30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Núi đôi - Vũ Cao
1. Bài thơ Núi Đôi được Vũ Cao sáng tác dựa trên một câu chuyên có thật. Người con gái
trong bài thơ là Trần Thị Bắc một nữ du kích Việt Minh quê ở xóm Chùa, thôn Xuân Đoài
(Xuân Dục-Đoài Đông), xã Phù Linh (còn gọi là Lạc Long), huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Trần
Thị Bắc tử trận ngày 21 tháng 3 năm 1954 khi lọt vào ổ phục kích của đối phương. [2]
Trong
thực tế, cô đã có chồng chứ không phải mới có người yêu như trong bài thơ.
Núi Đôi - Vũ Cao.
Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai nhánh lúa
Bữa thì anh tới bữa em sang.
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Ai ngờ từ đó mất tin nhau.
Anh vào bộ đội lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng.
Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
2. Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông.
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh nhớ thăm nhà thăm Núi Đôi.
Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành chết thuỷ chung.
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn Đôi mà anh mất em.
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.
Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay.
Cha mẹ dìu nhau về tận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương trắng khuấy dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.
Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
3. Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
Vũ Cao(18 tháng 2 năm 1922 - 3 tháng 12 năm 2007) tên thật là Vũ Hữu Chỉnh, quê ở xã
Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông sinh trong một gia đình nho học và hoạt
động văn học khá sớm, những năm đầu Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (kháng chiến
chống Pháp) ông làm báo Chiến sĩ ở Liên khu IV rồi làm phóng viên báo Vệ quốc quân, Báo
Quân đội nhân dân. Từ năm 1957, ông làm việc tại tạp chí Văn nghệ quân đội và trở thành
chủ nhiệm trong nhiều năm. Sau năm 1975, ông giải ngũ, làm giám đốc Nhà xuất bản Hà
Nội, phó chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội, chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt
Nam. Sau khi nghỉ hưu ông sống ở Hà Nội. Ông là anh ruột của các nhà văn Vũ Tú Nam, Vũ
Ngọc Bình. Tuy được biết đến như là một nhà thơ với bài Núi Đôi nổi tiếng đã được đưa
vào sách giáo khoa của Việt Nam nhưng Vũ Cao còn sáng tác văn xuôi. Ông mất năm 2007
tại Hà Nội.
Vũ Cao được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Tác phẩm chính
• Sớm nay (thơ, 1962 )
• Đèo trúc (thơ, 1973)
• Núi Đôi (thơ, 1990)
• Truyện một người bị bắt (tập truyện ngắn, 1958)
• Những người cùng làng (tập truyện, 1959 )
• Em bé bên bờ sông Lai vu ( truyện, 1960)
• Anh em anh chàng Lược (truyện, 1965 )
• Từ một trận địa (1973)