Nam “Tạm ngừng hoạt động kinh doanh tạm nhập từ Lào và Campuchia để tái xuất sang nước thứ ba đối với gỗ tròn, gỗ xẻ từ rừng tự nhiên thuộc nhóm HS 44.03 và 44.07 theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam.” Hiện chưa có thông tin đầy đủ về tác động của Thông tư này tới thương mại gỗ tròn và xẻ của Việt Nam với Lào và Campuchia trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, theo ý kiến của một số doanh nghiệp trực tiếp tham gia thương mại gỗ với 2 quốc gia này cho thấy Thông tư đã tạo ra những hạn chế nhất định trong việc thương mại gỗ của các doanh nghiệp từ 2 quốc
  • 28. 28 gia này, từ đó tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, và hoạt động xuất khẩu đến các thị trường Trung Quốc và Hồng Kông. Năm 2014, Việt Nam nhập khẩu 308.647m3 gỗ tròn từ Lào, trong khi tổng lượng gỗ tròn được Việt Nam xuất khẩu trong cùng năm là 89.157m3. Việc Chính phủ Việt Nam hạn chế việc tạm nhập tái xuất gỗ tròn và gỗ xẻ từ Lào sẽ có tác động trực tiếp đến thương mại gỗ tròn giữa Việt Nam và Lào, bởi hầu hết lượng gỗ tròn mà Việt Nam xuất khẩu đều là gỗ nhập khẩu, trong đó chủ yếu từ Lào. Chính sách bãi bỏ tạm nhập tái xuất mặt hàng gỗ tròn từ Lào vào Việt Nam có thể làm mất đi các thị trường truyền thống nhập khẩu gỗ tròn của Việt Nam như Ấn Độ, Trung Quốc, Hồng Kông. Lượng gỗ xẻ mà Việt Nam xuất khẩu năm 2014 lên tới 456.696m3, chiếm 22,7% tổng lượng gỗ xẻ nhập khẩu vào Việt Nam. Trong năm 2014 lượng gỗ xẻ từ Việt Nam nhập khẩu vào Trung Quốc và Hồng Kông lên tới 290.000m3. Khoảng 130.000m3 gỗ xẻ nhập khẩu từ Việt Nam vào 2 thị trường này là các loại gỗ quý, có giá thị trường rất cao, có nguồn gốc từ Lào và Campuchia. Như vậy, chính sách tạm ngừng hoạt động tạm nhập tái xuất gỗ tròn và gỗ xẻ từ Lào và Campuchia có tác động lớn và trực tiếp đến thương mại gỗ xẻ của Việt Nam của các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu gỗ Lào, Campuchia nhằm phục vụ thị trường Trung Quốc và Hồng Kông. Có thể Chính sách tạm dừng tạm nhập tái xuất của Việt Nam phần nào đáp ứng được mối quan tâm của nhiều hộ gia đình thuộc các làng nghề gỗ như Phù Khê (Hà Nội), Đồng Kỵ (Bắc Ninh), nơi nguồn gỗ tròn và xẻ nhập khẩu từ Lào và Campuchia đóng vai trò quan trọng, là nguồn cung nguyên liệu đầu vào duy nhất cho các hoạt động chế biến và thương mại của các làng nghề này. Khoảng 90 - 95% các sản phẩm gỗ được tạo ra bởi các làng nghề được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc (Tô Xuân Phúc và cộng sự 2012). Trong những năm gần đây, hoạt động chế biến và thương mại gỗ của các làng nghề này đã trải qua những thay đổi lớn, với các hoạt động chế biến đã và đang co dần lại, thay thế bằng các hoạt động thương mại gỗ nguyên liệu đơn thuần. Hộp 3 mô tả một số tác động của sự dịch chuyển từ chế biến sang thương mại tại các làng nghề.
  • 29. 29 Chính sách tạm dừng hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất gỗ tròn và xẻ từ Lào và Campuchia có thể tạo ra sự thay đổi khi lượng gỗ nhập khẩu từ 2 quốc gia này được giữ lại và đưa vào chế biến trước khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có minh chứng nào được đưa ra về lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu từ Lào và Campuchia được tiêu thụ tại các cơ sở chế biến, trong đó đặc biệt là tại các làng nghề gia tăng. Có thể Chính sách tạm dừng hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất đã không tạo được hiệu quả xã hội như kỳ vọng, bởi lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu từ Lào và Campuchia đưa vào chế biến không gia tăng. Thay vào đó, thực hiện Chính sách có thể làm hạn chế lưu thông thương mại các mặt hàng gỗ nguyên liệu này, và dẫn đến việc các doanh nghiệp Việt Nam dự trữ gỗ, chờ giá lên hoặc chờ cho chính sách thay đổi. Các làng nghề sử dụng nguyên liệu gỗ nhập khẩu từ Lào và Campuchia lệ thuộc gần như hoàn toàn vào thị trường Trung Quốc làm cho các làng nghề đó hầu như không có vị thế khi tham gia thị trường này. Bên cạnh đó, nếu lượng gỗ nhập khẩu từ các nguồn này được đưa vào chế biến chắc chắn sẽ có rủi ro khi các sản phẩm này được tiêu thụ tại thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Điều này có thể làm giảm hiệu quả mong đợi của chính sách. Biến động của thị trường nhập khẩu Trong năm 2014 biến động lớn nhất về thị trường gỗ nguyên liệu nhập khẩu vào Việt Nam là Myanmar. Chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn của Chính phủ Myanmar vào đầu năm 2014 làm cho nguồn cung gỗ tròn từ thị trường này cho Việt Nam mất hoàn toàn. Trước đó, mỗi Hộp 3. Thay đổi tại các làng nghề gỗ truyền thống “Trước đây hầu hết các thành viên trong gia đình từ lớn đến nhỏ, như trẻ em 13-14 tuổi đều tham gia vào hoạt động chế biến. Người có tay nghề cao thì làm thiết kế, pha gỗ… người có tay nghề thấp hơn thì đục đẽo theo thiết kế… người không có tay nghề thì làm các công việc đơn giản như bào, đánh bóng, phun sơn. Gia đình làm không hết việc, nhà nào cũng phải thuê thêm 6 - 7 lao động từ các làng khác. Gần đây thay đổi hết rồi, chuyển sang làm thương mại hết. Nhà nào cũng vay tiền ngân hàng, lấy tiền mua gỗ rồi ra chợ ngồi bán, người nọ bán cho người kia, cuối cùng thì cũng là khách Trung Quốc thu gom mang về Trung Quốc hết. Bán ở chợ mỗi nhà chỉ cần 1 người bán thôi, mọi người còn lại trong gia đình trở thành thất nghiệp hết, cả làng trở thành thất nghiệp. Nhà nước cần có chính sách hiệu quả để bắt Trung Quốc phải mua sản phẩm của mình, thay vì việc mua gỗ nguyên liệu như hiện nay, nếu không dân mình chẳng được lợi gì, mà chỉ có một số ít người chuyên buôn bán gỗ thôi.” (Nguồn: Phỏng vấn Chủ tịch Hội gỗ Mỹ nghệ Đồng Kỵ, tháng 12 năm 2014)
  • 30. 30 năm Myanmar cung cấp cho Việt Nam hàng trăm nghìn m3 gỗ tròn. Sự mất đi nguồn cung này đòi hỏi các doanh nghiệp của Việt Nam phải tìm kiếm có nguồn cung khác thay thế nếu họ muốn tiếp tục các hoạt động kinh doanh của mình. Điều này có thể dẫn đến việc các doanh nghiệp gia tăng tìm kiếm nguồn cung từ các thị trường thay thế, đặc biệt là các thị trường có các lợi thế về khoảng cách về mặt địa lý với Việt Nam và/hoặc có cùng chủng loại gỗ với Myanmar. Trong bối cảnh này, Lào và Campuchia có vẻ sẽ trở thành thị trường thay thế cho Myanmar. Nguồn cung gỗ tròn từ Mynamar mất đi có thể cho thấy nguồn cung gỗ nguyên liệu cho Việt Nam có thể thay đổi nhanh do thay đổi về các chính sách của quốc gia cung gỗ. Sự lệ thuộc lớn vào một vài quốc gia cung gỗ tròn và xẻ cho các doanh nghiệp Việt Nam như từ Lào và Campuchia đặt các doanh nghiệp của Việt Nam tham gia các thị trường này trước những rủi ro lớn, bởi chính sách từ các quốc gia này có thể thay đổi như Myanmar. Những biến động của nguồn cung không chỉ tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp của Việt Nam tham gia thương mại với các thị trường này mà còn ảnh hưởng đến hàng nghìn hộ gia đình với hàng trăm ngàn lao động tham gia vào chế biến và thương mại các sản phẩm gỗ có nguồn gốc từ nhập khẩu. Biến động của thị trường xuất khẩu Sự lệ thuộc lớn vào một vài thị trường xuất khẩu cũng đặt các doanh nghiệp tham gia thương mại gỗ của Việt Nam trước những rủi ro lớn về thị trường. Đến nay, nhiều sản phẩm gỗ của Việt Nam, bao gồm cả gỗ tròn và gỗ xẻ là các loại gỗ quý có nguồn gốc từ nhập khẩu, có giá trị thị trường cao được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc và Hồng Kông. Sự kiện dàn khoan 981 của Trung Quốc có ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường xuất khẩu các loại hàng hóa của Việt Nam, bao gồm cả các loại gỗ tròn và xẻ được xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc, Hồng Kông và ở nhiều thị trường khác. Nói cách khác, những thay đổi về chính trị xảy ra trong vùng có tác động lớn đến thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Điều này đòi hỏi Chính phủ và các doanh nghiệp của Việt Nam cần phải có những bước đi phù hợp trong bối cảnh luôn có những biến động trong vùng. Yêu cầu về tính hợp pháp của gỗ Xu hướng tiêu dùng hiện nay đối với các sản phẩm gỗ có nguồn gốc từ rừng nhiệt đới là ngày càng chặt chẽ hơn. Tại các thị trường phát triển, cơ chế kiểm soát nguồn gốc các sản phẩm gỗ nhập khẩu được tiêu thụ tại các thị trường này ngày càng chặt chẽ. Tham gia các thị trường này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu về tính hợp pháp của gỗ. Năm 2014 Việt Nam nhập khẩu khoảng 4,2 triệu m3 gỗ quy tròn từ 115 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, trong đó có một lượng lớn gỗ nguyên liệu có nguồn gốc từ các quốc gia nơi tính hợp pháp của gỗ còn có nhiều tranh cãi. Một số ý kiến cho rằng có thể lượng gỗ mà Việt Nam nhập khẩu từ các quốc gia này không được đưa vào chuỗi cung để phục vụ các thị
  • 31. 31 trường xuất khẩu nhạy cảm về mặt môi trường. Tuy nhiên, việc nhập khẩu một lượng gỗ tự nhiên rất lớn từ các quốc gia đó đặt các doanh nghiệp nói riêng và ngành gỗ của Việt Nam nói chung trước những rủi ro lớn. Hiện Việt Nam có khoảng 4.200 doanh nghiệp gỗ khác nhau tham gia thị trường; bên cạnh đó còn có hàng nghìn hộ gia đình hoạt động tại các làng nghề. Làm thế nào để có thể có những cơ chế kiểm soát tính hợp pháp của nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào khả thi và hiệu quả trong bối cảnh nguồn lực hạn chế như hiện nay là một câu hỏi khó đặt ra cho các nhà quản lý và các doanh nghiệp của Việt Nam. Đã có những thảo luận trong khối doanh nghiệp và các cơ quan quản lý về lợi ích thực sự cho Việt Nam từ việc nhập khẩu gỗ tròn và xẻ từ các quốc gia nơi tính hợp pháp của gỗ còn đang có những tranh cãi như Lào và Campuchia. Các doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào thương mại gỗ với các quốc gia này đưa ra quan điểm rằng nguồn cung gỗ từ các quốc gia này là cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia thị trường vì nếu không cơ hội này cũng sẽ bị các quốc gia nhập khẩu gỗ khác như Thái Lan và Trung Quốc lấy mấy. Theo quan điểm của các doanh nghiệp của Việt Nam trực tiếp tham gia chuỗi cung này, lợi ích của thương mại gỗ với Lào và Campuchia không chỉ đơn thuần là lợi ích của doanh nghiệp mà còn có lợi ích xã hội khác. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp không tham gia thương mại gỗ với các quốc gia này thì cho rằng do một số doanh nghiệp của Việt Nam nhập khẩu gỗ có nguồn gốc pháp lý chưa rõ ràng làm cho toàn bộ hệ thống doanh nghiệp của Việt Nam và hình ảnh của quốc gia bị ảnh hưởng. Theo các doanh nghiệp này, ngành gỗ Việt Nam trong giai đoạn hội nhập cần tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu của thị trường xuất khẩu và điều này mới đảm bảo sự phát triển bền vững cho ngành. Hiện các tranh luận này vẫn đang diễn ra, thể hiện tính phức tạp của ngành gỗ về khía cạnh lợi ích của các nhóm khác nhau trong ngành. Sử dụng gỗ nguyên liệu nhập khẩu từ các nguồn không rõ ràng về mặt pháp lý làm cho chuỗi cung trở lên hết sức phức tạp. Từ góc độ quản lý, thiết lập các cơ chế kiểm soát chặt chẽ chuỗi cung để đảm bảo rằng gỗ đưa vào các chuỗi là gỗ hợp pháp sẽ rất khó khăn và cần chi phí lớn. Điều này đòi hỏi Chính phủ phải có thông tin đầy đủ, từ đó đưa ra các chính sách phù hợp, trên các ưu tiên cho lợi ích của số đông doanh nghiệp theo hướng lâu dài. Điều này sẽ góp phần xây dựng và gìn giữ hình ảnh của ngành gỗ Việt Nam. Các ưu tiên này cũng cần cân nhắc tới việc hạn chế chuyển đổi từ mô hình chế biến sang thương mại gỗ nguyên liệu hiện đang diễn ra tại các làng nghề, bởi điều này sẽ góp phần tối đa hóa lợi ích xã hội của chính sách. VII. Kết luận Thương mại các mặt hàng gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam vẫn đang diễn ra với quy mô lớn, thể hiện cả ở khía cạnh khối lượng gỗ và kim nghạch xuất nhập khẩu. Hàng năm, Việt Nam nhập một khối lượng gỗ tròn và gỗ xẻ lớn, tương đương với 4,2 triệu m3 gỗ quy tròn và kim ngạch nhập khẩu lên tới 1,7 tỉ USD. Quy mô xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ của Việt Nam nhỏ hơn nhiều so với nhập khẩu, với lượng xuất khẩu hàng năm khoảng gần 0,54 triệu m3, trong
  • 32. 32 đó chủ yếu là gỗ xẻ, tương đương với 273 triệu USD về kim ngạch. Lượng gỗ chênh lệch giữa nhập và xuất khẩu có thể được đưa vào chế biến phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, hoặc phần nào đó vẫn chưa được đưa vào chuỗi cung và đang được dự trữ bởi các doanh nghiệp. Có nhiều tín hiệu tốt đối với thương mại gỗ tròn và xẻ của Việt Nam, bao gồm sự gia tăng về lượng gỗ nhập khẩu vào Việt Nam từ các quốc gia có nguồn gốc gỗ rõ ràng. Điều này có thể là những dấu hiệu thể hiện những dịch chuyển trong nội tại của ngành gỗ trong việc hướng tới các thị trường gỗ nguyên liệu nhập khẩu minh bạch và ổn định hơn, đáp ứng các yêu cầu khó tính của thị trường xuất khẩu. Một số tín hiện tốt cũng phần nào đang được thể hiện đối với nguồn gỗ xuất khẩu thông qua lượng gỗ xẻ xuất khẩu có nguồn gốc từ rừng trồng của Việt Nam có sự gia tăng. Điều này thể hiện tiềm năng của nguồn gỗ rừng trồng trong nước không chỉ trong việc dần thay thế nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu mà còn là có tiềm năng to lớn trong việc tạo nguồn cung cho xuất khẩu. Nói cách khác, đầu tư vào rừng trồng theo hướng thúc đẩy sản xuất gỗ lớn nguyên liệu là những đầu tư hiệu quả cả về khía cạnh kinh tế và xã hội. Chính sách của Chính phủ cần mạnh mẽ hơn, nhằm thúc đẩy nguồn gỗ rừng trồng, đặc biệt tập trung cho các hộ gia đình có đất rừng sản xuất. Tuy nhiên, với lượng nhập gỗ nguyên liệu hàng năm lên tới 4,2 triệu m3 gỗ quy tròn, trong đó có tới hàng triệu m3 gỗ tròn và xẻ từ các quốc gia nơi nguồn gốc gỗ vẫn còn nhiều tranh cãi, Việt Nam hiện vẫn đang và sẽ tiếp tục đối mặt với những khó khăn trong việc minh chứng tính hợp pháp của nguồn gỗ nhập khẩu. Điều này càng trở lên khó khăn hơn trong bối cảnh hội nhập, với các doanh nghiệp của Việt Nam đang tham gia vào thị trường quốc tế, và điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của thị trường nếu muốn muốn duy trì và mở rộng thị phần của mình. Cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý của Việt Nam cần chuẩn bị về chiến lược và lộ trình hợp lý nhằm giảm sự lệ thuộc vào các nguồn cung gỗ nguyên liệu đặc biệt từ các nguồn không rõ nguồn gốc. Quá trình hoạch định chính sách của Việt Nam cần cân nhắc kỹ đến các yếu tố, đặc biệt là các khía cạnh như lợi ích của toàn ngành, xây dựng và gìn giữ hình ảnh của quốc gia và lợi ích xã hội do xuất nhập gỗ tròn và xẻ mang lại cho Việt Nam.
  • 33. 33 Tài liệu tham khảo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Đề Án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp. Hà Nội, 2014. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Đề án tái cơ cấu ngành gỗ. Hà Nội, 2014. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Chiến Lược phát Triển Lâm nghiệp Việt Nam đến 2020. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội, 2007 Forest Trends. 2015. Thương mại gỗ của Trung Quốc. Báo cáo chuẩn bị xuất bản Nguyễn Tôn Quyền và Trần Hữu Nghị. How Viet Nam is prepared to meet legal requirements of timber export market. Tropenbos International. Hanoi, 2011. Tô Xuân Phúc, Nguyễn Tôn Quyền, Lê Duy Phương, Cao Thị Cẩm, Ngụy Thị Hồng. Làng nghề gỗ trong bối cảnh thực thi FLEGT và REDD+ tại Việt Nam. Forest Trends và VIFORES. Hà Nội, 2012. Tô Xuân Phúc, Trần Lê Huy, Cao Thị Cẩm, Nguyễn Tôn Quyền. Tổng quan cung – cầu gỗ Việt Nam. Báo cáo Trình Bài tại Hội thảo Tổng quan Cung cầu Gỗ Việt Nam. Forest Trends, VIFORES, FPB Binh Định, HAWA. Hà Nội, 2014.