1. VĂN HÓA QUẢN LÝ
Vũ Quốc Tuấn
Văn hóa quản lý nói ở đây là văn hóa của các cơ quan công quyền, là nói đến
tư duy, quan niệm, cách ứng xử, phong cách sinh hoạt, v.v...của bộ máy hành
chính nhà nước và của công chức trong quan hệ với dân và doanh nghiệp, với
ý nghĩa của một bộ máy hành chính thực sự "của dân, do dân và vì dân".
Lâu nay, để thúc đẩy công cuộc phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc
tế, Nhà nước ta đã tiến hành cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng một
nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, từng bước hiện đại hóa để quản lý
có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển
lành mạnh, phục vụ đắc lực đời sống của nhân dân, Tuy vậy, cải cách hành
chính tiến bộ chậm so với yêu cầu. Trong nhiều vấn đề của nền hành chính
nhà nước, có những vấn đề về thể chế cần được hoàn chỉnh, tình trạng chồng
chéo, nhiều tầng nấc của bộ máy cần được sắp xếp lại, song điều mà doanh
nhân kêu ca, phàn nàn chính là thái độ ứng xử của đội ngũ nhân viên, công
chức các cơ quan công quyền. Trong số họ, không ít người chưa đủ nhận thức
về chức năng phục vụ của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, chưa nhận
rõ doanh nhân là tầng lớp nhân dân đã đóng thuế để nuôi mình mà mình phải
phục vụ. Chính do nhận thức ấy, có những công chức vẫn tự cho mình là cấp
trên, người có quyền ban ơn và coi doanh nhân là kẻ dưới, phải chịu sự ban
ơn của họ.
Tình hình đó thể hiện sự thiếu vắng của văn hóa quản lý, vừa không kế thừa
được truyền thống gắn bó trong quan hệ giữa Nhà nước với dân trong sự
nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước, vừa không phù hợp với yêu cầu phát
triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay. Rõ ràng là
đã đến lúc phải đề cập vấn đề xây dựng và nâng cao văn hoá quản lý trong hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước.
Từ thực tiễn nước ta, có thể sơ bộ nêu lên những yêu cầu chủ yếu của văn hoá
quản lý trong thời kỳ mới như sau.
a) Trước hết, văn hoá quản lý là sự tự nguyện làm đày tớ trung thành của
nhân dân, thực hiện đúng "dân là chủ, công chức là đày tớ", chuyển bộ máy
hành chính từ chỗ đơn thuần là "cai trị" sang bộ máy "phục vụ dân" là chính.
Chính quyền không có nhiệm vụ tự thân, được tổ chức ra là nhằm thực hiện
chức năng quản lý nhà nước được nhân dân giao cho. Chính vì vậy, chính
quyền phải coi nhiệm vụ phục vụ người dân và doanh nghiệp là nhiệm vụ
2. 2
chính, quan trọng nhất (bên cạnh các nhiệm vụ về an ninh, quốc phòng).
Chính quyền phải tạo thuận lợi nhất cho dân và doanh nghiệp trong đời sống
và kinh doanh, bảo đảm “công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật
không cấm”; Cán bộ, công chức phải lấy việc tận tâm, tận lực phục vụ dân và
doanh nghiệp là mục tiêu cao nhất, là niềm vui và lẽ sống của mình.
Để thực hiện nhiệm vụ quản lý, đương nhiên rất cần các thủ tục hành chính,
các loại giấy phép, song không nên đặt ra những thủ tục thủ tục hành chính
rườm rà, những giấy phép không cần thiết khi giải quyết công việc của dân và
doanh nghiệp (gần đây, khi Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật
Đầu tư rà soát gần 300 loại giấy phép con, đã phát hiện những điều bất hợp lý
trong các giấy phép này và đã đề nghị bãi bỏ ngay 59 loại giấy phép con, là
một ví dụ). Mỗi quy định về chính sách quản lý cần được phân tích, nghiên
cứu tác động xã hội của quy định, dự báo những thuận lợi hoặc khó khăn
trong việc việc thi hành của đối tượng, để cân nhắc trước khi quyết định. Cần
khắc phục tình trạng chồng chéo giữa các quy định, như trong việc quản lý
đất và công trình trên đất đang gây khó khăn cho người sử dụng như hiện nay;
càng không nên ỷ vào yêu cầu “quản lý” mà tạo thêm lợi ích không chính
đáng cho cơ quan và cá nhân công chức. Đó chính là tư duy "tăng thêm quyền
và lợi cho cơ quan nhà nước, đẩy khó khăn cho doanh nghiệp", tàn dư của cơ
chế "xin-cho", tùy tiện ban ơn cho doanh nghiệp được làm điều này, không
được làm điều khác.
b) Đó là lòng tin yêu, kính trọng, học hỏi, phát huy tài năng và trí tuệ của từng
người và của cả dân tộc, với niềm tin vững chắc vào sức mạnh sáng tạo của
dân, của các thành phần kinh tế. Mọi việc làm của bộ máy đều nhằm giải
phóng mọi năng lực sản xuất, coi con người là mục tiêu, là cái đích tối thượng
của toàn bộ công cuộc phát triển, thực sự coi sự nghiệp đổi mới và phát triển
đất nước là của dân, do dân và vì dân. Từ thể chế quản lý cho đến các công
việc cụ thể như kế hoạch, quy hoạch phát triển, xây dựng công trình, giải
phóng mặt bằng, bố trí tái định cư, v.v... đều phải quan tâm đến các điều kiện
sinh sống của dân cư, bảo đảm cho mỗi con người cụ thể, già trẻ, gái trai, đều
được đáp ứng các nhu cầu cụ thể để phát triển ...
Mọi công việc của cơ quan công quyền đều phải thể hiện tư tưởng đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân và của doanh
nhân, nhất là không phân biệt đối xử, kỳ thị với kinh tế tư nhân. Một sân chơi
bình đẳng cho mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thực hiện
sẽ là một biểu hiện sinh động của tư tưởng phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế phù hợp với yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước
và cũng là yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Doanh nhân đã trở thành một
tầng lớp xã hội mới, đóng góp ngày càng lớn cho sự chấn hưng đất nước và
ngày nay đã là lực lượng chủ thể trong hội nhập; công chức cơ quan công
3. 3
quyền phải tôn trọng, học hỏi, giúp doanh nhân nâng cao trình độ, khả năng
kinh doanh, vươn ra thị trường thế giới.
c) Minh bạch hóa, công khai hóa các thể chế, chính sách là một yêu cầu rất
quan trọng của văn hóa quản lý, không những là nhằm bảo đảm quyền được
thông tin của dân mà còn nhằm tôn trọng phản biện xã hội một cách thiết
thực, để phát huy trí tuệ của dân, lắng nghe ý kiến, tâm tư của dân, góp phần
hoàn chỉnh thể chế quản lý, chống quan liêu, tham nhũng. Những vấn đề
thuộc về bí mật nhà nước cần được quy định chặt chẽ, hạn chế đến mức thấp
nhất, khắc phục tình trạng vin vào giữ bí mật, tránh “mất ổn định”, mà bao
che cho những hành vi xâm phạm lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Đây
cũng là một nguyên tắc của WTO mà chúng ta phải tuân thủ: công bố công
khai các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trước 60 ngày ban hành, để các
đối tượng thi hành có thời gian nghiên cứu, phát biểu ý kiến, tham gia vào
việc hoạch định thể chế, chính sách.
Việc thường xuyên thông tin cho dân và doanh nghiệp về hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước, cung cấp cho họ các quy định mới trong quản lý,
trả lời các chất vấn, kiến nghị của doanh nghiệp phải được coi là trách nhiệm
của cơ quan công quyền. Thực tế cho thấy: càng từ mù thì càng dễ tham
nhũng; cho nên có những cơ quan không dám công khai hóa các thông tin.
Trước mắt, thiết thực nhất là những thông tin về quy hoạch sử dụng đất, thông
tin về chi ngân sách nhà nước, chủ yếu là trong việc đầu tư vào các công trình
sử dụng ngân sách trung ương và của mỗi địa phương, tạo thuận lợi cho việc
giám sát của nhân dân đạt được hiệu quả, tránh lãng phí, thất thoát công quỹ.
Các cuộc phản biện xã hội đối với các chính sách quản lý cần được tổ chức có
thực chất hơn, qua đó cơ quan công quyền nên lắng nghe những ý kiến tâm
huyết, xây dựng của dân và doanh nghiệp, dù có những ý kiến “trái tai”. Việc
đối thoại giữa các cơ quan chức năng với doanh nhân cần được tổ chức
thường xuyên và có hiệu quả thiết thực, có nói, có trả lời nghiêm túc, khắc
phục tình trạng tổ chức các cuộc đối thoại một cách hình thức, chiếu lệ.
d) Văn hoá quản lý phải được thể hiện trong cách làm việc hàng ngày của mỗi
cán bộ, công chức thuộc mọi ngành, mọi cấp, từ trung ương đến cơ sở; không
chỉ đọng lại trên lời phát biểu hùng hồn, trong các bài diễn văn nhiều mỹ từ
nghe rất sướng tai tại các cuộc hội nghị, cũng không chỉ trong các văn kiện,
các văn bản quy phạm pháp luật, các thông tư, chỉ thị. Đây là một vấn đề rất
thời sự vì hiện nay, người ta nói nhiều về quyền làm chủ của dân, của doanh
nhân, có nơi còn nói đến việc "trải thảm đỏ" đón chào doanh nhân, song trên
thực tế, “nói vậy nhưng không phải vậy”, doanh nhân đến gặp cơ quan công
quyền còn gặp nhiều ngăn cách. “Đến cửa quan” là một việc chẳng đừng của
mỗi công dân, mỗi doanh nghiệp vì họ đã quá mệt mỏi, nhưng vì công việc
4. 4
vẫn phải đến, và luôn luôn mang sẵn “phong bì” để lót tay. Thái độ của không
ít công chức khi gặp doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa (vì
phong bì không có hoặc quá mỏng) là thờ ơ, lạnh nhạt, khó thấy một nụ cười.
Đáng trách nhất là trong những trường hợp lãnh đạo thì cởi mở, nhưng
chuyên viên dưới quyền thì hạch sách, vòi vĩnh, nhũng nhiễu doanh nghiệp
bằng đủ mọi thủ đoạn rất tinh vi, rất khó phát hiện. Phải chăng cũng còn tình
trạng o bế doanh nhân nước ngoài, coi nhẹ doanh nhân trong nước ?
Thái độ ứng xử có văn hóa đòi hỏi cán bộ, công chức xác lập cho mình tư duy
"doanh nhân là khách hàng của mình", coi việc tháo gỡ khó khăn cho doanh
nhân như việc của nhà mình, giải quyết đến cùng từng vụ việc, không đùn
đẩy, né tránh trách nhiệm, khắc phục tình trạng vụ việc, kiến nghị của doanh
nghiệp bị kéo dài hết năm này qua năm khác, không cơ quan nào chịu trách
nhiệm chính trong việc giải quyết, gây ra tốn kém, mất thời cơ của doanh
nghiệp. Cán bộ, công chức có vị trí càng cao thì càng phải gương mẫu thể
hiện văn hoá quản lý theo hướng đó.
đ) Văn hóa quản lý phải được cụ thể hóa trong mỗi cơ quan hành chính thành
những quy chế cơ quan, nội quy công sở, trong đó có những quy định cụ thể
và thủ tục cần thiết về từng loại công việc và của mỗi công chức trong các
hoạt động liên quan đến dân và doanh nghiệp, thực hiện đúng nguyên tắc
"Công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép". Các thủ tục, quy
chế hành chính phải được công bố công khai, minh bạch, để làm căn cứ cho
doanh nhân biết và thực hiện, đồng thời cũng là căn cứ để doanh nhân giám
sát công việc của công chức; nhất là phải được thi hành thông suốt từ trên
xuống dưới, khắc phục tình trạng “chưa được cấp trên hướng dẫn”. Gần đây,
UBND thành phố Hà Nội và một số địa phương đã hình thành “một cửa liên
thông” trong việc đăng ký kinh doanh, giảm bớt phiền hà cho doanh nghiệp là
một nỗ lực rất đáng khuyến khích. Thực tiễn cho thấy: quy định minh bạch;
công chức mẫn cán, hết lòng chăm lo công việc của dân; đó chính là bảo đảm
cho Nhà nước ta xứng đáng là người quản lý đắc lực của dân tộc, của nhân
dân; đồng thời cũng bảo đảm và đòi hỏi doanh nhân phải chấp hành đúng
pháp luật, đó chính là văn hóa quản lý được thể hiện sinh động trong cuộc
sống thường ngày.
Để xây dựng và thực hiện văn hóa quản lý như đã nói trên trong điều kiện
nước ta hiện nay, cần giải quyết một loạt các vấn đề một cách hệ thống: từ
việc hoàn chỉnh thể chế kinh tế, thể chế hành chính, hình thành đồng bộ cơ
chế thị trường, đến việc củng cố bộ máy hành chính, nâng cao năng lực và
phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức, đi đôi với đề cao trách nhiệm của
người đứng đầu, khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh, v.v... Như vậy, văn hóa
quản lý được xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động quản lý của bộ máy hành
chính nhà nước, thể hiện rõ nét bản chất dân chủ của cơ quan công quyền, đáp
5. 5
ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Những cơ quan ở vị trí càng cao, những cán bộ, công chức cấp bậc càng cao
càng nên thẻ hiện rõ trình độ văn hóa quản lý của mình để làm gương cho cấp
dưới, để tiếng thơm cho đời sau, cho thế hệ sau, để văn hóa quản lý Việt Nam
ngày càng được vun đắp và phát huy.
------------------------