O slideshow foi denunciado.
Seu SlideShare está sendo baixado. ×

Chế độ pháp lý của các hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu điện năng giữa Việt Nam với nước ngoài.pdf

Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG VIẾT DŨNG
CHÕ §é PH¸P Lý CñA C¸C HîP §åNG XUÊT KHÈU, NHËP KHÈU
§IÖN N¡NG GI÷A VIÖT ...
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG VIẾT DŨNG
CHÕ §é PH¸P Lý CñA C¸C HîP §åNG XUÊT KHÈU, NHËP KHÈU
§IÖN N¡NG GI÷A VIÖT ...
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của mình.
Nội dung luận văn có sự tham khảo và kế thừa các côn...
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio
Anúncio

Confira estes a seguir

1 de 65 Anúncio

Chế độ pháp lý của các hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu điện năng giữa Việt Nam với nước ngoài.pdf

Baixar para ler offline

Chế độ pháp lý của các hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu điện năng giữa Việt Nam với nước ngoài.pdf

Chế độ pháp lý của các hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu điện năng giữa Việt Nam với nước ngoài.pdf

Anúncio
Anúncio

Mais Conteúdo rRelacionado

Semelhante a Chế độ pháp lý của các hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu điện năng giữa Việt Nam với nước ngoài.pdf (20)

Mais de HanaTiti (20)

Anúncio

Mais recentes (20)

Chế độ pháp lý của các hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu điện năng giữa Việt Nam với nước ngoài.pdf

  1. 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG VIẾT DŨNG CHÕ §é PH¸P Lý CñA C¸C HîP §åNG XUÊT KHÈU, NHËP KHÈU §IÖN N¡NG GI÷A VIÖT NAM VíI N¦íC NGOµI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019
  2. 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG VIẾT DŨNG CHÕ §é PH¸P Lý CñA C¸C HîP §åNG XUÊT KHÈU, NHËP KHÈU §IÖN N¡NG GI÷A VIÖT NAM VíI N¦íC NGOµI Chuyên ngành: Luật Quốc Tế Mã số: 8.38010106 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN TIẾN VINH HÀ NỘI - 2019
  3. 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của mình. Nội dung luận văn có sự tham khảo và kế thừa các công trình, ấn phẩm và các bài viết đã công bố có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn có tính lý luận và thực tiễn. Học viên đã hoàn thành các môn học và các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Đặng Viết Dũng
  4. 4. LỜI CẢM ƠN Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi trân trọng cảm ơn Khoa Luật học – Đại học Quốc gia Hà Nội và các giảng viên đã giảng dạy Khoá 22 - Cao học Luật quốc tế đã tận tình quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được học tập, nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Phó Giáo sư/Tiến sỹ Nguyễn Tiến Vinh đã tận tình hướng dẫn khoa học, giúp đỡ người viết luận văn trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo và đồng nghiệp của tôi tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Cục Điều tiết điện lực -Bộ Công Thương, Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo-Bộ Công Thương, Vụ Pháp chế Bộ Công Thương đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp tư liệu, khảo sát thực tế và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thiện luận văn này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng do điều kiện nghiên cứu, khả năng và kinh nghiệm quản lý của bản thân có hạn, luận văn chắc khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được ý kiến chỉ dẫn quý báu của Quý hội đồng, các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn. Trân trọng! Hà Nội, ngày … tháng 6 năm 2019 Ngƣời nghiên cứu Đặng Viết Dũng
  5. 5. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU ĐIỆN NĂNG.................................................. 7 1.1. Khái quát về Hợp đồng xuất nhập khẩu (XNK) hàng hóa ............ 7 1.1.1. Khái niệm Hợp đồng XNK hàng hóa................................................... 7 1.1.2. Đặc điểm của Hợp đồng XNK hàng hóa ........................................... 12 1.2. Khái quát Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng........................... 16 1.2.1. Khái niệm Hợp đồng mua bán điện ................................................... 16 1.2.2. Phân loại Hợp đồng mua bán điện năng ............................................ 18 1.2.3. Khái niệm Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng................................ 19 1.2.4. Đặc điểm của hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng ........................... 21 1.2.5. Nguyên tắc, yêu cầu khi giao kết Hợp đồng XNKĐN....................... 27 1.2.6. Nguồn luật điều chỉnh Hợp đồng XNKĐN........................................ 28 1.2.7. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật đối với Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng ................................................................................... 29 Tiểu kết Chƣơng 1......................................................................................... 33 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ĐIỆN NĂNG.........................................................34 2.1. Hiệp ƣớc Hiến chƣơng Năng lƣợng năm 1994 .............................. 34 2.1.1. Lịch sử hình thành.............................................................................. 34
  6. 6. 2.1.2. Các nội dung cơ bản........................................................................... 36 2.1.3. Các quy định cụ thể về XNKĐN........................................................ 39 2.2. Hiến chƣơng Năng lƣợng Quốc tế năm 2015................................. 41 2.2.1. Nội dung cơ bản ................................................................................. 41 2.2.2. Các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu điện năng.......... 43 2.3. Pháp luật của một số quốc gia về hoạt động xuất nhập khẩu điện năng ........................................................................................... 46 2.3.1. Pháp luật Trung Quốc ........................................................................ 47 2.3.2. Pháp luật Lào...................................................................................... 49 2.3.3. Pháp luật Campuchia.......................................................................... 53 Tiểu kết Chƣơng 2......................................................................................... 56 CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XUẤT NHẬP KHẨU ĐIỆN NĂNG TẠI VIỆT NAM - CÁC KHUYẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP............................................................................................57 3.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về xuất nhập khẩu điện năng .... 57 3.1.1. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu điện năng............. 57 3.1.2. Chính sách quản lý và phát triển năng lượng điện ở Việt Nam......... 59 3.1.3. Các quy định về Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng ...................... 63 3.2. Thực tiễn hoạt động xuất nhập khẩu điện năng tại Việt Nam .... 71 3.3. Những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam vê hoạt động xuất nhập khẩu điện năng...................................................... 74 3.4. Một số kiến nghị, phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động xuất nhập khẩu điện năng.......... 77 3.4.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về xuất nhập khẩu điện năng....... 78 3.4.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu điện năng.................................................. 81 Tiểu kết Chƣơng 3......................................................................................... 87 KẾT LUẬN.................................................................................................... 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90
  7. 7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TT Chữ viết tắt Nghĩa 1 ĐDTTĐN Đường dây truyền tải điện năng 2 ECT Hiệp ước Hiến chương Năng lượng 3 EPTC Công ty Mua bán điện-Tập đoàn Điện lực Việt Nam 4 ERAV Cục điều tiết Điện lực 5 EVN Tập đoàn điện lực quốc gia Việt Nam 6 HĐ Hợp đồng 7 HĐXNK Hợp đồng xuất nhập khẩu 8 HQCK Hải quan cửa khẩu 9 HTĐQG Hệ thống điện quốc gia 10 HTĐQG Hệ thống điện quốc gia 11 IEC Hiến chương Năng lượng Quốc tế 12 LQT Luật quốc tế 13 MOIT Bộ Công Thương 14 NNK Nước nhập khẩu 15 NXK Nước xuất khẩu 16 PPA Hợp đồng mua bán điện 17 QLNN Quản lý nhà nước 18 QLNN Quản lý Nhà nước 19 TA Bản sửa đổi đối với lĩnh vực Thương mại của ECT 20 TMQT Thương mại quốc tế 21 XNKĐN Xuất nhập khẩu điện năng 22 YNPG Công ty lưới điện Vân Nam
  8. 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Năng lượng nói chung, điện năng nói riêng luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế- xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà hầu hết các thiết bị hiện đại phục vụ đời sống con người và sản xuất đều sử dụng điện. Điện năng được coi là một phần quan trọng của cơ sở hạ tầng, luôn phải đi trước một bước để tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế khác phát triển. Có thể nói phải có điện mới có công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, phát triển điện năng là yêu cầu cấp thiết để phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong hoàn cảnh tại Việt Nam các nguồn phát điện ngày một khan hiếm như hiện nay, việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu điện năng (XNKĐN) đang trở nên hết sức cần thiết. XNKĐN là một quan hệ thương mại quốc tế có những đặc thù nhất định, hoạt động này không chỉ cung cấp điện năng đảm bảo đáp ứng nhu cầu xã hội, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế mà còn nhằm mục đích duy trì ổn định an ninh năng lượng quốc gia. Chính vì vậy, ngành điện Việt Nam đã đặt ra sứ mệnh “điện đi trước một bước” trong giai đoạn này. Điện năng là một loại hàng hóa đặc biệt, khác với các loại hàng hóa thông thường khác về tính chất, phương thức giao nhận, đo đếm… khi giao dịch trên thị trường. Tính chất phức tạp của của loại hàng hóa này cũng thể hiện tính chất phức tạp của Hợp đồng mua bán điện (PPA), đặc biệt là các PPA qua biên giới quốc gia. Hơn nữa, giá trị các PPA rất lớn ảnh hưởng đến cán cân thanh toán ngoại hối của của toàn ngành điện. Do đó công tác xây dựng chính sách, kế hoạch XNKĐN cần được luật hóa trên nguyên tắc công khai, minh bạch và phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển điện năng của quốc gia.
  9. 9. 2 Ngoài ra, công tác quản lý Nhà nước (QLNN) đối với hoạt động XNKĐN còn nhiều bất cập, đặc biệt liên quan đến hoạt động thuế quan của các đơn vị Hải quan. Các quy định pháp luật về QLNN đối với hoạt động XNKĐN còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa thể hiện các cam kết của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực mà Việt Nam đã ký Hiệp định tự do thương mại (FTA) cũng như các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam là quốc gia thành viên. Chính vì những lý do trên, cần có những nghiên cứu khoa học pháp lý chuyên sâu dưới góc độ của Luật Quốc tế đối với các quy định pháp luật và thực tế hoạt động XNKĐN nhằm thể chế hóa tích cực vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Vì những lý do trên, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài “Chế độ pháp lý của hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu điện năng giữa Việt Nam với nước ngoài” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Luật Quốc tế (LQT). 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong khoa học pháp lý, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) hàng hóa đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, ở các cấp độ khác nhau, từ các đề tài nghiên cứu khoa học, khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, đến các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ hay các bài báo chuyên khảo. Tuy nhiên, nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về một loại hình hợp đồng XNK cụ thể với loại hàng hoá đặc biệt là điện năng mới chỉ dừng lại ở các báo cáo quản lý ngành, niên giám thống kê ngành mà chưa có công trình khoa học cấp sau đại học nào thực hiện. Cho đến nay, theo hiểu biết tốt nhất của tôi, hầu như chưa có một đề tài nghiên cứu cấp thạc sỹ LQT nào có đối tượng và nội dung nghiên cứu trùng lặp với đề tài này. Việc nghiên cứu và triển khai các kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý và hoạch định chính sách phát triển
  10. 10. 3 năng lượng điện của Việt Nam cũng như phục vụ cho công tác của tôi tại Công ty Mua bán điện – Tập đoàn Điện lực Việt Nam. 3. Mục đích, nội dung nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích nghiên cứu nhằm làm rõ các cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn của hoạt động XNKĐN, trên cơ sở đó sẽ đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN đối với hoạt động XNKĐN, đồng thời đề xuất các biện pháp tăng cường hiệu quả cho hoạt động đàm phán, ký kết, thực hiện các hợp đồng mua bán điện với nước ngoài. 3.2. Nội dung nghiên cứu - Làm rõ bản chất và các đặc trưng pháp lý của Hợp đồng XNKĐN so với Hợp đồng XNK hàng hóa thông thường khác, nhất là trong bối cảnh thực hiện chính sách quản lý năng lượng và tái cấu trúc ngành Điện của Việt Nam hiện nay. - Nghiên cứu, làm rõ những quy định của pháp luật Việt Nam, các ĐƯQT song phương hoặc đa phương mà Việt Nam là thành viên liên quan đến hoạt động XNKĐN. - Nghiên cứu các quy định pháp luật điều chỉnh PPA của hoạt động XNKĐN trong khu vực. - Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng XNKĐN trong 8 năm trở lại đây. - Đề xuất, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động XNKĐN từ các khâu xây dựng chính sách, quản lý thanh toán, đến cơ chế kê khai và làm thủ tục hải quan tại các của khẩu có hoạt động XNKĐN thông qua HTĐQG Việt Nam. - Đề xuất xây dựng một số quy định dưới luật nhằm nâng cao vai trò QLNN (thông tư hoặc thông tư liên bộ), ban hành Hợp đồng mẫu áp dụng cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam tham gia hoạt động XNKĐN tại Việt Nam.
  11. 11. 4 4. Yêu cầu kết quả nghiên cứu Phải đưa ra được các đề xuất, khuyến nghị, một số giải pháp, phương pháp quản lý cụ thể nhằm kiểm soát và nâng cao hiệu quả công tác QLNN trong hoạt động XNKĐN tại Việt Nam. Cụ thể hóa các đề xuất và giải pháp này thông qua các dự thảo quy định pháp luật quản lý chuyên ngành. 5. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài này tập trung đi sâu nghiên cứu các quy phạm pháp luật Việt Nam; quy phạm pháp luật của nước xuất khẩu (NXK), nước nhập khẩu (NNK) và các Điều ước quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật về XNKĐN của các quốc gia trong khu vực mà Việt Nam có quan hệ XNKĐN trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. 5.2. Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi về nội dung: Các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của quy phạm pháp luật của Việt Nam; quy phạm pháp luật của NXK, NNK điện năng và các Điều ước quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật về XNKĐN của các quốc gia trong khu vực mà Việt Nam có quan hệ XNKĐN + Phạm vi về đối tượng: Các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động XNKĐN với Việt Nam (có thể bao gồm cả quốc gia với tư cách là một bên tham gia quan hệ thương mại quốc tế (TMQT), các PPA giữa một bên là pháp nhân Việt Nam đầu tư dự án BOT điện tại Lào và xuất khẩu điện cho Việt Nam). + Phạm vi về địa bàn: Giữa Việt Nam và các quốc gia có chung đường biên giới; + Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến nay. 5.3. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện và hoàn thành đề tài này, tôi sử dụng tổng hợp các biện
  12. 12. 5 pháp nghiên cứu khoa học nhằm làm rõ các vấn đề mà mực đích nghiên cứu đã đề ra. Cụ thể là: - Phương pháp biện chứng khoa học của chủ nghĩa khoa học Mác- Lê - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và các quy luật thực tiễn - Phương pháp nghiên cứu phân tích số liệu thực tiễn theo chu kỳ. - Nhóm các phương pháp xử lý thông tin: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Cho đến nay, theo hiểu biết tốt nhất của tôi, hầu như chưa có một đề tài nghiên cứu cấp thạc sỹ LQT nào có đối tượng và nội dung nghiên cứu trùng lặp với đề tài này. Việc nghiên cứu và triển khai các kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý và hoạch định chính sách phát triển năng lượng điện của Việt Nam cũng như phục vụ cho công tác của tôi tại Công ty Mua bán điện – Tập đoàn Điện lực Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn Thạc sỹ của tôi gồm 3 Chương, cụ thể như sau: - Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của hợp đồng XNKĐN, bao gồm các nội dung về: Khái niệm, đặc điểm, phân loại và so sánh với các hợp đồng XNK hàng hóa thông thường khác; nguồn pháp luật điều chỉnh; - Chương 2: Thực tiễn pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia điều chỉnh hoạt động XNKĐN, bao gồm các nội dung về:Hệ thống các Điều ước quốc tế lớn trên thế giới điều chỉnh vấn đề XNKĐN, hệ thống quy phạm pháp luật của một số quốc gia trong khu vực liên quan đến chính sách và hoạt động XNKĐN của Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung.
  13. 13. 6 - Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về XNKĐN tại Việt Nam, những hạn chế, bất cập và các khuyến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật XNKĐN tại Việt Nan bao gồm các nội dung về: Các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề XNKĐN tại Việt Nam, thực tiễn hoạt động XNKĐN tại Việt Nam từ năm 2010 đến nay cũng như đề xuất các giải pháp cụ thể thông qua các kiến nghị chính sách để nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động XNKĐN.
  14. 14. 7 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU ĐIỆN NĂNG 1.1. Khái quát về Hợp đồng xuất nhập khẩu (XNK) hàng hóa 1.1.1. Khái niệm Hợp đồng XNK hàng hóa Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống ngày càng cao, sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và tham gia vào quá trình liên kết và hợp tác kinh tế. Quá trình này không thể diễn ra ở một quốc gia/khu vực lãnh thổ mà phải tiến hành trên bình diện quốc tế. Đặc biệt, muốn phát triển nhanh thì mỗi quốc gia không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng tất cả các thành tựu khoa học, kỹ thuật, kinh tế mà loài người đã đạt được để thông thương, buôn bán trao đổi lẫn nhau. Vì thế mỗi quốc gia/khu vực lãnh thổ thường sẽ mua về những thứ không tự sản xuất được từ những nước khác, đồng thời bán những sản phẩm tự sản xuất được cho những nước có nhu cầu. Hoạt động này được gọi là hoạt động thương mại quốc tế. Nhu cầu hoạt động ngoại thương thực chất là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia trên thế giới. Nếu xem kinh tế ngoại thương là một tổng thể thống nhất thì xuất nhập khẩu chính là cốt lõi của tổng thể đó. Vì thế hoạt động ngoại thương ra đời và phát triển cùng với sự phát triển về nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia. Mặt khác, nhập khẩu là một trong những phương thức tiếp thu những thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới một cách nhanh chóng nhất, tạo ra cơ sở cho sự phát triển công nghệ hạ tầng và đồng thời là một trong những mục tiêu hàng đầu của chính sách thương mại quốc gia. Hợp đồng XNK hàng hóa hay còn có tên gọi khác là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, trước hết là một hợp đồng mua bán hàng hoá, do đó nó
  15. 15. 8 mang đầy đủ đặc trưng của một hợp đồng mua bán hàng hoá. Mặc dù pháp luật quốc tế và pháp luật các nước có các cách tiếp cận khác nhau, nhưng các hệ thống pháp luật đều thống nhất chung một quan điểm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một hợp đồng mua bán hàng hóa có “tính chất quốc tế”. Dưới đây là một số cách tiếp cận chủ yếu về “tính chất quốc tế” trong đó: Thứ nhất, tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Điều 1 Công ước Lahaye 1964 (Công ước về Luật thống nhất về mua bán quốc tế những động sản hữu hình) quy định như sau: Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hoá trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các bên ký kết được thiết lập ở các nước khác nhau [4]. Như vậy, theo quy định trên của Công ước Lahaye năm 1964, một hợp đồng XNK hàng hóa phải đảm bảo điều kiện các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hợp đồng đó thuộc một trong các trường hợp sau đây: “Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới của một quốc gia hoặc việc ký kết hợp đồng được diễn ra ở các nước khác nhau”. Việc quy định như trong Công ước Lahaye năm 1964 cho thấy rằng, để xác định một hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì yếu tố các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau là vấn đề hết sức quan trọng. Yếu tố quốc tịch của các bên trong hợp đồng không có ý nghĩa trong việc xác định “tính chất quốc tế” của loại hợp đồng này. Ví dụ: Hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết tại Anh giữa một thương nhân Anh có nơi cư trú tại Singapore và một doanh nghiệp Anh có trụ sở tại London; hàng hóa được chuyển từ Singapore về Anh. Hợp đồng này hoàn toàn đủ điều kiện là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của Công ước Lahaye năm 1964 dù các bên chủ thể có cùng quốc tịch [22, tr.13-18].
  16. 16. 9 Thứ hai, tính chất quốc tế trong hợp đồng XNK hàng hóa theo Công ước Viên năm 1980 (Công ước của Liên hợp quốc về Hợp đồng Mua bán hàng hóa Quốc tế được ký kết tại Viên năm 1980). Theo Điều 1 Công ước Viên 1980 quy định: 1. Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau: (i) khi các quốc gia này là thành viên của Công ước, hoặc (ii) khi theo quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của quốc gia thành viên Công ước. 2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa các bên. 3. Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước này [18, Điều 1]. Từ quy định trên của công ước Viên năm 1980 cho thấy tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được xác định chỉ bởi một tiêu chí duy nhất, đó là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau. Điều này khác với Công ước Lahaye năm 1964, các yếu tố như địa điểm ký kết hợp đồng, việc dịch chuyển qua biên giới đối với đối tượng của hợp đồng không được Công ước Viên năm 1980 đề cập đến. Ngoài ra, giống như Công ước Lahaye năm 1964, Công ước Viên năm 1980 cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa. Thứ ba, tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật của một số nước trên thế giới.
  17. 17. 10 Ví dụ: Theo pháp luật của Pháp, khi xác định tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa, người ta căn cứ vào hai tiêu chí là kinh tế và pháp lý: - Theo tiêu chí kinh tế, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế khi nó tạo nên sự dịch chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước. - Theo tiêu chí pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán… Thứ tư, tính chất quốc tế trong hợp đồng XNK hàng hóa theo pháp luật Việt Nam. Theo quy định pháp luật Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Hợp đồng mua bán quốc tế, Hợp đồng xuất nhập khẩu, Hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài …[23, tr.5-13]. Trước khi ban hành Luật thương mại năm 1997, theo quy chế tạm thời hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương số 4794/TN-XNK do Bộ Thương Nghiệp (nay là Bộ Công Thương) ban hành ngày 31/7/1991 thì Hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế; “tính chất quốc tế” của hợp đồng ngoại thương được xác định bởi ba tiêu chí sau đây: Chủ thể của hợp đồng là những pháp nhân có quốc tịch khác nhau; Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển từ nước này sang nước khác; Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên ký kết hợp đồng. Luật Thương mại năm 1997 quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hóa đối với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam, một bên là thương nhân nước ngoài”
  18. 18. 11 (Điều 80). Theo quy định này, việc xác định “tính chất quốc tế” của hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ dựa vào yếu tố quốc tịch của các bên tham gia ký kết. Cách hiểu này khác xa so với các quy định trong các điều ước quốc tế và tập quán thương mại quốc tế [19]. Luật thương mại năm 2005 không đưa ra tiêu chí để xác định “tính chất quốc tế” của hợp đồng mua bán hàng hóa mà liệt kê những hoạt động được coi là mua bán hàng hóa quốc tế. Cụ thể, Điều 27 của Luật quy định rõ việc mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa. Đồng thời, Luật cũng xác định rõ thế nào là xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa tại các điều 28 điều 29 và điều 30, theo đó [20]: Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật (Khoản 1 Điều 28). Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều 28). Tạm nhập, tái xuất hàng hóa là việc hàng hóa được đưa từ lãnh thổ nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật vào Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hóa đó ra khỏi Việt Nam (Khoảng 1 Điều 29). Tạm xuất, tái nhập hàng hóa làm việc hàng hóa được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hóa đó vào Việt Nam (Khoản 2 Điều 29).
  19. 19. 12 Chuyển khẩu hàng hóa là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam (Khoản 1 Điều 30). Như vậy, có thể thấy, các điều ước quốc tế mặc dù cùng điều chỉnh việc vấn đề mua bán hàng hóa quốc tế nhưng có sự khác nhau về tiêu chí xác định “tính chất quốc tế” trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Pháp luật các nước trên thế giới cũng vậy, một quốc gia căn cứ vào hoàn cảnh, điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mình cũng có những quy định không giống nhau về vấn đề này. Ở Việt Nam, việc xác định “tính chất quốc tế” hay yếu tố “ngoại thương” hoặc “nước ngoài” trong hợp đồng mua bán hàng hóa có sự thay đổi qua các thời kỳ: từ ba tiêu chí là quốc tịch của chủ thể của hợp đồng, việc dịch chuyển hàng hóa và đồng tiền thanh toán theo Quy chế 4794/TN-XNK năm 1991 xuống còn duy nhất một tiêu chí là quốc tịch của chủ thể hợp đồng theo Luật Thương mại năm 1997. Tiêu chí này tiếp tục thay đổi trong Luật Thương mại năm 2005, chỉ còn là việc dịch chuyển hàng hóa qua biên giới hoặc qua khu vực hải quan[17, tr.18-24]. 1.1.2. Đặc điểm của Hợp đồng XNK hàng hóa Như đã trình bày trên đây, pháp luật nhiều quốc gia có sự phân biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và hợp đồng XNK hàng hóa. So với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật các nước và dựa trên các điều ước quốc tế liên quan có những đặc điểm khác biệt sau đây: Về chủ thể của hợp đồng Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các bên (người bán và người mua) có trụ sở thương mại đất ở các nước khác nhau. Ví dụ: thương nhân A có trụ sở thương mại đặt tại Thái Lan ký kết hợp đồng mua bán gạo với thương nhân B có trụ sở thương mại tại Nhật Bản.
  20. 20. 13 Chủ thể tham gia hợp đồng xuất nhập khẩu có thể khác nhau theo các định nghĩa khác nhau trong các nguồn luật khác nhau. Theo công ước Viên: “Chủ thể tham gia hợp đồng là những bên tham gia ký kết hợp đồng có trụ sở thương mại hay có nơi cư trú thường xuyên ở các nước khác nhau”. Còn theo Điều 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005: “Chủ thể tham gia hợp đồng là những thương nhân mang quốc tịch khác nhau”. Thương nhân theo luật Thương mại Việt Nam được qui định trong Điều 6 của luật này là “cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên” Về đối tƣợng của hợp đồng Đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu là hàng hoá. Đối tượng của hợp đồng được qui định khác nhau trong các nguồn luật khác nhau. Ví dụ: công ty C của Việt Nam ký hợp đồng với một công ty D của liên bang Đức để xuất khẩu sản phẩm cá da trơn sang thị trường EU. Tại Việt Nam, theo Khoản 2 Điều 3 luật Thương mại Việt Nam 2005: “a. Hàng hoá là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai. b. Hàng hoá còn là những vật gắn liền với đất đai”. Có thể thấy luật Thương mại Việt Nam 2005 điều chỉnh không chỉ bó hẹp ở các động sản mà còn cả các động sản. Còn các hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như vận chuyển hàng hoá, thanh toán, bảo hiểm, ... thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này. Đây cũng là một hạn chế khiến cho Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi hội nhập WTO. Hàng hoá, đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu có thể được di chuyển ra khỏi biên giới của một quốc gia. Thực tế thì điều kiện này cũng cho thấy sự khác biệt giữa hợp đồng xuất nhập khẩu với một hợp đồng kinh tế nói chung, ví dụ như hợp đồng mua bán ký kết giữa một xí nghiệp trong khu chế xuất với một xí nghiệp ngoài khu chế xuất được pháp luật coi là hợp đồng xuất nhập khẩu, nhưng hàng hoá của hợp đồng đó không di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia.
  21. 21. 14 Về địa điểm ký kết hợp đồng Việc ký kết hợp đồng có thể diễn ra ở nước ngoài đối với một hoặc cả hai bên. Ví dụ: hợp đồng suất khẩu sản phẩm cá da trơn giữa công ty C của Việt Nam và công ty D của Đức nêu trên được các bên ký kết tại một hội chợ hàng thủy sản tổ chức tại Thái Lan là nước ngoài đối với cả hai bên hợp đồng. Hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, đặc điểm về địa điểm ký kết hợp đồng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã không còn trở nên phổ biến, bởi lẽ tùy thuộc vào tính chất của mối quan hệ mà các bên có thể tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng thông qua các công cụ hỗ trợ như thư điện tử, fax ... Hoặc có trường hợp các bên không cần ký kết hợp đồng mà chỉ cần thể hiện yêu cầu và sự chấp nhận theo thói quen trong hoạt động thương mại. Trong những trường hợp như vậy, địa điểm ký kết hợp đồng không có ý nghĩa đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Về đồng tiền thanh toán Tiền tệ dùng để thanh toán theo hợp đồng có thể là ngoại tệ đối với các bên. Ví dụ: hợp đồng được giao kết giữa người bán Việt Nam và người mua Trung Quốc, hai bên thỏa thuận sử dụng đồng đô la Mỹ (USD) làm đồng tiền thanh toán. Lúc này đồng đô la Mỹ là ngoại tệ đối với cả người bán Việt Nam và người mua Trung Quốc. Tuy nhiên, trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, nhiều khu vực kinh tế chung được hình thành (Ví dụ: cộng đồng kinh tế Châu Âu -EC) thì yếu tố đồng tiền thanh toán không còn nhiều ý nghĩa trong hợp đồng thương mại quốc tế, bởi lẽ các nước trong khu vực cùng sử dụng một đồng tiền chung (Đồng tiền chung Euro). Về cơ quan giải quyết tranh chấp Tranh chấp phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được giải quyết bằng tòa án hoặc trọng tài nước ngoài
  22. 22. 15 đối với một hoặc cả hai bên. Ví dụ: khi phát sinh tranh chấp trong hợp đồng mua bán gạo giữa thương nhân A có trụ sở thương mại tại Thái Lan và thương nhân B có trụ sở thương mại tại Nhật Bản, hai bên có thể thỏa thuận lựa chọn tòa án của một trong hai nước hoặc trọng tài nước thứ ba (Ví dụ: Trọng tài Quốc tế Singapore) để giải quyết tranh chấp phát sinh. Về pháp luật điều chỉnh hợp đồng Pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể là luật của bên mua, cũng có thể là luật của nước thứ bat rung gian hoặc là áp dụng một công ước quốc tế như công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Ngoài ra hợp đồng xuất nhập khẩu còn chịu sự Điều chỉnh của tập quán thương mại quốc tế và thậm chí là án lệ quốc tế (tiền lệ pháp). Ví dụ: Thương nhân Thái Lan và thương nhân Nhật Bản có thể thỏa thuận về việc lựa chọn pháp luật của Anh (là pháp luật nước ngoài với cả hai bên) hoặc họ có thể lựa chọn điều ước quốc tế (Ví dụ như công ước Viên năm 1980) hoặc tập quán thương mại quốc tế (như INCOTERMS 2000) để điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán của mình. Để tránh hiện tượng “xung đột pháp luật” (hiện tượng có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau có thể cùng tham gia điều chỉnh một quan hệ pháp luật) thì các bên phải thống nhất dẫn chiếu một nguồn luật điều chỉnh cụ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng [23, tr.23-44] Ở Việt Nam, luật quốc gia có liên quan đến hợp đồng ngoại thương nói chung và hợp đồng xuất nhập khẩu nói riêng là luật Thương mại 2005, bộ luật Hàng hải, bộ luật Dân sự 2005, luật thuế xuất nhập khẩu, ... Ngoài ra còn hàng loạt các nghị định, nghị quyết, qui định, thông tư như NĐ số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 1 năm 2006, NĐ số 19/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 2 năm 2006, NĐ số 72/2006/NĐ-CP ngày 25/7/2006 nhằm qui định hoặc chi tiết hoá hướng dẫn việc thi hành các bộ luật này.
  23. 23. 16 1.2. Khái quát Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng 1.2.1. Khái niệm Hợp đồng mua bán điện Trong một dự án điện sẽ có nhiều hợp đồng khác nhau như hợp đồng mua bán điện (HĐMBĐ) kí kết giữa chủ đầu tư và bên mua điện, các hợp đồng liên quan trong quá trình xây dựng nhà máy (hợp đồng tổng thầu, EPC…), hợp đồng vay vốn, thuê đất, thuê vận hành và bảo dưỡng, hợp đồng cung cấp nhiên liệu (ở các dự án nhiệt điện), cấp nước xây dựng và nước vận hành…. Tuy nhiên hợp đồng mua bán điện luôn được coi là hợp đồng quan trọng, là trung tâm của các dự án điện đầu tư theo các hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (Build - Operation- Transfer, BOT), xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (Build - Transfer - Operation, BTO), xây dựng - chuyển giao (Build - Transfer, BT) hay xây dựng - sở hữu - kinh doanh (Build - Own - Operation, BOO) (gọi chung là các nhà máy điện/dự án điện độc lập IPP- Independent Power Plant). Ngoài ra, còn phải kể đến các hợp đồng bán lẻ (tiêu dùng) điện sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân trên thực tế. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn thạc sỹ này, tác giả xin chỉ đề cập tới các hợp đồng mang tính chất bán buôn (whole-sale) giữa các đơn vị phát điện và bên mua buôn là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) hoặc đơn vị được phân cấp/ủy quyền. Sở dĩ hợp đồng mua bán điện luôn có vai trò quan trọng như vậy vì nó quy định đầu ra cho sản phẩm mà các dự án điện độc lập này sản xuất ra. Nếu như các nhà máy sản xuất khác thường có nhiều hợp đồng để bán sản phẩm của mình thì các dự án điện độc lập thường chỉ kí một hợp đồng với một chủ thể để bán sản phẩm của họ, trong HĐMBĐ cũng thường có điều khoản bên bán điện không được bán điện cho bên thứ 3, trừ khi có sự đồng ý của bên mua điện. Đặc điểm này lại càng làm cho các HĐMBĐ trở nên quan trọng đối với mỗi dự án điện độc lập.
  24. 24. 17 Trong thực tế ngành điện, có nhiều cách hiểu khác nhau về hợp đồng mua bán điện. Thông thường trên thế giới thuật ngữ Hợp đồng mua bán điện được dùng theo nghĩa hẹp là Power Purchase Agreement/PPA hoặc Energy Purchase Agreement hay Energy Service Agreement thường chỉ bao gồm hợp đồng giữa các công ty phát điện độc lập (independent power producer - IPP) và các đơn vị điện lực (electric utility/power utility) mà thôi. Hiện nay PPA được sử dụng rộng rãi cho các dự án sử dụng năng lượng tái tạo (renewable resources) như năng lượng mặt trời, gió hay địa nhiệt tại Mỹ, Canada, các nước châu Âu... . Tại Glossary Legal Term (ERRA Issue Paper 2004) do ERRA Legal Regulation Working Group [32] biên soạn thì hợp đồng mua bán điện được hiểu là: Hợp đồng được kí giữa một bên phát điện độc lập và đơn vị điện lực. Hợp đồng mua bán điện quy định các điều khoản và điều kiện mà theo đó điện năng sẽ được sản xuất và bán ra. Hợp đồng mua bán điện yêu cầu bên phát điện độc lập cung cấp điện với giá xác định trong thời hạn hợp đồng. Nội dung chính của hợp đồng mua bán điện bao gồm: xác định quy mô và các thông số vận hành nhà máy; các mốc chính cung cấp điện, các điều khoản hợp đồng; cơ chế giá, các dịch vụ và quy định thực hiện các nghĩa vụ; quyền điều độ; điều kiện chấm dứt hợp đồng và vi phạm hợp đồng. Trong khi đó theo Glossary of Project Finance Terms and Acronyms trên cổng thông tin điện tử Project Finance Portal [32] trang web cung cấp các chỉ dẫn cho các luật sư, nhà nghiên cứu, sinh viên tìm hiểu thông tin về tài trợ dự án, tài chính cho cơ sở hạ tầng và cơ chế hợp tác giữa nhà nước và tư nhân (publicprivate partnerships, PPP) thuộc Trường Kinh doanh Harvard (Harvard Business School) thì “HĐMBĐ (Power Purchase Agreement) là hợp đồng áp dụng đối với khách hàng lớn để mua điện từ một dự án điện. Đây thường là hợp đồng quan trọng nhất trong suốt quá trình xây dựng và vận hành dự án điện”.
  25. 25. 18 Ở Việt Nam khái niệm hợp đồng mua bán điện (và trong trường hợp sử dụng tiếng Anh vẫn dùng thuật ngữ Power Purchase Agreement) thường được hiểu với nghĩa rộng hơn, không chỉ bao gồm các hợp đồng mua bán điện được kí kết với các chủ đầu tư dự án điện độc lập mà còn dùng cho cả trường hợp bán buôn điện, bán lẻ điện, xuất nhập khẩu điện như trình bày ở phần dưới đây về các loại hợp đồng mua bán điện. Như vậy, HĐMBĐ có thể hiểu là sự hợp đồng được ký kết giữa bên bán và bên mua, bao gồm các điều khoản và điều kiện mà theo đó việc mua bán điện được thực hiện. Nội dung chính của hợp đồng mua bán điện bao gồm: xác định các mốc chính cung cấp điện, các điều khoản hợp đồng; cơ chế giá, các dịch vụ và quy định thực hiện các nghĩa vụ; quyền điều độ; điều kiện chấm dứt hợp đồng và vi phạm hợp đồng [14, tr.16]. 1.2.2. Phân loại Hợp đồng mua bán điện năng Hợp đồng mua bán điện rất phong phú, đa dạng trong thực tế. Về mặt khoa học, người ta có thể phân chia HĐ thành những loại khác nhau, dựa trên những tiêu chí khác nhau như: - Dựa trên yếu tố lãnh thổ có thể phân loại Hợp đồng mua bán điện thành hai loại là Hợp đồng mua bán điện trong nước và Hợp đồng mua bán điện với nước ngoài. - Dựa trên các khâu trong quá trình sản xuất và tiêu thụ điện năng, có thể phân loại hợp đồng mua bán điện thành: + Hợp đồng mua điện năng từ các đơn vị phát điện (Power Purchase Agreement- PPA) Loại hợp đồng này được kí kết giữa đơn vị phát điện và Tập đoàn Điện lực Việt Nam hoặc các đơn vị phân phối điện trong EVN (tuỳ theo mức công suất và nguồn nhiên liệu theo phân cấp giữa Tập đoàn và các đơn vị). + Hợp đồng bán buôn điện năng: được kí kết giữa EVN và các đơn vị phân phối điện (bao gồm 5 Tổng công ty phân phối điện - hạch toán độc lập là
  26. 26. 19 thành viên của Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam). Khi thị trường bán buôn điện được thực hiện theo lộ trình quy định của Luật Điện lực các hợp đồng bán buôn điện sẽ được chuyển giao cho các Tổng Công ty này thực hiện. + Hợp đồng mua bán điện đối với các khách hàng trực tiếp sử dụng điện được kí kết giữa các công ty phân phối điện và khách hàng sử dụng điện (bao gồm cả khách hàng dùng điện để sản xuất và sinh hoạt) hay còn gọi là hợp đồng bán lẻ điện. - Dựa trên luật áp dụng hiện nay ở Việt Nam có hai loại hợp đồng mua bán điện năng là hợp đồng mua bán điện áp dụng pháp luật Việt Nam và hợp đồng mua bán điện năng áp dụng pháp luật nước ngoài. Hợp đồng mua bán điện kí kết với các đối tác nước ngoài hoặc đối với các dự án điện được đầu tư theo hình thức BOT mà nhà đầu tư nước ngoài thông thường áp dụng pháp luật nước ngoài, chủ yếu là luật Singapore hoặc luật Anh. - Theo phương án tính tiền điện có hai loại là hợp đồng giá toàn phần (feed in tariff) và giá hai thành phần (bao gồm phí điện năng và phí công suất) [14, tr.14-17] Trong phạm vi luận văn thạc sĩ của chuyên ngành Luật quốc tế, luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu Hợp đồng mua bán điện với nước ngoài hay còn được gọi là HĐXNK điện năng. 1.2.3. Khái niệm Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng Hợp đồng xuất nhập khẩu (HĐXNK) điện năng là một loại hợp đồng mua bán điện với nước ngoài, do đó nó mang đầy đủ đặc trưng của một hợp đồng mua bán hàng hoá. Mặc dù pháp luật quốc tế và pháp luật các nước có các cách tiếp cận khác nhau, nhưng các hệ thống pháp luật đều thống nhất chung một quan điểm về HĐXNK điện năng là một hợp đồng mua bán điện có “tính chất quốc tế”. Trước kia, đa số ở các nước việc phát triển điện lực chủ yếu do Nhà
  27. 27. 20 nước đảm nhiệm. Tuy nhiên cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển do nhu cầu sử dụng điện tăng cao làm cho Nhà nước không còn đủ tiềm lực tài chính để đầu tư đủ các nhà máy điện đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Việc thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đầu tư vào phát triển điện lực cũng như tăng cường hoạt động XNK điện năng vừa giúp đáp ứng nhu cầu sử dụng điện của nền kinh tế vừa không làm tăng nợ công của Nhà nước. Ở các nước châu Âu vào thập kỉ cuối cùng của thế kỉ 20, HĐMBĐ (Power Purchase Agreement- PPA) với thời hạn dài (long-term PPA) được sử dụng rộng rãi, đặc biệt ở các nước còn duy trì cấu trúc thị trường người mua duy nhất (single buyer), ví dụ như ở Hungary, Bungary, Ba Lan, Cộng hòa Séc.... Do đặc thù của điện năng là quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời và luôn cần có hệ thống đường dây truyền tải, phân phối đến bên mua, người tiêu dùng, vì vậy các hợp đồng mua bán điện với nước ngoài thường được kí kết với các nước lân cận mà đối với Việt Nam chủ yếu là mua bán điện với Trung Quốc, Lào và Campuchia. Hiện nay cùng với quá trình hợp tác phát triển ngành điện trong khu vực Đông Nam Á, ngành điện các nước ASEAN, trong khuôn khổ hợp tác HAPUA (Heads of ASEAN Power Utilities/Authorities) đang tiến hành xây dựng mẫu Hợp đồng đấu nối song phương (Bilateral Interconnection Arrangement Model) để thuận tiện cho các bên trong quá trình mua bán điện qua biên giới. HAPUA đang cố gắng xây dựng mẫu cho cả hai phương thức mua bán điện thời hạn dài (long term model) và mẫu cho phương thức mua bán ngày tới (day-ahead model). Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai mẫu này là với long-term model sẽ xác định rõ bên bán và bên mua điện trong suốt thời hạn hợp đồng còn đối với day-ahead model thì bên bán điện và bên mua điện có thể thay đổi từng ngày, cụ thể là bên nào có nhu cầu mua điện/bán điện sẽ gửi thông báo cho bên kia theo một chương trình xác định để các bên cùng
  28. 28. 21 thỏa thuận thống nhất về sản lượng điện mua bán. Day-ahead model là dạng hợp đồng hết sức linh hoạt, tạo điều kiện tối đa cho các bên trong hợp tác mua bán điện và trợ giúp lẫn nhau nhất là khi xảy ra sự cố của hệ thống cần có nguồn điện bổ sung kịp thời [14, tr.22-24]. 1.2.4. Đặc điểm của hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng HĐXNK điện năng là một loại hợp đồng mua bán hàng hóa, vì vậy nó mang đầy đủ các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường. Cụ thể là về chủ thể chủ yếu được ký kết giữa các thương nhân; về đối tượng HĐXNK điện năng có đối tượng là hàng hóa; về nội dung HĐXNK điện năng cũng thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán như bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu, bên mua có nghĩa vụ thanh toán, nhận quyền sở hữu… Bên cạnh đó, do đặc thù của đối tượng của HĐXNK điện năng là loại hàng hóa đặc biệt và tính chất quốc tế của nó nên loại hợp đồng này mang một số đặc điểm riêng biệt như sau: Về chủ thể của HĐXNK điện năng Điện lực là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, vì vậy các bên khi tham gia vào hoạt động sản xuất, truyền tải, phân phối điện đều phải có giấy phép hoạt động điện lực phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động như phát điện, phân phối điện, truyền tải điện theo quy định của pháp luật mỗi quốc gia. Cho đến thời điểm hiện nay ở Việt Nam, chủ thể của hợp đồng mua bán điện nói chung và HĐXNKĐN nói riêng khá đặc biệt và có số lượng tương đối hạn chế nếu so sánh với các hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường khác. Chủ thể của HĐMBĐ nói chung bao gồm bên bán điện và bên mua điện. Theo quy định tại Điều 2 Thông tư số 36/2018/TT-BCT ngày 16 tháng 10 năm 2018 của Bộ Công Thương [3] về việc ban hành quy định về trình tự, thủ tục cấp, thu hồi giấy phép hoạt động điện lực thì tất cả tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện lực trong các lĩnh vực: Tư vấn chuyên ngành điện
  29. 29. 22 lực, phát điện, truyền tải điện, phân phối điện, bán buôn điện, bán lẻ điện đều phải có giấy phép để hoạt động, do đó để được bán điện chủ đầu tư các dự án điện phải có giấy phép phát điện, bên mua điện phải có giấy phép bán buôn, bán lẻ điện. Luật Điện lực 2004 sửa đổi bổ sung năm 2012 cũng quy định việc mua bán điện với nước ngoài phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép và được ghi trong giấy phép hoạt động điện lực (Khoản 1 Điều 28). Đồng thời, các bên khi thực hiện việc mua bán điện với nước ngoài cần đảm bảo các nguyên tắc sau theo Khoản 2 Điều 28 Luật Điện lực 2004 sửa đổi bổ sung năm 2012: - Không làm ảnh hưởng đến độ an toàn, tin cậy và tính ổn định trong vận hành hệ thống điện quốc gia; - Đáp ứng các tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật, quy trình, quy phạm quản lý vận hành hệ thống điện quốc gia; - Không làm tổn hại đến lợi ích của khách hàng sử dụng điện trong nước và an ninh năng lượng quốc gia. Đối với chủ thể mua điện tại Việt Nam, Quyết định số 26/2006/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/01/2006 về việc phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành và phát triển các cấp độ thị trường điện lực tại Việt Nam [6] đã nêu rõ Thị trường điện tại Việt Nam được hình thành và phát triển qua 3 cấp độ: Thị trường phát điện cạnh tranh (2005-2014); Thị trường bán buôn điện cạnh tranh (2015-2022); Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh (sau năm 2022). Trong đó, theo thiết kế thị trường điện phát điện cạnh tranh, chỉ có một Công ty mua buôn duy nhất trên thị trường được phép mua buôn điện từ tất cả các đơn vị phát điện tham gia thị trường và bán buôn cho các Công ty phân phối điện (Khoản 2 Điều 1). Do đó, Hội đồng quản trị Tập đoàn Điện lực Việt Nam (nay là Hội đồng thành viên EVN) vào ngày 31/12/2007, đã ban hành quyết định số 1182/QĐ-EVN-HĐQT về việc thành lập Công ty Mua bán
  30. 30. 23 điện (EPTC) [11], đây cũng là công ty đại diện cho EVN thực hiện chức năng mua buôn duy nhất trên thị trường điện tại Việt Nam hiện nay đối với cả các hợp đồng mua bán điện trong nước từ cấp điện áp 30MW trở lên, năng lượng mới, năng lượng tái tạo và mua bán điện với ngoài nước. Đối với trường hợp khách hàng sử dụng điện ở biên giới có nhu cầu mua điện trực tiếp với nước ngoài mà không qua hệ thống điện quốc gia, Luật Điện lực 2004 cũng cho phép đối tượng này được trực tiếp mua điện nhưng phải bảo đảm các tiêu chuẩn an toàn điện và các quy định khác của pháp luật có liên quan (Khoản 3 Điều 28). Trong phạm vi Luận văn Thạc sĩ này sẽ chỉ đề cập tới các HĐXNK điện năng giữa EPTC với các đối tác nước ngoài mà không đề cập tới các Hợp đồng mua bán điện trực tiếp của các khách hàng sử dụng điện ở biên giới với nước ngoài. Cùng với quá trình xây dựng thị trường điện tại Việt Nam thì chủ thể HĐMBĐ sẽ có thay đổi phù hợp với các cấp độ phát triển của thị trường và cấu trúc thị trường được phê duyệt. Cụ thể là ở thị trường phát điện cạnh tranh sẽ vẫn duy trì chế độ một người mua, tức là chỉ có một chủ thể trong thị trường chịu trách nhiệm mua điện từ nhà máy và bán lại cho các đơn vị phân phối điện. Đến giai đoạn thị trường bán buôn điện cạnh tranh sẽ có nhiều chủ thể cùng cạnh tranh mua buôn điện, các đơn vị phát điện (bên bán điện) có thể lựa chọn nhiều đối tác mua điện của mình. Như vậy, chủ thể HĐXNK điện năng trước hết bị giới hạn bởi yêu cầu về giấy phép hoạt động điện lực. Do điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay mà chủ thể này còn đặc biệt ở chỗ đối với Hợp đồng nhập khẩu điện của Việt Nam, bên mua của hợp đồng luôn là Công ty Mua bán điện (EPTC)- đơn vị thành viên của EVN và bên còn lại là Công ty Điện lực của các nước đối tác mua bán điện với Việt Nam còn đối với Hợp đồng xuất khẩu điện từ Việt Nam sang nước ngoài, bên bán còn có thể là các doanh nghiệp trong nước
  31. 31. 24 hoặc nước ngoài. Tuy nhiên giới hạn này sẽ nhanh chóng được thay đổi cùng với quá trình xây dựng thị trường điện cạnh tranh ở Việt Nam. Về đối tƣợng của HĐXNK điện năng Đối tượng của HĐXNKĐN là điện năng, một loại hàng hóa đặc biệt, ở nhiều loại nguồn điện như thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện tuabin khí, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, sinh khối… việc sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết vì vậy không phải lúc nào cũng có thể đảm bảo sản xuất ổn định, luôn phải kết hợp các loại nguồn điện khác nhau để đảm bảo lượng điện năng ổn định cung cấp cho nền kinh tế xã hội. Ngoài ra do điện năng là loại hàng hóa không thể dự trữ, quá trình sản xuất và sử dụng phải diễn ra đồng thời nên cần phối hợp nhịp nhàng giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa bán điện và mua điện. Do tính đặc thù của đối tượng mà HĐXNK điện năng phải bao gồm nhiều điều khoản khác nhau như pháp lý, thương mại và kỹ thuật để bao quát được tất cả các khía cạnh của quan hệ mua bán điện; ngoài phần chính của hợp đồng, mỗi hợp đồng mua bán điện thường bao gồm khoảng trên dưới 10 phụ lục kèm theo quy định chi tiết về các tiêu chuẩn kĩ thuật, chất lượng điện năng, đo đếm lượng điện năng giao nhận, tính toán tiền điện, điều độ...Đối với những hợp đồng mua bán điện từ các Dự án điện độc lập, để đảm bảo khả năng sẵn sàng cung cấp điện, chất lượng điện năng, các hợp đồng này luôn có phần Phụ lục về các thông số kĩ thuật, thử nghiệm, nghiệm thu nhà máy. Như đã trình bày ở trên, yếu tố then chốt đảm bảo “tính quốc tế” của một Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chính là việc hàng hóa -đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được chuyển dịch qua biên giới giữa các quốc gia. Ở Hợp đồng XNK điện năng cũng vậy, điện năng (đối tượng của hợp đồng) được dịch chuyển qua biên giới giữa các quốc gia thông qua mạng lưới truyền tải điện.Một đặc điểm nữa của điện năng cũng cần được
  32. 32. 25 nhắc đến là tuy điện năng rất quan trọng trong đời sống nhưng cũng nguy hiểm đối với sức khỏe con người hoặc các loài vật khi tiếp xúc. Bởi thế sử dụng điện an toàn luôn được ưu tiên, và vì thế trong HĐMBĐ các bên cần thỏa thuận về cách thức xác định tình trạng khẩn cấp, hành động kịp thời khi tình trạng khẩn cấp xảy ra và hậu quả của tình trạng này. Đồng thời, bên bán là các nhà máy điện luôn phải cam kết vận hành và bảo dưỡng nhà máy theo quy định của pháp luật và thông lệ ứng dụng cẩn trọng ngành điện (Prudent Utilities Practices). Về thời hạn của HĐXNK điện năng Thông thường thời hạn của HĐXNKĐN tương đối dài. Bằng việc xác định thời hạn mua bán điện, chủ đầu tư có thể nhìn nhận được nguồn tiền thu được từ nhà máy, xác định lợi nhuận mà mình có thể đạt được, bởi vậy thời hạn này thường phải đảm bảo đủ dài để các chủ đầu tư thu hồi được vốn đã bỏ ra và người mua điện có giá điện hợp lý. Nếu thời hạn hợp đồng ngắn, giá điện sẽ cao hơn thời hạn dài bởi chủ đầu tư phải thu hồi vốn nhanh hơn. Ở Việt Nam hiện nay, các Hợp đồng mua bán điện với nước ngoài thường có thời hạn từ 20- 25 năm, được chia thành các giai đoạn thường là 5 năm để thay đổi cấu trúc giá điện. HĐXNK điện năng cũng là một trong những loại hợp đồng phức tạp nhất cả về mặt nội dung cũng như thủ tục đàm phán, kí kết và thực hiện hợp đồng. Thực tế không chỉ ở Việt Nam mà ở cả các nước khác trên thế giới quá trình đàm phán thường kéo dài 1-2 năm hoặc lâu hơn, ở nhiều nước sau khi kí kết hợp đồng mua bán điện, các bên còn phải trình, báo cáo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trước khi thực hiện [14, tr.26-29]. Về luật áp dụng trong HĐXNK điện năng Không giống như các HĐMBĐ trong nước có luật áp dụng thường là pháp luật quốc gia dù trong hợp đồng có ghi nhận hay không, đối với các hợp đồng xuất nhập khẩu điện hoặc mua bán điện từ các dự án BOT, BTO, BT
  33. 33. 26 nước ngoài có thể thỏa thuận luật áp dụng là pháp luật nước thứ ba. Các Hợp đồng mua bán điện với nước ngoài của Việt Nam chủ yếu áp dụng luật Singapore hoặc luật Anh, ví dụ: PPA với Cambodia luật áp dụng là luật Anh, giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Singapore. Tùy từng trường hợp và giai đoạn cụ thể, có những HĐXNK điện năng các bên quy định việc các chủ thể áp dụng pháp luật quốc gia chủ thể mang quốc tịch trong việc vận hành và nghĩa vụ tài chính với quốc gia của minh, còn đối với các quan hệ hợp đồng hoặc giải quyết tranh chấp, các bên áp dụng thông lệ quốc tế và lựa chon áp dụng pháp luật của nước thứ 3 điều chỉnh. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài với các dự án BOT, BTO, BT áp dụng quy định của Nghị định số 63/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/05/2018 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư [8]. Ngoài ra, các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia về hợp tác phát triển điện năng là căn cứ để các doanh nghiệp điện lực ở Việt Nam và nước ngoài kí kết các HĐXNK điện năng, ví dụ: Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia về hợp tác trong lĩnh vực điện lực (Agreement between the Government of the Socialist Republic of Vietnam and the Royal Government of Cambodia on the power sector cooperation) kí ngày 10/06/2006 [9]. Trên cơ sở các hiệp định này, các đơn vị điện lực thực hiện đàm phán và kí kết HĐMBĐ cụ thể với nhau. Cơ chế giải quyết tranh chấp và thẩm quyền phê duyệt của các HĐXNK điện năng Các Hợp đồng mua bán điện với nước ngoài của Việt Nam chủ yếu áp dụng luật Singapore hoặc luật Anh, do vậy các bên thường lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua các trung tâm trọng tại quốc tế tại Singapore hoặc Hongkong với quy tắc xét xử theo quy định của pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
  34. 34. 27 Tùy theo pháp luật của quốc gia có quan hệ hợp đồng XNKĐN, nhưng đa phần các HĐXNK điện năng đều phải được cơ quan cấp Chính phủ phê duyệt trước khi có hiệu lực thi hành. 1.2.5. Nguyên tắc, yêu cầu khi giao kết Hợp đồng XNKĐN Hợp đồng xuất nhập khẩu nói chung và Hợp đồng XNKĐN nói riêng được ký kết dựa trên những nguyên tắc sau đây: Nguyên tắc tự do, tự nguyện: Hợp đồng là sự thoả thuận và thống nhất ý chí của các bên tham gia xác lập quan hệ hợp đồng, do đó việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu phải dựa trên cơ sở ý chí tự do của các bên tham gia hợp đồng. Các bên tham gia hợp đồng có quyền bày tỏ ý kiến của mình, không chịu áp đặt ý chí của bất kỳ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Nguyên tắc này loại bỏ tất cả các hợp đồng được ký kết trên cơ sở dùng bạo lực, bị đe dọa, bị lừa bịp hoặc do có sự nhầm lẫn. Do vậy, tự nguyện là nguyên tắc cơ bản bắt buộc phải tuân thủ khi các bên chủ thể tham gia ký kết hợp đồng. Nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi: Có nghĩa là các bên tham gia hợp đồng hoàn toàn bình đẳng với nhau về các quyền và nghĩa vụ. Điều này thể hiện ở chỗ khi đàm phán ký kết hợp đồng các bên đều có quyền đưa ra những ý kiến của mình và đều có quyền chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của bên kia mà không bên nào ép buộc bên nào. Trong quan hệ hợp đồng kinh tế, quyền và nghĩa vụ phải cân bằng nhau và các bên tham gia hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm với nhau về việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thƣơng mại đƣợc thiết lập giữa các bên: Trừ trường hợp đã có thỏa thuận khác, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không trái với qui định của pháp luật
  35. 35. 28 Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng: Các bên tham gia hợp đồng phải có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hóa và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin đó. Bên cạnh các bên đó còn phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh. Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thƣơng mại: Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các Điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo qui định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý đương nhiên trong văn bản. 1.2.6. Nguồn luật điều chỉnh Hợp đồng XNKĐN Hoạt động XNKĐN là một hoạt động thương mại quốc tế, do đó trong lĩnh vực này, luật pháp và thực tiễn đều ghi nhận các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng. Luật áp dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế nói chung và HĐXNK điện năng nói riêng có thể là luật quốc gia, các điều ước quốc tế về thương mại, tập quán thương mại quốc tế, hợp đồng mẫu, các nguyên tắc chung về hợp đồng và các học thuyết pháp lý. Thông thường các điều khoản trong hợp đồng không thể điều chỉnh tất cả các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện hợp động mà có nhiều vấn đề các bên chưa thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng trong hợp đồng. Chính vì thế, luật áp dụng cho hợp đồng đóng vai trò là bổ khuyết các vấn đề thiết sót đó. Các bên có thể lựa chọn các nguồn luật khác nhau để điều chỉnh hợp đồng. Thứ nhất đó là lựa chọn luật quốc gia điều chỉnh hợp đồng. Luật pháp quốc gia sẽ được áp dụng trong trường hợp được các bên lựa chọn. Tuy nhiên, các bên nên chủ động lựa chọn luật quốc gia mà mình quen thuộc. Việc chọn luật phải được ghi nhận cụ thể trong một điều khoản hợp đồng, gọi là “Điều khoản chọn luật” hoặc “Luật điều chỉnh”.
  36. 36. 29 Thứ hai, các bên có thể áp dụng điều ước quốc tế về thương mại. Trong lĩnh vực mua bán hàng hóa, điều ước quốc tế điều chỉnh loại hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chủ yếu là Công ước Liên Hiệp Quốc năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, được ký kết tại Viên năm 1980. Tuy nhiên, lĩnh vực điện năng lại không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Công ước Viên. Thay vào đó chỉ có 2 Hiệp ước chủ yếu liên quan tới vấn đề XNKĐN đó là Hiệp ước Hiến chương Năng lượng năm 1994 và Hiến chương Năng lượng Quốc tế năm 2015 [15]. Lựa chọn thứ ba đó là các tập quán thương mại quốc tế. Tập quán thương mại là những thói quen, phong tục về thương mại được nhiều nước áp dụng và áp dụng một cách thường xuyên với nội dung rõ ràng để dựa vào đó xác bên xác định quyền và nghĩa vụ với nhau. Hiện nay tập quán thương mại quốc tế bao gồm: - Tập quán thương mại quốc tế chung: là tập quán thương mại được nhiều quốc gia công nhận và áp dụng ở nhiều nơi và nhiều khu vực trên thế giới như: INCOTERM năm 2010, UCP 500 do ICC ban hành đưa ra các quy tắc để thực hành thống nhất về thư tín dụng. - Tập quán thương mại địa phương được áp dụng ở từng nước, từng khu vực hoặc từng cảng. Ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận áp dụng các nguồn luật khác để điều chỉnh hợp đồng XNKĐN như các nguyên tắc chung về hợp đồng (Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT năm 2004 của PICC) [24] hay các hợp đồng mẫu. 1.2.7. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật đối với Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng Lĩnh vực điện lực là lĩnh vực phức tạp và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của tất cả các quốc gia trên thế giới, vì vậy đòi
  37. 37. 30 hỏi phải có một hệ thống văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, điều chỉnh tổng thể và toàn diện các quan hệ pháp luật phát sinh trong lĩnh vực này. QLNN về hoạt động XNKĐN bằng pháp luật là sự tác động của Nhà nước lên các chủ thể chịu trách nhiệm về hoạt động XNKĐN thông qua quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách và quy định pháp luật; thiết lập và sử dụng hiệu quả công cụ XNK; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về XNKĐN; kiểm tra, kiểm soát hoạt động XNKĐN, tạo ra môi trường thuận lợi nhất để hoạt động XNKĐN phát triển đúng định hướng phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, có hiệu quả một cách bền vững trong điều kiện biến động của môi trường trong nước và thương mại quốc tế. Ngoài ra, nhà nước còn phải quản lý hoạt động XNKĐN bằng pháp luật là bởi: Thứ nhất, vì mục tiêu hiệu quả kinh tế, mọi quốc gia đều phải tập trung hóa và chuyên môn hóa sản xuất bao gồm nâng quy mô sản xuất, quy mô dịch vụ của đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ, mà điện năng là thành phần không thể thiếu của tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ để phát triển, từ đó đòi hỏi các nước phải giao lưu quốc tế về kinh tế để tránh tình trạng sản xuất thừa hay thiếu điện năng vào những lúc cần thiết.Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như ngày nay, nếu không có các chính sách bảo hộ phù hợp thì nền công nghiệp non trẻ của nước ta sẽ không đứng vững được. Vì vậy, để thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cần hoàn thiện quản lý nhà nước về hoạt động XNKĐN để đảm bảo đủ nguồn lực phát triển. Thứ hai, bất cứ quốc gia nào trên con đường phát triển cũng phải đưa ra các lựa chọn nguồn cung cấp năng lượng phù hợp, chi phí hợp lý và các quy định nghiêm ngặt về phát thải. Đặc biệt tại Việt Nam, giá bán lẻ điện hiện chưa vận hành đầy đủ theo cơ chế cạnh tranh, giá mua điện của các nguồn năng
  38. 38. 31 lượng tái tạo (NLTT) đang cao hơn so giá bán lẻ điện bình quân, khiến thách thức về mục tiêu cấp điện ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội ngày càng căng thẳng hơn, do đó cần có sự quản lý chặt chẽ hơn nữa bằng pháp luật của Nhà nước đối với hoạt động XNKĐN để giải quyết triệt để vấn đề này. Thứ ba, HĐXNK điện năng liên quan đến chính sách phát triển và an ninh năng lượng của mỗi quốc gia bởi với nền kinh tế toàn cầu ngày một phát triển như hiện nay dẫn đến nhu cầu năng lượng cũng tăng rất nhanh. Ngày nay, các nguồn năng lượng truyền thống đang cạn kiệt, phát thải khí nhà kính gây biến đổi khí hậu, ảnh hưởng môi trường,… trong khi các nguồn năng lượng mới thân thiện chưa đáp ứng được nhu cầu bù đắp thiếu hụt (cầu lớn hơn cung hay xung đột giữa phát triển năng lượng và kinh tế xã hội bền vững, bảo vệ môi trường) nên việc giải bài toán an ninh năng lượng càng trở nên khó khăn hơn, xuất hiện nhiều mâu thuẫn giữa các quốc gia, giữa các vùng miền cũng như nhiều khó khăn thách thức trong thực hiện chương trình kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia. Các cuộc xung đột hiện nay trên thế giới không chỉ gây ra bởi mâu thuẫn về quan điểm chính trị mà còn có nguyên nhân tranh chấp về nguồn nhiên liệu cho an ninh năng lượng của các quốc gia phát triển. Chính vì thế các nguồn điện nhập khẩu từ các nước láng giềng vẫn là lựa chọn không tránh khỏi để một quốc gia vừa “có điện”, vừa bảo vệ được lợi ích môi trường và xã hội và đặc biệt là bảo vệ an ninh năng lượng của mình. Tại Việt Nam, Dự kiến, ngành Điện cần đảm bảo sản xuất 265 - 278 tỷ kWh vào năm 2020 và khoảng 572 - 632 tỷ kWh vào năm 2030. Tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện giai đoạn 2016 - 2020 vào khoảng 10,3 - 11,3%/ năm, giai đoạn 2021 - 2030 khoảng 8,0 - 8,5%/năm [13]. Đây đều là những thách thức rất lớn mà Việt Nam đang phải đối mặt. Đồng thời, việc đảm bảo nguồn nhiên liệu cho phát điện gặp khó khăn, nguồn khí thiên nhiên trong nước hiện đang khai thác đã suy giảm mà chưa có nguồn cấp khí thay thế. Trong khi năng lực khai thác
  39. 39. 32 thủy điện trong nước đã bước vào giai đoạn bão hòa (do hầu hết các bậc thang tiềm năng đã được khai thác đầy đủ), nguồn nhập khẩu từ các nước láng giềng đặc biệt là Lào và Trung Quốc để nhập khẩu về Việt Nam qua các đường dây 220 kV hiện hữu vẫn là lựa chọn không tránh khỏi. Chính vì vậy việc quản lý hoạt động XNKĐN bằng pháp luật cần được quan tâm và chú trọng nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là đảm bảo an ninh năng lượng gắn với phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Cuối cùng, chính sách năng lượng cân bằng cũng có ý nghĩa quyết định trong việc làm đòn bẩy phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Việc cân đối nguồn điện của Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho việc điều tiết chính sách giá điện của Nhà nước, thúc đẩy phát triển công nghệ cao, giảm phát thải và bảo vệ môi trường. Cụ thể, những HĐXNK điện năng có thời hạn lâu dài giúp cho việc tính toán và cân đối khung giá phát điện trong nước, tránh tình trạng phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch (bao gồm cả nhập khẩu nguyên liệu hóa thạch) dẫn đến giá điện bị biến đổi khó kiểm soát, gây ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, với chính sách điều tiết vĩ mô cân bằng giá điện sẽ khuyến khích các nhà đầu tư vào lĩnh vực năng lượng của Việt Nam.
  40. 40. 33 Tiểu kết Chƣơng 1 Chương 1 của Luận văn đã đề cập đến nhưng nội dung cơ bản có tính chất lý luận về HĐXNK điện năng. Dựa trên cơ sở của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, học viên đã nghiên cứu và đề cập cụ thể đến các khái niệm cũng như cơ sở lý luận và pháp lý của HĐXNK điện năng, bao gồm các nội dung về: Khái niệm, đặc điểm, phân loại và so sánh với các hợp đồng XNK hàng hóa thông thường khác cũng như nguồn pháp luật điều chỉnh HĐXNK điện năng. Ngoài ra học viên còn phân tích thêm một số vấn đề cụ thể như sự cần thiết của việc quản lý hoạt động XNKĐN bằng pháp luật nhặm mục đích cơ bản “việc cân đối nguồn điện của Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho việc điều tiết chính sách giá điện của Nhà nước, thúc đẩy phát triển công nghệ cao, giảm phát thải và bảo vệ môi trường”. Trên cơ sở các khái niệm tại Chương I, luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia điển hình điều chỉnh vấn đề XNKĐN.
  41. 41. 34 CHƢƠNG 2 THỰC TIỄN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ĐIỆN NĂNG Mặc dù HĐXNK điện năng có đầy đủ yếu tố của một Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tuy nhiên nó lại không được điều chỉnh bởi Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 2.f của Công ước đã loại trừ việc áp dụng Công ước cho giao dịch mua bán điện năng trên cơ sở rằng trong một số hệ thống pháp luật, điện năng không được xem hàng hóa và mua bán điện năng quốc tế liên quan đến những vấn đề đặc thù so với những vấn đề thông thường của mua bán hàng hóa quốc tế. Cho đến thời điểm hiện tại cũng chưa có một Công ước riêng biệt nào điều chỉnh vấn đề mua bán điện năng quốc tế mà đa phần chỉ là các Hiệp ước song phương và đa phương về vấn đề mua bán, giao dịch năng lượng nói chung và điện năng nói riêng. Nổi bật trong số đó phải kể tới Hiệp ước Hiến chương Năng lượng năm 1994 và Hiến chương Năng lượng Quốc tế năm 2015. 2.1. Hiệp ƣớc Hiến chƣơng Năng lƣợng năm 1994 2.1.1. Lịch sử hình thành Hiệp ước Hiến chương Năng lượng (Energy Charter Treaty - ECT) là một thỏa thuận quốc tế nhằm thiết lập một khuôn khổ đa phương cho việc hợp tác xuyên biên giới trong ngành năng lượng. Hiệp ước bao gồm tất cả các khía cạnh của hoạt động thương mại liên quan tới năng lượng bao gồm thương mại, vận chuyển, đầu tư và hiệu quả của năng lượng. Hiệp ước có tính ràng buộc về mặt pháp lý, đồng thời quy định chi tiết các thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tính đến ngày 18 tháng 2 năm 2019 đã có 56 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia ký kết Hiệp ước [27]. Tất cả các nước thành viên đều
  42. 42. 35 đã phê chuẩn Hiệp ước ngoại trừ Úc, Bêlarut, Na Uy và Liên bang Nga. Bêlarut mới chỉ chấp nhận áp dụng tạm thời Hiệp ước. Sự khởi đầu của Hiến chương Năng lượng (ECT) bắt nguồn từ một sáng kiến chính trị được đưa ra ở châu Âu vào đầu những năm 1990 vào thời điểm Chiến tranh Lạnh kết thúc đã mang đến một cơ hội chưa từng có để vượt qua sự chia rẽ về mặt kinh tế trước đây giữa các quốc gia ở cả hai bên của cuộc chiến. Ngành năng lượng trở thành ngành có nhiều triển vọng và tiềm năng nhất cho sự hợp tác cùng có lợi giữa các bên do nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của châu Âu và nguồn tài nguyên rộng lớn ở các quốc gia hậu Liên Xô thời đó. Tuy nhiên, vai trò của nó vượt ra ngoài sự hợp tác Đông- Tây, nhu cầu có một công cụ ràng buộc về mặt pháp lý nhằm thúc đẩy các nguyên tắc mở cửa thị trường năng lượng toàn cầu và không phân biệt đối xử để kích thích đầu tư trực tiếp nước ngoài và thương mại xuyên biên giới toàn cầu trở lên cần thiết. Bằng những lý do đó đã dẫn tới quá trình hình thành Hiến chương Năng lượng. Khởi nguồn của ECT chính là Hiến chương Năng lượng Châu Âu (European Energy Charter) được ký tại The Hague vào ngày 17 tháng 12 năm 1991. Đây là một tuyên bố chính trị về các nguyên tắc hợp tác năng lượng quốc tế trong thương mại, vận chuyển và đầu tư, cùng với ý định đàm phán một Hiệp ước ràng buộc về mặt pháp lý, là sự khởi đầu để xây dựng Hiệp ước Hiến chương Năng lượng sau này. Trên cơ sở của Hiến chương Năng lượng Châu Âu năm 1991, Hiệp ước Hiến chương Năng lượng (ECT) và Nghị định thư về “hiệu quả năng lượng và các khía cạnh môi trường liên quan” (PEEREA) đã được ký kết vào tháng 12 năm 1994 và có hiệu lực pháp lý vào tháng 4 năm 1998. Trong đó ECT có tính ràng buộc về mặt pháp lý còn PEEREA được soạn thảo như một tuyên bố về ý định chính trị nhằm thúc đẩy hợp tác năng lượng giữa các bên. Một bản sửa đổi các điều khoản liên quan
  43. 43. 36 đến vấn đề thương mại năng lượng phản ánh sự thay đổi từ Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) sang các quy trình của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng được thống nhất vào thời điểm đó [28]. Trong một thế giới ngày càng có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu năng lượng, người ta nhận thấy rằng các quy tắc đa phương có thể tạo ra một khuôn khổ cân bằng và hiệu quả hơn cho hợp tác quốc tế so với các hiệp định song phương hoặc các công cụ khác. Do đó, ECT ra đời đóng vai trò quan trọng như một phần của nỗ lực quốc tế nhằm xây dựng nền tảng pháp lý cho an ninh năng lượng, dựa trên các nguyên tắc của một thị trường mở, cạnh tranh và phát triển bền vững [29, p.19-32]. 2.1.2. Các nội dung cơ bản ECT là một thỏa thuận đa phương ràng buộc về mặt pháp lý giữa các quốc gia thành viên bao gồm xúc tiến đầu tư và bảo vệ, thương mại, vận chuyển, hiệu quả năng lượng và giải quyết tranh chấp liên quan tới thương mại năng lượng. Hiệp ước Hiến chương Năng lượng cung cấp một khuôn khổ đa phương thống nhất cho hợp tác năng lượng. Nó được thiết kế để thúc đẩy an ninh năng lượng thông qua hoạt động của các thị trường năng lượng mở và cạnh tranh hơn, đồng thời tôn trọng các nguyên tắc phát triển bền vững và chủ quyền đối với các nguồn năng lượng của các quốc gia thành viên. Hiệp ước Hiến chương Năng lượng gồm 50 Điều khoản được chia thành 8 phần cùng với đó là 19 Phụ lục và một Bản sửa đổi đối với lĩnh vực thương mại được thông qua năm 1998. Các điều khoản của Hiệp ước tập trung vào năm lĩnh vực lớn bao gồm: Thương mại năng lượng, đầu tư, hiệu quả năng lượng, giải quyết tranh chấp và vận chuyển năng lượng [26, p.26-42]. Cụ thể như sau: Về thƣơng mại năng lƣợng: Mục đích của ECT trong thương mại năng lượng là tạo ra các thị trường năng lượng mở không phân biệt đối xử giữa các quốc gia thành viên. Các thị trường này tuân theo các quy tắc của hệ
  44. 44. 37 thống thương mại đa phương như được thể hiện trong Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) mà sau này trở thành Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngoài ra, Hiệp ước bao gồm các quy định về việc mua bán tất cả các vật liệu năng lượng (ví dụ: dầu thô, khí tự nhiên, nhiên liệu gỗ, v.v.) cũng như các sản phẩm năng lượng cuối cùng (ví dụ: dầu mỏ, điện năng, v.v.) và các thiết bị liên quan đến năng lượng. Các quy tắc thương mại trong Hiệp ước chỉ bao gồm quy định liên quan tới thương mại hàng hóa chứ không điều chỉnh ngành dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới năng lượng. Về đầu tƣ: Hiệp ước chịu trách nhiệm bảo vệ đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các quốc gia thành viên. Các điều khoản của ECT giúp bảo vệ các nhà đầu tư và các khoản đầu tư của họ khỏi các rủi ro chính trị liên quan đến đầu tư vào nước ngoài như phân biệt đối xử, quốc hữu hóa, vi phạm hợp đồng, thiệt hại do chiến tranh, v.v. Bản chất ràng buộc về mặt pháp lý của Hiệp ước Hiến chương Năng lượng khiến nó trở thành Hiệp ước đa phương duy nhất trên thế giới điều chỉnh các vấn đề liên quan cụ thể đến năng lượng tính tới trước năm 2015. Về giải quyết tranh chấp: Trong khi Điều 27 của Hiệp ước quy định các điều khoản giải quyết tranh chấp giữa hai quốc gia thành viên của Hiệp ước, Điều 26 của ECT quy định rõ ràng cách thức giải quyết tranh chấp phát sinh giữa nhà đầu tư thuộc các quốc gia thành viên Hiệp ước. Theo quy định tại Điều 26 và 27 Hiệp ước, sự lựa chọn các quy tắc trọng tài để giải quyết tranh chấp bao gồm: - Quy tắc Trọng tài ICSID - Quy tắc Trọng tài của cơ chế phụ trợ ICSID - Trọng tài ad-hoc theo Quy tắc UNCITRAL - Quy tắc Trọng tài SSC của Phòng Thương mại Stockholm Về hiệu quả năng lƣợng: Sự tham gia của Hiến chương Năng lượng
  45. 45. 38 trong các vấn đề liên quan tới hiệu quả năng lượng và mối quan hệ của nó với một môi trường trong sạch hơn đã được giới thiệu lần đầu trong Hiến chương Năng lượng Châu Âu năm 1991. Điều 19 của ECT đã yêu cầu mỗi quốc gia tham gia ký kết "cố gắng giảm thiểu một cách hiệu quả về mặt kinh tế các tác động có hại đối với môi trường phát sinh từ việc sử dụng năng lượng". Dựa trên điều 19 của Hiệp ước Hiến chương Năng lượng, Nghị định thư về “hiệu quả năng lượng và các khía cạnh môi trường liên quan” (PEEREA) định nghĩa chi tiết hơn các nguyên tắc chính sách có thể thúc đẩy vấn đề hiệu quả năng lượng và đưa ra các hướng dẫn về phát triển các chương trình quản lý năng lượng hiệu quả. Về vận chuyển năng lƣợng: Hiệp ước Hiến chương Năng lượng cung cấp một bộ quy tắc bao trùm toàn bộ chuỗi cung ứng năng lượng, bao gồm không chỉ đầu tư vào sản xuất mà còn cả các điều khoản mà từ đó năng lượng có thể được giao dịch và vận chuyển qua các khu vực tài phán giữa các quốc gia khác nhau tới các thị trường quốc tế. Do đó, thỏa thuận này nhằm ngăn chặn sự gián đoạn nhiên liệu khi dịch chuyển giữa các quốc gia. Các quốc gia thành viên của ECT cũng đang dự thảo một Nghị định thư về điều lệ vận chuyển năng lượng. Nếu được đàm phán thành công, Nghị định thư sẽ tăng cường hiệu lực các điều khoản của Hiệp ước về các vấn đề vận chuyển, quá cảnh năng lượng để giảm thiểu một số rủi ro trong hoạt động thực tiễn có thể ảnh hưởng đến các đường vận chuyển năng lượng. Các cuộc đàm phán về Nghị định thư này bắt đầu vào đầu năm 2000 và đã có một văn bản phản ánh sự thỏa hiệp trong cuộc thảo luận mở rộng giữa Liên minh châu Âu và Nga tại cuộc họp của ECT vào ngày 10 tháng 12 năm 2003. Tuy nhiên các bên không đạt được sự nhất trí trên cơ sở văn bản thỏa hiệp đó. Các cuộc đàm phán về Nghị định thư sau đó đã tạm thời bị đình chỉ [31, p.19-32]
  46. 46. 39 2.1.3. Các quy định cụ thể về XNKĐN Tại Điều 3 của ECT quy định: “Các Bên ký kết sẽ nỗ lực thúc đẩy việc tiếp cận thị trường quốc tế theo các điều khoản thương mại nói chung để phát triển và thúc đẩy một thị trường mở cạnh tranh đối với các loại vật liệu và sản phẩm năng lượng cũng như các thiết bị liên quan đến năng lượng”. Các loại vật liệu và sản phẩm năng lượng được liệt kê tại Phụ lục EM I thuộc phạm vi điều chỉnh của ECT, trong đó điện năng thuộc mục 27.16. Các quy định liên quan tới việc mua bán điện giữa các quốc gia thành viên của Hiệp ước nói riêng và các lĩnh vực khác của thương mại năng lượng nói chung chủ yếu được đề cập tới tại Phần 2- Phần về Thương mại của ECT và Bản sửa đổi đối với lĩnh vực thương mại của Hiệp ước. Hiện nay, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) chưa có các quy tắc cụ thể điều chỉnh vấn đề liên quan tới năng lượng. Tuy nhiên, khung pháp lý của WTO bao gồm một số quy tắc được áp dụng cho mục đích thương mại đối với các sản phẩm và thiết bị liên quan đến năng lượng. Theo đó, mục đích của phần Thương mại trong ECT là mở rộng tư cách thành viên WTO cả về lợi ích và nghĩa vụ đối với lĩnh vực năng lượng của các bên ký kết ECT mà chưa là thành viên của WTO. Trên thực tế, nguyên tắc này có nghĩa là thương mại trong lĩnh vực năng lượng giữa các thành viên của WTO và các thành viên không thuộc WTO hoặc giữa các thành viên không thuộc WTO với nhau được đối xử giống như việc tất cả các bên là thành viên của WTO. Các nguyên tắc cơ bản của WTO được hợp nhất trong ECT bao gồm Nguyên tắc “Không phân biệt đối xử” và Nguyên tắc “Xóa bỏ các hạn chế về định lượng”. Cụ thể: Thứ nhất là Nguyên tắc “Không phân biệt đối xử” bao gồm hai Nguyên tắc chính: - Nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc (MNF) đảm bảo rằng các nước thành viên ECT phải đối xử với các nhà cung cấp đến từ các nước thành viên khác

×