SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 88
Baixar para ler offline
Luận văn
Rủi ro trên thị trường
chứng khoán Việt Nam
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
2
Mục lục
Trang
Lời nói đầu ………………………………………………………………... 4
Chương I: Lý luận chung về thị trường chứng khoán, thông tin
không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức………………………. 8
1. Thị trường chứng khoán………………………………………………… 8
1.1. Khái niệm…………………………………………………………….. 8
1.2. Chức năng, cơ cấu và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng
khoán ……………………………………………………………………… 9
1.2.1. Chức
năng…………………………………………………………… 9
1.2.2. Cơ cấu của thị trường chứng khoán
………………………………… 10
1.2.3. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng
khoán……………... 12
1.3. Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán
……………………. 13
1.3.1. Tổ chức phát hành ………………………………………………….. 13
1.3.2. Nhà đầu tư…………………………………………………………... 13
1.3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
………………. 14
2. Thông tin không cân
xứng………………………………………………. 15
2.1. Khái niệm về thông tin không cân xứng……………………………… 15
2.2. Cân bằng thị trường trong điều kiện không cân xứng về thông tin…… 19
2.2.1. Cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin đầy đủ……………… 21
2.2.1.1. Cân bằng chung…………………………………………………… 21
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
3
2.2.1.2. Cân bằng riêng……………………………………………………. 23
2.2.2. Cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin không cân
xứng…….. 24
2.2.2.1. Cân bằng chung…………………………………………………… 25
2.2.2.2. Cân bằng riêng……………………………………………………. 26
3. Lựa chọn đối nghịch…………………………………………………….. 29
3.1. Khái niệm……………………………………………………………... 29
3.2. Sự hình thành lựa chọn đối nghịch……………………………………. 29
4. Rủi ro đạo đức…………………………………………………………... 32
4.1. Khái niệm……………………………………………………………... 32
4.2. Nguyên nhân xuất hiện rủi ro đạo đức………………………………... 33
5. Tác động của thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức đối với nền kinh tế ……………………………………………….. 36
5.1. Tác động của thông tin không cân xứng và lựa chọn đối nghịch……... 36
5.2. Tác động của rủi ro đạo đức…………………………………………... 37
Chương II: Vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và
rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam ……………… 40
1. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành
lập đến nay………………………………………………………………… 40
1.1. Tổng quan tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam 40
1.2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán trong hai năm gần
đây…………………………………………………………………………. 41
1.2.1. Thị trường chứng khoán trong năm
2002…………………………… 41
1.2.2. Thị trường chứng khoán Việt Nam 10 tháng đầu năm 2003………... 44
1.2.2.1. Bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam đầu năm
2003………. 44
1.2.2.2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán 10 tháng đầu 44
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
4
năm 2003…………………………………………………………………..
2. Những dấu hiệu về thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và
rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán trên thị trường chứng khoán
Việt Nam ………………………………………………………….………. 47
2.1. Những hạn chế trong việc công bố thông tin và quản lý công bố thông
tin là nguyên nhân xuất hiện thông tin không cân xứng…………………... 47
2.2. Chênh lệch giữa giá phát hành lần đầu (hoặc giá phát hành thêm) với
giá giao dịch thị trường của chứng khoán. ………………………………... 51
2.3. Giá cả cổ phiếu và chỉ số VN-Index không phản ánh đúng tình hình
sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết và thực tế giao dịch trên thị
trường ……………………………………………………………………... 53
2.4. Những dấu hiệu giao dịch nội gián – một biểu hiện của rủi ro đạo đức 55
3. Những tác động của vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức đến hoạt động của thị trường chứng khoán Việt
Nam ………………………………………………………………………. 59
Chương III: Đề xuất phương hướng giải quyết vấn đề thông tin
không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
…………………………………………………………. 61
1. Khuyến khích thành lập các công ty sản xuất và bán thông tin………… 61
2. Tăng cường sự điều hành của Chính phủ để làm tăng thông tin trên thị
trường chứng khoán ………………………………………………………. 62
3. Khuyến khích thành lập các trung gian tài chính, đặc biệt là các quỹ
đầu tư chứng khoán……………………………………………………….. 63
Kết luận…………………………………………………………………… 65
Phụ lục 1: Biểu đồ chỉ số cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam từ thời điểm niêm yết đến
ngày1/12/2003……….. 67
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
5
Phụ lục II: Các hệ số tài chính của các công ty niêm yết trên Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh 9 tháng đầu năm
2002… 75
Phụ lục III: Xếp hạng tài chính các công ty niêm yết tại Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh………………………………. 79
Danh mục tài liệu tham
khảo………………………………………………. 80
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
6
Lời nói đầu
Trong các giao dịch tài chính nói chung và chứng khoán nói riêng, thông
tin giữ vai trò thiết yếu. Nhân tố quan trọng quyết định quy mô, hình thức và
hiệu quả của mỗi giao dịch chính là mức độ cân xứng về thông tin giữa các bên
liên quan. Xét trên tầm vĩ mô, nếu các bên tham gia của bất kỳ giao dịch tài
chính nào trong nền kinh tế đều có đầy đủ thông tin quá khứ, hiện tại và tương
lai liên quan đến giao dịch thì đồng vốn trong nền kinh tế luôn đến được các dự
án đầu tư hiệu quả nhất. Thị trường tài chính khi đó thực hiện tốt nhất chức
năng huy động và phân bổ vốn cho nền kinh tế.
Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở Việt Nam đặt ra một yêu
cầu cấp thiết là phải phát triển thị trường vốn hiệu quả nhằm cung cấp vốn
trung và dài hạn cho nền kinh tế. Để có một thị trường vốn như thế, đòi hỏi
trước mắt là phải xây dựng được một thị trường chứng khoán vững mạnh. Thị
trường chứng khoán sẽ làm tăng tính thanh khoản của các công cụ huy động
vốn, từ đó thúc đẩy thị trường sơ cấp phát triển. Mặt khác, thị trường chứng
khoán khắc phục được đáng kể hạn chế về không gian, thời gian và quy mô
trong việc huy động vốn. Nhận thức tầm quan trọng đó, sau nhiều cố gắng thị
trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức đi vào hoạt động ngày 20/7/2000,
đánh dấu bước chuyển mình của thị trường tài chính Việt Nam.
Tuy nhiên sau hơn ba năm hoạt động, những kết quả đạt được của thị
trường chứng khoán Việt Nam chưa đáp ứng sự mong mỏi và kỳ vọng của cả
nền kinh tế nói chung và giới đầu tư nói riêng. Khi bàn về thực trạng này, hầu
hết các cuộc hội thảo, bài báo đều đề cập đến vấn đề thông tin. Cụ thể, đó là
những hạn chế trong việc công bố thông tin thể hiện ở tính không kịp thời,
thiếu chinh xác, không đầy đủ và chưa thống nhất về cách thức công bố thông
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
7
tin. Chất lượng thông tin còn thấp là một yếu tố kìm hãm cầu chứng khoán. Đó
cũng là nguyên nhân dẫn đến lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức, một hậu
quả tất yếu của sự không cân xứng về thông tin. Để thị trường chứng khoán đi
vào hoạt động vững mạnh, một điều không thể thiếu là phải hạn chế tối đa sự
bất cân xứng về thông tin của các cuộc giao dịch. Đây là vấn đề đang thu hút
nhiều sự chú ý và cần phải được giải quyết một cách tối ưu.
Mục đích nghiên cứu
Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu học thuyết thông tin không cân xứng, lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên một số phân đoạn thị trường tài chính
của các nhà kinh tế học trên thế giới, tôi nhận thức rằng giải quyết vấn đề
thông tin không cân xứng là một yêu cầu thiết thực và xuyên suốt trong quá
trình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn
tìm hiểu, phân tích và đánh giá mức độ không cân xứng về thông tin, khảo sát
thực tế vấn đề rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi hoạt
động đến nay. Do những hạn chế cả về chủ quan và khách quan nên luận văn
chỉ hướng vào mục tiêu chủ yếu là phát hiện và phân tích sơ bộ những biểu
hiện của ba nội dung trên. Dựa trên cơ sở đó, một số giải pháp được đề xuất
nhằm hoàn thiện vấn đề thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tôi
cũng hy vọng những phát hiện này xẽ giúp ích cho các nghiên cứu sâu hơn về
vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đề cập đến các khái niệm cơ bản nhất về chứng khoán và thị
trường chứng khoán, đồng thời trình bày chi tiết học thuyết thông tin không
cân xứng và các khái niệm liên quan.
Những vấn đề lý thuyết trên sẽ được vận dụng vào tình hình cụ thể trên
thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi chính thức hoạt động cho đến nay (từ
28/7/2000 đến 31/10/2003).
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
8
Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là
những hiện tượng kinh tế được các nhà kinh tế học trên thế giới nghiên cứu từ
những năm 1960. Tuy nhiên, phải đến những năm 2000 vấn đề này mới thực
sự được quan tâm và nghiên cứu sâu sắc. Các nghiên cứu gần đây tập trung vào
việc xây dựng các mô hình toán và khảo sát thực trạng thông tin không cân
xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên một số phân đoạn của thị
trường tài chính, phổ biến nhất là thị trường bảo hiểm. Các nghiên cứu đều đã
đem lại những kết quả nhất định, đóng góp vào việc xây dựng một mô hình
tổng thể của học thuyết thông tin không cân xứng.
Thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đã có nhiều bài báo, luận văn, luận án và
cả những công trình nghiên cứu cấp bộ, cấp nhà nước tham gia đóng góp, hoàn
thiện hoạt động của thị trường. Tuy nhiên do trong giai đoạn mới hình thành
còn quá nhiều việc phải làm nên chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến vấn đề
thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường
chứng khoán.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng đóng vai trò chủ đạo trong luận văn vì
những vấn đề đặt ra đều dựa trên cơ sở thực tế khách quan. Bên cạnh đó tôi đã
sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết (thông qua việc tổng hợp và phân
tích các nguồn tài liệu); phương pháp quy nạp và diễn dịch. Với hy vọng mô
hình hoá các quan hệ kinh tế, tôi đã cố gắng vận dụng phương pháp phân tích
cung-cầu thông qua các mô hình cân bằng thị trường ở thị trường có thông tin
không hoàn hảo của một số nhà kinh tế học trên thế giới.
Lợi ích của luận văn
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
9
Tôi hy vọng luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cho các nhà đầu tư và
những người quan tâm đến thị trường chứng khoán, thông tin không cân xứng,
lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Đây cũng có thể là tài liệu giúp ích cho
các nghiên cứu sâu hơn về các vấn đề trên.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, tôi tin tưởng rằng nghiên cứu này
sẽ góp phần hoàn thiện vấn đề thông tin và công bố thông tin trên thị trường
chứng khoán Việt Nam, từ đó tạo điều kiện trước mắt và lâu dài cho việc hoạt
động và phát triển của thị trường.
Kết cấu của luận văn
Với các nội dung đã đề cập trên đây, luận văn được kết cấu như sau:
Chương I: Lý luận chung về thị trường chứng khoán, thông tin không
cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Chương II: Vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi
ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chương III: Một số nhận xét và đề xuất phương hướng giải quyết vấn đề
thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường
chứng khoán Việt Nam nhằm thúc đẩy thị trường phát triển.
Nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình từ Thạc sỹ Phạm Song
Hạnh cùng với nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, tôi đã hoàn thành
luận văn này. Tuy nhiên do hạn chế về năng lực, thời gian và nguồn tài liệu
trong khi vấn đề nghiên cứu còn khá mới mẻ và tinh tế nên những thiếu sót và
nhầm lẫn là không thể tránh khỏi. Tôi rất cảm ơn và mong nhận được sự phê
bình, góp ý và phát triển thêm từ các Thầy Cô giáo, những nhà nghiên cứu, bạn
bè nhằm hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
10
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
11
Chương I
Lý luận chung về thị trường chứng khoán,
thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch
và rủi ro đạo đức
1. Thị trường chứng khoán
1.1. Khái niệm
Khái niệm thị trường chứng khoán hình thành và hoàn thiện theo sự phát
triển của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thị trường chứng
khoán là một yếu tố không thể thiếu đối với việc duy trì và phát triển của nền
kinh tế. Cho đến nay, các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều có
thị trường chứng khoán nhưng định nghĩa về thị trường chứng khoán thì có
nhiều cách khác nhau:
Thị trường chứng khoán là một thị trường có tổ chức nơi các chứng
khoán được mua bán theo những nguyên tắc nhất định (theo Longman
Dictionary of Business English, 1985 – nguyên văn: ”Securities market is an
organized market where securities are bought and sold under fixed rules”)
Theo giáo trình “Thị trường chứng khoán” của trường đại học Ngoại
Thương, 1998, thị trường chứng khoán được định nghĩa là “một thị trường mà
ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục
đích kiếm lời”.
Nghị định 48/CP ngày 11/7/1998 quy định: “Thị trường giao dịch tập
trung là địa điểm hoặc hệ thống thông tin, tại đó các chứng khoán được mua,
bán hoặc là nơi tham khảo để thực hiện các giao dịch chứng khoán”.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
12
Khái niệm thị trường chứng khoán là một khái niệm có tính lịch sử nên
trong thực tế, thuật ngữ thị trường chứng khoán thường có cách hiểu sát thực
hơn và có thể có rất nhiều nội dung mới.
1.2. Chức năng, cơ cấu và nguyên tắc hoạt động của thị trường
chứng khoán.
1.2.1. Chức năng.
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ry phát hành, số tiền nhàn
rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở
rộng sản xuất xã hội. Bằng cáh hỗ trợ các hoạt đọng đàu tư củ công ty, thị
trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính
quyền địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng
và đầu tư phát triển hạ tằng kinh tế, phục vụ các nhu cầu vhung của xã hội.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu
tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị
trường rất khác nhau về thời hạn, tính chất và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu
tư có thể lựa chọn cho loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở
thích của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán góp phần đáng kể làm
tăng mức tiết kiệm quốc gia.
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các
chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ
muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng
khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của
vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và hiệu quả thì
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
13
càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch
trên thị trường.
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản
ánh một cách tổng hợp và kịp thời, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động
của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một
môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích
thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ
mô.
Các dấu hiệu của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền
kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho
thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng, và ngược lại giá chứng
khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị
trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công
cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông
qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ
để tạo ra nguồn thu bù đắp ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ
cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường
chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của
nền kinh tế.
1.2.2. Cơ cấu của thị trường chứng khoán
Có nhiều căn cứ phân loại thị trường chứng khoán nhưng phổ biến và
quan trọng nhất là căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, theo đó thị
trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
14
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành
thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành do đó đây là
nơi duy nhất đem lại vốn đầu tư cho tổ chức phát hành. Việc mua bán trên thị
trường sơ cấp thường diễn ra giữa các ngân hàng, công ty phát hành, và các tập
đoàn tài chính lớn… giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát
hành ấn định và thường được in ngay trên chứng khoán. Như vậy, có thể thấy
rằng, thị trường sơ cấp đóng vai trò chứng khoán hoá các nguồn vốn cần huy
động đồng thời chu chuyển vốn từ nơi thừa vốn tới nơi cần vốn và chuyển nó
thành vốn dài hạn.
Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đóng vai trò đảm bảo tính thanh
khoản cho các chứng khoán đã phát hành và có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán
chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ
không phải nhà phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào
những người phát hành chứng khoán mà vận chuyển giữa những người đầu tư
chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của
thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp.
Thứ hai, giao dịch trên thị trường thứ cấp thể hiện nguyên tắc cạnh tranh
tự do, giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do quan hệ cung cầu quyết định.
Thứ ba, thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu
tư có thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường này.
Ngoài cách phân loại trên, có thể phân loại thị trường chứng khoán theo
tính chất tập trung của thị trường, theo đó thị trường chứng khoán bao gồm Sở
giao dịch chứng khoán (thị trường tập trung) và thị trường OTC (thị trường phi
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
15
tập trung). Tại sở giao dịch, các giao dịch được tập trung tại một địa điểm, các
lệnh được chuyển đến sàn giao dịch và tham gia vào quá trình khớp lệnh để
hình thành giá giao dịch. Trên thị trường OTC, các giao dịch (cả sơ cấp và thứ
cấp) được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán khắp
quốc gia và được nối với nhau bằng mạng máy tính. Giá cả hình thành theo
phương thức thoả thuận.
1.2.3. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
Nguyên tắc cạnh tranh
Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường chứng khoán phản ánh quan
hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công
ty. Trên thị trường sơ cấp, các tổ chức phát hành cạnh tranh nhau để bán chứng
khoán của mình cho nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng
khoán theo các mục tiêu của riêng mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu
tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất và giá
cả được hình thành theo phương thức đấu giá.
Nguyên tắc công bằng
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả những người tham gia
thị trường. Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân
thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chi sẻ thông tin và trong
việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những quy định đó.
Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là loại hàng hoá có tính trừu tượng, người đầu tư không
thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường
mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy thị trường chứng
khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thông công bố thông tin tốt. Theo luật
định, các bên tham gia phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ,
trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ chức phát hành, tới
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
16
đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu cũng
như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các phương tiên
thông tin đại chúng, sở gia dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có
liên quan khác.
Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này, trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được
thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị
trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của tổ chức phát
hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua
các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh các công ty chứng khoán mua bán chứng
khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau thông qua
việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
Nguyên tắc tập trung
Thị trường chứng khoán phải hoạt động trên nguyên tắc tập trung. Các
giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC, có
sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
Hàng hóa của thị trường chứng khoán là các sản phẩm tài chính cao cấp nên
việc giao dịch đòi hỏi thị trường phải có những cơ sở vật chất nhất định chứ
không thể diễn ra một cách tuỳ tiện.
1.3. Các thành phần tham gia trên thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được
chia thành ba nhóm chính: tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức khác
có liên quan.
1.3.1. Tổ chức phát hành
Tổ chức phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Tổ chức phát hành bao gồm Chính phủ và chính quyền
địa phương (phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương), các
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
17
công ty (phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty) và các tổ chức tài chính khác
đóng vai trò cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán.
1.3.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia
mua bán chứng khoán với mục đích kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư
thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và
ngược lại. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình
thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độc chấp nhận rủi ro của
mình.
Các nhà đầu tư có tổ chức, hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường
xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này
thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm
để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư
chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các công ty đầu tư, các
công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư
thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh
mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiên bởi các chuyên gia giàu
kinh nghiệp và có chuyên môn cao.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính.
Các công ty tài chính được phép kinh doanh chứng khoán, có thể sử dụng vốn
củ mình để đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích kiếm lợi.
Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng
có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính
mình.
1.3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
18
Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán, có thể đảm nhận môt hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo
lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư, và tư vấn đầu tư.
Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm
bảo được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
Các ngân hàng thương mại
Tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có để
tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên các
ngân hàng chỉ được đầu tư vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định để
bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Một số nước
cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập để kinh doanh
chứng khoán và thực hiên nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Ngoài ba thành phần trên đây, thị trường chứng khoán còn có sự tham
gia không thể thiếu của các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán như:
các cơ quan quản lý nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh
doanh chứng khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán…
2. Thông tin không cân xứng.
Thông tin không cân xứng và những bằng chứng lý thuyết cũng như thực
nghiệm về vấn đề này hiện nay đóng vai trò là công cụ cơ bản của mọi nhà
kinh tế học tài chính trong nền kinh tế hiện đại. Thông tin không cân xứng là
một hiện tượng có ý nghĩa quan trọng đối với một số vấn đề của kinh tế học và
tài chính từ kinh tế học vĩ mô và vi mô (như vấn đề các công cụ nợ của doanh
nghiệp, các chứng chỉ đầu tư và cổ tức, mức đan sâu, rộng và lâu dài của các
chu kỳ kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế dài hạn) đến các vấn đề liên quan đến
kinh tế quốc tế và nguồn gốc của các cuộc khủng hoảng tài chính. Để tạo cơ sở
cho những phân tích tiếp theo của luận văn, trong phần này tôi xin trình bày
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
19
một cách chi tiết học thuyết Thông tin không cân xứng và các khái niệm có liên
quan.
2.1. Khái niệm về thông tin không cân xứng.
Trong mọi nền kinh tế, các giao dịch về tài chính đều hướng đến mục
tiêu cuối cùng là chuyển nguồn vốn nhàn rỗi đến những dự án đầu tư hiệu quả
nhất với chi phí thấp nhất có thể. Nền sản xuất hàng hoá và dịch vụ của xã hội
liên tục phát triển làm gia tăng không ngừng giá trị thặng dư. Chịu tác động bởi
chi phí cơ hội của việc giữ tiền, những chủ nhân của phần giá trị thặng dư đó
luôn tìm kiếm các cơ hội đầu tư tốt nhất. Diễn ra đồng thời với quá trình đó là
sự huy động vốn của các chủ thể kinh tế, những người muốn thành lập hoặc mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự gặp nhau của hai luồng nhu cầu trên
tạo nên các giao dịch về tài chính và tổng hợp tất cả các giao dịch tài chính đó
hình thành thị trường tài chính của một quốc gia.
Tuy nhiên sẽ là không đơn giản để các giao dịch về tài chính đạt đến
mục tiêu cuối cùng trên đây. Nguyên nhân là do sự tương hợp về yêu cầu giữa
người cho vay và người đi vay không phải bao giờ cũng đạt được.
Từ phía người cho vay, với vai trò là người sở hữu vốn, yêu cầu đảm bảo
an toàn cho đồng vốn luôn được đặt lên trước tiên. Họ yêu cầu người vay vốn
đưa ra những bằng chứng cho thấy tính an toàn của đồng vốn và điều đó phải
được thể hiện thực tế thông qua việc hoàn trả vốn khi thời hạn vay kết thúc.
Yêu cầu chung thứ hai của người cho vay là thu được lãi suất kỳ vọng vào
đúng thời điểm cam kết. Vì những người cho vay chấp nhận cho vay là để
chống lại chi phí cơ hội của việc giữ tiền mà biểu hiện ra chính là lãi suất huy
động vốn (i) của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, nên lãi suất kỳ
vọng không thể thấp hơn i. Ngoài hai yêu cầu trên, trong những tình huống cụ
thể người cho vay còn có những yêu cầu khác về hình thức trả lãi, cung cấp
thông tin, … nhưng tựu chung lại đó cũng chỉ là các yêu cầu phái sinh nhằm
đảm bảo hai yêu cầu trên đây.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
20
Đối với người đi vay, tìm được nguồn vốn đủ lớn về quy mô, đủ dài về
thời hạn với lãi suất và các ràng buộc hợp lý là những yêu cầu cơ bản và quan
trọng nhất. Việc xác định như thế nào là “đủ” và “hợp lý” tương ứng phụ thuộc
vào dự định sử dụng vốn và thoả thuận của hai bên trên cơ sở các điều kiện cho
vay áp dụng phổ biến trong nền kinh tế. Như vậy, người đi vay phải một mặt
thoả mãn được các yêu cầu của người cho vay và mặt khác phải đáp ứng được
các yêu cầu đi vay của chính mình. Vì vậy, khả năng một giao dịch tài chính
được thực hiện phụ thuộc chủ yếu vào người đi vay.
Tuy nhiên trong các giao dịch tài chính luôn xuất hiện một mâu thuẫn cơ
bản và cố hữu, một mâu thuẫn tạo nên cơ sở tồn tại của các điều kiện cho vay
trong các tổ chức tài chính, đó là sự không cân xứng về thông tin giữa người
cho vay và người đi vay. Người cho vay đóng vai trò cung cấp vốn trong giao
dịch tài chính và thường không có sự khác biệt lớn về đồng vốn giữa những
người cho vay (sự khác biệt chủ yếu nằm ở thời hạn cho vay và các ràng buộc
liên quan). Nói cách khác, những thông tin về phía đối tác của mình mà người
đi vay có được là tương đối đồng nhất. Người đi vay có thể huy động từ một
trong những người cung cấp vốn mà không cần quan tâm nhiều đến bên cho
vay vì chỉ cần vay được vốn là họ đã đạt được gần như hoàn toàn mục đích của
một giao dịch tài chính.
Mọi chuyện hoàn toàn khác đối với người cho vay. Họ có quyền lựa
chọn một trong số những người hỏi vay, lúc này họ có cả quyền sử dụng và
định đoạt đối vơi đồng vốn, nghĩa là họ có quyền sở hữu đầy đủ. Nhưng ngay
sau khi giao dịch tài chính diễn ra, quyền sở hữu đó bị chia đôi, quyền sử dụng
vốn đã được chuyển sang phía người vay vốn! Nếu không có vật thế chấp hoặc
bảo lãnh của một tổ chức tài chính mạnh, người cho vay chỉ còn sự thừa nhận
về mặt pháp lý đối với khoản tiền đó, họ không cầm giữ và cũng không sử
dụng nó. Điều này đồng nghĩa với việc rủi ro thu hồi vốn tăng lên và mức độ
rủi ro phụ thuộc hoàn toàn vào người vay vốn.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
21
Do vậy, những gì người cho vay phải làm để hạn chế rủi ro là phải thu
thập và phân tích các thông tin liên quan đến người vay vốn. Họ cần biết người
đi vay sử dụng đồng vốn như thế nào, mức độ rủi ro cao hay thấp, sức mạnh tài
chính, mức độ tin tưởng, nguy cơ dẫn đến việc sử dụng vốn không đúng cam
kết của người vay, … Tuy nhiên những thông tin như thế đến với người cho
vay thường không đầy đủ hoặc thiếu chính xác dẫn đến những lựa chọn của
người cho vay có thể là một “lựa chọn đối nghịch”
Tóm lại, trong các giao dịch tài chính thường có sự chênh lệch về thông
tin giữa các bên tham gia, đó chính là hiện tượng thông tin không cân xứng.
Cho đến nay, qua nhiều nghiên cứu, các nhà kinh tế học có nhiều cách
định nghĩa khác nhau về thông tin không cân xứng:
Theo nhà kinh tế học Markusk K.Brunnermeier, Đại học Boston: “Thông
tin không cân xứng là hiện tượng người đi vay có thông tin tốt hơn người cho
vay” 1
.
Theo hai nhà kinh tế học Udo Schmidt Mohr (University des Saarlandes)
và J.Miguel Villas-Boas (University of California at Berkeley) trong cuốn
“Assymetric Information and the Market Structure of the Banking Industry”
(tạm dịch: Thông tin không cân xứng và cấu trúc thị trường của ngành ngân
hàng): Thông tin không cân xứng là tình trạng trong đó người mua và người
bán có thông tin khác nhau về cùng một giao dịch.
Theo nhà kinh tế học Fredic S.Miskin Đại học Columbia, Hoa Kỳ:
“Thông tin không cân xứng là sự không ngang bằng về một thông tin mà mỗi
bên tham gia vào một giao dịch biết được” 2
.
1
“Asset pricing under Assymetric Information: Bubbles, Crashes, Technical Analysis and Herding”, NXB Đại
học Boston, 1999, trang 27, dòng 18.
2
“Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”, NXB Khoa học Kỹ thuật, 1999, trang 907.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
22
Có thể định nghĩa khái niệm thông tin không cân xứng theo nhiều cách
khác nhau. Tuy nhiên mọi trường hợp không cân xứng về thông tin đều có ba
đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, có sự khác biệt về thông tin giữa các bên tham gia giao dịch.
Thứ hai, có nhiều trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa hai bên.
Thứ ba, trong hai bên có một bên có thông tin chính xác hơn.
Mỗi thị trường đều đạt đến một trạng thái cân bằng sau sự tương tác qua
lại giữa người mua và người bán dưới sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật.
Trên cơ sở sự cân bằng đó, các quan hệ kinh tế được phân tích chi tiết hơn. Tuy
nhiên, vị trí cân bằng trên các thị trường có thông tin không cân xứng có nhiều
thay đổi. Để phân tích chi tiết hơn sự tác động của thông tin không cân xứng
đến hoạt động của thị trường, ta cần nghiên cứu cách đạt đến cân bằng thị
trường và các yếu tố quyết định đến sự cân bằng đó.
Trên mỗi thị trường, đặc điểm của sự không cân xứng về thông tin và
tính chất tác động đến cân bằng thị trường không giống nhau. Vai trò của thông
tin trên thị trường càng cao thì vấn đề thông tin không cân xứng trên các thị
trường đó càng rõ rệt và thu hút nhiều sự quan tâm của những người tham gia.
Thông tin không cân xứng xuất hiện phổ biến trên các thị trường tài chính, đặc
biệt là thị trường tín dụng và bảo hiểm. Trong phần dưới đây, tôi xin trình bày
sự cân bằng trên các thị trường bảo hiểm xuất hiện thông tin không cân xứng
dựa trên một nghiên cứu về thị trường bảo hiểm thu hoạch nông sản của Mỹ do
hai nhà kinh tế học Shiva S.Makki và Agapi Somwaru thuộc Vụ Kinh tế học
Thị trường và Thương mại, Viện Nghiên cứu Kinh tế, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ
thực hiện tháng 4, 2001. Việc lựa chọn thị trường bảo hiểm là xuất phát từ
nhiều nguyên nhân: thứ nhất, bảo hiểm là lĩnh vực mà thông tin đóng vai trò
đặc biệt quan trọng và thể hiện rõ ràng nhất những đặc điểm của thông tin
không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức; thứ hai, rủi ro đạo đức
trên thị trường này thường xuyên xảy ra vì sau khi được bảo hiểm, người được
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
23
bảo hiểm có ít nỗ lực hơn trong việc bảo vệ đối tượng bảo hiểm; thứ ba, đã có
nhiều nghiên cứu được thực hiện trên nhiều loại thị trường bảo hiểm nên các
mô phân tích đều đã được khẳng định tính đúng đắn. Dựa trên các phân tích đó,
việc vận dụng nghiên cứu trên thị trường này sang các lĩnh vực khác có nhiều
điểm tương đồng và do đó sẽ đóng góp rất lớn trong những phần tiếp theo của
luận văn.
2.2. Cân bằng thị trường trong trường hợp không cân xứng về
thông tin
Trên các thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm nói riêng,
hiện tượng thông tin không cân xứng luôn đi kèm và có mối quan hệ mật thiết
với vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Trên thị trường bảo hiểm, lựa
chọn đối nghịch phát sinh do các công ty bảo hiểm không thể phân loại một
cách triệt để mức độ rủi ro của những người tham gia bảo hiểm. Sau khi mua
bảo hiểm, người được bảo hiểm không có động lực để hạn chế rủi ro. Những
rủi ro như vậy gọi là rủi ro đạo đức và người chịu rủi ro này không ai khác
chính là công ty bảo hiểm. Nghiên cứu sắp trình bày dưới đây giả thiết rằng các
cá nhân tham gia bảo hiểm không có khả năng phân phối rủi ro.
Những nghiên cứu trên thị trường bảo hiểm thân thể và xe hơi của một
số nhà kinh tế học trên thế giới đã đi đến đến kết luận rằng lựa chọn đối nghịch
khiến những người có rủi ro thấp không muốn tham gia bảo hiểm đồng thời tạo
ra hiện tượng chuyển thu nhập từ những người có mức rủi ro thấp sang những
người có mức rủi ro cao.
Để xác định cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin không cân
xứng trên thị trường bảo hiểm, trước tiên cần xem xét quá trình đạt đến cân
bằng trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo bằng cách sử dụng lý thuyết cung-cầu
thị trường.
Giả sử một cá nhân X muốn mua một hợp đồng bảo hiểm để ổn định thu
nhập trước các rủi ro. Để đơn giản ta giả thiết có hai khả năng xảy ra: có tổn
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
24
thất và không có tổn thất. Giả sử tiếp rằng X muốn tối đa hoá thu nhập. Nếu
không có hợp đồng bảo hiểm, anh ta sẽ có tổng thu nhập kỳ vọng là:
V(m,p) = (1 - p)U(m) + pU(m – d) (1)
Trong đó:
m: thu nhập
p: xác suất xảy ra tổn thất
U(x): hàm thu nhập
V: tổng trị giá thu nhập kỳ vọng.
Nếu mua bảo hiểm với mức phí bảo hiểm a và mức bồi thường i, tổng
thu nhập kỳ vọng của X là:
V(a,i,p) = (1 – p)U(m – a) + pU(m – d – a + i) (2)
Giả sử rằng X là người không thích mạo hiểm, khi đó U luôn giảm (tức
là U’(x) < 0) đồng thời đồ thị của U là một đường cong lõm (do đó V cũng là
một đường cong lõm). Trong các hợp đồng bảo hiểm, X sẽ chọn hợp đồng có
V cực đại.
Giả sử tiếp rằng thu nhập từ các hợp đồng bảo hiểm của công ty bảo
hiểm phụ thuộc vào các biến ngẫu nhiên. Do vậy, khi bán được hợp đồng bảo
hiểm, công ty xẽ thu được (1 - p)a và phải trả p(i - a) khi tổn thất xảy ra. Lợi
nhuận của công ty là:
 (a,i,p) = (1 - p)a - p(i - a) (3)
Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận của công ty bằng 0 nên:
(1 - p)a - p(i - a) = 0 (4)
Mỗi hợp đồng bảo hiểm được đặc trưng bởi mức phí bảo hiểm a và mức
bồi thường i. Do đó, phương trình (4) thể hiện tất cả các hợp đồng bảo hiểm
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
25
của công ty. Tại một xác suất xảy ra rủi ro nhất định p, công ty sẽ định giá a và
i sao cho phương trình (4) được thoả mãn.
Tức là: (1 - p)a -p(i - a) = 0
hay a - pi = 0
Phương trình (2) và phương trình (4) thể hiện đường cầu và cung bảo
hiểm. Sự tương tác giữa cung và cầu bảo hiểm được thể hiện trên trục m10m2,
trong đó m1 và m2 thể hiện thu nhập trong hai trường hợp tương ứng: không
có tổn thất và có tổn thất.
2.2.1. Cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin đầy đủ.
Trên thị trường bảo hiểm cạnh tranh hoàn hảo, có hai kiểu cân bằng là
cân bằng chung và cân bằng riêng. Cân bằng chung xảy ra khi thị trường có
một loại khách hàng đồng nhất về mức độ rủi ro, công ty bảo hiểm chỉ cần định
giá một loại hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp cân bằng riêng, thị trường
có nhiều nhóm khách hàng khác nhau về mức độ rủi ro. Khi đó, công ty bảo
hiểm bán các hợp đồng bảo hiểm ở các mức giá khác nhau cho từng đối tượng
khách hàng có độ rủi ro phù hợp. Thị trường đạt đến cân bằng tại nhiều điểm
ứng với từng loại khách hàng.
2.2.1.1. Cân bằng chung
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
26
E
K
F
U
T
m1
m2
m - a - d + i
m - d
m – a m
H×nh 1.1: C©n b»ng thÞ tr­êng trong
®iÒu kiÖn th«ng tin ®Çy ®ñ vµ
mét møc rñi ro
O
Hình 1.1 biểu diễn điểm cân bằng chung của thị trường bảo hiểm cạnh
tranh hoàn hảo với một loại khách hàng đồng nhất và 1 tỷ lệ xác suất xảy ra
rủi ro, trong điều kiện thông tin đầy đủ. Trục hoành m1 và trục tung m2 biểu
diễn thu nhập trong hai trường hợp tương ứng: không có tổn thất và có tổn
thất. Đường cong U thể hiện tập hợp các điểm kết hợp thu nhập của người mua
bảo hiểm trong hai trường hợp trên, phụ thuộc vào a, i và d, chính là đường cầu
bảo hiểm. Đường thẳng OT biểu diễn các tập hợp điểm có kết hợp thu nhập
bằng nhau dù tổn thất có xảy ra hay không. Đường thẳng EF là đồ thị của
phương trình (4) biểu diễn các kết hợp thu nhập của công ty bảo hiểm và chính
là đường cung bảo hiểm. Độ dốc của đường EF được xác định bằng tỷ lệ
p
p1
.
Độ dốc của đường U được xác định bằng tỷ lệ thay thế cận biên của thu nhập
trong hai trường hợp m1 và m2, tức là bằng
)(
)(
2
1
'
'
mU
mU
.
Thị trường đạt tới trạng thái cân bằng khi độ dốc của đường cầu U bằng
độ dốc của đường cung EF. Giả X có điểm kết hợp thu nhập ban đầu tại E. Tại
điểm này X sẽ có thu nhập m nếu tổn thất không xảy ra và m - d nếu tổn thất
xảy ra. Để hạn chế rủi ro, X mua một hợp đồng bảo hiểm dọc theo đường EF.
Trong số các hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng tại điểm K tối đa hoá thu nhập kỳ
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
27
vọng của anh ta. Hợp đồng tại K là một hợp đồng bảo hiểm toàn bộ rủi ro và
cân bằng thu nhập của X trong cả hai trường hợp có hay không có tổn thất. Tại
điểm cân bằng, hợp đồng được mua bán trong điều kiện cả hai bên đều biết rõ
về nhau. Vì vậy K chính là điểm cân bằng trong điều kiện thông tin đầy đủ, lúc
này người bảo hiểm không có lãi ( = 0).
2.2.1.2. Cân bằng riêng
Hình 1.2 dưới đây biểu diễn điểm cân bằng của thị trường bảo hiểm cạnh
tranh hoàn hảo, đầy đủ thông tin nhưng những người tham gia bảo hiểm có
mức rủi ro khác nhau. Để đơn giản, ta giả sử chỉ có hai nhóm khách hàng: LR
và HR với xác suất xảy ra rủi ro tương ứng là pH và pL (pH > pL).
E
O
m1
m2
UL
UH
A
B
H
F
H×nh 1.2: C©n b»ng thÞ tr­êng trong
®iÒu kiÖn th«ng tin ®Çy ®ñ
vµ nhiÒu møc rñi ro
T
Vẫn với các giả thiết như phần trên ta thấy:
Các hợp đồng bảo hiểm có rủi ro thấp được thể hiện trên đường EF, có
độ dốc là (1 – pL)/pL. Các hợp đồng bảo hiểm có rủi ro cao được tập hợp trên
đường EH, có độ dốc bằng (1 – pH)/pH.
Trong trường hợp này, độ dốc và độ lõm của đường cầu ứng với mỗi
nhóm khách hàng phụ thuộc vào mức tổn thất khi rủi ro xảy ra (d) và đặc điểm
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
28
rủi ro (tuỳ theo từng đặc điểm rủi ro mà công ty bảo hiểm đưa ra mức phí a và
mức bồi thường i phù hợp). Gọi hai đường này tương ứng là UL và UH.
Vì công ty bảo hiểm biết rõ xác suất xảy ra rủi ro của hai nhóm khách
hàng nên họ sẽ đưa ra hai loại hợp đồng bảo hiểm tương ứng với hai mức rủi
ro. Tại điểm cân bằng, cả hai nhóm khách hàng đều được bảo hiểm toàn bộ rủi
ro và ở một mức giá cả công bằng.
2.2.2. Cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin không cân
xứng.
Nhà kinh tế học Akerlof, trong nghiên cứu về thông tin không cân xứng
năm 1970 đã đưa ra những vấn đề phát sinh trên thị trường bảo hiểm thân thể
khi người được bảo hiểm biết rõ tình trạng sức khoẻ của mình còn công ty bảo
hiểm không biết đến điều đó. Ông đưa ra một ví dụ trong đó công ty bảo hiểm
không thể phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro và định giá các hợp đồng
bảo hiểm ở một mức trung bình. Trong điều kiện đó, chỉ những người có mức
rủi ro cao hơn mức trung bình mới muốn mua bảo hiểm. Điều này khiến công
ty bảo hiểm bị lỗ và do đó, phí bảo hiểm phải được tăng lên để đảm bảo cho
công ty hoà vốn. Tiếp tục, trong số những người mua bảo hiểm trước đây, chỉ
những người có mức rủi ro cao hơn mức trung bình mới mua bảo hiểm ở mức
giá mới cao hơn. Quá trình tương tự diễn ra liên tục cho đến khi chỉ những
người có mức rủi ro rất cao mới sãn sàng mua bảo hiểm ở một mức phí bảo
hiểm cũng rất cao 3
.
Năm 1976, nghiên cứu của hai nhà kinh tế học Rothschild và Stiglitz đã
giải thích sự đạt đến cân bằng trên thị trường bảo hiểm trong điều kiện thông
tin không cân xứng xảy ra giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm. Với
sự thiếu hụt về thông tin, thị trường này sẽ có hai kiểu cân bằng: cân bằng
chung (Pooling Equilibrium) và cân bằng riêng (Seperating Equilibrium).
3
“The Market for ‘Lemons’: Quality Uncertainty and the Market Mechanism”, Quarterly Journal of
Economics Số 84, Hoa Kỳ (Tháng 8/1970), trang 488-500.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
29
Trong trường hợp cân bằng chung, công ty bảo hiểm không thể phân loại
khách hàng theo mức độ rủi ro nên phí bảo hiểm được xác định ở mức trung
bình. Các hợp đồng bảo hiểm được bán với cùng một mức giá cho mọi nhóm
khách hàng. Tình trạng này sẽ dẫn đến kiểu thị trường trong mô hình của nhà
kinh tế học Akerlof như đã trình bày trên đây. Trong trường hợp cân bằng
riêng, các hợp đồng bảo hiểm được bán ở mức giá phù hợp với từng loại rủi ro.
Khi đó những người tham gia bảo hiểm sẽ tự phân loại mình theo đặc điểm của
rủi ro thông qua việc lựa chọn hợp đồng bảo hiểm.
2.2.2.1. Cân bằng chung
O m1
m2
T
H×nh 1.3: C©n b»ng chung trong ®iÒu
kiÖn th«ng tin kh«ng c©n xøng vµ
nhiÒu møc rñi ro
UH
UL
A
B
E
H
G
A’
B’
F
Hình 1.3 biểu diễn một ví dụ về cân bằng chung trong trường hợp có
thông tin không cân xứng. Trong phân tích trước, ta đã giả thiết rằng có hai
nhóm khách hàng tham gia bảo hiểm LR và HR với xác suất xảy ro rủi ro
tương ứng là pL và pH (pL < pH). Đường EF biểu diễn đường cung các hợp đồng
bảo hiểm cho khách hàng có rủi ro thấp với độ dốc là (1 - pL)/ pL còn các hợp
đồng cho khách hàng có rủi ro cao tập trung thành đường EH với độ dốc (1 –
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
30
pH)/pH. Độ dốc và hình dạng của các đường cầu phụ thuộc vào đặc điểm rủi ro
(đặc trưng bởi mức tổn thất d) và thái độ của người được bảo hiểm đối với rủi
ro (thể hiện qua việc lựa chọn các hợp đồng bảo hiểm ở các mức a và i khác
nhau). Giả sử hai đường cầu này tương ứng là UL và UH. Do các giá trị UL và
UH là những thông tin không được cáo bạch nên các điểm cân bằng A, B (điểm
bảo hiểm tốt nhất các rủi ro) là không thể đạt được. Nguyên nhân là do các
công ty bảo hiểm không biết rõ ai là người có pH và ai là người có pL nên
không thể ngăn cản những người có pH mua hợp đồng A, điểm đảm bảo an
toàn cao hơn.
Mặt khác, cũng do không phân loại được khách hàng nên công ty bảo
hiểm định giá hợp đồng ở mức trung bình, thể hiện bằng đường EG. Kết quả là
trong trường hợp cân bằng chung những người có rủi ro cao sẽ mua hợp đồng
B’ và người có rủi ro thấp sẽ mua hợp đồng A’. So với phạm vi bảo hiểm toàn
bộ rủi ro thì ở phạm vi bảo hiểm này những người có rủi ro cao đã mua rẻ hơn
và những người có rủi ro thấp đã mua đắt hơn. Như vậy, người có rủi ro cao
được bảo hiểm nhiều hơn (over-insured) trong khi người có rủi ro thấp được
bảo hiểm ít hơn (under-insured).
2.2.2.2. Cân bằng riêng
Hình 1.4 biều diễn trường hợp cân bằng riêng trên thị trường bảo hiểm
có thông tin không cân xứng.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
31
A*
O m1
m2
T
H×nh 1.4: C©n b»ngriªng trong ®iÒu
kiÖn th«ngtin kh«ng c©n xøng vµ
nhiÒu møcrñi ro
UH
UL
A
B
E
H
F
Xét một thị trường tương tự như đã trình bày trong hình 1.3. Tuy nhiên
công ty bảo hiểm chào bán hai loại bảo hiểm ở hai mức giá khác nhau tương
ứng với từng mức độ rủi ro. Do công ty bảo hiểm không biết xác suất xảy ra rủi
ro của khách hàng nên điểm cân bằng tối ưu A và B không thể đạt được. Lúc
này khách hàng đều thích hợp đồng A hơn vì tại đó thu nhập kỳ vọng luôn cao
hơn dù tổn thất có xảy ra hay không. Trong trường hợp này, công ty bảo hiểm
có thể đưa ra hai loại hợp đồng (tương ứng theo hai đường cung EF và EH)
phù hợp với từng loại rủi ro.
Vì công ty bảo hiểm không thể tách riêng người có rủi ro cao với người
có rủi ro thấp nên khi thị trường cân bằng, người có rủi ro cao sẽ mua hợp đồng
B và người có rủi ro thấp sẽ mua hợp đồng A*. Kết quả là khi tồn tại cân bằng
riêng thì hợp đồng cho mức rủi ro thấp là giao điểm giữa đường cầu của người
có rủi ro cao với đường cung cho người có rủi ro thấp.
Những dấu hiệu (gợi ý) của thị trường
Lý thuyết về những dấu hiệu của thị trường cho rằng trong các thị trường
bảo hiểm tòn tại thông tin không cân xứng, các cá nhân ngầm bộc lộ những
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
32
thông tin liên quan đến mức độ rủi ro khi họ lựa chọn hợp đồng bảo hiểm.
Những người có rủi ro thấp thường mua hợp đồng bán phần và chọn tỷ lệ khấu
trừ cao (nếu rủi ro xảy ra, công ty bảo hiểm được khấu trừ một phần tổn thất
phải chịu). Trong khi đó những người có rủi ro cao thường mua bảo hiểm toàn
phần.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sự tự bộc lộ rủi ro này còn phụ thuộc vào một
số yếu tố khác như thái độ của người được bảo hiểm trước rủi ro (muốn tránh
rủi ro nhiều hay ít). Chẳng hạn, một người tham gia bảo hiểm có thể mua hợp
đồng có phạm vi bảo hiểm cao bởi vì anh ta có xác suất xảy ra rủi ro cao nhưng
cũng có thể anh ta là người thích sự an toàn, chắc chắn. Tuy nhiên, nếu giả
thiết hai yếu tố này không đổi thì người nào mua bảo hiểm có phạm vi lớn hơn,
người đó thường có mức tổn thất cao hơn khi rủi ro xảy ra.
Như vậy, trên thị trường bảo hiểm có thông tin không cân xứng sẽ tồn tại
một trong hai kiểu cân bằng. Nếu người bảo hiểm không thể phân loại được
khách hàng theo mức độ rủi ro, thị trường sẽ đạt được cân bằng chung theo đó
dựa trên mức độ rủi ro trung bình, người bảo hiểm cung cấp một loại hợp đồng
duy nhất cho tất cả khách hàng. Vì vậy, trong số những người mua hợp đồng
bảo hiểm, người có mức rủi ro cao hơn mức trung bình sẽ mua hợp đồng toàn
bộ rủi ro và do đó họ được mua dưới giá trị hợp đồng (under-charge), hay nói
cách khác họ được bảo hiểm vượt mức so với số tiền bỏ ra (over-insure).
Những người có mức rủi ro thấp hơn trung bình sẽ phải trả giá cao hơn so với
mức bảo hiểm giành được.
Trong trường hợp người bảo hiểm phân loại được khách hàng, họ sẽ
chào bán các hợp đồng bảo hiểm khác nhau với mức giá khách nhau. Khi đó
thị trường sẽ đạt đến cân bằng riêng. Trong điều kiện cân bằng này, những
nhóm khách hàng khác nhau sẽ đạt được cân bằng ở những vị trí khác nhau mà
tại đó, thu nhập của họ được tối đa hoá trong cả hai trường hợp: có tổn thất và
không có tổn thất. Đương nhiên, sự phân loại khách hàng không thể triệt để
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
33
nên sẽ vẫn có những khách hàng được bảo hiểm vượt mức và những khách
hàng được bảo hiểm thấp hơn so với số tiền bảo hiểm.
3. Lựa chọn đối nghịch
3.1. Khái niệm
Lựa chọn đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước
khi diễn ra cuộc giao dịch. Trên các thị trường tín dụng, lựa chọn đối nghịch
xảy ra khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không
mong muốn lại chính là những người tích cực đi tìm vay nhất và do vậy, trong
số những người đi vay họ sẽ là người dễ được lựa chọn nhất. Trên thị trường
chứng khoán, lựa chọn đối nghịch xuất hiện khi nhà đầu tư không biết thông
tin về các loại cổ phiếu của các công ty khác nhau do đó có thể mua phải cổ
phiếu của một công ty hoạt động kém, rủi ro cao. Vấn đề lựa chọn đối nghịch
cũng xuất hiện trong nhiều hoạt động khác của nền kinh tế. Nói một cách tổng
quát, lựa chọn đối nghịch là những quyết định sai lầm của một bên tham gia
giao dịch mà nguyên nhân là do thông tin không cân xứng.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm lựa chọn đối nghịch và những tác động của
nó đến nền kinh tế, ta nghiên cứu sự hình thành của lựa chọn đối nghịch như sẽ
trình bày dưới đây.
3.2. Sự hình thành lựa chọn đối nghịch
Dựa trên nghiên cứu của nhà kinh tế học G. AKERLOF năm 1970 có tựa
đề: “The market for ‘lemons’ Quality Uncertainty and the Market Mechanism”,
tôi xin trình bày một cách tổng quát về sự hình thành lựa chọn đối nghịch như
sau:
Lựa chọn đối nghịch là hiện tượng xảy ra trên bất kỳ thị trường nào xuất
hiện thông tin không cân xứng. Do không có đủ thông tin liên quan đến giao
dịch nên một trong các bên tham gia giao dịch sẽ đưa ra những quyết định sai
lầm. Trong phần này, ta giả có hai bên tham gia giao dịch, người bán S và
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
34
người mua B cùng tham gia trên một thị trường trao đổi sản phẩm A bất kỳ.
Trên thị trường, có hai mức chất lượng đối với sản phẩm A: chất lượng tốt (AH)
và chất lượng kém (AL). Người bán và người mua đánh giá trị giá của hai loại
chất lượng này như sau:
Loại chất lượng Trị giá
Người bán
AL PL1
AH PH1
Người mua
AL PL2
AH PH2
Giả thiết rằng PL1 < PL2 < PH1 < PH2. Khi đó ta sẽ thấy có những trường
hợp sau đây:
Trường hợp 1: Cả người bán và người mua đều biết rõ chất lượng từng
loại.
Trong trường hợp này, cả hai nhóm sản phẩm A sẽ được bán trên thị
trường ở mức giá do quan hệ cung cầu và sự thoả thuận của các bên quyết
định. Sản phẩm có chất lượng tốt, AH sẽ được bán ở mức giá nằm giữa PH1 và
PH2 còn sản phẩm có chất lượng kém sẽ được trao đổi ở mức gí nằm giữa PL1
và PL2.
Trường hợp 2: Cả người bán và người mua không biết về chất lượng
từng loại sản phẩm.
Khi đó sự trao đổi xẽ diễn ra trên cơ sở kỳ vọng giá trị của từng loại
hàng hoá. Giả sử người bán và người mua đều biết rõ tỷ lệ sản phẩm có chát
lượng xấu và tốt trong nền kinh tế, tương ứng là  và 1 - . Vậy kỳ vọng giá trị
của người bán EVS và của người mua EVB là:
EVS =  PL1 + (1 - )PH1
EVB =  PL2 + (1 - )PH2
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
35
Trong trường hợp này, việc mua bán sẽ diễn ra ở mức giá P thoả mãn:
EVS < P < EVB tuỳ theo quan hệ cung cầu và sự thoả thuận của các bên tham
gia.
Trường hợp 3: Người bán biết rõ từng loại chất lương còn người mua
thì không: Lựa chọn đói nghịch.
Giả sử người mua đưa ra mức giá P* thoả mãn: PL2 < P* < PH1. Khi đó:
* Những người bán AH sẽ từ chối mức giá trên vì khi đó họ sẽ bị lỗ một
khoản trị giá: PH1 – P*.
* Những người bán sản phẩm AL sẽ chấp nhận mức giá trên vì như thế
họ sẽ lãi: P* - PL1. Tuy nhiên người mua sẽ bị lỗ: P* - PL2. Như đã giả thiết, xác
suất xuất hiện AL là  nên trng trường hợp này người mua luôn bị lỗ một khoản
trị giá: P(P* - PL2 ). Trong trường hợp này người mua đã thực hiện một lựa
chọn đối nghịch. Nguyên nhân của vấn đề này là do người bán biết rõ chất
lượng của sản phẩm trong khi người mua không biết điều đó. Kết quả là người
bán sẵn sàng bán ở mức giá có lợi và không bao giờ bán ở mức giá bất lợi cho
anh ta. Lựa chọn đối nghịch chỉ xảy ra trong trường hợp người bán có thông tin
tốt hơn người mua. Ngay cả khi hai bên đều không biết về chất lượng sản phẩm
thì lựa chọn đối nghịch cũng không xảy ra. Đương nhiên người bán luôn biết rõ
về sản phẩm hơn người mua nên ít có trường hợp thứ tư là : người mua có
thông tin tốt hơn người bán.
Phân tích trên đây dựa trên giả thiết rằng người mua đưa ra mức giá P*
thoả mãn: PL2 < P* < PH1. Tuy nhiên thực tế người mua có thể đưa ra các mức
giá sau:
 P < PL1: Khi đó thị trường không có sản phẩm được trao đổi.
 PL1 < P < PH1: Chỉ người bán sản phẩm kém chất lượng AL mới
chấp nhận mức giá này, kết quả lừ trên thị trường chỉ xuất hiện AL.
Khi đó thị trường sẽ đạt được cân bằng riêng, nơi chỉ những sản
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
36
phẩm AL được trao đổi. Lúc này EVB = (PL2 – P), do đó nếu P
càng gần PH1 thì EVB càng nhỏ, người mua thiệt nhiều hơn.
 Nếu P > PH1: Cả người bán AL và AH đều chấp nhân giá này. Trên
thị trường xuất hiện hàng hoá với hai loại chất lượng và thị trường
đạt được cân bằng chung. Khi đó:
EVB = (PL2 – P) + (1 – )(PH2 – P)
Vì vậy cũng như trong trường hợp trên, nếu P càng lớn thì EVB càng
nhỏ và người mua mất nhiều hơn.
Cách tốt nhất đối với người mua là đặt giá ở mức P = PL1 và do đó chỉ
người bán AL mới chấp nhận giá và EVB = (PL2 – P) = (PL2 – PL1) > 0.
Tuy nhiên EVB không phải là một căn cứ chắc chắn để xác định giá cả
hợp lý vì nếu người mua đánh giá sản phẩm quá cao (PL2 và PH2 lớn hơn) thì
EVB tăng. Do vậy người mua cần thu thập thêm thông tin để xác định giá tốt
hơn.
4. Rủi ro đạo đức
4.1. Khái niệm
Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin không cân xứng. Khác với lựa
chọn đối nghịch, rủi ro đạo đức suất hiện sau cuộc giao dịch khi một bên thực
hiện những hành động ẩn giấu và có ảnh hưởng đến lợi ích của phía đối tác. Có
nhiều cách định nghĩa về rủi ro đạo đức:
- Rủi ro đạo đức là một xu hướng theo đó người được bảo hiểm ít nỗ
lực hơn trong việc bảo vệ hàng hoá trước hư hại và mất cắp 4
.
- Rủi ro đạo đức là tình trạng một bên tham gia thị trường không thể
giám sát hoạt động của phía bên kia. Vì lý do này, rủi ro đạo đức còn được gọi
là vấn đề hành động ẩn giấu (hidden action) 5
.
4
Frank, “Microeconomics and Behavior”, NXB McGraw Hill, New York, 1991, trang 193.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
37
- Rủi ro đạo đức là một cách gọi khác của hành động ẩn giấu theo đó
người được thông tin có thể thực hiện những hành động “sai trái” 6
.
- Rủi ro đạo đức phát sinh khi những người sở hữu thông tin riêng thực
hiện những hành động có ảnh hưởng đối lập đến xác suất đưa đến những hậu
quả xấu (McTaggart, Findlay & Parkin (1992) trang 440).
Qua các khái niệm trên có thể thấy khái niệm rủi ro đạo đức có những
đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, có sự xuất hiện của hành động ẩn giấu (hidden action). Một
bên tham gia giao dịch (ví dụ công ty bảo hiểm) không thể giám sát hành động
của phía bên kia (người được bảo hiểm).
Thứ hai, bên có hành động ẩn giấu, dù vô tình hay cố ý, sẽ làm tăng xác
suất xảy ra hậu quả xấu.
Trong thực tế, vấn đề rủi ro đạo đức xuất hiện trong rất nhiều hiện tượng
kinh tế chẳng hạn:
- Người được bảo hiểm giảm bớt động lực trong việc bảo vệ đối
tượng bảo hiểm khiến xác suất xảy ra rủi ro tăng lên.
- Người vay vốn thực hiện những hoạt động đầu tư có độ rủi ro cao
dẫn đến nguy cơ không hoàn trả được vốn cho người cho vay…
Mặc dù xuất hiện trong nhiều hiện tượng kinh tế nhưng về bản chất, rủi
ro đạo đức tồn tại trên cơ sở thông tin không cân xứng. Để khảo sát chi tiết
hơn, ta nghiên cứu nguyên nhân xuất hiện rủi ro đạo đức.
4.2. Nguyên nhân xuất hiện rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức có nguyên nhân sâu xa là thông tin không cân xứng. Để
phân tích một cách cụ thể và chi tiết sự xuất hiện rủi ro đạo đức và các chi phí
5
Varian, “Intermadiate Microeconomics: A Modern Approach”, Xuất bản lần 2, NXB. W W Norton and Co.,
New York, 1990, trang 589.
6
Katz và Rosen, Microeconomics, Xuất bản lần 2, NXB Irwin, Illinios, 1994 trang 593.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
38
liên quan, ta nghiên cứu một thị trường bảo hiểm với các giả định như đã trình
bày trong phần 2.
Giả sử thêm rằng, các hợp đồng bảo hiểm được cung cấp bởi các công ty
bảo hiểm hoạt động trên một thị trường cạnh tranh và không có chi phí quản lý.
Xác suất xảy ra rủi ro (p) của tổn thất (d) là các biến ngoại sinh (trên hệ trục
m1Om2) và phụ thuộc vào mức chi phí (a) bỏ ra nhằm bảo vệ đối tượng bảo
hiểm của người tham gia bảo hiểm (X). Gọi mức chi phí này là a1 và a0 (a1>a0).
Đặt a0 = 0, khi đó, xác suất xảy ra rủi ro khi a = 0 là p0, và khi a = a1 là
p1. Để đảm bảo rằng khi bỏ ra chi phí a1 X sẽ hạn chế rủi ro tốt hơn khi bỏ ra a0
thì:
(p0 – p1)d > a1 hay p1d + a1 < p0d
Với những giả thiết trên ta có đồ thị sau:
B1
M1
m1
m2
m - d
m – d – a1
U0
U1
A0
A1
A’1
B’
B0
(1 – p1)d
M0
O
T
mm – a1
p1d
H×nh 1.5: Rñi ro ®¹o ®øc
trªn thÞ tr­êng b¶o hiÓm
Khi X chọn a0 = 0, đường hoà vốn của công ty bảo hiểm là B0M0.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
39
Đường ngân sách của X khi a0 = 0 là B’M0 và khi a = a1 là B1M1.
Khi thị trường có thông tin hoàn hảo và công ty bảo hiểm có khả năng
giám sát được việc X đang thực hiện mức chi phí a1 cho việc chăm sóc, bảo
quản đối tượng bảo hiểm thì công ty bảo hiểm sẽ chào bán hợp đồng bảo hiểm
toàn phần tại bất kỳ điểm nào trên đường hoà vốn (đường cung bảo hiểm) mới
B1M1.
Đối với X, hiển nhiên mức thu nhập sẽ tốt hơn khi thực hiện mức chi phí
a1 cho việc bảo quản, chăm sóc đối tượng bảo hiểm vì khi đó đường thu nhập
của X ở vị trí U1 cao hơn so với khi chọn a0 (có đường thu nhập U0 thấp hơn).
Tuy nhiên đây là tình huống xảy ra trong điều kiện thông tin hoàn hảo.
Như đã đề cập trên đây, rủi ro đạo đức sẽ diễn ra khi xuất hiện thông tin không
cân xứng. Giả sử, công ty bảo hiểm không thể giám sát hành động của X và X
chọn mức chi phí chăm sóc đối tượng bảo hiểm là a1. khi đó:
Công ty bảo hiểm chào bán hợp đồng theo đường hoà vốn B1M1. Phí bảo
hiểm toàn bộ rủi ro là p1d.
Tuy nhiên X có thể lựa chọn mức chi phí chăm sóc, bảo vệ đối tượng
bảo hiểm một cách tuỳ ý vì công ty bảo hiểm không giám sát được điều đó. X
sẽ chọn a0 vì điểm này giúp X có được hợp đồng A’1 nằm trên đường thu nhập
cao hơn.
Điều này hiển nhiên không tốt cho công ty bảo hiểm vì họ phải chịu một
khoản tổn thất phát sinh trị giá bằng phần chênh lệch giữa mức bồi thường và
phí bảo hiểm dự kiến: p0d – p1d.
Khoản chi phí này chính là phần lượng hoá rủi ro đạo đức. Như vậy, rủi
ro đạo đức phát sinh trên cơ sở thông tin không cân xứng. Sự không cân xứng
về thông tin khiến công ty bảo hiểm không thể giám sát hoạt dộng của những
người tham gia bảo hiểm, dẫn đến việc người tham gia bảo hiểm có thể thực
hiện những hành động làm tăng tham rủi ro cho công ty bảo hiểm. Trên thực tế,
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
40
các công ty bảo hiểm thường chào bán các hợp đồng bảo hiểm ở nhiều phạm vi
bảo hiểm khác nhau và đưa ra các điều kiện ràng buộc cụ thể, kết hợp với các
biên pháp giám sát phù hợp để hạn chế và ngăn chặn rủi ro đạo đức. Phổ biến
nhất là việc áp dụng điều khoản “khấu trừ” (deductible)và “san sẻ trách nhiệm”
(co-payment).
Điều khoản “khấu trừ” là một điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm theo
đó người mua bảo hiểm phải trả một khoản nhất định cho thiệt hại đầu tiên (vì
vậy điều khoản này còn được gọi là “rủi ro đầu tiên”).
San sẻ trách nhiệm là một điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm theođó
người mua bảo hiểm phải tự gánh chịu một tỷ lệ phần trăm tổn thất nhất định
nếu yêu cầu công ty bảo hiểm bồi thường.
Vấn đề đặt ra là áp dụng các biện pháp trên trong trường hợp nào? Điều
này phụ thuộc vào tình tình thực tế của từng khách hàng.
Nếu rủi ro đạo đức thuộc loại dễ gây ra thiệt hại (có xác suất xảy ra rủi
ro cao) thì công ty bảo hiểm nên áp dụng điều khoản “khấu trừ”. Như vậy sẽ
giúp công ty bảo hiểm tiết kiệm chi phí không chỉ bằng cách khuyến khích
người tham gia bảo hiểm quan tâm nhiều hơn tới đối tượng bảo hiểm mà còn
bằng cách giảm các chi phí liên quan đến việc giải quyết các yêu cầu bồi
thường cho những tổn thất nhỏ.
Nếu rủi ro đạo đức thuộc loại làm tăng quy mô tổn thất thì công ty bảo
hiểm nên áp dụng điều khoản “san sẻ trách nhiệm” vì khi đó nếu tổn thất càng
lớn thì người được bảo hiểm cũng chịu phần san sẻ lớn hơn. Điều đó khiến
người được bảo hiểm có động lực để hạn chế quy mô rủi ro.
5. Tác động của thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và
rủi ro đạo đức đối với nền kinh tế.
5.1. Tác động của thông tin không cân xứng và lựa chọn đối nghịch.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
41
Trên thị trường các hàng hóa hữu hình, đặc biệt các thị trường của loại
sản phẩm có mức chất lượng biến thiên rộng, sự xuất hiện của thông tin không
cân xứng là một yếu tố quan trọng kìm hãm giao dịch. Người bán luôn có
thong tin tốt hơn người mua nên sự nghi ngờ về chất lượng sản phẩm của
người mua là không thể tránh khỏi. Điều đó đẩy người mua đến hai con đường:
hoặc là chọn một mặt hàng thay thế; hoặc là tìm cách có thêm thông tin về
hàng hoá (mua thông tin, thuê chuyên gia thẩm định…). Tuy nhiên việc làm
này làm tăng chi phí giao dịch mà người mua phải trả thêm. Những yếu tố này
làm giảm nhu cầu của người mua và kết quả là trên những thị trường như thế,
doanh số giao dịch sẽ không cao. Để thị trường hoạt động tốt hơn, cần có biện
pháp xoá đi sẹ mất cân xứng về thông tin. Vấn đề này sẽ được thảo luận nhiều
hơn trong chương III của luận văn.
Một hiện tượng tương tự diễn ra trên các thị trường tài chính. Sự xuất
hiện thông tin không cân xứng làm nhà đầu tư do dự trước việc lựa chọn chứng
khoán của công ty A hay của công ty B. nhà đầu tư không biết được đâu là
công ty tốt, có lợi tức dự tính cao, rủi ro thấp và đâu là công ty tồi, có lợi tức
dự tính thấp và rủi ro cao. Trong tình trạng này, các nhà đầu tư sẽ chấp nhận
một mức giá trung bình của những chứng khoán phát hành nằm giữa giá trị
chứng khoán của những công ty tố và giá trị chứng khoán của những công ty
tồi. Các công ty tốt sẽ không chấp nhận mức giá đó và họ định giá chứng
khoán cao hơn. Trong khi đó, các công ty kém lại sẵn sàng chấp nhận giá. Tuy
nhiên, lý thuyết về những dấu hiệu thị trường đã trình bày trên đây gợi ý cho
các nhà đầu tư rằng những công ty chấp nhận giá sẽ có nhiều khả năng là một
công ty tồi. Kết quả là sẽ có ít chứng khoán được giao dịch.
Những phân tích trên đây giải thích một thực tế đang diễn ra tại hầu hết
các thị trường tài chính trên thế giới rằng những chứng khoán trao đổi được
không phải là một công cụ huy động vốn hàng đầu của các công ty. Trên thực
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
42
tế, chỉ những thị trường chứng khoán rất mạnh, có hệ thống thông tin và giám
sát thông tin tốt mới có khả năng là kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế.
5.2. Tác động của rủi ro đạo đức.
Rủi ro đạo đức xuất hiện sau khi cuộc giao dịch diễn ra, khi một bên
thực hiện những hành động không thể giám sát được nhưng có ảnh hưởng đến
lợi ích của bên kia. Rủi ro đạo đức xuất hiện trong rất nhiều thị trường như: thị
trường bảo hiểm, thị trường chứng khoán, thị trường tín dụng, thị trường cho
thuê tài sản,… Trong khuôn khổ luận văn này, tôi tập trung vào tác động của
rủi ro đạo đức đến thị trường tài chính.
Rủi ro đạo đức là một nguyên nhân trực tiếp và quan trọng ảnh hưởng
đến quyết định phát hành công cụ vốn (cổ phiếu) hay công cụ nợ (trái phiếu
công ty, hợp đồng nợ) của các công ty trong việc huy động vốn. Thực tế, phần
góp vốn của những người lãnh đạo công ty chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng
vốn của công ty. Điều này đồng nghĩa với việc họ đang quản lý một phần lớn
vốn của những cổ đông. Sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền sở hữu vốn
chính là nguyên nhân xảy ra rủi ro đạo đức trong các công ty cổ phần. Những
người lãnh đạo công ty có thể hành động vì lợi ích cá nhân mà đi ngược lại lợi
ích của các cổ đông. Những hành động như vậy bao gồm việc tăng các chi phí
phục vụ cho lợi ích của người quản lý công ty như trang bị đồ dùng văn phòng
tốt, xe hơi đắt tiền, chi phí phúc lợi cho nhân viên cao… Ngoài việc theo đuổi
những lợi ích cá nhân, người quản lý công ty có thể theo đuổi những chiến
lược của công ty nhằm đề cao quyền lực cá nhân mà không làm tăng lợi ích của
công ty.
Để hạn chế rủi ro đạo đức, các công ty cổ phần có thể hành động theo
hai cách sau:
Thứ nhất, tăng cường giám sát hoạt động của những người quản lý. Tuy
nhiên việc làm này sẽ gây tốn kém cho các cổ đông.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
43
Thứ hai, tăng tỷ lệ D/E (tổng nợ/tổng vốn cổ phần) băng cách phát hành
trái phiếu hoặc vay vốn ngân hàng, đồng thời giảm phát hành cổ phiếu. Vì các
công cụ nợ là một thoả thuận của người cho vay thanh toán cho người cho vay
những khoản tiển cố định sau những khoảng thời gian nhất định nên dù công ty
hoạt động tốt hay không tốt vẫn phải chi trả một khoản không đổi. Chính vì
vậy nếu công ty còn trả được những khoản nợ định kỳ trên thì các chủ nợ vẫn
yên tâm về hoạt động của công ty. Nếu trường hợp ngược lại xảy ra, họ sẽ là
người trực tiếp giám sát hoạt động của công ty và những người quản lý công
ty. Nói cách khác, tỷ lệ D/E càng cao thì công ty càng bị giám sát chặt chẽ bởi
những người cho vay, các cổ đông của công ty không cần phải bỏ thêm chi phí
cho việc giám sát này.
Lợi ích của việc không cần thường xuyên kiểm tra giám sát công ty (và
do đó giảm chi phí giám sát) giải thích vì sao các công ty cổ phần thường muốn
phát hành các công cụ nợ hơn. Điều này ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các
công ty cổ phần.
Tuy nhiên các công cụ nợ vẫn chịu rủi ro đạo đức. Do một hợp đồng nợ
chỉ yêu cầu người vay thanh toán một số tiền nhất định nhưng lại cho phép họ
hưởng toàn bộ phần lợi nhuận còn lại nên những người vay vốn có thêm động
cơ để thực hiện các dự án đầu tư có mức rủi ro cao. Vì vậy người đầu tư sẽ do
dự khi quyết định cho vay. Hậu quả của điều này là trong điều kiện thông tin
không cân xứng (và do đó xuất hiện rủi ro đạo đức), thị trường tài chính sẽ
không thực hiện tốt chức năng chuyển vốn nhàn rỗi đến nơi cần vốn. Như vậy,
rủi ro đạo đức đã tham gia vào việc định hình cấu trúc của các thị trường tài
chính.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
44
Chương II
Vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường
chứng khoán Việt Nam
1. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam từ
khi thành lập đến nay
1.1. Tổng quan tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán
Việt Nam.
Hai giờ chiều ngày 28/7 năm 2000 TTCK Việt Nam chính thức đi vào
hoạt động với phiên giao dịch đầu tiên tại Trung tâm giao dịch chứng khoán
(TTGDCK) Thành phố Hồ Chí Minh chỉ với 2 loại cổ phiếu được giao dịch
ban đầu. Kể từ đó đến nay đã hơn 3 năm đi hoạt động TTCK Việt Nam có
nhiều biến đổi thăng trầm
Về mặt cơ cấu các cơ quan chức năng và các bộ phận thành viên trong
TTCK Việt Nam có thể kể đến Uỷ ban chứng khoán nhà nước, TTGDCK Tp
HCM, 11 công ty chứng khoán ra đời, 6 công ty kiểm toán và 3 ngân hàng lưu
ký nước ngoài được thừa nhận về tư cách pháp lý phục vụ cho các công ty
niêm yết và nhà đầu tư, đã có khoảng 15.000 tài khoản được thống kê tại các
công ty chứng khoán (nhưng thực tế chỉ có khoảng 2000 nhà đầu tư thực sự có
mua bán chứng khoán).
TTCK Việt Nam đi vào hoạt động với sự chào đón nhiệt tình từ các nhà
đầu tư và ngay lập tức đã có được những thành công ngoài mong đợi. Chỉ số
VN-index và tất cả các loại cổ phiếu đều tăng mạnh và chỉ đến phiên giao dịch
ngày 25/6/2001 đã ghi nhận con số kỷ lục: chỉ số VN-index đạt 571,04 điểm
với giá trị giao dịch phiên đạt 23.570.700.000 VNĐ, một con số đáng kể so với
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
45
một thị trường mới và vẫn còn rất khan hiếm “hàng hoá”. Trước thời điểm
ngày 25/6/2001 giá cổ phiếu tăng theo từng ngày và dường như cứ mua cổ
phiếu vào ngày hôm trước là có 2% lãi vào ngày hôm sau vì thế đã tạo nên cơn
sốt cổ phiếu, mọi nhà đầu tư đều cố gắng mua bằng được cổ phiếu và cứ vậy
đẩy giá của cổ phiếu lên cao. Trước tình hình đó, các Cơ quan quản lý và Uỷ
ban chứng khoán nhà nước đã chủ động hạ sốt bằng cách tăng biên độ giao
dịch. Với sự thay đổi đó đã làm cho các nhà đầu tư dè dặt hơn khi đặt mua cổ
phiếu và cứ thế thị trường cổ phiếu suy giảm dần. Nhưng ngoài sự suy tính của
các nhà quản lý, chỉ số VN-index và giá cổ phiếu giảm liên tục kéo dài từ giữa
năm 2001 không có dấu hiệu phục hồi. Đến tháng 3 năm 2002 chỉ số VN-index
chỉ còn  180 điểm rồi ổn định ở mức đó đến 7/11/02 là 174,62 điểm đạt đến
điểm đáy 130,90 điểm vào ngày 24/10/03, trung bình giảm 15,71% mỗi tháng
trong suốt 28 tháng kể từ ngày thị trường suy giảm. Một điều đáng lưu ý là
trong khi giá cổ phiếu giảm, TTCK ảm đạm, thì tình hình làm ăn của các công
ty niêm yết vẫn ổn định nếu không muốn nói là tốt đẹp đối với một số công ty,
điều này đã làm đau đầu các nhà quản lý đặc biệt là Uỷ ban chứng khoán nhà
nước - cơ quan quản lý hệ thống chứng khoán và kinh doanh chứng khoán.
Biểu đồ chỉ số VN-index trên TTCK Việt Nam từ khi thành lập
(Nguồn: www.vietstock.com.vn)
1.2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán trong hai
năm gần đây.
1.2.1. Thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2002
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
46
Chỉ số VN-Index và giá các cổ phiếu
Trên đà giảm mạnh của TTCK năm 2001, TTCK năm 2002 vẫn tiếp tục
suy giảm. Chỉ số VN-index giảm từ mức  232 điểm hồi tháng 1 xuống chỉ
còn  182 điểm trong tháng 12, và đã có những phiên giảm xuống duới 180
điểm như các phiên từ 408 đến 438 . Sự giảm sút này tuy chậm hơn năm 2001
nhưng các con số đã xuống đến mức kỷ lục 174,62 điểm (phiên 7/01/02) tính
đến hết năm 2002.
Một số cổ phiếu được cho là mạnh và ổn định như SAM, REE, BBC,
DPC cũng giảm không ngừng. Cổ phiếu REE trong các phiên 335 – 338 đã
giảm mạnh, chỉ còn 2/3 giá trước đó tức là từ 34000VNĐ/1cổ phiếu xuống
còn  23.500VNĐ/1cổ phiếu.
Giá trị giao dịch
Tổng giá trị giao dịch cổ phiếu trên TTCK năm 2002 đạt
960.120.953.000VNĐ (chiếm 89,6% tổng giá trị giao dịch năm của TTCK,
tổng giao dịch trái phiếu chỉ đạt được 111.402.541.000 VNĐ chiếm 11,4%).
Hình thức giao dịch chủ yếu là khớp lệnh với 73,53%, hình thức thoả thuận chỉ
chiếm 26,47%, trong khi đó đối tượng mua bán cổ phiếu trên thị trường chủ
yếu vẫn là các nhà đầu tư trong nước, chiếm tới 86,65%.
Biểu đồ chỉ số VN-index cổ phiếu năm 2002
(Nguồn: www.vietstock.com.vn )
Lượng cung cầu chứng khoán
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
47
Năm 2002, lượng cung cầu chênh lệch nhau không nhiều với 57.710.770
cổ phiếu tổng cung và 56.166.390 cổ phiếu tổng cầu trong đó tổng giá trị thực
hiện là 29.678.890 cổ phiếu. Kết quả đó cho thấy phần nào sự cân bằng trong
cung và cầu cả năm, đặc biệt 6 tháng cuối năm sự chênh lệch giữa cung và cầu
trong mỗi tuần là rất ít.
Khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch của một số cổ phiếu năm
2002:
 Cổ phiếu REE (Công ty cổ phần cơ điện lạnh) vẫn đứng đầu với giá
trị giao dịch là 221.852.123.000 VNĐ , chiếm tới 23,12% tổng giá trị giao dịch
trên thị trường, xếp sau là SAM (Công ty cổ phần Cáp và Vật liệu viễn thông)
13,53%, BBC (Công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hoà) 11,48%, GMD (Công ty
cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển) 7,85%, AGF (Công ty cổ phần thuỷ sản
An Giang) 7,39%,…
 Trong năm 2002 chỉ có duy nhất một cổ phiếu GIL là có tăng lên
chút ít về giá, từ khoảng 38.500 VNĐ (đầu năm) lên khoảng 42.000 VNĐ (cuối
năm) và đã có lúc đạt tới  50.000 VNĐ/1cổ phiếu , giá trị giao dịch toàn năm
đạt tói 49.283.160.000 chiếm 5,14%.
Giải thích cho sự sụt giảm giá chứng khoán có thể xét tới lý do cơ bản
sau:
Thứ nhất, trong năm qua trên thị trường, giá vàng, bất động sản và lãi
suất huy động vốn VNĐ tăng cao. Vì vậy thay vì chọn đầu tư vào TTCK, các
nhà đầu tư đầu tư vào các thị trường này thậm chí là gửi ngân hàng vừa có lãi
suất cao lại an toàn hơn. Cụ thể, lãi suất gửi tiết kiệm VNĐ loại kỳ hạn 12
tháng tăng từ 0,55% lên 0,67%/tháng; giá vàng tăng 26,9% trong năm qua (từ
516.000 đến 655.000 VNĐ/1 chỉ) còn giá bất động sản ở thành phố có lúc tăng
đến 50% -70% trong năm. Chính xu thế đó khiến cho các nhà đầu tư chuyển
vốn khỏi thị trường chứng khoán.
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
48
Thứ hai, số các nhà đầu tư chuyên nghiệp ít, người đầu tư chủ yếu là cán
bộ hưu trí, một vài nhà đầu tư nhỏ, một số người có vốn không nhiều quan tâm
đến TTCK và nhìn chung còn chưa có kinh nghiệm, tham gia TTCK một cách
bị động mang tính thử nghiệm, thăm dò, đầu tư ngắn, mua nhanh, bán nhanh.
Thứ ba, tâm lý lo lắng về sự xuống dốc của cổ phiếu do thông tin chậm
trễ, không đầy đủ, thiếu chính xác của các công ty niêm yết.
Thứ tư, số lượng chứng khoán tham gia giao dịch còn ít và nghèo nàn,
chưa phong phú về chủng loại, chỉ có một số nghành sản xuất có công ty niêm
yết mà mỗi nghành cũng chỉ có 1, 2 công ty niêm yết do vậy tính cạnh tranh
cũng không cao.
Thứ năm, các công ty chứng khoán hoạt động yếu kém, không cải tiến
phương pháp phục vụ, phí giao dịch cao (2 triệu đồng đối với các công ty giao
dịch ở miền Bắc và 5 triệu ở miền Nam), thủ tục giao dịch rườm rà, thông tin
không minh bạch, vẫn còn để có nhiều tin đồn làm ảnh hưởng đến hoạt động
mua bán chứng khoán.
1.2.2. Thị trường TTCK Việt Nam 10 tháng đầu năm 2003.
1.2.2.1. Bối cảnh TTCK Việt Nam đầu năm 2003.
TTCK Việt Nam đầu năm 2003 ở vào bối cảnh vẫn là một thị trường
non yếu, quy mô nhỏ, dường như chưa là sân chơi chính thức cho các nhà đầu
tư.
Vẫn đang đà xuống dốc của hơn một năm trước, bắt đầu từ cuối tháng 6
đầu tháng 7 năm 2001, chỉ số VN-Index chưa có dấu hiệu cho thấy sẽ dừng lại
ở những con số hồi cuối năm 2002: giá của các công ty niêm yết hầu hết giảm
sút một cách đều đặn, các nhà đầu tư vẫn tâm lý do dự, người có cổ phiếu
không dám bán vì sợ lỗ, người mua không dám mua vì sợ cổ phiếu sẽ lại giảm
trong những phiên sau nữa.
1.2.2.2. Tình hình TTCK 10 tháng đầu năm 2003
§ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT
49
Trong 10 tháng đầu năm, tình hình TTCk vẫn không có dấu hiệu tiến
triển tốt đẹp, TTCK ế ẩm, tụt giảm liên tục, những con số thấp của VN-index
cũng như giấ của các cổ phiếu luôn lập những kỷ lục mới:
Tại phiên 24/10 chỉ số VN-index chỉ đạt 130,90 điểm, mức thấp kỷ lục
nhất trong hơn 3 năm qua.
Biểu đồ chỉ số VN-index 10 tháng đầu năm 2003:
(Nguồn: www.vietstock.com.vn )
Tổng khối lượng giao dịch 10 tháng chỉ đạt 31.006.089 cổ phiếu. Cụ thể
tổng kết khối lượng giao dịch 10 tháng:
Thống kê khối lượng giao dịch chứng khoán toàn thị trường 10 tháng
đầu năm 2003 (Nguồn: www.vietstock.com.vn )
Thỏng Toàn thị trường
Giao dịch
khớp lệnh
Tỷ trọng
Giao dịch
thỏa thuận
Tỷ trọng
1 1.637.650 1.232.950 75,29% 404.700 24,71%
2 1.450.470 1.310.470 90,35% 140.000 9,65%
3 2.506.800 1.813.900 72,36% 692.900 27,64%
4 3.474.250 2.627.600 75,63% 846.650 24,37%
5 3.081.150 2.377.100 77,15% 704.050 22,85%
6 2.972.370 1.559.120 52,45% 1.413.250 47,55%
7 2.606.100 1.020.370 39,15% 1.585.730 60,85%
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306
Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
de an mon hoc (48).doc
de an mon hoc  (48).docde an mon hoc  (48).doc
de an mon hoc (48).docLuanvan84
 
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Đề tài: Phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân Hàng Thư...
Đề tài: Phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân Hàng Thư...Đề tài: Phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân Hàng Thư...
Đề tài: Phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân Hàng Thư...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Pháp luật quốc tế về nhượng quyền thương mại - Thực tiễn tại Việt Nam
Pháp luật quốc tế về nhượng quyền thương mại - Thực tiễn tại Việt NamPháp luật quốc tế về nhượng quyền thương mại - Thực tiễn tại Việt Nam
Pháp luật quốc tế về nhượng quyền thương mại - Thực tiễn tại Việt Namhieu anh
 
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...Nguyễn Công Huy
 
Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tài thành phố hồ chí minh của tậ...
Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tài thành phố hồ chí minh của tậ...Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tài thành phố hồ chí minh của tậ...
Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tài thành phố hồ chí minh của tậ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Quy trình nghiên cứu thị trường khi xuất khẩu hàng hóa vào EU
Quy trình nghiên cứu thị trường khi xuất khẩu hàng hóa vào EUQuy trình nghiên cứu thị trường khi xuất khẩu hàng hóa vào EU
Quy trình nghiên cứu thị trường khi xuất khẩu hàng hóa vào EUInfoQ - GMO Research
 

Mais procurados (18)

Đề tài: Xây dựng, phát triển Thương hiệu May mặc Việt Nam, HAY
Đề tài: Xây dựng, phát triển Thương hiệu May mặc Việt Nam, HAYĐề tài: Xây dựng, phát triển Thương hiệu May mặc Việt Nam, HAY
Đề tài: Xây dựng, phát triển Thương hiệu May mặc Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...
 
de an mon hoc (48).doc
de an mon hoc  (48).docde an mon hoc  (48).doc
de an mon hoc (48).doc
 
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAYLuận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAY
 
Yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn siêu thị Co.opmart của người dân
Yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn siêu thị Co.opmart của người dânYếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn siêu thị Co.opmart của người dân
Yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn siêu thị Co.opmart của người dân
 
Đề tài: Phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân Hàng Thư...
Đề tài: Phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân Hàng Thư...Đề tài: Phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân Hàng Thư...
Đề tài: Phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân Hàng Thư...
 
Luận văn: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Ấn Độ
Luận văn: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Ấn ĐộLuận văn: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Ấn Độ
Luận văn: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Ấn Độ
 
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấpLuận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp
 
Pháp luật quốc tế về nhượng quyền thương mại - Thực tiễn tại Việt Nam
Pháp luật quốc tế về nhượng quyền thương mại - Thực tiễn tại Việt NamPháp luật quốc tế về nhượng quyền thương mại - Thực tiễn tại Việt Nam
Pháp luật quốc tế về nhượng quyền thương mại - Thực tiễn tại Việt Nam
 
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...
Luận văn: Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí M...
 
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐÃ SỬA)- ĐÁNH GIÁ NHU CẦU MUA SẮM TẠI TRUNG TÂM THƯƠNG ...
 
Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tài thành phố hồ chí minh của tậ...
Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tài thành phố hồ chí minh của tậ...Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tài thành phố hồ chí minh của tậ...
Nghiên cứu và phát triển thị trường tiêu thụ tài thành phố hồ chí minh của tậ...
 
Luận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOTLuận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp, HOT
 
Quy trình nghiên cứu thị trường khi xuất khẩu hàng hóa vào EU
Quy trình nghiên cứu thị trường khi xuất khẩu hàng hóa vào EUQuy trình nghiên cứu thị trường khi xuất khẩu hàng hóa vào EU
Quy trình nghiên cứu thị trường khi xuất khẩu hàng hóa vào EU
 
Đề tài: xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường EU, HAY
Đề tài: xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường EU, HAYĐề tài: xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường EU, HAY
Đề tài: xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường EU, HAY
 
Phương pháp nghiên cứu dữ liệu sơ cấp, thứ cấp - SPSS - Nhận viết đề tài điểm...
Phương pháp nghiên cứu dữ liệu sơ cấp, thứ cấp - SPSS - Nhận viết đề tài điểm...Phương pháp nghiên cứu dữ liệu sơ cấp, thứ cấp - SPSS - Nhận viết đề tài điểm...
Phương pháp nghiên cứu dữ liệu sơ cấp, thứ cấp - SPSS - Nhận viết đề tài điểm...
 
Option
OptionOption
Option
 

Semelhante a Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306

Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...nataliej4
 
Option 110413222536-phpapp02
Option 110413222536-phpapp02Option 110413222536-phpapp02
Option 110413222536-phpapp02gathit01
 
luận văn thị trường trái phiếu.doc
luận văn thị trường trái phiếu.docluận văn thị trường trái phiếu.doc
luận văn thị trường trái phiếu.doctrngthinnguyn4
 
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sảnHoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sảnGustave Hegmann
 
Thị trường tài chính & giải pháp tái cấu trúc thị trường tài chính trong gi...
 Thị trường tài chính & giải pháp tái cấu trúc thị trường tài chính  trong gi... Thị trường tài chính & giải pháp tái cấu trúc thị trường tài chính  trong gi...
Thị trường tài chính & giải pháp tái cấu trúc thị trường tài chính trong gi...luanvantrust
 
Tiểu luận chứng khoán
Tiểu luận chứng khoánTiểu luận chứng khoán
Tiểu luận chứng khoánMỹ Hằng
 
Thanh tra, giám sát Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thanh tra, giám sát Thị trường chứng khoán Việt NamThanh tra, giám sát Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thanh tra, giám sát Thị trường chứng khoán Việt Namluanvantrust
 
Nguyên tắc công khai, minh bạch trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Vi...
Nguyên tắc công khai, minh bạch trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Vi...Nguyên tắc công khai, minh bạch trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Vi...
Nguyên tắc công khai, minh bạch trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Vi...nataliej4
 
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
#Bat dong san tien-chung khoan
#Bat dong san tien-chung khoan#Bat dong san tien-chung khoan
#Bat dong san tien-chung khoanLiVnYn
 
Ứng Dụng Công Nghệ Để Thu Thập Thông Tin Mới Nhất Trên Các Website Trong Phân...
Ứng Dụng Công Nghệ Để Thu Thập Thông Tin Mới Nhất Trên Các Website Trong Phân...Ứng Dụng Công Nghệ Để Thu Thập Thông Tin Mới Nhất Trên Các Website Trong Phân...
Ứng Dụng Công Nghệ Để Thu Thập Thông Tin Mới Nhất Trên Các Website Trong Phân...Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 

Semelhante a Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306 (20)

Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
 
Luận văn: Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Luận văn: Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt NamLuận văn: Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Luận văn: Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam
 
Option 110413222536-phpapp02
Option 110413222536-phpapp02Option 110413222536-phpapp02
Option 110413222536-phpapp02
 
Luận văn: Phát triển công cụ Option trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Luận văn: Phát triển công cụ Option trên thị trường chứng khoán Việt NamLuận văn: Phát triển công cụ Option trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Luận văn: Phát triển công cụ Option trên thị trường chứng khoán Việt Nam
 
luận văn thị trường trái phiếu.doc
luận văn thị trường trái phiếu.docluận văn thị trường trái phiếu.doc
luận văn thị trường trái phiếu.doc
 
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sảnHoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
 
Thị trường tài chính & giải pháp tái cấu trúc thị trường tài chính trong gi...
 Thị trường tài chính & giải pháp tái cấu trúc thị trường tài chính  trong gi... Thị trường tài chính & giải pháp tái cấu trúc thị trường tài chính  trong gi...
Thị trường tài chính & giải pháp tái cấu trúc thị trường tài chính trong gi...
 
Tiểu luận chứng khoán
Tiểu luận chứng khoánTiểu luận chứng khoán
Tiểu luận chứng khoán
 
19278
1927819278
19278
 
Thanh tra, giám sát Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thanh tra, giám sát Thị trường chứng khoán Việt NamThanh tra, giám sát Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thanh tra, giám sát Thị trường chứng khoán Việt Nam
 
19450
1945019450
19450
 
Nguyên tắc công khai, minh bạch trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Vi...
Nguyên tắc công khai, minh bạch trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Vi...Nguyên tắc công khai, minh bạch trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Vi...
Nguyên tắc công khai, minh bạch trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Vi...
 
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...
 
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên b...
 
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoánĐịa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
 
Khóa luận: Niêm yết chứng khoán trên thị truờng chứng khoán, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Niêm yết chứng khoán trên thị truờng chứng khoán, 9 ĐIỂMKhóa luận: Niêm yết chứng khoán trên thị truờng chứng khoán, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Niêm yết chứng khoán trên thị truờng chứng khoán, 9 ĐIỂM
 
#Bat dong san tien-chung khoan
#Bat dong san tien-chung khoan#Bat dong san tien-chung khoan
#Bat dong san tien-chung khoan
 
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCM
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCMLuận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCM
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại TPHCM
 
Ứng Dụng Công Nghệ Để Thu Thập Thông Tin Mới Nhất Trên Các Website Trong Phân...
Ứng Dụng Công Nghệ Để Thu Thập Thông Tin Mới Nhất Trên Các Website Trong Phân...Ứng Dụng Công Nghệ Để Thu Thập Thông Tin Mới Nhất Trên Các Website Trong Phân...
Ứng Dụng Công Nghệ Để Thu Thập Thông Tin Mới Nhất Trên Các Website Trong Phân...
 
La0140
La0140La0140
La0140
 

Rui ro tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_0306

  • 1. Luận văn Rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam
  • 2. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 2 Mục lục Trang Lời nói đầu ………………………………………………………………... 4 Chương I: Lý luận chung về thị trường chứng khoán, thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức………………………. 8 1. Thị trường chứng khoán………………………………………………… 8 1.1. Khái niệm…………………………………………………………….. 8 1.2. Chức năng, cơ cấu và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán ……………………………………………………………………… 9 1.2.1. Chức năng…………………………………………………………… 9 1.2.2. Cơ cấu của thị trường chứng khoán ………………………………… 10 1.2.3. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán……………... 12 1.3. Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán ……………………. 13 1.3.1. Tổ chức phát hành ………………………………………………….. 13 1.3.2. Nhà đầu tư…………………………………………………………... 13 1.3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán ………………. 14 2. Thông tin không cân xứng………………………………………………. 15 2.1. Khái niệm về thông tin không cân xứng……………………………… 15 2.2. Cân bằng thị trường trong điều kiện không cân xứng về thông tin…… 19 2.2.1. Cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin đầy đủ……………… 21 2.2.1.1. Cân bằng chung…………………………………………………… 21
  • 3. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 3 2.2.1.2. Cân bằng riêng……………………………………………………. 23 2.2.2. Cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin không cân xứng…….. 24 2.2.2.1. Cân bằng chung…………………………………………………… 25 2.2.2.2. Cân bằng riêng……………………………………………………. 26 3. Lựa chọn đối nghịch…………………………………………………….. 29 3.1. Khái niệm……………………………………………………………... 29 3.2. Sự hình thành lựa chọn đối nghịch……………………………………. 29 4. Rủi ro đạo đức…………………………………………………………... 32 4.1. Khái niệm……………………………………………………………... 32 4.2. Nguyên nhân xuất hiện rủi ro đạo đức………………………………... 33 5. Tác động của thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đối với nền kinh tế ……………………………………………….. 36 5.1. Tác động của thông tin không cân xứng và lựa chọn đối nghịch……... 36 5.2. Tác động của rủi ro đạo đức…………………………………………... 37 Chương II: Vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam ……………… 40 1. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành lập đến nay………………………………………………………………… 40 1.1. Tổng quan tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam 40 1.2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán trong hai năm gần đây…………………………………………………………………………. 41 1.2.1. Thị trường chứng khoán trong năm 2002…………………………… 41 1.2.2. Thị trường chứng khoán Việt Nam 10 tháng đầu năm 2003………... 44 1.2.2.1. Bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam đầu năm 2003………. 44 1.2.2.2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán 10 tháng đầu 44
  • 4. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 4 năm 2003………………………………………………………………….. 2. Những dấu hiệu về thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam ………………………………………………………….………. 47 2.1. Những hạn chế trong việc công bố thông tin và quản lý công bố thông tin là nguyên nhân xuất hiện thông tin không cân xứng…………………... 47 2.2. Chênh lệch giữa giá phát hành lần đầu (hoặc giá phát hành thêm) với giá giao dịch thị trường của chứng khoán. ………………………………... 51 2.3. Giá cả cổ phiếu và chỉ số VN-Index không phản ánh đúng tình hình sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết và thực tế giao dịch trên thị trường ……………………………………………………………………... 53 2.4. Những dấu hiệu giao dịch nội gián – một biểu hiện của rủi ro đạo đức 55 3. Những tác động của vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đến hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam ………………………………………………………………………. 59 Chương III: Đề xuất phương hướng giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam …………………………………………………………. 61 1. Khuyến khích thành lập các công ty sản xuất và bán thông tin………… 61 2. Tăng cường sự điều hành của Chính phủ để làm tăng thông tin trên thị trường chứng khoán ………………………………………………………. 62 3. Khuyến khích thành lập các trung gian tài chính, đặc biệt là các quỹ đầu tư chứng khoán……………………………………………………….. 63 Kết luận…………………………………………………………………… 65 Phụ lục 1: Biểu đồ chỉ số cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ thời điểm niêm yết đến ngày1/12/2003……….. 67
  • 5. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 5 Phụ lục II: Các hệ số tài chính của các công ty niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh 9 tháng đầu năm 2002… 75 Phụ lục III: Xếp hạng tài chính các công ty niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh………………………………. 79 Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………. 80
  • 6. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 6 Lời nói đầu Trong các giao dịch tài chính nói chung và chứng khoán nói riêng, thông tin giữ vai trò thiết yếu. Nhân tố quan trọng quyết định quy mô, hình thức và hiệu quả của mỗi giao dịch chính là mức độ cân xứng về thông tin giữa các bên liên quan. Xét trên tầm vĩ mô, nếu các bên tham gia của bất kỳ giao dịch tài chính nào trong nền kinh tế đều có đầy đủ thông tin quá khứ, hiện tại và tương lai liên quan đến giao dịch thì đồng vốn trong nền kinh tế luôn đến được các dự án đầu tư hiệu quả nhất. Thị trường tài chính khi đó thực hiện tốt nhất chức năng huy động và phân bổ vốn cho nền kinh tế. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở Việt Nam đặt ra một yêu cầu cấp thiết là phải phát triển thị trường vốn hiệu quả nhằm cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Để có một thị trường vốn như thế, đòi hỏi trước mắt là phải xây dựng được một thị trường chứng khoán vững mạnh. Thị trường chứng khoán sẽ làm tăng tính thanh khoản của các công cụ huy động vốn, từ đó thúc đẩy thị trường sơ cấp phát triển. Mặt khác, thị trường chứng khoán khắc phục được đáng kể hạn chế về không gian, thời gian và quy mô trong việc huy động vốn. Nhận thức tầm quan trọng đó, sau nhiều cố gắng thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức đi vào hoạt động ngày 20/7/2000, đánh dấu bước chuyển mình của thị trường tài chính Việt Nam. Tuy nhiên sau hơn ba năm hoạt động, những kết quả đạt được của thị trường chứng khoán Việt Nam chưa đáp ứng sự mong mỏi và kỳ vọng của cả nền kinh tế nói chung và giới đầu tư nói riêng. Khi bàn về thực trạng này, hầu hết các cuộc hội thảo, bài báo đều đề cập đến vấn đề thông tin. Cụ thể, đó là những hạn chế trong việc công bố thông tin thể hiện ở tính không kịp thời, thiếu chinh xác, không đầy đủ và chưa thống nhất về cách thức công bố thông
  • 7. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 7 tin. Chất lượng thông tin còn thấp là một yếu tố kìm hãm cầu chứng khoán. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức, một hậu quả tất yếu của sự không cân xứng về thông tin. Để thị trường chứng khoán đi vào hoạt động vững mạnh, một điều không thể thiếu là phải hạn chế tối đa sự bất cân xứng về thông tin của các cuộc giao dịch. Đây là vấn đề đang thu hút nhiều sự chú ý và cần phải được giải quyết một cách tối ưu. Mục đích nghiên cứu Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu học thuyết thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên một số phân đoạn thị trường tài chính của các nhà kinh tế học trên thế giới, tôi nhận thức rằng giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng là một yêu cầu thiết thực và xuyên suốt trong quá trình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn tìm hiểu, phân tích và đánh giá mức độ không cân xứng về thông tin, khảo sát thực tế vấn đề rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi hoạt động đến nay. Do những hạn chế cả về chủ quan và khách quan nên luận văn chỉ hướng vào mục tiêu chủ yếu là phát hiện và phân tích sơ bộ những biểu hiện của ba nội dung trên. Dựa trên cơ sở đó, một số giải pháp được đề xuất nhằm hoàn thiện vấn đề thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tôi cũng hy vọng những phát hiện này xẽ giúp ích cho các nghiên cứu sâu hơn về vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn đề cập đến các khái niệm cơ bản nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đồng thời trình bày chi tiết học thuyết thông tin không cân xứng và các khái niệm liên quan. Những vấn đề lý thuyết trên sẽ được vận dụng vào tình hình cụ thể trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi chính thức hoạt động cho đến nay (từ 28/7/2000 đến 31/10/2003).
  • 8. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 8 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước Thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là những hiện tượng kinh tế được các nhà kinh tế học trên thế giới nghiên cứu từ những năm 1960. Tuy nhiên, phải đến những năm 2000 vấn đề này mới thực sự được quan tâm và nghiên cứu sâu sắc. Các nghiên cứu gần đây tập trung vào việc xây dựng các mô hình toán và khảo sát thực trạng thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên một số phân đoạn của thị trường tài chính, phổ biến nhất là thị trường bảo hiểm. Các nghiên cứu đều đã đem lại những kết quả nhất định, đóng góp vào việc xây dựng một mô hình tổng thể của học thuyết thông tin không cân xứng. Thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đã có nhiều bài báo, luận văn, luận án và cả những công trình nghiên cứu cấp bộ, cấp nhà nước tham gia đóng góp, hoàn thiện hoạt động của thị trường. Tuy nhiên do trong giai đoạn mới hình thành còn quá nhiều việc phải làm nên chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp duy vật biện chứng đóng vai trò chủ đạo trong luận văn vì những vấn đề đặt ra đều dựa trên cơ sở thực tế khách quan. Bên cạnh đó tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết (thông qua việc tổng hợp và phân tích các nguồn tài liệu); phương pháp quy nạp và diễn dịch. Với hy vọng mô hình hoá các quan hệ kinh tế, tôi đã cố gắng vận dụng phương pháp phân tích cung-cầu thông qua các mô hình cân bằng thị trường ở thị trường có thông tin không hoàn hảo của một số nhà kinh tế học trên thế giới. Lợi ích của luận văn
  • 9. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 9 Tôi hy vọng luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cho các nhà đầu tư và những người quan tâm đến thị trường chứng khoán, thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Đây cũng có thể là tài liệu giúp ích cho các nghiên cứu sâu hơn về các vấn đề trên. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, tôi tin tưởng rằng nghiên cứu này sẽ góp phần hoàn thiện vấn đề thông tin và công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó tạo điều kiện trước mắt và lâu dài cho việc hoạt động và phát triển của thị trường. Kết cấu của luận văn Với các nội dung đã đề cập trên đây, luận văn được kết cấu như sau: Chương I: Lý luận chung về thị trường chứng khoán, thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Chương II: Vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Chương III: Một số nhận xét và đề xuất phương hướng giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm thúc đẩy thị trường phát triển. Nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình từ Thạc sỹ Phạm Song Hạnh cùng với nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn này. Tuy nhiên do hạn chế về năng lực, thời gian và nguồn tài liệu trong khi vấn đề nghiên cứu còn khá mới mẻ và tinh tế nên những thiếu sót và nhầm lẫn là không thể tránh khỏi. Tôi rất cảm ơn và mong nhận được sự phê bình, góp ý và phát triển thêm từ các Thầy Cô giáo, những nhà nghiên cứu, bạn bè nhằm hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
  • 10. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 10
  • 11. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 11 Chương I Lý luận chung về thị trường chứng khoán, thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức 1. Thị trường chứng khoán 1.1. Khái niệm Khái niệm thị trường chứng khoán hình thành và hoàn thiện theo sự phát triển của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thị trường chứng khoán là một yếu tố không thể thiếu đối với việc duy trì và phát triển của nền kinh tế. Cho đến nay, các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều có thị trường chứng khoán nhưng định nghĩa về thị trường chứng khoán thì có nhiều cách khác nhau: Thị trường chứng khoán là một thị trường có tổ chức nơi các chứng khoán được mua bán theo những nguyên tắc nhất định (theo Longman Dictionary of Business English, 1985 – nguyên văn: ”Securities market is an organized market where securities are bought and sold under fixed rules”) Theo giáo trình “Thị trường chứng khoán” của trường đại học Ngoại Thương, 1998, thị trường chứng khoán được định nghĩa là “một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời”. Nghị định 48/CP ngày 11/7/1998 quy định: “Thị trường giao dịch tập trung là địa điểm hoặc hệ thống thông tin, tại đó các chứng khoán được mua, bán hoặc là nơi tham khảo để thực hiện các giao dịch chứng khoán”.
  • 12. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 12 Khái niệm thị trường chứng khoán là một khái niệm có tính lịch sử nên trong thực tế, thuật ngữ thị trường chứng khoán thường có cách hiểu sát thực hơn và có thể có rất nhiều nội dung mới. 1.2. Chức năng, cơ cấu và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. 1.2.1. Chức năng. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Khi nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ry phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cáh hỗ trợ các hoạt đọng đàu tư củ công ty, thị trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tằng kinh tế, phục vụ các nhu cầu vhung của xã hội. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về thời hạn, tính chất và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán Nhờ có thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và hiệu quả thì
  • 13. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 13 càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và kịp thời, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Các dấu hiệu của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng, và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 1.2.2. Cơ cấu của thị trường chứng khoán Có nhiều căn cứ phân loại thị trường chứng khoán nhưng phổ biến và quan trọng nhất là căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, theo đó thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp
  • 14. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 14 Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành do đó đây là nơi duy nhất đem lại vốn đầu tư cho tổ chức phát hành. Việc mua bán trên thị trường sơ cấp thường diễn ra giữa các ngân hàng, công ty phát hành, và các tập đoàn tài chính lớn… giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành ấn định và thường được in ngay trên chứng khoán. Như vậy, có thể thấy rằng, thị trường sơ cấp đóng vai trò chứng khoán hoá các nguồn vốn cần huy động đồng thời chu chuyển vốn từ nơi thừa vốn tới nơi cần vốn và chuyển nó thành vốn dài hạn. Thị trường thứ cấp Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đóng vai trò đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành và có những đặc điểm sau: Thứ nhất, trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không phải nhà phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành chứng khoán mà vận chuyển giữa những người đầu tư chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Thứ hai, giao dịch trên thị trường thứ cấp thể hiện nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do quan hệ cung cầu quyết định. Thứ ba, thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường này. Ngoài cách phân loại trên, có thể phân loại thị trường chứng khoán theo tính chất tập trung của thị trường, theo đó thị trường chứng khoán bao gồm Sở giao dịch chứng khoán (thị trường tập trung) và thị trường OTC (thị trường phi
  • 15. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 15 tập trung). Tại sở giao dịch, các giao dịch được tập trung tại một địa điểm, các lệnh được chuyển đến sàn giao dịch và tham gia vào quá trình khớp lệnh để hình thành giá giao dịch. Trên thị trường OTC, các giao dịch (cả sơ cấp và thứ cấp) được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng máy tính. Giá cả hình thành theo phương thức thoả thuận. 1.2.3. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán Nguyên tắc cạnh tranh Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường chứng khoán phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các tổ chức phát hành cạnh tranh nhau để bán chứng khoán của mình cho nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của riêng mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. Nguyên tắc công bằng Nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả những người tham gia thị trường. Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chi sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những quy định đó. Nguyên tắc công khai Chứng khoán là loại hàng hoá có tính trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thông công bố thông tin tốt. Theo luật định, các bên tham gia phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ chức phát hành, tới
  • 16. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 16 đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các phương tiên thông tin đại chúng, sở gia dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan khác. Nguyên tắc trung gian Theo nguyên tắc này, trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của tổ chức phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh các công ty chứng khoán mua bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau thông qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. Nguyên tắc tập trung Thị trường chứng khoán phải hoạt động trên nguyên tắc tập trung. Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC, có sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản. Hàng hóa của thị trường chứng khoán là các sản phẩm tài chính cao cấp nên việc giao dịch đòi hỏi thị trường phải có những cơ sở vật chất nhất định chứ không thể diễn ra một cách tuỳ tiện. 1.3. Các thành phần tham gia trên thị trường chứng khoán Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành ba nhóm chính: tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức khác có liên quan. 1.3.1. Tổ chức phát hành Tổ chức phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Tổ chức phát hành bao gồm Chính phủ và chính quyền địa phương (phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương), các
  • 17. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 17 công ty (phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty) và các tổ chức tài chính khác đóng vai trò cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán. 1.3.2. Nhà đầu tư Nhà đầu tư là những người thực sự mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán chứng khoán với mục đích kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độc chấp nhận rủi ro của mình. Các nhà đầu tư có tổ chức, hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiên bởi các chuyên gia giàu kinh nghiệp và có chuyên môn cao. Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Các công ty tài chính được phép kinh doanh chứng khoán, có thể sử dụng vốn củ mình để đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích kiếm lợi. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính mình. 1.3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
  • 18. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 18 Công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận môt hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư, và tư vấn đầu tư. Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền. Các ngân hàng thương mại Tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên các ngân hàng chỉ được đầu tư vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Một số nước cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập để kinh doanh chứng khoán và thực hiên nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Ngoài ba thành phần trên đây, thị trường chứng khoán còn có sự tham gia không thể thiếu của các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán như: các cơ quan quản lý nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán… 2. Thông tin không cân xứng. Thông tin không cân xứng và những bằng chứng lý thuyết cũng như thực nghiệm về vấn đề này hiện nay đóng vai trò là công cụ cơ bản của mọi nhà kinh tế học tài chính trong nền kinh tế hiện đại. Thông tin không cân xứng là một hiện tượng có ý nghĩa quan trọng đối với một số vấn đề của kinh tế học và tài chính từ kinh tế học vĩ mô và vi mô (như vấn đề các công cụ nợ của doanh nghiệp, các chứng chỉ đầu tư và cổ tức, mức đan sâu, rộng và lâu dài của các chu kỳ kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế dài hạn) đến các vấn đề liên quan đến kinh tế quốc tế và nguồn gốc của các cuộc khủng hoảng tài chính. Để tạo cơ sở cho những phân tích tiếp theo của luận văn, trong phần này tôi xin trình bày
  • 19. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 19 một cách chi tiết học thuyết Thông tin không cân xứng và các khái niệm có liên quan. 2.1. Khái niệm về thông tin không cân xứng. Trong mọi nền kinh tế, các giao dịch về tài chính đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là chuyển nguồn vốn nhàn rỗi đến những dự án đầu tư hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất có thể. Nền sản xuất hàng hoá và dịch vụ của xã hội liên tục phát triển làm gia tăng không ngừng giá trị thặng dư. Chịu tác động bởi chi phí cơ hội của việc giữ tiền, những chủ nhân của phần giá trị thặng dư đó luôn tìm kiếm các cơ hội đầu tư tốt nhất. Diễn ra đồng thời với quá trình đó là sự huy động vốn của các chủ thể kinh tế, những người muốn thành lập hoặc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự gặp nhau của hai luồng nhu cầu trên tạo nên các giao dịch về tài chính và tổng hợp tất cả các giao dịch tài chính đó hình thành thị trường tài chính của một quốc gia. Tuy nhiên sẽ là không đơn giản để các giao dịch về tài chính đạt đến mục tiêu cuối cùng trên đây. Nguyên nhân là do sự tương hợp về yêu cầu giữa người cho vay và người đi vay không phải bao giờ cũng đạt được. Từ phía người cho vay, với vai trò là người sở hữu vốn, yêu cầu đảm bảo an toàn cho đồng vốn luôn được đặt lên trước tiên. Họ yêu cầu người vay vốn đưa ra những bằng chứng cho thấy tính an toàn của đồng vốn và điều đó phải được thể hiện thực tế thông qua việc hoàn trả vốn khi thời hạn vay kết thúc. Yêu cầu chung thứ hai của người cho vay là thu được lãi suất kỳ vọng vào đúng thời điểm cam kết. Vì những người cho vay chấp nhận cho vay là để chống lại chi phí cơ hội của việc giữ tiền mà biểu hiện ra chính là lãi suất huy động vốn (i) của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, nên lãi suất kỳ vọng không thể thấp hơn i. Ngoài hai yêu cầu trên, trong những tình huống cụ thể người cho vay còn có những yêu cầu khác về hình thức trả lãi, cung cấp thông tin, … nhưng tựu chung lại đó cũng chỉ là các yêu cầu phái sinh nhằm đảm bảo hai yêu cầu trên đây.
  • 20. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 20 Đối với người đi vay, tìm được nguồn vốn đủ lớn về quy mô, đủ dài về thời hạn với lãi suất và các ràng buộc hợp lý là những yêu cầu cơ bản và quan trọng nhất. Việc xác định như thế nào là “đủ” và “hợp lý” tương ứng phụ thuộc vào dự định sử dụng vốn và thoả thuận của hai bên trên cơ sở các điều kiện cho vay áp dụng phổ biến trong nền kinh tế. Như vậy, người đi vay phải một mặt thoả mãn được các yêu cầu của người cho vay và mặt khác phải đáp ứng được các yêu cầu đi vay của chính mình. Vì vậy, khả năng một giao dịch tài chính được thực hiện phụ thuộc chủ yếu vào người đi vay. Tuy nhiên trong các giao dịch tài chính luôn xuất hiện một mâu thuẫn cơ bản và cố hữu, một mâu thuẫn tạo nên cơ sở tồn tại của các điều kiện cho vay trong các tổ chức tài chính, đó là sự không cân xứng về thông tin giữa người cho vay và người đi vay. Người cho vay đóng vai trò cung cấp vốn trong giao dịch tài chính và thường không có sự khác biệt lớn về đồng vốn giữa những người cho vay (sự khác biệt chủ yếu nằm ở thời hạn cho vay và các ràng buộc liên quan). Nói cách khác, những thông tin về phía đối tác của mình mà người đi vay có được là tương đối đồng nhất. Người đi vay có thể huy động từ một trong những người cung cấp vốn mà không cần quan tâm nhiều đến bên cho vay vì chỉ cần vay được vốn là họ đã đạt được gần như hoàn toàn mục đích của một giao dịch tài chính. Mọi chuyện hoàn toàn khác đối với người cho vay. Họ có quyền lựa chọn một trong số những người hỏi vay, lúc này họ có cả quyền sử dụng và định đoạt đối vơi đồng vốn, nghĩa là họ có quyền sở hữu đầy đủ. Nhưng ngay sau khi giao dịch tài chính diễn ra, quyền sở hữu đó bị chia đôi, quyền sử dụng vốn đã được chuyển sang phía người vay vốn! Nếu không có vật thế chấp hoặc bảo lãnh của một tổ chức tài chính mạnh, người cho vay chỉ còn sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với khoản tiền đó, họ không cầm giữ và cũng không sử dụng nó. Điều này đồng nghĩa với việc rủi ro thu hồi vốn tăng lên và mức độ rủi ro phụ thuộc hoàn toàn vào người vay vốn.
  • 21. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 21 Do vậy, những gì người cho vay phải làm để hạn chế rủi ro là phải thu thập và phân tích các thông tin liên quan đến người vay vốn. Họ cần biết người đi vay sử dụng đồng vốn như thế nào, mức độ rủi ro cao hay thấp, sức mạnh tài chính, mức độ tin tưởng, nguy cơ dẫn đến việc sử dụng vốn không đúng cam kết của người vay, … Tuy nhiên những thông tin như thế đến với người cho vay thường không đầy đủ hoặc thiếu chính xác dẫn đến những lựa chọn của người cho vay có thể là một “lựa chọn đối nghịch” Tóm lại, trong các giao dịch tài chính thường có sự chênh lệch về thông tin giữa các bên tham gia, đó chính là hiện tượng thông tin không cân xứng. Cho đến nay, qua nhiều nghiên cứu, các nhà kinh tế học có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thông tin không cân xứng: Theo nhà kinh tế học Markusk K.Brunnermeier, Đại học Boston: “Thông tin không cân xứng là hiện tượng người đi vay có thông tin tốt hơn người cho vay” 1 . Theo hai nhà kinh tế học Udo Schmidt Mohr (University des Saarlandes) và J.Miguel Villas-Boas (University of California at Berkeley) trong cuốn “Assymetric Information and the Market Structure of the Banking Industry” (tạm dịch: Thông tin không cân xứng và cấu trúc thị trường của ngành ngân hàng): Thông tin không cân xứng là tình trạng trong đó người mua và người bán có thông tin khác nhau về cùng một giao dịch. Theo nhà kinh tế học Fredic S.Miskin Đại học Columbia, Hoa Kỳ: “Thông tin không cân xứng là sự không ngang bằng về một thông tin mà mỗi bên tham gia vào một giao dịch biết được” 2 . 1 “Asset pricing under Assymetric Information: Bubbles, Crashes, Technical Analysis and Herding”, NXB Đại học Boston, 1999, trang 27, dòng 18. 2 “Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”, NXB Khoa học Kỹ thuật, 1999, trang 907.
  • 22. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 22 Có thể định nghĩa khái niệm thông tin không cân xứng theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên mọi trường hợp không cân xứng về thông tin đều có ba đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, có sự khác biệt về thông tin giữa các bên tham gia giao dịch. Thứ hai, có nhiều trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa hai bên. Thứ ba, trong hai bên có một bên có thông tin chính xác hơn. Mỗi thị trường đều đạt đến một trạng thái cân bằng sau sự tương tác qua lại giữa người mua và người bán dưới sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật. Trên cơ sở sự cân bằng đó, các quan hệ kinh tế được phân tích chi tiết hơn. Tuy nhiên, vị trí cân bằng trên các thị trường có thông tin không cân xứng có nhiều thay đổi. Để phân tích chi tiết hơn sự tác động của thông tin không cân xứng đến hoạt động của thị trường, ta cần nghiên cứu cách đạt đến cân bằng thị trường và các yếu tố quyết định đến sự cân bằng đó. Trên mỗi thị trường, đặc điểm của sự không cân xứng về thông tin và tính chất tác động đến cân bằng thị trường không giống nhau. Vai trò của thông tin trên thị trường càng cao thì vấn đề thông tin không cân xứng trên các thị trường đó càng rõ rệt và thu hút nhiều sự quan tâm của những người tham gia. Thông tin không cân xứng xuất hiện phổ biến trên các thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường tín dụng và bảo hiểm. Trong phần dưới đây, tôi xin trình bày sự cân bằng trên các thị trường bảo hiểm xuất hiện thông tin không cân xứng dựa trên một nghiên cứu về thị trường bảo hiểm thu hoạch nông sản của Mỹ do hai nhà kinh tế học Shiva S.Makki và Agapi Somwaru thuộc Vụ Kinh tế học Thị trường và Thương mại, Viện Nghiên cứu Kinh tế, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ thực hiện tháng 4, 2001. Việc lựa chọn thị trường bảo hiểm là xuất phát từ nhiều nguyên nhân: thứ nhất, bảo hiểm là lĩnh vực mà thông tin đóng vai trò đặc biệt quan trọng và thể hiện rõ ràng nhất những đặc điểm của thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức; thứ hai, rủi ro đạo đức trên thị trường này thường xuyên xảy ra vì sau khi được bảo hiểm, người được
  • 23. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 23 bảo hiểm có ít nỗ lực hơn trong việc bảo vệ đối tượng bảo hiểm; thứ ba, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện trên nhiều loại thị trường bảo hiểm nên các mô phân tích đều đã được khẳng định tính đúng đắn. Dựa trên các phân tích đó, việc vận dụng nghiên cứu trên thị trường này sang các lĩnh vực khác có nhiều điểm tương đồng và do đó sẽ đóng góp rất lớn trong những phần tiếp theo của luận văn. 2.2. Cân bằng thị trường trong trường hợp không cân xứng về thông tin Trên các thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm nói riêng, hiện tượng thông tin không cân xứng luôn đi kèm và có mối quan hệ mật thiết với vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Trên thị trường bảo hiểm, lựa chọn đối nghịch phát sinh do các công ty bảo hiểm không thể phân loại một cách triệt để mức độ rủi ro của những người tham gia bảo hiểm. Sau khi mua bảo hiểm, người được bảo hiểm không có động lực để hạn chế rủi ro. Những rủi ro như vậy gọi là rủi ro đạo đức và người chịu rủi ro này không ai khác chính là công ty bảo hiểm. Nghiên cứu sắp trình bày dưới đây giả thiết rằng các cá nhân tham gia bảo hiểm không có khả năng phân phối rủi ro. Những nghiên cứu trên thị trường bảo hiểm thân thể và xe hơi của một số nhà kinh tế học trên thế giới đã đi đến đến kết luận rằng lựa chọn đối nghịch khiến những người có rủi ro thấp không muốn tham gia bảo hiểm đồng thời tạo ra hiện tượng chuyển thu nhập từ những người có mức rủi ro thấp sang những người có mức rủi ro cao. Để xác định cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin không cân xứng trên thị trường bảo hiểm, trước tiên cần xem xét quá trình đạt đến cân bằng trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo bằng cách sử dụng lý thuyết cung-cầu thị trường. Giả sử một cá nhân X muốn mua một hợp đồng bảo hiểm để ổn định thu nhập trước các rủi ro. Để đơn giản ta giả thiết có hai khả năng xảy ra: có tổn
  • 24. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 24 thất và không có tổn thất. Giả sử tiếp rằng X muốn tối đa hoá thu nhập. Nếu không có hợp đồng bảo hiểm, anh ta sẽ có tổng thu nhập kỳ vọng là: V(m,p) = (1 - p)U(m) + pU(m – d) (1) Trong đó: m: thu nhập p: xác suất xảy ra tổn thất U(x): hàm thu nhập V: tổng trị giá thu nhập kỳ vọng. Nếu mua bảo hiểm với mức phí bảo hiểm a và mức bồi thường i, tổng thu nhập kỳ vọng của X là: V(a,i,p) = (1 – p)U(m – a) + pU(m – d – a + i) (2) Giả sử rằng X là người không thích mạo hiểm, khi đó U luôn giảm (tức là U’(x) < 0) đồng thời đồ thị của U là một đường cong lõm (do đó V cũng là một đường cong lõm). Trong các hợp đồng bảo hiểm, X sẽ chọn hợp đồng có V cực đại. Giả sử tiếp rằng thu nhập từ các hợp đồng bảo hiểm của công ty bảo hiểm phụ thuộc vào các biến ngẫu nhiên. Do vậy, khi bán được hợp đồng bảo hiểm, công ty xẽ thu được (1 - p)a và phải trả p(i - a) khi tổn thất xảy ra. Lợi nhuận của công ty là:  (a,i,p) = (1 - p)a - p(i - a) (3) Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận của công ty bằng 0 nên: (1 - p)a - p(i - a) = 0 (4) Mỗi hợp đồng bảo hiểm được đặc trưng bởi mức phí bảo hiểm a và mức bồi thường i. Do đó, phương trình (4) thể hiện tất cả các hợp đồng bảo hiểm
  • 25. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 25 của công ty. Tại một xác suất xảy ra rủi ro nhất định p, công ty sẽ định giá a và i sao cho phương trình (4) được thoả mãn. Tức là: (1 - p)a -p(i - a) = 0 hay a - pi = 0 Phương trình (2) và phương trình (4) thể hiện đường cầu và cung bảo hiểm. Sự tương tác giữa cung và cầu bảo hiểm được thể hiện trên trục m10m2, trong đó m1 và m2 thể hiện thu nhập trong hai trường hợp tương ứng: không có tổn thất và có tổn thất. 2.2.1. Cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin đầy đủ. Trên thị trường bảo hiểm cạnh tranh hoàn hảo, có hai kiểu cân bằng là cân bằng chung và cân bằng riêng. Cân bằng chung xảy ra khi thị trường có một loại khách hàng đồng nhất về mức độ rủi ro, công ty bảo hiểm chỉ cần định giá một loại hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp cân bằng riêng, thị trường có nhiều nhóm khách hàng khác nhau về mức độ rủi ro. Khi đó, công ty bảo hiểm bán các hợp đồng bảo hiểm ở các mức giá khác nhau cho từng đối tượng khách hàng có độ rủi ro phù hợp. Thị trường đạt đến cân bằng tại nhiều điểm ứng với từng loại khách hàng. 2.2.1.1. Cân bằng chung
  • 26. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 26 E K F U T m1 m2 m - a - d + i m - d m – a m H×nh 1.1: C©n b»ng thÞ tr­êng trong ®iÒu kiÖn th«ng tin ®Çy ®ñ vµ mét møc rñi ro O Hình 1.1 biểu diễn điểm cân bằng chung của thị trường bảo hiểm cạnh tranh hoàn hảo với một loại khách hàng đồng nhất và 1 tỷ lệ xác suất xảy ra rủi ro, trong điều kiện thông tin đầy đủ. Trục hoành m1 và trục tung m2 biểu diễn thu nhập trong hai trường hợp tương ứng: không có tổn thất và có tổn thất. Đường cong U thể hiện tập hợp các điểm kết hợp thu nhập của người mua bảo hiểm trong hai trường hợp trên, phụ thuộc vào a, i và d, chính là đường cầu bảo hiểm. Đường thẳng OT biểu diễn các tập hợp điểm có kết hợp thu nhập bằng nhau dù tổn thất có xảy ra hay không. Đường thẳng EF là đồ thị của phương trình (4) biểu diễn các kết hợp thu nhập của công ty bảo hiểm và chính là đường cung bảo hiểm. Độ dốc của đường EF được xác định bằng tỷ lệ p p1 . Độ dốc của đường U được xác định bằng tỷ lệ thay thế cận biên của thu nhập trong hai trường hợp m1 và m2, tức là bằng )( )( 2 1 ' ' mU mU . Thị trường đạt tới trạng thái cân bằng khi độ dốc của đường cầu U bằng độ dốc của đường cung EF. Giả X có điểm kết hợp thu nhập ban đầu tại E. Tại điểm này X sẽ có thu nhập m nếu tổn thất không xảy ra và m - d nếu tổn thất xảy ra. Để hạn chế rủi ro, X mua một hợp đồng bảo hiểm dọc theo đường EF. Trong số các hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng tại điểm K tối đa hoá thu nhập kỳ
  • 27. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 27 vọng của anh ta. Hợp đồng tại K là một hợp đồng bảo hiểm toàn bộ rủi ro và cân bằng thu nhập của X trong cả hai trường hợp có hay không có tổn thất. Tại điểm cân bằng, hợp đồng được mua bán trong điều kiện cả hai bên đều biết rõ về nhau. Vì vậy K chính là điểm cân bằng trong điều kiện thông tin đầy đủ, lúc này người bảo hiểm không có lãi ( = 0). 2.2.1.2. Cân bằng riêng Hình 1.2 dưới đây biểu diễn điểm cân bằng của thị trường bảo hiểm cạnh tranh hoàn hảo, đầy đủ thông tin nhưng những người tham gia bảo hiểm có mức rủi ro khác nhau. Để đơn giản, ta giả sử chỉ có hai nhóm khách hàng: LR và HR với xác suất xảy ra rủi ro tương ứng là pH và pL (pH > pL). E O m1 m2 UL UH A B H F H×nh 1.2: C©n b»ng thÞ tr­êng trong ®iÒu kiÖn th«ng tin ®Çy ®ñ vµ nhiÒu møc rñi ro T Vẫn với các giả thiết như phần trên ta thấy: Các hợp đồng bảo hiểm có rủi ro thấp được thể hiện trên đường EF, có độ dốc là (1 – pL)/pL. Các hợp đồng bảo hiểm có rủi ro cao được tập hợp trên đường EH, có độ dốc bằng (1 – pH)/pH. Trong trường hợp này, độ dốc và độ lõm của đường cầu ứng với mỗi nhóm khách hàng phụ thuộc vào mức tổn thất khi rủi ro xảy ra (d) và đặc điểm
  • 28. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 28 rủi ro (tuỳ theo từng đặc điểm rủi ro mà công ty bảo hiểm đưa ra mức phí a và mức bồi thường i phù hợp). Gọi hai đường này tương ứng là UL và UH. Vì công ty bảo hiểm biết rõ xác suất xảy ra rủi ro của hai nhóm khách hàng nên họ sẽ đưa ra hai loại hợp đồng bảo hiểm tương ứng với hai mức rủi ro. Tại điểm cân bằng, cả hai nhóm khách hàng đều được bảo hiểm toàn bộ rủi ro và ở một mức giá cả công bằng. 2.2.2. Cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin không cân xứng. Nhà kinh tế học Akerlof, trong nghiên cứu về thông tin không cân xứng năm 1970 đã đưa ra những vấn đề phát sinh trên thị trường bảo hiểm thân thể khi người được bảo hiểm biết rõ tình trạng sức khoẻ của mình còn công ty bảo hiểm không biết đến điều đó. Ông đưa ra một ví dụ trong đó công ty bảo hiểm không thể phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro và định giá các hợp đồng bảo hiểm ở một mức trung bình. Trong điều kiện đó, chỉ những người có mức rủi ro cao hơn mức trung bình mới muốn mua bảo hiểm. Điều này khiến công ty bảo hiểm bị lỗ và do đó, phí bảo hiểm phải được tăng lên để đảm bảo cho công ty hoà vốn. Tiếp tục, trong số những người mua bảo hiểm trước đây, chỉ những người có mức rủi ro cao hơn mức trung bình mới mua bảo hiểm ở mức giá mới cao hơn. Quá trình tương tự diễn ra liên tục cho đến khi chỉ những người có mức rủi ro rất cao mới sãn sàng mua bảo hiểm ở một mức phí bảo hiểm cũng rất cao 3 . Năm 1976, nghiên cứu của hai nhà kinh tế học Rothschild và Stiglitz đã giải thích sự đạt đến cân bằng trên thị trường bảo hiểm trong điều kiện thông tin không cân xứng xảy ra giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm. Với sự thiếu hụt về thông tin, thị trường này sẽ có hai kiểu cân bằng: cân bằng chung (Pooling Equilibrium) và cân bằng riêng (Seperating Equilibrium). 3 “The Market for ‘Lemons’: Quality Uncertainty and the Market Mechanism”, Quarterly Journal of Economics Số 84, Hoa Kỳ (Tháng 8/1970), trang 488-500.
  • 29. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 29 Trong trường hợp cân bằng chung, công ty bảo hiểm không thể phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro nên phí bảo hiểm được xác định ở mức trung bình. Các hợp đồng bảo hiểm được bán với cùng một mức giá cho mọi nhóm khách hàng. Tình trạng này sẽ dẫn đến kiểu thị trường trong mô hình của nhà kinh tế học Akerlof như đã trình bày trên đây. Trong trường hợp cân bằng riêng, các hợp đồng bảo hiểm được bán ở mức giá phù hợp với từng loại rủi ro. Khi đó những người tham gia bảo hiểm sẽ tự phân loại mình theo đặc điểm của rủi ro thông qua việc lựa chọn hợp đồng bảo hiểm. 2.2.2.1. Cân bằng chung O m1 m2 T H×nh 1.3: C©n b»ng chung trong ®iÒu kiÖn th«ng tin kh«ng c©n xøng vµ nhiÒu møc rñi ro UH UL A B E H G A’ B’ F Hình 1.3 biểu diễn một ví dụ về cân bằng chung trong trường hợp có thông tin không cân xứng. Trong phân tích trước, ta đã giả thiết rằng có hai nhóm khách hàng tham gia bảo hiểm LR và HR với xác suất xảy ro rủi ro tương ứng là pL và pH (pL < pH). Đường EF biểu diễn đường cung các hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng có rủi ro thấp với độ dốc là (1 - pL)/ pL còn các hợp đồng cho khách hàng có rủi ro cao tập trung thành đường EH với độ dốc (1 –
  • 30. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 30 pH)/pH. Độ dốc và hình dạng của các đường cầu phụ thuộc vào đặc điểm rủi ro (đặc trưng bởi mức tổn thất d) và thái độ của người được bảo hiểm đối với rủi ro (thể hiện qua việc lựa chọn các hợp đồng bảo hiểm ở các mức a và i khác nhau). Giả sử hai đường cầu này tương ứng là UL và UH. Do các giá trị UL và UH là những thông tin không được cáo bạch nên các điểm cân bằng A, B (điểm bảo hiểm tốt nhất các rủi ro) là không thể đạt được. Nguyên nhân là do các công ty bảo hiểm không biết rõ ai là người có pH và ai là người có pL nên không thể ngăn cản những người có pH mua hợp đồng A, điểm đảm bảo an toàn cao hơn. Mặt khác, cũng do không phân loại được khách hàng nên công ty bảo hiểm định giá hợp đồng ở mức trung bình, thể hiện bằng đường EG. Kết quả là trong trường hợp cân bằng chung những người có rủi ro cao sẽ mua hợp đồng B’ và người có rủi ro thấp sẽ mua hợp đồng A’. So với phạm vi bảo hiểm toàn bộ rủi ro thì ở phạm vi bảo hiểm này những người có rủi ro cao đã mua rẻ hơn và những người có rủi ro thấp đã mua đắt hơn. Như vậy, người có rủi ro cao được bảo hiểm nhiều hơn (over-insured) trong khi người có rủi ro thấp được bảo hiểm ít hơn (under-insured). 2.2.2.2. Cân bằng riêng Hình 1.4 biều diễn trường hợp cân bằng riêng trên thị trường bảo hiểm có thông tin không cân xứng.
  • 31. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 31 A* O m1 m2 T H×nh 1.4: C©n b»ngriªng trong ®iÒu kiÖn th«ngtin kh«ng c©n xøng vµ nhiÒu møcrñi ro UH UL A B E H F Xét một thị trường tương tự như đã trình bày trong hình 1.3. Tuy nhiên công ty bảo hiểm chào bán hai loại bảo hiểm ở hai mức giá khác nhau tương ứng với từng mức độ rủi ro. Do công ty bảo hiểm không biết xác suất xảy ra rủi ro của khách hàng nên điểm cân bằng tối ưu A và B không thể đạt được. Lúc này khách hàng đều thích hợp đồng A hơn vì tại đó thu nhập kỳ vọng luôn cao hơn dù tổn thất có xảy ra hay không. Trong trường hợp này, công ty bảo hiểm có thể đưa ra hai loại hợp đồng (tương ứng theo hai đường cung EF và EH) phù hợp với từng loại rủi ro. Vì công ty bảo hiểm không thể tách riêng người có rủi ro cao với người có rủi ro thấp nên khi thị trường cân bằng, người có rủi ro cao sẽ mua hợp đồng B và người có rủi ro thấp sẽ mua hợp đồng A*. Kết quả là khi tồn tại cân bằng riêng thì hợp đồng cho mức rủi ro thấp là giao điểm giữa đường cầu của người có rủi ro cao với đường cung cho người có rủi ro thấp. Những dấu hiệu (gợi ý) của thị trường Lý thuyết về những dấu hiệu của thị trường cho rằng trong các thị trường bảo hiểm tòn tại thông tin không cân xứng, các cá nhân ngầm bộc lộ những
  • 32. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 32 thông tin liên quan đến mức độ rủi ro khi họ lựa chọn hợp đồng bảo hiểm. Những người có rủi ro thấp thường mua hợp đồng bán phần và chọn tỷ lệ khấu trừ cao (nếu rủi ro xảy ra, công ty bảo hiểm được khấu trừ một phần tổn thất phải chịu). Trong khi đó những người có rủi ro cao thường mua bảo hiểm toàn phần. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sự tự bộc lộ rủi ro này còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như thái độ của người được bảo hiểm trước rủi ro (muốn tránh rủi ro nhiều hay ít). Chẳng hạn, một người tham gia bảo hiểm có thể mua hợp đồng có phạm vi bảo hiểm cao bởi vì anh ta có xác suất xảy ra rủi ro cao nhưng cũng có thể anh ta là người thích sự an toàn, chắc chắn. Tuy nhiên, nếu giả thiết hai yếu tố này không đổi thì người nào mua bảo hiểm có phạm vi lớn hơn, người đó thường có mức tổn thất cao hơn khi rủi ro xảy ra. Như vậy, trên thị trường bảo hiểm có thông tin không cân xứng sẽ tồn tại một trong hai kiểu cân bằng. Nếu người bảo hiểm không thể phân loại được khách hàng theo mức độ rủi ro, thị trường sẽ đạt được cân bằng chung theo đó dựa trên mức độ rủi ro trung bình, người bảo hiểm cung cấp một loại hợp đồng duy nhất cho tất cả khách hàng. Vì vậy, trong số những người mua hợp đồng bảo hiểm, người có mức rủi ro cao hơn mức trung bình sẽ mua hợp đồng toàn bộ rủi ro và do đó họ được mua dưới giá trị hợp đồng (under-charge), hay nói cách khác họ được bảo hiểm vượt mức so với số tiền bỏ ra (over-insure). Những người có mức rủi ro thấp hơn trung bình sẽ phải trả giá cao hơn so với mức bảo hiểm giành được. Trong trường hợp người bảo hiểm phân loại được khách hàng, họ sẽ chào bán các hợp đồng bảo hiểm khác nhau với mức giá khách nhau. Khi đó thị trường sẽ đạt đến cân bằng riêng. Trong điều kiện cân bằng này, những nhóm khách hàng khác nhau sẽ đạt được cân bằng ở những vị trí khác nhau mà tại đó, thu nhập của họ được tối đa hoá trong cả hai trường hợp: có tổn thất và không có tổn thất. Đương nhiên, sự phân loại khách hàng không thể triệt để
  • 33. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 33 nên sẽ vẫn có những khách hàng được bảo hiểm vượt mức và những khách hàng được bảo hiểm thấp hơn so với số tiền bảo hiểm. 3. Lựa chọn đối nghịch 3.1. Khái niệm Lựa chọn đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Trên các thị trường tín dụng, lựa chọn đối nghịch xảy ra khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn lại chính là những người tích cực đi tìm vay nhất và do vậy, trong số những người đi vay họ sẽ là người dễ được lựa chọn nhất. Trên thị trường chứng khoán, lựa chọn đối nghịch xuất hiện khi nhà đầu tư không biết thông tin về các loại cổ phiếu của các công ty khác nhau do đó có thể mua phải cổ phiếu của một công ty hoạt động kém, rủi ro cao. Vấn đề lựa chọn đối nghịch cũng xuất hiện trong nhiều hoạt động khác của nền kinh tế. Nói một cách tổng quát, lựa chọn đối nghịch là những quyết định sai lầm của một bên tham gia giao dịch mà nguyên nhân là do thông tin không cân xứng. Để hiểu rõ hơn về khái niệm lựa chọn đối nghịch và những tác động của nó đến nền kinh tế, ta nghiên cứu sự hình thành của lựa chọn đối nghịch như sẽ trình bày dưới đây. 3.2. Sự hình thành lựa chọn đối nghịch Dựa trên nghiên cứu của nhà kinh tế học G. AKERLOF năm 1970 có tựa đề: “The market for ‘lemons’ Quality Uncertainty and the Market Mechanism”, tôi xin trình bày một cách tổng quát về sự hình thành lựa chọn đối nghịch như sau: Lựa chọn đối nghịch là hiện tượng xảy ra trên bất kỳ thị trường nào xuất hiện thông tin không cân xứng. Do không có đủ thông tin liên quan đến giao dịch nên một trong các bên tham gia giao dịch sẽ đưa ra những quyết định sai lầm. Trong phần này, ta giả có hai bên tham gia giao dịch, người bán S và
  • 34. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 34 người mua B cùng tham gia trên một thị trường trao đổi sản phẩm A bất kỳ. Trên thị trường, có hai mức chất lượng đối với sản phẩm A: chất lượng tốt (AH) và chất lượng kém (AL). Người bán và người mua đánh giá trị giá của hai loại chất lượng này như sau: Loại chất lượng Trị giá Người bán AL PL1 AH PH1 Người mua AL PL2 AH PH2 Giả thiết rằng PL1 < PL2 < PH1 < PH2. Khi đó ta sẽ thấy có những trường hợp sau đây: Trường hợp 1: Cả người bán và người mua đều biết rõ chất lượng từng loại. Trong trường hợp này, cả hai nhóm sản phẩm A sẽ được bán trên thị trường ở mức giá do quan hệ cung cầu và sự thoả thuận của các bên quyết định. Sản phẩm có chất lượng tốt, AH sẽ được bán ở mức giá nằm giữa PH1 và PH2 còn sản phẩm có chất lượng kém sẽ được trao đổi ở mức gí nằm giữa PL1 và PL2. Trường hợp 2: Cả người bán và người mua không biết về chất lượng từng loại sản phẩm. Khi đó sự trao đổi xẽ diễn ra trên cơ sở kỳ vọng giá trị của từng loại hàng hoá. Giả sử người bán và người mua đều biết rõ tỷ lệ sản phẩm có chát lượng xấu và tốt trong nền kinh tế, tương ứng là  và 1 - . Vậy kỳ vọng giá trị của người bán EVS và của người mua EVB là: EVS =  PL1 + (1 - )PH1 EVB =  PL2 + (1 - )PH2
  • 35. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 35 Trong trường hợp này, việc mua bán sẽ diễn ra ở mức giá P thoả mãn: EVS < P < EVB tuỳ theo quan hệ cung cầu và sự thoả thuận của các bên tham gia. Trường hợp 3: Người bán biết rõ từng loại chất lương còn người mua thì không: Lựa chọn đói nghịch. Giả sử người mua đưa ra mức giá P* thoả mãn: PL2 < P* < PH1. Khi đó: * Những người bán AH sẽ từ chối mức giá trên vì khi đó họ sẽ bị lỗ một khoản trị giá: PH1 – P*. * Những người bán sản phẩm AL sẽ chấp nhận mức giá trên vì như thế họ sẽ lãi: P* - PL1. Tuy nhiên người mua sẽ bị lỗ: P* - PL2. Như đã giả thiết, xác suất xuất hiện AL là  nên trng trường hợp này người mua luôn bị lỗ một khoản trị giá: P(P* - PL2 ). Trong trường hợp này người mua đã thực hiện một lựa chọn đối nghịch. Nguyên nhân của vấn đề này là do người bán biết rõ chất lượng của sản phẩm trong khi người mua không biết điều đó. Kết quả là người bán sẵn sàng bán ở mức giá có lợi và không bao giờ bán ở mức giá bất lợi cho anh ta. Lựa chọn đối nghịch chỉ xảy ra trong trường hợp người bán có thông tin tốt hơn người mua. Ngay cả khi hai bên đều không biết về chất lượng sản phẩm thì lựa chọn đối nghịch cũng không xảy ra. Đương nhiên người bán luôn biết rõ về sản phẩm hơn người mua nên ít có trường hợp thứ tư là : người mua có thông tin tốt hơn người bán. Phân tích trên đây dựa trên giả thiết rằng người mua đưa ra mức giá P* thoả mãn: PL2 < P* < PH1. Tuy nhiên thực tế người mua có thể đưa ra các mức giá sau:  P < PL1: Khi đó thị trường không có sản phẩm được trao đổi.  PL1 < P < PH1: Chỉ người bán sản phẩm kém chất lượng AL mới chấp nhận mức giá này, kết quả lừ trên thị trường chỉ xuất hiện AL. Khi đó thị trường sẽ đạt được cân bằng riêng, nơi chỉ những sản
  • 36. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 36 phẩm AL được trao đổi. Lúc này EVB = (PL2 – P), do đó nếu P càng gần PH1 thì EVB càng nhỏ, người mua thiệt nhiều hơn.  Nếu P > PH1: Cả người bán AL và AH đều chấp nhân giá này. Trên thị trường xuất hiện hàng hoá với hai loại chất lượng và thị trường đạt được cân bằng chung. Khi đó: EVB = (PL2 – P) + (1 – )(PH2 – P) Vì vậy cũng như trong trường hợp trên, nếu P càng lớn thì EVB càng nhỏ và người mua mất nhiều hơn. Cách tốt nhất đối với người mua là đặt giá ở mức P = PL1 và do đó chỉ người bán AL mới chấp nhận giá và EVB = (PL2 – P) = (PL2 – PL1) > 0. Tuy nhiên EVB không phải là một căn cứ chắc chắn để xác định giá cả hợp lý vì nếu người mua đánh giá sản phẩm quá cao (PL2 và PH2 lớn hơn) thì EVB tăng. Do vậy người mua cần thu thập thêm thông tin để xác định giá tốt hơn. 4. Rủi ro đạo đức 4.1. Khái niệm Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin không cân xứng. Khác với lựa chọn đối nghịch, rủi ro đạo đức suất hiện sau cuộc giao dịch khi một bên thực hiện những hành động ẩn giấu và có ảnh hưởng đến lợi ích của phía đối tác. Có nhiều cách định nghĩa về rủi ro đạo đức: - Rủi ro đạo đức là một xu hướng theo đó người được bảo hiểm ít nỗ lực hơn trong việc bảo vệ hàng hoá trước hư hại và mất cắp 4 . - Rủi ro đạo đức là tình trạng một bên tham gia thị trường không thể giám sát hoạt động của phía bên kia. Vì lý do này, rủi ro đạo đức còn được gọi là vấn đề hành động ẩn giấu (hidden action) 5 . 4 Frank, “Microeconomics and Behavior”, NXB McGraw Hill, New York, 1991, trang 193.
  • 37. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 37 - Rủi ro đạo đức là một cách gọi khác của hành động ẩn giấu theo đó người được thông tin có thể thực hiện những hành động “sai trái” 6 . - Rủi ro đạo đức phát sinh khi những người sở hữu thông tin riêng thực hiện những hành động có ảnh hưởng đối lập đến xác suất đưa đến những hậu quả xấu (McTaggart, Findlay & Parkin (1992) trang 440). Qua các khái niệm trên có thể thấy khái niệm rủi ro đạo đức có những đặc điểm chính sau đây: Thứ nhất, có sự xuất hiện của hành động ẩn giấu (hidden action). Một bên tham gia giao dịch (ví dụ công ty bảo hiểm) không thể giám sát hành động của phía bên kia (người được bảo hiểm). Thứ hai, bên có hành động ẩn giấu, dù vô tình hay cố ý, sẽ làm tăng xác suất xảy ra hậu quả xấu. Trong thực tế, vấn đề rủi ro đạo đức xuất hiện trong rất nhiều hiện tượng kinh tế chẳng hạn: - Người được bảo hiểm giảm bớt động lực trong việc bảo vệ đối tượng bảo hiểm khiến xác suất xảy ra rủi ro tăng lên. - Người vay vốn thực hiện những hoạt động đầu tư có độ rủi ro cao dẫn đến nguy cơ không hoàn trả được vốn cho người cho vay… Mặc dù xuất hiện trong nhiều hiện tượng kinh tế nhưng về bản chất, rủi ro đạo đức tồn tại trên cơ sở thông tin không cân xứng. Để khảo sát chi tiết hơn, ta nghiên cứu nguyên nhân xuất hiện rủi ro đạo đức. 4.2. Nguyên nhân xuất hiện rủi ro đạo đức Rủi ro đạo đức có nguyên nhân sâu xa là thông tin không cân xứng. Để phân tích một cách cụ thể và chi tiết sự xuất hiện rủi ro đạo đức và các chi phí 5 Varian, “Intermadiate Microeconomics: A Modern Approach”, Xuất bản lần 2, NXB. W W Norton and Co., New York, 1990, trang 589. 6 Katz và Rosen, Microeconomics, Xuất bản lần 2, NXB Irwin, Illinios, 1994 trang 593.
  • 38. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 38 liên quan, ta nghiên cứu một thị trường bảo hiểm với các giả định như đã trình bày trong phần 2. Giả sử thêm rằng, các hợp đồng bảo hiểm được cung cấp bởi các công ty bảo hiểm hoạt động trên một thị trường cạnh tranh và không có chi phí quản lý. Xác suất xảy ra rủi ro (p) của tổn thất (d) là các biến ngoại sinh (trên hệ trục m1Om2) và phụ thuộc vào mức chi phí (a) bỏ ra nhằm bảo vệ đối tượng bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm (X). Gọi mức chi phí này là a1 và a0 (a1>a0). Đặt a0 = 0, khi đó, xác suất xảy ra rủi ro khi a = 0 là p0, và khi a = a1 là p1. Để đảm bảo rằng khi bỏ ra chi phí a1 X sẽ hạn chế rủi ro tốt hơn khi bỏ ra a0 thì: (p0 – p1)d > a1 hay p1d + a1 < p0d Với những giả thiết trên ta có đồ thị sau: B1 M1 m1 m2 m - d m – d – a1 U0 U1 A0 A1 A’1 B’ B0 (1 – p1)d M0 O T mm – a1 p1d H×nh 1.5: Rñi ro ®¹o ®øc trªn thÞ tr­êng b¶o hiÓm Khi X chọn a0 = 0, đường hoà vốn của công ty bảo hiểm là B0M0.
  • 39. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 39 Đường ngân sách của X khi a0 = 0 là B’M0 và khi a = a1 là B1M1. Khi thị trường có thông tin hoàn hảo và công ty bảo hiểm có khả năng giám sát được việc X đang thực hiện mức chi phí a1 cho việc chăm sóc, bảo quản đối tượng bảo hiểm thì công ty bảo hiểm sẽ chào bán hợp đồng bảo hiểm toàn phần tại bất kỳ điểm nào trên đường hoà vốn (đường cung bảo hiểm) mới B1M1. Đối với X, hiển nhiên mức thu nhập sẽ tốt hơn khi thực hiện mức chi phí a1 cho việc bảo quản, chăm sóc đối tượng bảo hiểm vì khi đó đường thu nhập của X ở vị trí U1 cao hơn so với khi chọn a0 (có đường thu nhập U0 thấp hơn). Tuy nhiên đây là tình huống xảy ra trong điều kiện thông tin hoàn hảo. Như đã đề cập trên đây, rủi ro đạo đức sẽ diễn ra khi xuất hiện thông tin không cân xứng. Giả sử, công ty bảo hiểm không thể giám sát hành động của X và X chọn mức chi phí chăm sóc đối tượng bảo hiểm là a1. khi đó: Công ty bảo hiểm chào bán hợp đồng theo đường hoà vốn B1M1. Phí bảo hiểm toàn bộ rủi ro là p1d. Tuy nhiên X có thể lựa chọn mức chi phí chăm sóc, bảo vệ đối tượng bảo hiểm một cách tuỳ ý vì công ty bảo hiểm không giám sát được điều đó. X sẽ chọn a0 vì điểm này giúp X có được hợp đồng A’1 nằm trên đường thu nhập cao hơn. Điều này hiển nhiên không tốt cho công ty bảo hiểm vì họ phải chịu một khoản tổn thất phát sinh trị giá bằng phần chênh lệch giữa mức bồi thường và phí bảo hiểm dự kiến: p0d – p1d. Khoản chi phí này chính là phần lượng hoá rủi ro đạo đức. Như vậy, rủi ro đạo đức phát sinh trên cơ sở thông tin không cân xứng. Sự không cân xứng về thông tin khiến công ty bảo hiểm không thể giám sát hoạt dộng của những người tham gia bảo hiểm, dẫn đến việc người tham gia bảo hiểm có thể thực hiện những hành động làm tăng tham rủi ro cho công ty bảo hiểm. Trên thực tế,
  • 40. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 40 các công ty bảo hiểm thường chào bán các hợp đồng bảo hiểm ở nhiều phạm vi bảo hiểm khác nhau và đưa ra các điều kiện ràng buộc cụ thể, kết hợp với các biên pháp giám sát phù hợp để hạn chế và ngăn chặn rủi ro đạo đức. Phổ biến nhất là việc áp dụng điều khoản “khấu trừ” (deductible)và “san sẻ trách nhiệm” (co-payment). Điều khoản “khấu trừ” là một điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm theo đó người mua bảo hiểm phải trả một khoản nhất định cho thiệt hại đầu tiên (vì vậy điều khoản này còn được gọi là “rủi ro đầu tiên”). San sẻ trách nhiệm là một điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm theođó người mua bảo hiểm phải tự gánh chịu một tỷ lệ phần trăm tổn thất nhất định nếu yêu cầu công ty bảo hiểm bồi thường. Vấn đề đặt ra là áp dụng các biện pháp trên trong trường hợp nào? Điều này phụ thuộc vào tình tình thực tế của từng khách hàng. Nếu rủi ro đạo đức thuộc loại dễ gây ra thiệt hại (có xác suất xảy ra rủi ro cao) thì công ty bảo hiểm nên áp dụng điều khoản “khấu trừ”. Như vậy sẽ giúp công ty bảo hiểm tiết kiệm chi phí không chỉ bằng cách khuyến khích người tham gia bảo hiểm quan tâm nhiều hơn tới đối tượng bảo hiểm mà còn bằng cách giảm các chi phí liên quan đến việc giải quyết các yêu cầu bồi thường cho những tổn thất nhỏ. Nếu rủi ro đạo đức thuộc loại làm tăng quy mô tổn thất thì công ty bảo hiểm nên áp dụng điều khoản “san sẻ trách nhiệm” vì khi đó nếu tổn thất càng lớn thì người được bảo hiểm cũng chịu phần san sẻ lớn hơn. Điều đó khiến người được bảo hiểm có động lực để hạn chế quy mô rủi ro. 5. Tác động của thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đối với nền kinh tế. 5.1. Tác động của thông tin không cân xứng và lựa chọn đối nghịch.
  • 41. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 41 Trên thị trường các hàng hóa hữu hình, đặc biệt các thị trường của loại sản phẩm có mức chất lượng biến thiên rộng, sự xuất hiện của thông tin không cân xứng là một yếu tố quan trọng kìm hãm giao dịch. Người bán luôn có thong tin tốt hơn người mua nên sự nghi ngờ về chất lượng sản phẩm của người mua là không thể tránh khỏi. Điều đó đẩy người mua đến hai con đường: hoặc là chọn một mặt hàng thay thế; hoặc là tìm cách có thêm thông tin về hàng hoá (mua thông tin, thuê chuyên gia thẩm định…). Tuy nhiên việc làm này làm tăng chi phí giao dịch mà người mua phải trả thêm. Những yếu tố này làm giảm nhu cầu của người mua và kết quả là trên những thị trường như thế, doanh số giao dịch sẽ không cao. Để thị trường hoạt động tốt hơn, cần có biện pháp xoá đi sẹ mất cân xứng về thông tin. Vấn đề này sẽ được thảo luận nhiều hơn trong chương III của luận văn. Một hiện tượng tương tự diễn ra trên các thị trường tài chính. Sự xuất hiện thông tin không cân xứng làm nhà đầu tư do dự trước việc lựa chọn chứng khoán của công ty A hay của công ty B. nhà đầu tư không biết được đâu là công ty tốt, có lợi tức dự tính cao, rủi ro thấp và đâu là công ty tồi, có lợi tức dự tính thấp và rủi ro cao. Trong tình trạng này, các nhà đầu tư sẽ chấp nhận một mức giá trung bình của những chứng khoán phát hành nằm giữa giá trị chứng khoán của những công ty tố và giá trị chứng khoán của những công ty tồi. Các công ty tốt sẽ không chấp nhận mức giá đó và họ định giá chứng khoán cao hơn. Trong khi đó, các công ty kém lại sẵn sàng chấp nhận giá. Tuy nhiên, lý thuyết về những dấu hiệu thị trường đã trình bày trên đây gợi ý cho các nhà đầu tư rằng những công ty chấp nhận giá sẽ có nhiều khả năng là một công ty tồi. Kết quả là sẽ có ít chứng khoán được giao dịch. Những phân tích trên đây giải thích một thực tế đang diễn ra tại hầu hết các thị trường tài chính trên thế giới rằng những chứng khoán trao đổi được không phải là một công cụ huy động vốn hàng đầu của các công ty. Trên thực
  • 42. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 42 tế, chỉ những thị trường chứng khoán rất mạnh, có hệ thống thông tin và giám sát thông tin tốt mới có khả năng là kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế. 5.2. Tác động của rủi ro đạo đức. Rủi ro đạo đức xuất hiện sau khi cuộc giao dịch diễn ra, khi một bên thực hiện những hành động không thể giám sát được nhưng có ảnh hưởng đến lợi ích của bên kia. Rủi ro đạo đức xuất hiện trong rất nhiều thị trường như: thị trường bảo hiểm, thị trường chứng khoán, thị trường tín dụng, thị trường cho thuê tài sản,… Trong khuôn khổ luận văn này, tôi tập trung vào tác động của rủi ro đạo đức đến thị trường tài chính. Rủi ro đạo đức là một nguyên nhân trực tiếp và quan trọng ảnh hưởng đến quyết định phát hành công cụ vốn (cổ phiếu) hay công cụ nợ (trái phiếu công ty, hợp đồng nợ) của các công ty trong việc huy động vốn. Thực tế, phần góp vốn của những người lãnh đạo công ty chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng vốn của công ty. Điều này đồng nghĩa với việc họ đang quản lý một phần lớn vốn của những cổ đông. Sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền sở hữu vốn chính là nguyên nhân xảy ra rủi ro đạo đức trong các công ty cổ phần. Những người lãnh đạo công ty có thể hành động vì lợi ích cá nhân mà đi ngược lại lợi ích của các cổ đông. Những hành động như vậy bao gồm việc tăng các chi phí phục vụ cho lợi ích của người quản lý công ty như trang bị đồ dùng văn phòng tốt, xe hơi đắt tiền, chi phí phúc lợi cho nhân viên cao… Ngoài việc theo đuổi những lợi ích cá nhân, người quản lý công ty có thể theo đuổi những chiến lược của công ty nhằm đề cao quyền lực cá nhân mà không làm tăng lợi ích của công ty. Để hạn chế rủi ro đạo đức, các công ty cổ phần có thể hành động theo hai cách sau: Thứ nhất, tăng cường giám sát hoạt động của những người quản lý. Tuy nhiên việc làm này sẽ gây tốn kém cho các cổ đông.
  • 43. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 43 Thứ hai, tăng tỷ lệ D/E (tổng nợ/tổng vốn cổ phần) băng cách phát hành trái phiếu hoặc vay vốn ngân hàng, đồng thời giảm phát hành cổ phiếu. Vì các công cụ nợ là một thoả thuận của người cho vay thanh toán cho người cho vay những khoản tiển cố định sau những khoảng thời gian nhất định nên dù công ty hoạt động tốt hay không tốt vẫn phải chi trả một khoản không đổi. Chính vì vậy nếu công ty còn trả được những khoản nợ định kỳ trên thì các chủ nợ vẫn yên tâm về hoạt động của công ty. Nếu trường hợp ngược lại xảy ra, họ sẽ là người trực tiếp giám sát hoạt động của công ty và những người quản lý công ty. Nói cách khác, tỷ lệ D/E càng cao thì công ty càng bị giám sát chặt chẽ bởi những người cho vay, các cổ đông của công ty không cần phải bỏ thêm chi phí cho việc giám sát này. Lợi ích của việc không cần thường xuyên kiểm tra giám sát công ty (và do đó giảm chi phí giám sát) giải thích vì sao các công ty cổ phần thường muốn phát hành các công cụ nợ hơn. Điều này ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các công ty cổ phần. Tuy nhiên các công cụ nợ vẫn chịu rủi ro đạo đức. Do một hợp đồng nợ chỉ yêu cầu người vay thanh toán một số tiền nhất định nhưng lại cho phép họ hưởng toàn bộ phần lợi nhuận còn lại nên những người vay vốn có thêm động cơ để thực hiện các dự án đầu tư có mức rủi ro cao. Vì vậy người đầu tư sẽ do dự khi quyết định cho vay. Hậu quả của điều này là trong điều kiện thông tin không cân xứng (và do đó xuất hiện rủi ro đạo đức), thị trường tài chính sẽ không thực hiện tốt chức năng chuyển vốn nhàn rỗi đến nơi cần vốn. Như vậy, rủi ro đạo đức đã tham gia vào việc định hình cấu trúc của các thị trường tài chính.
  • 44. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 44 Chương II Vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành lập đến nay 1.1. Tổng quan tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Hai giờ chiều ngày 28/7 năm 2000 TTCK Việt Nam chính thức đi vào hoạt động với phiên giao dịch đầu tiên tại Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Thành phố Hồ Chí Minh chỉ với 2 loại cổ phiếu được giao dịch ban đầu. Kể từ đó đến nay đã hơn 3 năm đi hoạt động TTCK Việt Nam có nhiều biến đổi thăng trầm Về mặt cơ cấu các cơ quan chức năng và các bộ phận thành viên trong TTCK Việt Nam có thể kể đến Uỷ ban chứng khoán nhà nước, TTGDCK Tp HCM, 11 công ty chứng khoán ra đời, 6 công ty kiểm toán và 3 ngân hàng lưu ký nước ngoài được thừa nhận về tư cách pháp lý phục vụ cho các công ty niêm yết và nhà đầu tư, đã có khoảng 15.000 tài khoản được thống kê tại các công ty chứng khoán (nhưng thực tế chỉ có khoảng 2000 nhà đầu tư thực sự có mua bán chứng khoán). TTCK Việt Nam đi vào hoạt động với sự chào đón nhiệt tình từ các nhà đầu tư và ngay lập tức đã có được những thành công ngoài mong đợi. Chỉ số VN-index và tất cả các loại cổ phiếu đều tăng mạnh và chỉ đến phiên giao dịch ngày 25/6/2001 đã ghi nhận con số kỷ lục: chỉ số VN-index đạt 571,04 điểm với giá trị giao dịch phiên đạt 23.570.700.000 VNĐ, một con số đáng kể so với
  • 45. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 45 một thị trường mới và vẫn còn rất khan hiếm “hàng hoá”. Trước thời điểm ngày 25/6/2001 giá cổ phiếu tăng theo từng ngày và dường như cứ mua cổ phiếu vào ngày hôm trước là có 2% lãi vào ngày hôm sau vì thế đã tạo nên cơn sốt cổ phiếu, mọi nhà đầu tư đều cố gắng mua bằng được cổ phiếu và cứ vậy đẩy giá của cổ phiếu lên cao. Trước tình hình đó, các Cơ quan quản lý và Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã chủ động hạ sốt bằng cách tăng biên độ giao dịch. Với sự thay đổi đó đã làm cho các nhà đầu tư dè dặt hơn khi đặt mua cổ phiếu và cứ thế thị trường cổ phiếu suy giảm dần. Nhưng ngoài sự suy tính của các nhà quản lý, chỉ số VN-index và giá cổ phiếu giảm liên tục kéo dài từ giữa năm 2001 không có dấu hiệu phục hồi. Đến tháng 3 năm 2002 chỉ số VN-index chỉ còn  180 điểm rồi ổn định ở mức đó đến 7/11/02 là 174,62 điểm đạt đến điểm đáy 130,90 điểm vào ngày 24/10/03, trung bình giảm 15,71% mỗi tháng trong suốt 28 tháng kể từ ngày thị trường suy giảm. Một điều đáng lưu ý là trong khi giá cổ phiếu giảm, TTCK ảm đạm, thì tình hình làm ăn của các công ty niêm yết vẫn ổn định nếu không muốn nói là tốt đẹp đối với một số công ty, điều này đã làm đau đầu các nhà quản lý đặc biệt là Uỷ ban chứng khoán nhà nước - cơ quan quản lý hệ thống chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. Biểu đồ chỉ số VN-index trên TTCK Việt Nam từ khi thành lập (Nguồn: www.vietstock.com.vn) 1.2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán trong hai năm gần đây. 1.2.1. Thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2002
  • 46. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 46 Chỉ số VN-Index và giá các cổ phiếu Trên đà giảm mạnh của TTCK năm 2001, TTCK năm 2002 vẫn tiếp tục suy giảm. Chỉ số VN-index giảm từ mức  232 điểm hồi tháng 1 xuống chỉ còn  182 điểm trong tháng 12, và đã có những phiên giảm xuống duới 180 điểm như các phiên từ 408 đến 438 . Sự giảm sút này tuy chậm hơn năm 2001 nhưng các con số đã xuống đến mức kỷ lục 174,62 điểm (phiên 7/01/02) tính đến hết năm 2002. Một số cổ phiếu được cho là mạnh và ổn định như SAM, REE, BBC, DPC cũng giảm không ngừng. Cổ phiếu REE trong các phiên 335 – 338 đã giảm mạnh, chỉ còn 2/3 giá trước đó tức là từ 34000VNĐ/1cổ phiếu xuống còn  23.500VNĐ/1cổ phiếu. Giá trị giao dịch Tổng giá trị giao dịch cổ phiếu trên TTCK năm 2002 đạt 960.120.953.000VNĐ (chiếm 89,6% tổng giá trị giao dịch năm của TTCK, tổng giao dịch trái phiếu chỉ đạt được 111.402.541.000 VNĐ chiếm 11,4%). Hình thức giao dịch chủ yếu là khớp lệnh với 73,53%, hình thức thoả thuận chỉ chiếm 26,47%, trong khi đó đối tượng mua bán cổ phiếu trên thị trường chủ yếu vẫn là các nhà đầu tư trong nước, chiếm tới 86,65%. Biểu đồ chỉ số VN-index cổ phiếu năm 2002 (Nguồn: www.vietstock.com.vn ) Lượng cung cầu chứng khoán
  • 47. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 47 Năm 2002, lượng cung cầu chênh lệch nhau không nhiều với 57.710.770 cổ phiếu tổng cung và 56.166.390 cổ phiếu tổng cầu trong đó tổng giá trị thực hiện là 29.678.890 cổ phiếu. Kết quả đó cho thấy phần nào sự cân bằng trong cung và cầu cả năm, đặc biệt 6 tháng cuối năm sự chênh lệch giữa cung và cầu trong mỗi tuần là rất ít. Khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch của một số cổ phiếu năm 2002:  Cổ phiếu REE (Công ty cổ phần cơ điện lạnh) vẫn đứng đầu với giá trị giao dịch là 221.852.123.000 VNĐ , chiếm tới 23,12% tổng giá trị giao dịch trên thị trường, xếp sau là SAM (Công ty cổ phần Cáp và Vật liệu viễn thông) 13,53%, BBC (Công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hoà) 11,48%, GMD (Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển) 7,85%, AGF (Công ty cổ phần thuỷ sản An Giang) 7,39%,…  Trong năm 2002 chỉ có duy nhất một cổ phiếu GIL là có tăng lên chút ít về giá, từ khoảng 38.500 VNĐ (đầu năm) lên khoảng 42.000 VNĐ (cuối năm) và đã có lúc đạt tới  50.000 VNĐ/1cổ phiếu , giá trị giao dịch toàn năm đạt tói 49.283.160.000 chiếm 5,14%. Giải thích cho sự sụt giảm giá chứng khoán có thể xét tới lý do cơ bản sau: Thứ nhất, trong năm qua trên thị trường, giá vàng, bất động sản và lãi suất huy động vốn VNĐ tăng cao. Vì vậy thay vì chọn đầu tư vào TTCK, các nhà đầu tư đầu tư vào các thị trường này thậm chí là gửi ngân hàng vừa có lãi suất cao lại an toàn hơn. Cụ thể, lãi suất gửi tiết kiệm VNĐ loại kỳ hạn 12 tháng tăng từ 0,55% lên 0,67%/tháng; giá vàng tăng 26,9% trong năm qua (từ 516.000 đến 655.000 VNĐ/1 chỉ) còn giá bất động sản ở thành phố có lúc tăng đến 50% -70% trong năm. Chính xu thế đó khiến cho các nhà đầu tư chuyển vốn khỏi thị trường chứng khoán.
  • 48. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 48 Thứ hai, số các nhà đầu tư chuyên nghiệp ít, người đầu tư chủ yếu là cán bộ hưu trí, một vài nhà đầu tư nhỏ, một số người có vốn không nhiều quan tâm đến TTCK và nhìn chung còn chưa có kinh nghiệm, tham gia TTCK một cách bị động mang tính thử nghiệm, thăm dò, đầu tư ngắn, mua nhanh, bán nhanh. Thứ ba, tâm lý lo lắng về sự xuống dốc của cổ phiếu do thông tin chậm trễ, không đầy đủ, thiếu chính xác của các công ty niêm yết. Thứ tư, số lượng chứng khoán tham gia giao dịch còn ít và nghèo nàn, chưa phong phú về chủng loại, chỉ có một số nghành sản xuất có công ty niêm yết mà mỗi nghành cũng chỉ có 1, 2 công ty niêm yết do vậy tính cạnh tranh cũng không cao. Thứ năm, các công ty chứng khoán hoạt động yếu kém, không cải tiến phương pháp phục vụ, phí giao dịch cao (2 triệu đồng đối với các công ty giao dịch ở miền Bắc và 5 triệu ở miền Nam), thủ tục giao dịch rườm rà, thông tin không minh bạch, vẫn còn để có nhiều tin đồn làm ảnh hưởng đến hoạt động mua bán chứng khoán. 1.2.2. Thị trường TTCK Việt Nam 10 tháng đầu năm 2003. 1.2.2.1. Bối cảnh TTCK Việt Nam đầu năm 2003. TTCK Việt Nam đầu năm 2003 ở vào bối cảnh vẫn là một thị trường non yếu, quy mô nhỏ, dường như chưa là sân chơi chính thức cho các nhà đầu tư. Vẫn đang đà xuống dốc của hơn một năm trước, bắt đầu từ cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm 2001, chỉ số VN-Index chưa có dấu hiệu cho thấy sẽ dừng lại ở những con số hồi cuối năm 2002: giá của các công ty niêm yết hầu hết giảm sút một cách đều đặn, các nhà đầu tư vẫn tâm lý do dự, người có cổ phiếu không dám bán vì sợ lỗ, người mua không dám mua vì sợ cổ phiếu sẽ lại giảm trong những phiên sau nữa. 1.2.2.2. Tình hình TTCK 10 tháng đầu năm 2003
  • 49. §ç Hoµi Giang, Líp A4 – K38B - KTNT 49 Trong 10 tháng đầu năm, tình hình TTCk vẫn không có dấu hiệu tiến triển tốt đẹp, TTCK ế ẩm, tụt giảm liên tục, những con số thấp của VN-index cũng như giấ của các cổ phiếu luôn lập những kỷ lục mới: Tại phiên 24/10 chỉ số VN-index chỉ đạt 130,90 điểm, mức thấp kỷ lục nhất trong hơn 3 năm qua. Biểu đồ chỉ số VN-index 10 tháng đầu năm 2003: (Nguồn: www.vietstock.com.vn ) Tổng khối lượng giao dịch 10 tháng chỉ đạt 31.006.089 cổ phiếu. Cụ thể tổng kết khối lượng giao dịch 10 tháng: Thống kê khối lượng giao dịch chứng khoán toàn thị trường 10 tháng đầu năm 2003 (Nguồn: www.vietstock.com.vn ) Thỏng Toàn thị trường Giao dịch khớp lệnh Tỷ trọng Giao dịch thỏa thuận Tỷ trọng 1 1.637.650 1.232.950 75,29% 404.700 24,71% 2 1.450.470 1.310.470 90,35% 140.000 9,65% 3 2.506.800 1.813.900 72,36% 692.900 27,64% 4 3.474.250 2.627.600 75,63% 846.650 24,37% 5 3.081.150 2.377.100 77,15% 704.050 22,85% 6 2.972.370 1.559.120 52,45% 1.413.250 47,55% 7 2.606.100 1.020.370 39,15% 1.585.730 60,85%