1. KHẢO CỔ KINH THÁNH - 1
Dẫn Nhập
Thượng Đế đã giữ hai bản ghi chép lịch sử về sự đối xử đặc biệt của Ngài
với con người cũng như sự khải thị với con người. Một bản ghi chép là Kinh
Thánh đã được viết trên da cừu và được đặt vào bàn tay của con người với
nỗ lực cực kỳ to lớn. Bản ghi chép kia được viết trong các tàn tích và các
ngôn ngữ lạ của những vùng đất mà Kinh Thánh đã đến đó.
Con người đã tiếp cận Kinh Thánh và có thể đọc cũng như phác họa cuộc
đời của Ngài một cách tương ứng; nhưng chỉ có một số ít người của thế giới
phương Tây có thể thăm viếng các vùng đất phương Đông, nhìn xem lãnh
thổ của đất nước, quan sát những gì còn sót lại của tàn tích nền văn hóa đã
qua đi, và mường tượng ý nghĩa của những mảnh chữ viết kỳ lạ khác nhau
được tìm thấy đó đây.
Bằng chứng trên mặt đất thì nhỏ nhoi so với kho tàng vật liệu được chôn vùi
trong các mô đất của thành phố thượng cổ. Một số tài liệu được tìm thấy một
cách tình cờ, nhưng phần lớn đã được phát hiện khi con người phát triển các
công cụ đặc biệt và những phương pháp thích hợp cho công việc sưu tầm -
để giải mã những ngôn ngữ còn là ẩn số cũng như xác định mốc thời gian
cho từng cuộc khám phá. Sự tiến bộ đến một cách chậm chạp nhờ vào các nỗ
lực hiến dâng của con người thuộc nhiều quốc gia và nhiều ngành nghề khác
nhau như giáo sư đại học, nhà ngôn ngữ học, mục sư, quân nhân, giáo sị,
kiến trúc sư, kỹ sư, hoạ viên, nhiếp ảnh gia và các tài năng vĩ đại khác.
Công cụ ngôn ngữ để hiểu được các ký hiệu và chữ viết huyền bí thì rất là
cần thiết, và để nắm vững được các công cụ đó thì một vài lãnh đạo tài ba
phải trả giá rất lớn. Hai chìa khóa chính đã được khám phá - Tảng đá Rosetta
và câu khắc trên bia Behistun .
Một trong những kỹ sư của Napoleon đại đế đã tìm thấy Tảng đá Rosetta tại
Rosetta, Ai Cập, gần cửa sông nhánh phía Tây của sông Nile. Đó là một
phiến đá granít màu đen, phần đỉnh hình bầu dục hay có thể là tấm bia có đề
khắc với kích thước: cao 3feet2inches, ngang 2feet4inches; dày 7inches.
Trên bề mặt của nó là 3 thứ ngôn ngữ thông dụng đối với người thượng cổ
tại thung lũng sông Nile. Một là tiếng Hy Lạp, nhưng hai thứ tiếng còn lại
thì vẫn là ẩn số. Nhiều người đã cố gắng thử đọc hai ngôn ngữ nầy, tuy
nhiên một thanh niên người Pháp lỗi lạc tên là Jean Champollion đã dâng
hiến trọn cuộc đời để giải mã các ngôn ngữ chưa được biết nầy. Trong suốt
23 năm ròng rã vật lộn với nội dung của phiến đá với sự ủng hộ của người
anh ruột thịt. Cuối cùng vào năm 1822, ông ta đã xuất bản toàn bộ bản dịch
tam ngữ của câu khắc trên bia: chữ Hy Lạp cùng với chữ tượng hình và chữ
dân gian Ai Cập , như vậy đã chứng tỏ rằng Tảng đá Rosetta được viết bằng
2. ba thứ tiếng - loại tiếng nói của Pha-ra-ôn, nhờ nó mà sau nầy các nhà khảo
cổ đã mở ra vô số kho tàng lịch sử và văn học chưa ai biết đến tại thung lũng
sông Nile.
Câu khắc Behistun là một ký hiệu nổi-thấp, lớn, ở ngoài trời với kích thước
25feet x 50 feet và cao 350 feet trên bờ vách đá của núi Zagros, ở phía tây
nam của Hamadan, Ba Tư. Nó được khắc bằng 3 thứ ngôn ngữ - đều được sử
dụng bởi người thượng cổ, nhưng lại rất xa lạ với các học giả thời nay. Công
việc giải mã những ngôn ngữ cực kỳ quái lạ, mặc dù rõ ràng là trau chuốt đã
thách thức một sĩ quan quân đội Anh tên là Henry C.Rawlinson. Ông ta đã
leo lên trên gờ dưới 14 đến 18 inches hoặc ngồi trong một cái lồng lơ lửng,
sau 14 năm lao động nguy hiểm, một bảng câu khắc hoàn chỉnh đã làm
xong. Sau 18 năm ông ta đã giải mã hoàn toàn ba thứ tiếng - chữ hình nêm
Ba Tư cổ, chữ Elamite (Susian) và chữ hình nêm Ba-by-lôn. Với chiếc chìa
khóa nầy, Rawlinson cùng với các học giả khác đã mở ra bí mật quí báu của
nền văn hóa đã biến mất của Assyria, Ba-by-lôn và Ba Tư - đó là những
vùng đất mà con người đóng vai trò quan trọng trong các vở kịch được bày
ra trong Kinh Thánh.
Việc sử dụng các ngôn ngữ này trong liên lạc thư từ và liên lạc ngoại giao đã
được khám phá vào năm 1887; khi một phụ nữ người Ả Rập du cư đang lúc
tìm kiếm các mảnh đất màu mỡ để trồng vườn, bà ta đã đào xới vào mô đất
của Tell el Amarna, tại đó, ở bờ đông của sông Nile, có tàn tích của thành
phố đẹp thơ mộng của Pha-ra-ôn Akhenaton. Bà ta đã tìm thấy phiến đá có
câu khắc và đã bán với giá 50 xu. Giáo sĩ Chauncy Murch hay tin về sự
khám phá đó và đã chuyển thông tin ấy đến các viên chức Ai Cập. Sau khi
xem xét, người ta đã minh chứng các phiến đá đó chính là các hồ sơ ngoại
giao chính thức của bộ ngoại giao Ai Cập dưới thời trị vì của Amenhotep III
(1413-1376 TC) và con của ông ta và người kế vị Amenhotep IV
(Akhenaton 1375-1358 TC). Trong số các hồ sơ đó có các thông báo chính
thức đến từ các quốc vương của Ba-by-lôn, Mitanni và các quốc gia khác
của châu Á, nhưng đại đa số các bức thư đều được viết bởi quan tổng đốc
của các thành phố và khu vực khác nhau thuộc Palestine, Phoenica và nam
Syria (khoảng 150 lá thư của xứ Palestine).
Các phiến đá Tell el Amarna đã tỏ ra là hết sức quan trọng trong việc nghiên
cứu Kinh Thánh, đến nỗi nhiều người đã xem nó như là việc cấu thành khám
phá quan trọng nhất từng có ở Ai Cập. Chính sự thật rằng hầu hết các phiến
đá đều được viết bằng chữ hình nêm của người Ba-by-lôn, dù rằng các phiến
đá đã đến từ nhiều quốc gia khác nhau, nói lên rằng chữ hình nêm Ba-by-lôn
là một hệ thống chung về văn tự mà hầu hết những con người trong vùng đất
Kinh Thánh đều hiểu được trong suốt thời kỳ đặc biệt ấy, và có lẽ cả một
thời gian dài trước và sau thời kỳ ấy. Vì vậy các nhân vật Kinh Thánh có thể
3. chuyện trò khá dễ dàng với những người khác nhau khi họ di chuyển từ
nước này qua nước khác như đã được chỉ ra trong Kinh Thánh.
Người ta cảm thấy thích thú nhiều hơn với các cuộc khám phá về mặt khảo
cổ, và người ta kêu gọi nhiều cuộc nghiên cứu về địa hình hơn cũng như kêu
gọi khai quật nhiều hơn nữa các mô đất thành phố. Nước Anh, Đức, Pháp,
Hoa Kỳ và nhiều nước khác hưởng ứng ngay. Chính phủ, đại học, viện bảo
tàng, cá nhân có sức ảnh hưởng đã tài trợ cho việc thám hiểm, và công việc
đã tấn tới dưới sự chỉ đạo của những người có tài năng, đó là những con
người đã xúc tiến công việc, khám phá được rằng tàn tích của các nền văn
hóa thượng cổ đã ăn khớp như thế nào với những gì được ghi trong Kinh
Thánh và các tài liệu cổ khác về các tàn tích đó.
Giờ đây, sau 200 năm nghiên cứu về khảo cổ và địa hình, có thể nói rằng
một đội ngũ học giả đông đảo đã và đang tìm ra dòng đời thượng cổ từ hàng
ngàn mô đất thành phố và đan kết lại thành một mô hình hoàn toàn khớp với
các đời sống và việc làm được ghi lại của các nhân vật Kinh Thánh.
Hàng ngàn các chứng cớ "ngoại tại" chứng thực các câu chuyện kể trong
Kinh Thánh đang được phơi bày.
ABEL BETH MAACAH (Cánh đồng của gia đình bị đàn áp) là một thành
phố công sự cổ xưa tọa lạc tại miền cực bắc của Palestine; với một vai trò
quan trọng trong thời đại Kinh Thánh thượng cổ dù hơi bi thảm. Thủ lĩnh
của nhóm phiến loạn là Sheba đã lánh nạn tại đây và Joab cũng đã đuổi theo
đến đó. Một người "phụ nữ khôn ngoan" trong thành phố đã ném thủ cấp của
kẻ phiến loạn qua khỏi bức tường thành và vì vậy đã cứu thành phố (IISa
2Sm 20:14-22). Dưới thời Bên-ha-đát (IVua 1V 15:20) thì thành phố nầy đã
bị người Sy-ri chiếm đóng và sau đó bị người A-si-ri chiếm đóng vào thời
Tiếc-la Phi-lê-sê (IIVua 2V 15:29). Trong thời kỳ La Mã thì thành phố nầy
mang tên Abila. Ngày nay nơi này được gọi là Tell Abil và là một mô đất
(tell) chưa khai quật điển hình, đứng sừng sững trên vùng cao đồng bằng
khoảng 6 dặm phía tây Đan, nhìn xuống vùng đất trũng trải dài tới phía đông
nam của hồ Huleh.
CỘT ABSALOM (Bia Áp-sa-lôm) là đài tưởng niệm đẹp dù có phần nào kỳ
lạ khi mang tên cột Áp-sa-lôm, tọa lạc tại thung lũng Kidron phía đông Giê-
ru-sa-lem, giúp củng cố thêm lời giải thích trong Kinh Thánh nói rằng:
"Trong lúc sinh thời Áp-sa-lôm đã chạm một cái cột và dựng lên tại thung
lũng Vua như là một đài tưởng niệm cho bản thân, bởi vì ông ta nghĩ rằng
"ta không có con trai đặng lưu danh ta" (IISa 2Sm 18:18).
Đài tưởng niệm này cao 47 feet (khoảng 14,1m), phần dưới là một khối đá
rắn khoảng 20 feet vuông và cao 21 feet, hoàn toàn tách khỏi vách đá bởi lối
đi được đẽo rộng 9 feet và trang trí bằng kiểu cột Ionic (một kiểu cột Hy Lạp
4. cổ).
Phần trên là cấu trúc vòng tròn viền quanh bằng đường gờ dây thừng và trên
đỉnh là một tảng đá tạc một cách nghệ thuật có hình phễu uốn cong vào phía
trong. Trong đó là một căn phòng với diện tích 8 feet vuông với các kệ để
phần mộ ở hai bên.
Đài tưởng niệm này có thể đã do Áp-sa-lôm và thuộc hạ của mình đẽo tạc,
nếu có đúng như vậy thì phần trang trí bên ngoài có thể đã được thêm vào
sau đó. Theo như sự tồn tại đến hiện nay của bia Áp-sa-lôm thì nó có từ giữa
thế kỷ thứ 2 TC và đầu thế kỷ thứ 5 TC - trừ phi Áp-sa-lôm cũng giống như
người anh của mình là Sa-lô-môn, đã vay mượn các thiết kế kiến trúc khá
lâu trước đó.
ACCO hay ACRE Được biết đến trong thời đại Kinh Thánh Cựu Ước với
cái tên Acco (Cac Tl 1:31) và trong thời Tân Ước thì có tên là Ptolemais, tọa
lạc tại đầu cùng phía bắc của bãi biển hình vòng của vịnh Acre.
Nơi đó đầy dẫy các hồi ức lịch sử ngược dòng thời gian về những năm tháng
trước khi người Y-sơ-ra-ên có mặt tại Palestine. Nó được nhắc đến như là
một địa điểm quan trọng trong các văn bản của người A-si-ri, người Ai Cập,
người Maccabe, người Hy Lạp, người La Mã, thập tự quân và trong thời kỳ
Napoleon cũng như mãi sau nầy. Tuy vậy, những người Cơ Đốc sẽ luôn luôn
ghi nhớ nó như là nơi mà Phao-lô, trong hành trình cuối cùng của ông đến
Giê-ru-sa-lem đã "chào hỏi các anh em và lưu lại đó một ngày" (Cong Cv
21:7).
Các tàn tích cổ xưa hơn của Acco không thể khai quật được vì cớ các tòa cao
ốc trên đó, còn phần các bức tường và công trình đắp bằng đất là những mẫu
mực hoàn toàn cho các công trình xây bằng đá của thế kỷ 18 sau nầy, được
xây dựng phần lớn trên nền tảng của thập tự quân bằng những tảng đá lấy từ
bức tường thập tự quân.
ACZIB Ngày nay được gọi là es-zib, đó là một hải cảng cổ xưa của người
Phoenix làm chật ních đường bờ biển 9 dặm ở phía Bắc Acco. Bộ tộc Asher
được phân chia vùng này, nhưng họ đã không thể tiếp quản thành phố. Ngày
nay đây là một làng chài êm đềm giáp biển Địa Trung Hải ở phía tây, một
nhánh sông ở phía nam, và sông Chezib ở phía bắc.
Những người khai quật đã mở các ngôi hầm mộ và hố mộ ở phía nam và
nghĩa trang ở phía đông, tại đó 400 thi thể đã được hỏa táng và chôn cất
trong suốt 300 năm - từ thế kỷ 10 TC cho đến cuối thế kỷ thứ 8 TC. Trong
các ngôi mộ nầy có những khí mạnh nghi lễ, các tượng người nặn bằng đất
sét, các bình nước đỏ bóng tao nhã, bình (có quai và vòi) với các sớ màu đỏ
nổi tiếng của người Phoenic. Tro thi hài của từng người được đặt trong hố
hỏa táng phía trên có một cái nắp và niêm phong bằng đất sét bùn.
5. Một khoảnh đất ở phía nam của mô đất đã được khai quật, tại đó người ta đã
phát hiện các tàn tích của thập tự quân, người Ba Tư, người Hê-lê-nít, người
La Mã, và các tàn tích trước thời La Mã. Ở phía bắc của mô đất một cái hào
dài 40m bộc lộ một công sự thành lũy của thời kỳ Đồ Đồng Giữa mà nó đã
bị phá hủy ở đầu thời kỳ Đồ Đồng Muộn. Thành phố đã được tái thiết, và
trong sự san bằng của thời kỳ Đồ Sắt là tàn tích của một số tòa nhà công
cộng, một trong những tòa nhà đó có vô số các bình (có quai và vòi) đứng
cạnh nhau. Một số bình có câu khắc Arama, chẳng hạn như: "Kính dâng
chúa tôi, quốc vương."
ADULAM Đây là hang động thường xuyên được dùng làm bộ chỉ huy bí
mật của Đa-vít và số thuộc hạ đông đảo khoảng 400-600 người. Theo truyền
thống thì hang nầy toạ lạc tại miền đồng vắng ở vách đá cheo leo thuộc miền
nam Wadi Khareitun, khoảng 2 dặm về phía nam của Herodium và 3 dặm về
phía đông bắc của Tekoa.
Nơi này có vẻ hoang dã và bí hiểm, với các mảnh đá đồ sộ rải quanh hang,
còn cái hang thì nằm trên một gờ dài, hẹp ở phía trên cao của đáy khe núi.
Một tảng đá lớn gãy khúc nặng hàng tấn, gần như chắn ngang lối vào. Gần
đó là một con suối với dòng nước mát và trong vắt.
Lối vào duy nhất của hang là một khe hở hình tròn với chiều cao khoảng
2,1m (7feet). Bên trong có một lối đi thấp và hẹp dẫn vào một cái hang nhỏ,
từ cái hang nhỏ nầy có một lối đi quanh co dẫn vào một phòng rộng khoảng
464,5m2 (5000feet vuông). Các lối đi hẹp chẻ nhánh và dẫn đến các phòng
lớn khác, một số phòng ở mức thấp hơn. Có một căn phòng rộng đủ chứa
1000 người, Nơi này dường như đáp ứng được yêu cầu nêu trong lời tường
thuật của Kinh Thánh, và Đa-vít đã thường xuyên lẩn trốn vua Sau-lơ trong
vùng đất nầy.
AI (Đống tro tàn). Là địa điểm thứ nhì bị người Do Thái nhập cư tấn công
dưới thời Giô-suê, là nơi thường được đồng nhất với Et-Tell, cách phía đông
Bethel khoảng 2 dặm.
Dựa vào việc khảo sát các mảnh sành trên mặt đất và việc đào bới thử
nghiệm vào năm 1928, Giáo sư Garstang và Tiến sĩ Albright kết luận rằng
AI có thể đã thất thủ cùng thời điểm với Giê-ri-cô (1400 TC). Vào năm
1934-1935 Juddith Marquet-Krause và S.Yeivin tiến hành hai chiến dịch
ngắn gọn mà qua đó họ đã tìm thấy di tích của một thành phố khá phồn vinh
nhưng đã bị một trận hoả hoạn thiêu rụi vào khoảng năm 2200 TC. Người ta
không tìm thấy các dấu vết xác định về việc chiếm đóng sau đó, ngoại trừ
một làng nhỏ của người Hê-bơ-rơ được xây dựng giữa năm 1200 và 1100
TC.
Việc qua đời đột ngột của bà Marquet-Krause làm kết thúc công cuộc khai
6. quật mà phải sau một thời gian dài nữa mới có thể hoàn tất. Báo cáo các kết
quả của công cuộc khai quật, M.Dussaud nhấn mạnh những điều khám phá
có tính chất phủ định từ năm 2200 TC - 1100 TC.
Một số người đã vội vã tuyên bố rằng, cuối cùng thì Kinh Thánh đã được
chứng minh là không đúng sự thật. Tuy vậy, các lời tường thuật được viết
cẩn thận trong chương 7 và 8 của sách Giô-suê nói rằng nơi đó có tên gọi là
AI (đống tro tàn); đó là một địa điểm nhỏ ở phía đông Bethel; lúc ban đầu
chỉ có "vài người đàn ông ở đó" nhưng sau đó, một công sự đã được xây lên
nhanh chóng bởi tất cả đàn ông ở AI và Bethel (Gios Gs 7:3 8:17;), cho nên
khi họ dại dột bỏ thành phố để đuổi theo Y-sơ-ra-ên, "không còn một người
đàn ông nào ở lại AI và Bethel." Sau đó người Y-sơ-ra-ên mai phục ở giữa
AI và Bethel. bò vào trong và đốt cháy thành phố. Quân đội của Giô-suê đã
đánh bại liên minh AI-Bethel; quân đội Giô-suê trở lại và sau khi mang theo
trâu bò cùng chiến lợi phẩm đã đốt rụi AI, để lại "đống hư tàn" (Gios Gs
8:28).
Theo lời kể lại trong Kinh Thánh, ta có lý do vững vàng để tin rằng không
hề có sự chiếm cứ trải rộng trên địa điểm của AI vào thời Giô-suê - chỉ hơn
một công sự gỗ tạm thời, do các đàn ông của AI và Bethel đồn trú. Vì vậy
mà "đống" còn lại sau đám cháy ắt có thể gồm có tro, than và vài viên đá.
Chắc hẳn là sau đó người ta đã lượm lặt những viên đá xây sạch sẽ, họ là
những người đi tìm các viên đá đẽo sẵn; sau nhiều thế kỷ chia cắt và sự xói
mòn mạnh mẽ của gió khiến cho các di tích kể từ thời Giô-suê gần như
không thể nhận ra trong thời đại chúng ta. Tuy nhiên, với sự khai quật nhiều
hơn và cẩn thận hơn, thì một số tàn tích ít ỏi còn sót lại của AI vào thời Giô-
suê có lẽ sẽ được tìm thấy. Hoặc giả, AI với tiếng tăm trong Kinh Thánh sẽ
được phát hiện vị trí ở một nơi nào khác.
AKELDEMA hay "ruộng của người thợ gốm" nhắc nhở chúng ta về trường
hợp bi thảm của Giu-đa khi ông ta bán Chúa lấy 30 miếng bạc, sau đó mang
tiền đi trả với nỗi dày vò tâm linh và cuối cùng treo cổ mà chết. "Các thầy tế
lễ cả lượm bạc và …bàn với nhau dùng bạc đó mua ruộng của kẻ làm đồ
gốm để chôn những khách lạ. Nhơn đó ruộng ấy đến nay còn gọi là "ruộng
huyết" (Mat Mt 27:6-9).
Ở đầu cùng phía đông của dốc phía nam thung lũng Hinnom là một vùng đá
gồ ghề ước chừng 8093m2 (2 mẫu Anh). đã được biết dưới tên "ruộng của
kẻ làm đồ gốm kể từ thời Jerome (400 SC). Tại đây, nơi trải dài từ một cái
hang thiên nhiên cũng chính là nơi chôn cất khách lạ và kẻ bất hạnh qua
nhiều thể kỷ.
Truyền thống thì khăng khăng cho rằng đây chính là vị trí của "nhà của
người thợ gốm" mà Giê-rê-mi đã thăm viếng (Gie Gr 18:1-4) và sau đó các
7. thầy tế lễ cả đã mua nó bằng đồng tiền phản bội để làm nơi chôn cất các
khách lạ. Điều này có lẽ đúng vì nó đáp ứng được yêu cầu của Kinh Thánh
và được nhiều chuyên gia chấp nhận.
ALEXANDRIA Nơi sanh của Apollos, do Alexander đại đế làm nền móng
vào năm 331 TC. Tại đây có cung điện của Ptolemies, các viện bảo tàng
tuyệt vời, các thư viện lừng danh, với các dân chúng thông minh sắc sảo của
Hy Lạp, Do Thái và Ai Cập, làm cho nơi đây trở thành một trong các trung
tâm lớn nhất về tri thức và văn hóa của đế quốc La Mã.
Bản Bảy Mươi (280-170 TC) của Cựu Ước được viết tại Alexandria, và
cũng tại đây trong thời Tân Ước, Philo Judaeus lúc sinh thời là một người
Do Thái tài ba và kỉnh kiền, đã viết những bài về Ngôi Lời (Logos) ở một
phương diện nào đó tương tự như các sách do sứ đồ Giăng viết.
Người Ả Rập chiếm Alexandria vào năm 641 SC, phá hủy các viện bảo tàng
tráng lệ, đốt cháy đại thư viện với tất cả sách quý trong đó cùng với các bản
thảo, các hồ sơ. Người Thổ Nhĩ Kỳ kế tục vào 1517. Những bức tường của
Alexandria và các tòa nhà chỉ còn là đống hư tàn, và sự huy hoàng trước đây
của Alexandira không còn nữa. Thành phố hiện đại được xây dựng bên trên
các đổng đổ nát; vì vậy các khám phá về khảo cổ học bị hạn chế rất nhiều
đối với các di tích như Cột Pompey và hai tháp kỷ niệm của thế kỷ 16 TC
tên là "Những Cây Kim của Cleopatra." Vào năm 1878 một trong những
tháp nầy được mang đến nước Anh và dựng trên đê sông Thames, gần Toà
nhà Quốc Hội. Tháp còn lại được dựng lên ở Công viên Trung Ương, New
York vào năm 1881.
AMARNA, TELL EL (Mô đất của Amarna) Nằm giữa chừng của Memphis
và Thebes, và là di tích của thủ đô kiểu mẫu của Pha-ra-ôn Akhenaton
(Amenhotep IV) đã bị cướp phá và bỏ mặc cho tàn lụi vào khoảng 1358 - 50
TC.
Văn bản, lịch sử, chính trị và quan hệ buôn bán cũng như phương thức và
tập quán của vùng đất Kinh Thánh đã được soi sáng rất nhiều, vào năm
1187, một bà nông phu đào bới để tìm đất phì nhiêu trong mô đất của
Amarna và đã khám phá văn thư lưu trữ hoàng gia của Amenhotep III và
con hoàng tộc của ông là Amenhotep IV, Amenhotep IV khi mới bắt đầu sự
nghiệp đã thay đổi tôn giáo và được biết đến như là Akhenaton.
Cuối cùng, hơn 350 phiến đã chữ hình nêm được phục hồi, hầu hết là các
bức thư cá nhân chân tình và được gửi từ vua, quan tổng đốc và sĩ quan tại
các thành phố và thành luỹ của Ba-by-lôn, Mitanni, Phoenic, Sy-ri và
Palestine. Các phiến đá được viết được viết trong khoảng thời gian 1400-
1358 TC và gửi đến hai vị Pha-ra-ôn tại cung đình Ai Cập. Một số phiến đá
nầy hiện nay đang ở trong Viện Bảo Tàng quốc gia của Anh, Pháp, Ai Cập
8. và Đức; một số khác do những nhà sưu tập tư nhân sở hữu. Các phiến đá nầy
có chiều rộng 2-3 inches (5,08-7,62cm), dài 3-9 inches (7,62-22.86cm), khắc
chữ ở cả hai mặt.
Hầu hết các phiến đá nầy đều viết bằng chữ hình nêm của Ba-by-lôn, và tiết
lộ một sự thật rằng các dân tộc khác nhau của quốc gia Tây Á đã sử dụng
chữ hình nêm như là một ngôn ngữ chung trong một thời kỳ dài. Vì vậy, khi
Áp-ra-ham đến Sy-ri, Ca-na-an và Ai Cập ông có thể chuyện trò ngay với
những con người khác nhau.
Còn về nội dung, những phiến đá bằng đất sét này miêu tả Palestine và các
quốc gia xung quanh như là đang ở trong một tình trạng hỗn loạn bên trong,
và đang bị tấn công từ bên ngoài. Chẳng hạn, quan tổng đốc và sĩ quan phụ
trách Gezer đã viết cho Pha-ra-ôn và nói rằng, sau đây xin trích một phần:
"Xin chúa tôi vua tôi, thái dương trên trời, lưu tâm đến đất đai của Ngài, bởi
vì Khabiri hùng mạnh chống lại chúng ta; và xin vua tôi, chúa tôi đưa bàn
tay của Ngài đến tôi và xin Ngài giải thoát tôi khỏi bàn tay của họ. Như vậy
họ sẽ không tiêu diệt được chúng tôi.
Một số lá thư đến từ Abddi-Heba, quan tổng đốc của Urusalem (Giê-ru-sa-
lem), khẩn cầu sự giúp đỡ của Pha-ra-ôn Akhenaton để tránh cho đất nước
rơi vào sự thống trị của người Ai Cập. Một đoạn của lá thư đã viết:
Kính gửi chúa tôi,vua tôi. Đầy tớ Ngài là Abdi-Heba xin thưa. Dưới chân
của vua, chúa tôi, tôi xin sấp mình 7 lần và 7 lần… Toàn vùng đất đai của
vua đang nổi loạn. Chẳng có một quan tổng đốc nào trung thành với vua, tất
cả đều nổi loạn. Nguyện xin vua lắng nghe Abdi-Heba và gửi quân đội đến,
bởi nếu quân đội không đến trong năm nay thì toàn bộ lãnh thổ của vua sẽ bị
mất. Habiru sẽ cướp lấy thành lũy của vua. Nguyện xin vua quan tâm đất đai
của Ngài. Habiru đang chiếm lấy các thành phố của vua…nếu không có xạ
thủ nội trong năm nay, vậy thì xin vua gửi một đại diện để ông ta có thể giúp
đỡ tôi cùng anh em của tôi và chúng tôi chết cùng vua, chúa chúng tôi.
Những phiến đá này thường xuyên sử dụng danh xưng Khabiri khi nói về
những kẻ đang dày xéo đất nước. Nhiều học giả đã xem Khabiri như là
người Hê-bơ-rơ, và nhiều tài liệu ăn khớp với những ngaỳ tháng đầu tiên
(1400 TC) khi người Hê-bơ-rơ bắt đầu chinh phục xứ Ca-na-an dưới thời
Giô-suê. Nhưững phiến đá nầy đang nói rằng "Tại đây chúng ta có một câu
chuyện về sự chinh phục xứ Ca-na-an của Giô-suê được kể từ phía quân
thù."
ANATHOTH Nhà của thầy tế lễ A-bia-tha (IVua 1V 2:26) và nhà của tiên
tri Giê-rê-mi (Gie Gr 1:1), toạ lạc khoảng ba dặm đôgn bắc của Giê-ru-sa-
lem. Tên của nơi nầy tồn tại trong một làng nhỏ của Anata , nhưng tàn tích
của chính Anathoth cổ lại nằm khoảng 731,5m (800yards) về phía tây bắc,
9. trên đỉnh một ngọn núi rộng ngày nay có tên là Ras el - Kharrubeh . Những
người khai quật khám phá rằng nơi đây bắt đầu có người cư ngụ khoảng
1000 trước công nguyên, như là một thành phố của thầy tế lễ Y-sơ-ra-ên, và
tiếp tục cho đến thế kỷ thứ 7 SC. Người ta không tìm thấy những vật gì chắc
chắn là của Giê-rê-mi, nhưng quang cảnh về phía đông của đồng vắng Giu-
đa và biển Chết thì gây ấn tượng mạnh, nhắc nhở chúng ta về lời nói của
Đức Chúa Trời thông qua Giê-rê-mi "…Ta há là một đồng vắng hay là một
đất tối tăm mờ mịt cho dân Y-sơ-ra-ên sao?"
ANTIOCH Là nơi mà những người theo Chúa Giê-xu được gọi là Cơ Đốc
nhân, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 300 dặm về phía bắc, trên bờ tây của sông
Orontes. Vào thời cổ đại nó được gọi là "Hoàng hậu đông phương" do hoàn
cảnh xung quanh đẹp đẽ, cũng như tầm quan trọng về thương mại của nơi
đây, đây cũng là một vị trí chiến lược nằm trên giao lộ của các đoàn lái buôn
giữa đông, tây, nam, bắc.
Đại học Princeton và Viện Bảo Tàng Quốc Gia Pháp bắt đầu khai quật vào
năm 1932 tại Antioch, và trong 6 năm tiếp sau đó, hơn 20 nhà thờ đổ nát, vô
số nhà tắm, hai nghĩa trang, một sân vận động và nhiều sàn nhà lắp ghép
lộng lẫy đã được khái quật. Một số sàn lắp ghép nầy miêu tả sự thờ cúng
thần Isis (nữ thần sinh nở của người Ai Cập). Một tranh hình lắp ghép lớn và
được giữ gìn tốt (30 x 40 feet ) khoảng 9 x 12m, miêu tả truyền thuyết về
chim phượng hoàng, trong khi đó thì một tranh lắp ghép được tìm thấy tại
sàn nhà thế kỷ thứ 6 của một tòa nhà gần Cổng Thánh Phao-lô, đã mang câu
khắc như sau: "Bình an cho những ai vào đây, những ai nhìn vào tranh nầy;
vui mừng và phước hạnh cho những ai ở lại đây."
Tuy nhiên, khám phá gây xúc động mạnh nhất là ột cái cốc uống nước xinh
đẹp bằng bạc, tạc từ một cục bạc và bên ngoài được bao bởi một cái ly tiệc
thánh được chạm trổ tinh xảo với hình tượng trưng cành nho, ở giữa có 12
nhân vật đang ngồi mà nhiều người đã nghĩ hình ấy tượng trưng cho Đấng
Christ và 11 sứ đồ của Ngài. Phần ly bên trong chứa được khoảng 2,35 lít
(2,5 quarts chất lỏng), và hiển nhiên đó là một thánh tích thượng cổ với tính
thiêng liêng vô cùng. Một vài người, không phải là tất cả, xem đó là Ly Tiệc
Thánh của Chúa Giê-xu, được Ngài dùng vào Bữa Ăn Tối Cuối Cùng. Ly
này có từ thế kỷ 1 đến thế kỷ thứ 6, hầu hết các học giả lại tán đồng rằng nó
có từ thế kỷ 4-5 SC. Cái ly đôi nầy hiện đang để tại Tu viện Cloister, thành
phố New York, và nổi tiếng là Ly Tiệc Thánh của Antioch.
ANTIPATRIS Ngày nay có tên là Ras el Ain, nằm trên một mô đất cao, trên
xa lộ cách Giê-ru-sa-lem 42 dặm, vào thời cổ đại, nơi này dẫn xuống thủ đô
dọc bãi biển của Caesarea. Hê-rốt Đại đế đã xây dựng nó ngay phía thượng
nguồn của sông Aujeh, để tỏ lòng tôn kính cha của ông là Antipater, đồng
10. thời để làm nơi nghỉ chân vui vẻ của lữ khách.
Bảy mươi kỵ binh và 200 bộ binh đã áp tải sứ đồ Phao-lô như một tù nhân
đã đi lạc đường lộ này sau khi nghỉ ngơi tại Antipatris, bộ binh đã ở lại và
Phao-lô tiếp tục hành trình với kỵ binh để tới Caesarea, 26 dặm về phía bắc
(Cong Cv 23:23-33). Nhiều đoạn của đường phố cổ La Mã nầy, từ Giê-ru-
sa-lem đến Caesarea, đang được phát hiện gần Antipatris và vẫn còn cho đến
ngày nay.
ARABAH Ngày nay được biết với tên Wadi Arabah, bắt đầu tận phía nam
của biển Chết và trải dài 120 dặm về phía nam cho đến vịnh Aqaba. Đó là
một vùng lõm, khô cằn với bề rộng 6-12 dặm - thực tế là sự nối dài của
thung lũng Great Rift, khu vực này đã được biết từ thời Kinh Thánh cổ đại
dưới tên là Arabah. Bắt đầu từ 393,8m (1292 feet) dưới mực nước biển
thung lũng cao dần dần về phía nam khoảng 67 dặm cho tới đường phân
nước mà tại đây cao 201,2m (660 feet) trên mực nước biển. Từ đây nó
xuống thấp nhanh chóng cho tói 45 dặm về phía nam trải dài tới vịnh Aqaba
tại Ezion Geber.
Sự thăm dò bề mặt cùng với những cuộc đào bới qui mô nhỏ do Tiến sĩ
Nelson Ghueck tiến hành đã khám phá một số làng mạc đổ nát với nhiều mỏ
đồng, mỏ bạc mà trong thời Sa-lô-môn (900-1000 TC), người ta đã lấy
quặng tại đó cũng như trong thời Nabateans (300 TC-100 SC).
ASHDOD Niềm kiêu hãnh về quân sự của người Phi-li-tin cổ đại được đặt
tại một đồi thấp tròn, cách Ashkelon cổ đại 9 dặm về phía đông bắc, 3,5 dặm
phía đông nam của Ashdod - thuộc địa cận đại của người Do Thái. Mô đất
có diện tích khoảng 100 acres (40,468 hécta), trong đó gồm có một thành lũy
kiên cố và một thành phố ở phía dưới.
Khi người Phi-li-tin cướp lấy hòm giao ước. họ đã đưa hòm đến đây và đặt
trong đền thờ Đa-gôn. Sáng hôm sau dân chúng kinh ngạc khi thấy tượng
thần Đa-gôn ngã gục trước hòm giao ước của Đức Chúa Trời (ISa 5:3). Tiên
tri Ê-sai (EsIs 20:1) báo cáo rằng Sargon, vua A-si-ri (721-705 TC) đã sai
Ta-tân là vị tướng của mình đến chiếm lấy thành Ách-đốt. Một vài nhà bình
luận có sự tranh cãi về điều này bởi lịch sử thế tục chẳng hề đề cập đến một
vị vua như vậy. Nhưng vào năm 1842, M.Botta đã khai quật khorsabad và
tìm thấy một cái ống hình tám cạnh có ghi hàng chữ: "Trong cuộc viễn chinh
lần thứ 9 đến miền đất bên ngoài biển lớn, đến Phi-li-tin và Ách-đốt tôi đã
đi…các thành phố của Ách-dốt và Gimzo của người Ách-đốt, tôi đã bao vây
và chiếm lấy."
Herodotus thuật lại rằng Psamtik I (633-610 TC) là Pha-ra-ôn của Ai Cập,
bao vây Ách-đốt trong 29 năm trước khi những lá cờ của Ai Cập tung bay
trên thành phố. Sau khi làm báp-tem cho viên hoạn quan người Ê-thi-ô-pi thì
11. Phi-líp đã đến thành A-xốt (Ashdod) để giảng Tin Lành.
Trong lúc khai quật tại đây vào năm 1962 thì Moshe Dothan và David Noel
Freedman đã khám phá 20 tầng lớp cư ngụ cho thấy sự cư ngụ của con
người từ thế kỷ 17 TC đến thời Byzantine. Trong ba tầng lớp xã hội của
người Phi-li-tin (XIII-XI) họ tìm thấy một cái cổng vào thành phố, một đền
thờ, tàn tích của những ngôi nhà, kho ngũ cốc, máy ép rượu, lò nướng bánh,
dụng cụ nông nghiệp, vũ khí, và những con dấu được khắc với chữ viết
không ai biết. Việc khai quật xác minh sự ghi chép của Kinh Thánh về sự
tàn phá của Uzziah, vua xứ Giu-đa (IISu 2Sb 26:6) và khám phá ba trăm bộ
xương người vào lúc Sargon chinh phục thành phố. Việc xác minh được
chính xác hơn nhờ mảnh vụn của bia Sargon do ông ta dựng lên vào năm
712 TC.
ASHKELON Là một trong năm thành phố liên bang của người Phi-li-tin,
nằm trên bờ biển Địa Trung Hải, cách Gaza 12 dặm về phía bắc. Trông nó
chẳng khác gì một cây cung đang giương về phía biển, và tàu bè của nhiều
nước khác nhau đã đến bến cảng cổ đại của thành phố nầy để mua ngũ cốc
và chở đi. Tại đây Hê-rốt đại đế đã ra đời, sau nầy ông trang trí thành phố
bằng nhiều tòa nhà và phố xá với các dãy cột.
Tiến sĩ J.Garstang và W.J.Phythian-Adams khai quật tại đây vào 1921-1922
và tìm thấy nhiều tàn tích chứng tỏ nhiều người đã sống ở đây - người Ca-
na-an, người Phi-li-tin, người Mác-ca-bê, người Hê-lê-nít, người La Mã,
thập tự quân và người Ả-rập. Trong số những di tích quan trọng là hoàng
cung lớn do Hê-rốt đại đế xây dựng và một ngôi mộ trang trí rất đẹp.
ASSHUR Đây là nơi đầu tiên trong bốn thủ đô của đế quốc A-si-ri hùng
mạnh, ngày nay được gọi là Qala'at Sherqat, toạ lạc tại bờ tây của sông
Tigris, cách Mosul hiện đại 60 dặm về phía nam.. Lịch sử của Asshur bắt
đầu từ khoảng 3000 TC, các thành phố lần lượt trở nên thịnh vượng, rồi bị
phá hủy, thành phố cuối cùng bị tàn phá vào năm 614 TC.
Việc khai quật mô đất nầy lần lượt do Layard, Rassam và Koldewey đảm
trách. Layaard cảm thấy hứng thú khi ông ta nghe người Ả-Rập bàn về cái
mô đất có chứa "những hình người kỳ lạ tạc bằng đá đen." Ngay sau khi các
nhân viên của Layard bắt đầu làm việc, họ tìm thấy một tượng ba-dan đen
bằng với cỡ người mà ba phía được phủ đầy các câu khắc chữ hình nêm nói
về Shalmaneser III. Sau đó ông ta tìm thấy các viên gạch có khắc chữ, các
viên đá làm ranh giới, mảnh vỡ của các phiến đá mỏng có khắc chữ và vài
ngôi mộ với đầy đủ nội dung bên trong.
Trong năm 1853 Hormuzd Rassam cùng với công nhân đang đào bới mô đất
thì Rawlins gửi một thông điệp khuyến cáo Rassam nên tìm kiếm "viên đá
góc nhà" tại nền móng của ngôi miếu cổ (ziggurat: miếu hình kim tự tháp
12. của người A-si-ri và Ba-by-lôn). Ngay sau khi điều tra, Rassam tìm thấy hai
"phiến đá móng" của Tiglath - Pileser I (1110-1103 TC) và về sự tái thiết
của Tiglath-Pileser khi ông còn sống. Một phiến đá đề cập rằng đây là thành
phố Asshur.
Năm 1903, những người Đức dưới sự chỉ đạo của Robert Koldewey, bắt đầu
công cuộc khai quật có hệ thống và tiến hành cho đến khi thế chiến thứ nhất
bùng nổ. Họ thu thập được khối lượng lớn đồ sứ, dấu vết về đường nét của
các đền thờ, miếu thờ, cung điện, phố xá và các công sự, cũng như khám phá
nhiều bia có khắc chữ của các vị vua A-si-ri. Họ tìm thấy một bài thơ song
ngữ của người A-si-ri nói về sự sáng tạo thế gian và sự khai sinh của nhân
loại. Những dấu hiệu cùng với bài viết trông giống như "các nốt nhạc." Quy
mô khám phá của người Đức tại Asshur có lẽ sẽ không được người ta biết
đến, bởi vì chiến tranh cắt đứt công việc và các báo cáo đầy đủ và ấn phẩm
cũng sẽ không bao giờ được thực hiện.
ATHENS Một trong những trung tâm văn hóa lớn nhất trong thời Phao-lô,
phát triển trên một cao nguyên đá ở độ cao 158,5m (520feet) có tên là
Acropolis. Tại đây, trên vùng đất cao nầy đứng sừng sững Parthenon nhiều
cột, đó là kỳ quan kiến trúc nổi tiếng, và cũng có nhiều công trình xây dựng
lớn dành cho việc thiêng liêng, nên chỗ nầy được gọi là "Acropolis nhiều
đền thờ."
Về phía bắc của Acropolis là trung tâm hành chánh danh tiếng và khu vực
thương mại, mang tên Agora, tại đó người ta không những buôn bán mà còn
thăm viếng và thảo luận các vấn đề sôi nổi lúc bấy giờ. Từ Acropolis tiến về
phía đông bắc là một đồi đá có tên Areopagus hay Đồi Hoả Thần, tại đây các
hội đồng và Tòa Án Tối Cao nhóm họp. Cả hai nơi này đều quen thuộc đối
với Phao-lô. Tại khu thương mại, Phao-lô "biện luận…hằng ngày với những
người tình cớ có mặt ở đây" (Cong Cv 17:17). Trong số những người theo
phái Khắc Kỷ và phái Khoái Lạc đang nghe Phao-lô, có người hiếu kỳ, hâm
mộ nhận xét rằng: "Ông ta dường như đang giảng về các thần ngoại quốc."
(Cong Cv 17:18). Vì vậy họ đưa Phao-lô lên đồi để nói trước phiên họp
không chính thức của tối cao pháp viện. Đứng giữa Đồi Hỏa Thần, trước các
vị đại biểu uyên bác vào bậc nhất thời đó, cũng có nhiều người khác đến
lắng nghe Phao-lô nói về việc "Thờ Thần Không Biết" và công bố một trong
những sứ điệp mạnh mẽ của mọi thời đại. Một số người cười nhạo, một số
người xúc động sâu xa, và những người khác đã tiếp nhận Đức Chúa Trời.
Nhờ vào nhóm Nghiên Cứu Cổ Điển Hoa Kỳ, khu thương mại đã được
khám phá, các đường sá được vẽ thành sơ đồ, các tòa nhà đổ nát được nhận
dạng.
Bậc thang bắng đá gồm 35 nấc được tạc bằng đá ở tận trên đồi Hỏa Thần, và
13. các dấu vết của bàn thờ và nhiều băng ghế đá trên đỉnh đồi có thể thấy được
mãi đến nay. Hàng ngàn du khách từ các nơi trên thế giới, đến đứng trên các
nấc thang nầy trên đồi Sao Hỏa, họ vẫn còn cảm xúc bởi ngôn từ và sức
mạnh tinh thần trong bài thuyết giảng của Phao-lô.
Về phía tây nam là con đường cổ dẫn đến Cô-rinh-tô
Tại A-thên người ta không tìm thấy tàn tích của câu khắc bàn thờ "Kính Lạy
Thần Không Biết" mà Phao-lô đã đề cập, nhưng vào năm 1903 người ta tìm
thấy một câu khắc giống như vậy trên một bàn thờ khi khai quật thành phố
Pergamum (xem thêm 4422).
BAALBEK Ở giữa bình nguyên Bekaa phì nhiêu, giữa rặng núi Li-băng và
Đối Li-băng chính là đống hư tàn khổng lồ của Baalbek, nơi mà người Hy
Lạp và người La Mã gọi đó là Heliopolis, "thành phố mặt trời."
Khởi thủy thành phố này có từ rất lâu đến nỗi nó thất lạc trong truyền thuyết
cổ đại của Ba-anh "vị thần kiểm soát vận mệnh con người." Trong các thế kỷ
đầu tiên của thời đại Cơ Đốc chúng ta, Baalbek đã hết sức thịnh vượng mà
còn nổi tiếng nữa. Các tòa nhà mà chúng ta biết ngày nay là do Hoàng đế La
Mã Antonius Pius (138-161 SC) khởi công và được tiếp tục bởi Septimius
Severus và những nhà cai trị khác cho đến Caracalla (211-217). Người La
Mã xây dựng Baalbek để tôn vinh thần Jupiter, Ba-anh và thần Bachus. cũng
nhằm tạo ấn tượng về sức mạnh và vĩ đại của La Mã đối với các quốc gia
Cận Đông. Là một trung tâm thờ phượng mặt trời, nó được vinh dự như ngôi
đền thánh vì được nhiều nhà cai trị cũng như những nhân vật lừng danh xa
gần đến viếng thăm.
Dưới thời Constantine, đền thờ Baalbek trở thành nhà thờ Cơ Đốc, nhưng
khi người Ả-rập chiếm thành phố vào năm 634 SC thì họ biến toàn bộ đền
thờ thành một pháo đài vững chắc có vai trò quan trọng trong chiến tranh
thập tự quân vào thời Trung Cổ. Baalbek đã bị cướp phá và hầu như bị tàn
phá một đôi lần nhưng vẫn tồn tại. Vào năm 1664 và năm 1750 là các trận
động đất dữ dội làm cho nó mãi mãi không phục hồi nữa.
Lần đầu tiên châu Âu biết đến Baalbek thông qua hai kiến trúc sư người
Anh, Wood và Dawkings, họ đã thăm viếng hiện trường vào năm 1751. Sau
chuyến đi Giê-ru-sa-lem và Đa-mách vào năm 1898, Kaiser Wilhelm II và
hoàng hậu Đức đã viếng Baalbek. Họ đến nơi vào lúc chiều tối, dựng lều trại
trên khu đất trống giữa đống hư tàn, và rời khỏi đó vào sáng hôm sau. Tuy
nhiên, cuộc dừng chân ngắn ngủi nầy cũng đủ để thuyết phục vị vua người
Đức này làm hết sức mình để bảo tồn đống hư tàn hùng vĩ ấy cho thế hệ mai
sau. Sau khi trở về Berlin, vua Kaiser Wilhelm II đã có những biện pháp cần
thiết, trong vài tuần sau đó các chuyên gia Đức đã có mặt tại hiện trường.
Vào năm 1900, dưới sự giám sát của nhà khảo cổ Otto Pucchstein và kiến
14. trúc sư Bruno Schutz, các chuyên gia và công nhân bắt đầu dọn đống gạch
vụn, một tháng sau thì công việc khai quật bắt đầu. Khoảng năm 1904 công
việc chính yếu coi như hoàn tất; hàng tấn gạch vụn được dọn sạch và trật tự
thay cho sự hỗn độn trước đó. Hiện trạng của thành phố là kết quả công việc
được thực hiện cách đây khoảng 75 năm.
Kể từ khi Baalbek được người ta viếng thăm và nhiều du khách đã kinh ngạc
về nơi nầy, họ dễ dàng nhận ra rằng Baalbek là một trong những đống hư tàn
nổi tiếng nhất vùng Địa Trung Hải. Chỉ có đền thờ Amon tại Karnak, đống
hư tàn tại Palmyra và Parthenon (đền thờ nữ thần Athena của Hy-lạp, xây
xong vào khoảng 438 TC) tại Athens mới sánh nổi với Baalbek. Baalbek tồn
tại được lâu dài một phần nhờ sự xây dựng kiên cố, dầu đây là một công
trình có qui mô khổng lồ. Đống hư tàn chỉ có diện tích khoảng 290m x 198m
(950feet x 650 feet), nhưng nó là hỗn hợp của công trình kiến trúc La Mã lẫn
đông phương, như một nhà quan sát đã nhận xét "đó là sự pha trộn giữa sự
đồ sộ và sự duyên dáng", để đem lại cho người xem "một cảm giác thanh
thản sâu xa."
BABYLON Thành phố hùng vĩ nhất của thế giới cổ đại, phần lớn được xây
dựng bởi nỗ lực của Hammurabi (1728-1686 TC) và Nê-bu-cát-nết-sa II
(604-562 TC). Nó suy tàn theo sự sụp đổ của Nebuchadnezzar, và càng suy
sụp hơn dưới thời Bên-xát-sa, cuối cùng tàn lụi dưới tay của người Parthian
vào năm 130 TC.
Nieebuhr, Rich và Rassam đã thăm dò kỹ lưỡng đống hư tàn của Ba-by-lôn
nằm dọc hai bên sông. Nhưng công lao thuộc về Robert Koldeway và các
nhân viên của ông với sự khai quật kỹ lưỡng trong suốt 14 năm ròng rã tại
Ba-by-lôn từ 1899 đến 1913.
Các khám phá tại Ba-by-lôn không kém gì những khám phá phi thường.
Trong số các khám phá quan trọng hơn gồm có: (1) một bức tường quanh
thành phố chính với chiều dài hơn 14 dặm, bề dày khoảng 41,5m
(136,5feet); (2) nhiều cổng thành phố, trong số đó có cổng Ishtar có 575 bức
hình tráng men các con rồng, bò đực, sư tử là nổi bật nhất; (3) "con đường lễ
rước" đi vào thành phố theo Cổng Ishtar ở phía bắc, đi ngang hoàng cung,
rồi xuyên thẳng qua thành phố chính đến đền thờ Marduk "Đấng Sáng Tạo,
Vua của vũ trụ"; (4) cung điện trang hoàng lộng lẫy của Nê-bu-cát-nết-sa với
phòng yến tiệc và phòng đặt ngai vua 51,2m x 17m (168feet x 56feet; (5)
nền móng và đường nét bên ngoài của Tháp Ba-bên, có tên là "E-Temen-
an.Ki" (Nhà của bệ móng Trời và Đất), người ta tin rằng đó là tàn tích của
tháp Ba-bên xấu số được đề cập trong sách Sáng Thế Ký; (6) Vườn Treo hay
một đống hư tàn trải rộng như hình tứ giác, tạo nên một hầm mộ với mái
vòm cao, hoặc như căn phòng nằm dưới mặt đất được chống đỡ bởi vòm
15. gạch, phía trên phủ bằng bụi bẩn và gạch vụn. Các nhà khai quật tin rằng
những đống hư hàn nầy là tàn tích của cấu trúc nền Vườn Treo lừng dành
(một trong Bảy Kỳ Quan Của Thế Giới Cổ Đại); (7) và khoảng 300 phiến đá
chữ hình nêm đều nói về sự phân phối dầu ăn và lúa mạch cho các tù nhân,
công nhân lành nghề đến từ nhiều nước và sống ở Ba-by-lôn và những vùng
lân cận, trong khoảng thời gian 595-570 TC. Trong số những con người
được đề cập là "yow-keen" (Joiachin) "Vua của xứ Yehud" (Judah hay Giu-
đa) và năm người con trai trẻ của ông đang nằm trong tay của Keniah chính
là người hầu cận của họ.
BEERSHEBA Trung tâm của đời sống tộc trưởng, có nghĩa là "Giếng của
lời thề", tên nầy bắt nguồn từ lời thề giữa Áp-ra-ham và A-bi-mê-léc, vua
của Ghê-ra (SaSt 21:31). Hai trong số những cái giếng ở vùng này đã có từ
xưa, người ta nghĩ rằng chúng liên quan đến các tộc trưởng - rất có thể là
chính những cái giếng mà tộc trưởng và gia nhân đào lấy. Những cái giếng
hình tròn và giếng lớn có đường kính khoảng 3,8m (12,5feet) và sâu chừng
20,1m (66feet). Vào năm 1874, trên một trong những viên đá xây nền được
lót trong thành giếng, Condor đã tìm thấy dòng chữ ghi ngày tháng cho biết
việc sửa chữa đã được thực hiện vào thế kỷ 12 SC. Thành giếng bằng gạch
cũ xưa này bị dây thừng xói rãnh trong nhiều thế kỷ nay được thay bằng một
miệng giếng mới hơn và một cái bơm nước có phần nào cận đại. Nhưng
nhiều lạc đà, trâu bò, cừu vẫn uống nước ở đây hàng ngày bằng các viên
gạch đẽo và máng xi-măng.
BELVOIR Là một pháo đài danh tiếng của thập tự quân với một trong
những bức tường công sự đẹp nhất, trải dài về phía đông từ núi Moreh.
Belvoir ở độ cao 426,7m (1400feet), phía trên thung lũng Giô-đanh và cũng
chính nhờ tọa lạc ở độ cao như vậy nên có thể quan sát các hoạt động xảy ra
trên mọi nẻo đường giữa Ti-bê-ri-át và Beth Shan. Belvoir có thể nhìn rõ hai
xa lộ đi lên từ thung lũng Giô-đanh về hướng tây vào trong nội địa, một
hướng theo ngã thung lũng Jezreel và một hướng theo lối đi của thung lũng
Tabor.
Trong thời La Mã, thì pháo đài của Agrippina được xây tại đây. Vào năm
1168, thập tự quân chiếm nơi nầy và dựng lên Belvoir như là một trong các
pháo đài của họ. Belvoir đẩy lùi lực lượng hùng mạnh của người Hồi giáo
cho tới tháng 1.1191, khi tháp phía đông bị phá hoại ngầm và bị tiêu diệt.
Thấy được cảnh tiếp tục chiến đấu vô vọng, các thập tự quân cầu hòa và
được phép tự do đi đến Ty-rơ. Belvoir bị phá hủy vào năm 1241, và một
làng Ả-rập đã mọc lên trên đống đổ nát của Belvoir và cuối cùng bị bỏ
hoang từ năm 1948.
Vào năm 1966-1967, M.Ben-Dor đại diện Cơ Quan Phụ Trách Công Viên
16. Quốc Gia Do Thái tiến hành việc khai quật khu vực nầy, đã tìm thấy chuồng
trại, nhà kho, bể chứa nước, một nhà bếp, một đại sảnh rất đẹp với các cộ
bằng đá bazan đen được khám phá gần đống đổ nát của một nhà thờ.
BETHANY Nhà của Ma-ri, Ma-thê và La-xa-rơ, ngày nay gọi là el-Azarieh
("nơi của La-xa-rơ"). Nó nằm trên dốc phía đông của núi Ô-li-ve, cách Giê-
ru-sa-lem hai dặm về hướng đông.
Tàn tích cổ xưa gồm có một cái hang mộ, một số người coi đó là mồ của La-
xa-rơ, và có một đống đổ nát của hai căn nhà được người ta nói với du khách
rằng đó là nhà của người phung có tên Simon và nhà của Ma-ri, Ma-thê, La-
xa-rơ nhưng thật ra chẳng có gì đáng tin cậy cả.
Nơi gọi là "mồ của La-xa-rơ" là một hang động, đi xuống bằng 25 bậc thang.
Ta thấy ít có khả năng cái hàng nầy lại có liên quan gì đến mồ mả của La-
xa-rơ, tuy vậy người ta đã gọi như thế từ 300 SC. Đống đổ nát hai tháp được
người ta biết đến như là nhà của người phung tên Si-môn, tại đó Chúa Giê-
xu đã được xức dầu cam tòng hương qúi giá (Mac Mc 14:3-9) thì có nguồn
gốc từ thời trung cổ. Nơi tàn tích không mái nhà được cho là nơi Ma-thê "đã
mở cửa để chào đón Chúa" (LuLc 10:38) thì khó có thể là că nhà mà Chúa
Giê-xu và các môn đồ của Ngài đến thường xuyên tại Bê-tha-ni. Tuy vậy, thì
ba đống đổ nát nầy đã tưởng niệm các sự kiện thiêng liêng trong cuộc đời
của Chúa chúng ta.
BETHEL - ("Nhà của Đức Chúa Trời") Là nơi mà Áp-ra-ham xây bàn thờ
thứ nhì, tại đó Gia-cốp đã thấy khải tượng thiên sứ đi lên đi xuống trên thang
bắc lên đến tận trời, cũng tại đó, sau hai mươi năm. Gia-cốp đã trở lại theo
lời thề hứa để xây một bàn thờ cho Chúa và đặt tên là "El Bethel, vì là nơi
Đức Chúa Trời đã hiện ra cùng người…" (SaSt 35:2-7). Giê-rô-bô-am đã
làm ô uế nơi này khi ông ta dùng một con bê bằng vàng dâng làm của lễ.
Tiến sị Albright của Học Viện Nghiên Cứu Đông Phương Hoa Kỳ tiến hành
thăm dò chiều sâu tại đây vào năm 1927, và có thêm sự tham gia của Tiến sĩ
J.L.Kelso của Thần Học Viện Pittsburgh Xenia cùng với nhóm các nhà khảo
cổ trẻ vào năm 1934. Công việc khai quật được Tiến sĩ J.L.Kelso thực hiện
tiếp tục vào năm 1954.
Các khám phá cho thấy tại đây có sự định canh định cư vào khoảng năm
2000 TC, rồi một đám cháy dữ dội đã phá hủy nơi này vào thế kỷ 13 TC, có
thể là vào thời kỳ hỗn loạn của Các Quan Xét, hoặc như một số người đã
đồng ý, người Y-sơ-ra-ên nhập cư vào thời Giô-suê đã tàn phá nơi đây. Thị
trấn đã được tái thiết vào thế kỷ thứ 9, bị người A-si-ri tàn phá vào 724-722
TC, cùng thời gian với sự bao vây Sa-ma-ri, Bê-tên đã phục hồi nhưng lại bị
một đám cháy lớn làm tàn lụi vào năm 597 TC, có lẽ là do quân đội của Nê-
bu-cát-nết-sa. Tái thiết vào cuối thời kỳ Ba Tư, Bê-tên phồn thịnh cho đến
17. 70 SC thì bị người La Mã tàn phá, cùng lúc với người La Mã tàn phá Giê-ru-
sa-lem.
Những bức tường thành có sớm hơn trước đó là một trong những vật được
khám phá quan trọng nhất tại Palestine của thời kỳ ấy và tại đó có một hệ
thống mương lót đá được xây dựng cực kỳ tốt đi phía dưới sàn trát thạch cao
và dẫn nước mưa cũng như nước tiêu (?) bên ngoài tường thành. Ở cấp độ
thành phố ban sơ người ta thấy có nhiều đồ vật cúng tế của người Ca-na-an,
nhưng sau khi người Y-sơ-ra-ên chiếm thành phố thì chẳng còn hình tượng
nào hoặc đài tưởng niệm dành cho thần giả - chẳng hề còn bết tích của con
bê bằng vàng.
BETHESDA Là một cái ao được cấp nước từ một con suối, xung quanh có
năm vòn cửa, tại đây Chúa Giê-xu đã chữa lành người bệnh 38 năm (GiGa
5:2).
Sự ghi nhận duy nhất chỉ ra vị trí của Bê-tết-đa "gần Cửa Chiên." Hiển nhiên
Bê-tết-đa nằm ở phần đông bắc của thành phố, bởi vì dựa theo Josephus và
các chuyên gia cổ đại thì khu chợ chủ yếu bán chiên cừu tại Giê-ru-sa-lem
nằm phía bắc khu vực Đền Thờ, cũng như chợ cừu Ả-rập trong thời đại gần
đây được đặt bên ngoài Cổng Hê-rốt. Bản đồ Medeba (thế kỷ thứ 5) cũng
cho biết vị trí của cái ao trong khu vực nầy mang tên là Bezetha.
Vào năm 1888 việc trùng tu được thực hiện ở nhà thờ Thánh Ann nằm tại
khu vực đông bắc của Giê-ru-sa-lem, lúc đó dường như có một cái hồ lớn
chứa nước ở đây. Giáo sư Conrad Schick đã làm tư vấn và tổ chức cho một
cuộc thám hiểm và đã khám phá toàn bộ khu vực xuống đến cấp độ La-mã,
họ phát hiện hai cái ao lớn có nằm vòm cửa và vô số mảnh vụn của trụ và
cột - tất cả theo kiểu kiến trúc La-mã, nhưng hiển nhiên có phần nào muộn
hơn thời kỳ của Chúa Giê-xu. Dẫn xuống ao là những bậc thang dốc, ngoằn
ngoèo và trên một bức tường lồi ra từ một vòm cửa ao, người ta thấy một
bức tranh tường đã phai mờ vẽ một thiên sứ trong nước đang khuấy động.
Theo truyền thuyết của giáo hội ban đầu thì đây chính là Bê-tết-đa.
BETHLEHEM Thành phố Đa-vít cách Giê-ru-sa-lem về phía nam khoảng 5
dặm. Tại đây Ra-chên đã được chôn cất và Ru-tơ đã mót lúa trên cánh đồng
của Bô-ô, Đa-vít đã được xức dầu để làm vua, Đấng Christ đã ra đời trong
máng cỏ và các nhà thông thái đến từ đông phương để tìm thờ Cứu Chúa.
Ngày nay ngôi mộ của Ra-chên nằm bên cạnh xa lộ, tại lối vào thành phố.
Người Hồi giáo, Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo đều quí trọng ngôi mộ này, và
nó được coi là một trong những địa điểm xác thực nhất của Thánh Địa.
Nhà thờ Chúa Giáng Sinh do Helena (mẹ của hoàng đế Constantine) xây vào
năm 328-330 SC trên mảnh đất truyền thống nầy, ngày nay nhiều người tin
rằng đó chính là nơi sinh ra Chúa Giê-xu. Hoàng đế Justinian (527-565 SC)
18. tái thiết nhà thờ vào thế kỷ thứ 6. Dù điêu tàn nhưng ngôi nhà thờ nầy vẫn
tồn tại ở Bết-lê-hem. Vào 1934, ông William Harvey tiến hành việc khai
quật hạn chế, ở độ sâu 45,8cm (18 inches) dưới sàn nhà của nhà thờ hiện tại,
ông đã khám phá một phần của sàn lắp ghép của nhà thờ nguyên thủy do
Helena và Constantine xây dựng. Một số tranh lắp ghép có hình hoa lá, hoa
quả, chim chóc; những hình khác là các hình học. Trong các hình trang trí
nầy chẳng hề có cảnh tôn giáo bởi vì sàn này được dùng để bước trên đó.
Dưới khu vực ban hát, ở tận phía đông của nhà thờ là dãy cầu thang dẫn
xuống hang của Nơi Giáng Sinh, cách sàn nhà độ 7,6m (25feet). Nguyện
đường có dạng caai hang này có kích thước 3,65m x 12,2m (12 x 40feet).
Các bức tường hoàn toàn bị ẩn khuất bởi các tấm thảm và có những đèn treo
rất đẹp trên trần nhà. Ở cuối phía đông của nguyện đường là một cái hầm mộ
nhỏ, sàn đá hoa được lắp một sao bằng bạc màu đỏ son và thắp sáng bằng 16
ngọn đèn bằng bạc và sàn được bao quanh bởi một câu khắc đơn giản bằng
tiếng La-tinh tuyên bố một sự kiện lạ lùng nhất của lịch sử: "Tại đây, Giê-xu
Christ sinh bởi Nữ Đồng Trinh Ma-ri". Gần đó là một máng cỏ làm đầy đủ ý
nghĩa của lời tuyên bố sâu sắc: "người sinh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc
con mình, đặt nằm trong máng cỏ, vì nhà quán không còn chỗ cho họ ở."
(LuLc 2:7).
BETHSAIDA Quê hương của Phi-líp, Anh-rê, Phi-e-rơ, nằm tại bình nguyên
Batiha, phía đông và phía bắc là nơi sông Giô-đanh chảy vào biển Ga-li-lê.
Bình nguyên trải dài 2 dặm dọc theo Giô-đanh và dọc theo núi hướng đông
khoảng 1 dặm.
Et Tell, là một mô đất nhỏ trên rìa bắc của bình nguyên, thường được người
ta xác nhận là Bết-sai-đa. Nhưng một đống đổ nát mang tên el-Araj nằm trên
bờ biển, và ngay tại phía đông là nơi mà con sông chảy vào thì được một số
người nghĩ rằng đó là địa điểm của Bết-sai-đa "làng chài." Một số giả thuyết
cho rằng "Bết-sai-đa tại Ga-li-lê" theo sứ đồ Giăng (GiGa 12:21) ám chỉ
rằng có hai nơi mang tên Bết-sai-đa, một nơi ở phía tây Giô-đanh gần hơn
Ca-bê-na-um. Nhưng theo lời thuật lại trong sách Tin Lành, thì nói chung,
dường như chỉ có một Bết-sai-đa, và các truyền thuyết xa xưa hơn đồng ý
với quan điểm này. Việc khai quật trong tương lai có lẽ sẽ giải quyết được
vấn đề, nhưng có điều chắc chắn là vị trí chính xác của nơi này không ảnh
hưởng đến sự tường thuật trong sách Tin Lành.
BETH SHAN Nằm tận cuối phía đông của thung lũng Jezreel, và nằm trên
bơ2 sông phía nam của sông Jalud. Nó canh giữ xa lộ giữa các thung lũng
Jezreel và Jordan và vì vậy nó hết sức quan trọng về mặt chiến lược.
Công cuộc khai quật của Đại học Pennsylvania giữa năm 1921 và 1933 do
Clarence Fisher, Alan Rowe và G.W.Fitz Gerald tuần tự diễn ra đã mang lại
19. nhiều khám phá và đưa ra ánh sáng cho phần lịch sử của thành phố cùng vai
trò của nó trong vở kịch mà Ai-cập, Y-sơ-ra-ên và Phi-li-tin đóng vai chính.
Khoảng chín cấp độ cư ngụ đã được khai quật, và người ta đã tìm thấy trong
những địa tầng khác nhau những bằng chứng văn hóa như đồ sứ, tượng, đá
quý, đồ trang sức hình bọ hung, dấu ấn và hủ bằng vàng nặng cỡ 3kg (6
pound) để dâng thần Ba-anh. Mười ba bia khắc hoặc đài tưởng niệm có khắc
chữ đã được khám phá. Hai bia khắc trong số đó có mang câu khắc của Seti
I (1318-1301 TC) và một bia của Rameses II (1301-1234 TC) và một cái là
tượng của Rameses III (1198-1167 TC).
Bia khắc đầu tiên của Seti I kể lại rất chi tiết rằng ông ta đã gửi "quân đội
đầu tiên của Ra" đến Bết-sê-an bằng cách nào để lật đổ liên mih của nhân
dân địa phương đang đe dọa sự thống trị của người Ai-cập. Bia khắc đi có
nội dung liên quan đến việc đẩy lùi "người Apiru trên núi của Jordan" là
người đang muốn bành trướng. Bia khắc này hàm ý nói rằng rất có thể bộ
tộc Ma-na-se "không đuổi được dân cư của Bết-sê-an…và các dân cư ở xung
quanh họ" (Cac Tl 1:27).
Bia khắc cao 2,74m (9 feet) của Rameses II được đề ngày là năm thứ chín
lúc ông trị vì. Hai mươi bốn dòng chữ trên bia khá mòn, nhưng nó đã mô tả
vị vua như là "một con chim ưng giữa bầy chim" là người khiến kẻ thù "bay
như lông hồng trước gió." Trong những lời khoác lác của mình, có đề cập
đến thành phố Rameses (hoặc Raamses) ở Ai-cập. Đáng tiếc là nguời ta cho
rằng bia khắc có đề cập đến thành phố Rameses có nghĩa là các lao công nô
lệ châu Á đã xây dựng thành phố đó. Báo chí tuyên truyền rộng rãi khám
phá này khiến cho nhiều người tin rằng Rameses II phải là Pha-ra-ôn áp bức,
còn Merenptah cùng con trai và người kế vị là Pha-ra-ôn trong Xuất Ê-díp-tô
Ký. Sau đó, khi báo cáo chính thức được công bố thì công chúng được thông
báo rằng dù thành phố Rameses được đề cập nhưng chẳng hề ám chỉ đến
việc xây dựng thành phố, cũng chẳng có liên quan gì đến việc thuê mướn
người Hê-bơ-rơ hay người châu Á. Alan Rowe, người khai quật đã nói thẳng
thắn rằng: "bài văn chẳng đề cập đến hoạt động xây dựng nào mà cũng
chẳng nhắc đến người Do Thái."
Tàn tích của nhiều công trình lớn về tôn giáo đã được khám phá trong lúc
khai quật mô đất lớn của Bết-sê-an - một đền thờ Hồi giáo, một nhà thờ Cơ
Đốc, một đền thờ Do Thái giáo, và khoảng 5 hay 6 đền thờ dùng để tiến
hành lễ nghi tôn giáo được mô tả là "của người Ca-na-an nhưng với bề ngoài
là của Ai-cập." Vị thần được tôn thờ trong hầu hết những đền thờ đó là
"Mekal, Chúa (Ba-anh) của Bết-sê-an". Ở cấp độ thứ 5 người ta phát hiện
hai đền thờ mà cả hai đều bị tiêu hủy vào khoảng năm 1000 TC. Theo các
dấu hiệu cho biết thì cái đền ở phía bắc mô đất là đền Át-tạt-tê (Asbtoreh) và
bên trong bức tường của đền có treo áo giáp của Sau-lơ như là một chiến lợi
20. phẩm sau cái chết thê thảm của ông tại núi Ghinh-bô-a (ISa1Sm 31:8). Ngôi
đền ở phía nam có kích thước 24,4m x 18,9m (80feet x 62feet) theo hướng
từ đông sang tây. Nó gồm một đại sảnh ở chính giữa với ba tảng đá tròn ở
mỗi bên. Những nhà khai quật kết luận rằng đây phải là đền thờ Đa-gôn tại
đó có treo đầu của Sau-lơ (ISu1Sb 10:10; ISa1Sm 31:10). Bên ngoài tường
thành treo xác của Sau-lơ cùng các con trai của ông.
Thành phố của cấp độ thứ năm dường như đã bị Đa-vít chiếm lấy và tàn phá
vào khoảng năm 1000 TC, sau đó nó tiếp tục là đống đổ nát cho đến khi các
tòa nhà Hellenistic mọc lên vào năm 300 TC.
BETH SHEARIM Một ngày của tháng 3 năm 1936, hai đứa bé trai đi ngang
qua con sông cạn (chỉ có nước vào mùa mưa) chảy qua phía tây của mô đất
Sheikh Abreik, nằm tại một sườn đồi ở phía tây nam của Ga-li-lê, ngay lúc
đó chúng nó thấy một con cáo chui tọt vào trong một miệng hang. Bò theo
con cáo vào trong hang thì chúng khám phá mình đang ở bên trong một hầm
mộ, với các khoang chôn cất mà trên tường có những câu viết và hoa văn
được khắc hay sơn đỏ.
Hai đứa bé liền thông báo cho Tiến sĩ Benjamin Maisler về những gì chúng
đã thấy, tiến sĩ bèn tập họp ngay một nhóm học giả cùng đi vào hầm mộ, họ
đã phát hiện một vài câu khắc trên tường có tên của những hiền nhân Do
Thái. Tiếp tục đi theo con lộ lớn dưới mặt đất, họ khám phá rằng mình đang
ở trong một nghĩa trang lớn được ẩn giấu bên dưới mô đất Sheikh Abreik, họ
kết luận đó phải là hiện trường của Beth Shearim cổ đại.
Theo Josephus, bộ luật Talmud dân sự và tôn giáo Do-thái cùng với các văn
hiến Do -thái cổ đại thì Beth Shearim phải có vị trí đâu đó trong khu vực
nầy, và thị trấn ấy có một nghĩa trang lớn. Một vài học giả Do-thái đã từng
sống ở đây và quản lý một học viện giáo sĩ Do-thái. Thỉnh thoảng toà án Do
Thái tối cao họp tại đây. Cái làng trở nên hết sức nổi tiếng bởi vì đó là nơi
cư ngụ của "Rabbi", tộc trưởng của Judah I. Bộ luật Talmud Do-thái mô tả
về cuộc đời và việc làm của vị tộc trưởng nầy, về học viện mà ông đã dạy,
về sự chôn cất trong ngôi mộ được ông chuẩn bị lúc sinh thời. Những kẻ
khác muốn được chôn cất gần đó và nó trở thành nơi mai táng không những
chỉ dành cho người Do-thái ở Beth Shearim mà còn cho nhiều người ở các
xứ sở khác.
Các thủ lĩnh của nhà hội tại Ty-rơ, Si-đôn, Beirut, cũng như các lãnh tụ và
thân nhân trong gia đình của các quốc gia lân cận được đưa đến mai táng tại
đây - ra-bi, văn sĩ, viên chức nhà nước, thương gia và thợ thủ công. Niềm tin
trở nên phổ biến cho rằng "hễ ai được chôn cất trong Đất của Y-sơ-ra-ên
cũng chẳng khác gì được chôn dưới bàn thờ," và hơn một thế kỷ Beth
Shearim là nơi chôn cất của vô số người Do-thái - cả khi họ đã qua đời tận
21. Ba-by-lôn hay miền Nam Ả-rập. Như một học giả đã bình luận "Thật ra đây
là một dạng tụ tập những người Do-thái sau khi chết vì khi sống họ phân tán
ở ngoài Đất Thánh."
Tiến sĩ Maisler nhanh chóng tổ chức một cuộc khai quật dưới sự tài trợ của
Hiệp Hội Thám Hiểm của Người Do-thái tại Palestine, với Pessach Bar-
Adon là trưởng trợ lý và kiến trúc sư Zvi Bar-Adon. Khi tiến hành thám
hiểm sơ bộ thì Zvi Bar-Adon bị nhiểm sốt hang và Jacob Kaplan đã thay thế
ông.
Việc khai quật tại Beth Shearim được triển khai quanh năm từ 1936-1939.
Tổng cộng 11 hầm mộ được dọn sạch, thêm vào đó là một nhà hội ở trên
đỉnh mô đất cũng được khai quật. Nhiều hầm mộ có sân, hành lang và đại
sảnh. Đại sảnh có nhiều phòng, có kích thước khác nhau với vô số hốc huyệt
mộ lõm vào tường. Sân ở phía trước sảnh mai táng thì khá rộng và một vài
sân được lót với các mảnh ghép màu mè. Lối vào có cửa bằng đá, hầu hết
vẫn còn quay được bằng bản lề. Vài cửa còn nguyên vẹn, nhưng hầu hết đã
bị bọn xâm lược làm vỡ.
Trong hầm mộ số 11,16 đại sảnh với cửa đá được phơi bà. Những đại sảnh
này có nhiều phòng với vô số hốc huyệt mộ lõm vào tường. Người ta đếm
được khoảng 400 chỗ mai táng. Các quan tài làm bằng gỗ, đá, chì hoặc đá
hoa và thường được trang trí bằng một trong những biểu tượng truyền thống
của người Do-thái như: đèn bảy ngọn (XuXh 37:17-24), tù và bằng sừng dê,
xẻng hương. Hầm mộ số 20 có một cái sân rộng với ba lối vào có vòm dẫn
tới một đại sảnh dài 50m (164feet) trải dài cả hai phía. Tại đây người ta tìm
thấy 130 quách bằng đá vôi, cùng với vô số mảnh vụn của quách cẩm thạch.
Hầu hết quan tài đều được chạm trổ đẹp và có ghi những câu khắc đầy ý
nghĩa. Khoảng 200 câu khắc được phát hiện, đại đa số bằng tiếng Hy-lạp,
chỉ có khoảng 10% bằng tiếng Hê-bơ-rơ. Có lẽ câu khắc nổi bật nhất là ở
trên một phiến đá vỡ bằng đá hoa mà nguyên thủy thì nó được gắn trên
tường của lăng tẩm hầm mộ số 11. Văn bia trên phiến đá mỏng này cung cấp
bằng chứng xác thực rằng các tàn tích khảo cổ tại Sheikh Abreik là thực sự
tuộc về Beth Shearim cổ đại. Câu khắc ấy, được cố giáo sư Moshe Schwabe
công bố trước tiên như sau:
1. Justus, con trai của Leontios và Sappho, nằm yên nghỉ tại đây, và sau khi
ta đã hái trái của mọi trí khôn, ta đã để lại ánh sáng, người cha mẹ khốn khổ
thương khóc không dứt. Và những huynh đệ của ta. Thống khổ cho ta tại
Besa (ra) (của ta).
Sau khi xuống âm phủ, ta, Justus nằm ở đây.
Với nhiều người của ta, cho số phận ngặt nghèo đã được định như vậy.
Hãy yên ủi, Justus, chẳng có ai là bất tử.
22. BETH SHEMESH "Nhà của mặt trời" được tọa lạc cách Giê-ru-sa-lem 24
dặm về phía tây, trên một đỉnh đồi nhìn xuống thung lũng Sorek. Đây là nơi
quan trọng bởi vì nó là thành phố của người Lê-vi, và là một đồn biên phòng
giữa Giu-đa và Phi-li-tin. Đây cũng là nơi hòm giao ước được đưa trở về
trên một chiếc xe do hai con bò sữa kéo, sau khi hòm giao ước bị lọt vào tay
người Phi-li-tin.
Mô đất được Tiến sĩ Duncan Mackenzie (1911-1912) khai quật thay cho
Quỹ Thám Hiểm Palestine, và bởi Elihu Grant (1928-1931) của Đại học
Haverford. Những nhà khai quật tìm thấy năm thành phố chồng lên nhau -
thành phố đầu tiên có từ năm 2000 TC, và thành phố cuối cùng bị Nê-bu-
cát-nết-sa tàn phá vào 586 TC.
Họ phát hiện các kiến trúc rộng có từ thời kỳ người Ca-na-an, người Y-sơ-
ra-ên và người Phi-li-tin. Người ta tìm thấy một lượng lớn đồ sứ rất đẹp, vũ
khí, đá quý, đồ trang sức hình bọ hung và vài tay quai của bình có câu khắc.
Một tay quai đáng hết sức quan tâm đã ghi "Thuộc về Ê-li-a-kim, quản gia
của Yokin (Giê-hô-gia-kin)." Trong cấp độ thế kỷ 14, Grant tìm thấy một
mảnh sành có các ký tự Hê-bơ-rơ cổ khắc bằng mực. Ông ta cũng tìm thấy
một phiến đá bằng đất sét viết bằng chữ hình nêm tương tự với nhiều văn
bản của Ras Shamra (Ugarit). Những thứ nầy cho thấy chữ viết theo chữ cái
đã được sử dụng rộng rãi vào thời ấy.
BETH ZUR Một thành phố pháo đài quân sự nổi tiếng cách Hếp-rôn 4 dặm
về phía bắc, được O.R.Sellers và W.F.Albright cùng với năm nhà khảo cổ
trẻ khai quật vào 1931.
Họ phát hiện rằng Beth Zur đã có người cư ngụ trong Thời Đại Đồ Đồng
giữa (2000-1500 TC), nhưng bị tàn phá vào khoảng 1580 TC, lúc đó Hyksos
bị trục xuất khỏi Ai-cập và Palestine. Beth Zur được xây vào thời các quan
xét, bị cháy vào khoảng 1000 TC, được Giê-rô-bô-am xây công sự vào
khoảng 930 TC và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến Mác-ca-bê.
Một pháo đài đã được xây và bị phá hủy ba lần trong thời Giu-đa, Giô-na-
than và Si-môn. Thành phố nầy suy sụp dưới thời John Hyrcanus và bị bỏ
hoang trước khi kỷ nguyên Cơ Đốc bắt đầu.
Trong một chiến dịch khai quật ngắn ngủi, người ta tìm thấy những bức
tường xây hồ vững chắc, một pháo đài, một nơi nhóm chợ, một phòng chứa
của tiệm tượu, nhiều cái lò, một hầm chứa, một hồ chứa nước, các phòng
tắm rộng, tất cả là của thời kỳ Hê-lê-nít. Tại đây cũng có đồ trang sức hình
bọ hung của Rameses II và Thutmose III, và một dấu ấn Hê-bơ-rơ với dòng
chữ "Của Ge'alyahu, con trai của Vua." Người ta cũng tìm thấy nhiều đồ vật
nhỏ, chẳng hạn những quả cân có khắc chữ và không có khắc chữ, con lăn
cọc sợi và con sút, nút, khuy, hạt (của xâu chuỗi), nhẫn, kim, đầu tên, mũi
23. giáo và 279 đồng xu - một tuyển tập tuyệt hảo nhất về các đồng tiền xưa
được phát hiện từ trước đến nay trong một chiến dịch ngắn ngủi như vậy.
Tuy nhiên "ở đây không có nơi chôn giấu báu vật, và chỉ có hai trường hợp
là hai đồng tiền được tìm thấy cùng lúc." Sáu đồng tiền trong số nầy là của
thời kỳ Ba-tư, và nhằm chỉ rằng người Do-thái đã sử dụng các tiêu chuẩn đo
lường A-tên (?)trong thời Nê-hê-mi, E-xơ-ra như đã nói trong các sách Sử
Ký.
Các tài liệu văn học liên quan đến Beth Zur như ta thấy trong Kinh Thánh, I
Mác-ca-bê và Josephus cho ta sự xác nhận nổi bật thông qua những đồng
tiền và các chứng cớ khảo cổ dồi dào được phám phá trong lúc khai quật.
CAESAREA Thủ đô La-mã của Giu-đê trong thời của Đấng Christ và Phao-
lô, nằm gần Địa Trung Hài, cách Joppa 32 dặm về phía bắc và cách Giê-ru-
sa-lem 60 dặm về phía tây bắc. Hê-rốt đại đế khởi công xây dựng thành phố
vào 25 TC và hoàn tất vào năm 13 TC. Trong lễ dâng thành phố vào năm 12
TC, Hê-rốt đã đặt tên là Sê-sa-rê để tỏ lòng tôn kính Sê-sa và biến nó thành
thủ đô La-mã của Giu-đê. Chẳng bao lâu nơi đây trở thành một hải cảng sầm
uất, một trung tâm thương mại lớn, và một trong những thành phố thu hút
nhất của thời ấy. Thành phố nầy được xây dựng hoàn hảo và trên cơ sở một
kế hoạch tuyệt vời đến nỗi nó thường xuyên được gọi là "tiểu La-mã." Nhà
truyền giáo Phi-líp sống ở đây, sứ đồ Phao-lô đã từng bị cầm tù ở đây trong
2 năm, trong thời gian đó ông ứng hầu trước Phê-lít, Phê-tu và vua Ạc-ríp-
ba.
Thành phố đã đứng vững với nhiều vận mệnh khác nhau mãi cho đến năm
1256 SC thì vua Bibars của Ai-cập, theo Hồi giáo đã chiếm lấy thành phố và
tàn phá các bức tường và hầu hết các công trình kiến trúc trong đó. Nó tiếp
tục bị điêu tàn trong nhiều thế kỷ tiếp sau đó chỉ còn lại đồ sứ bể vụn, những
phần của cổng và lâu đài, mảnh vụn của các cột đá hoa và đá granít , chỉ một
phần nhô lên khỏi cát và phần kia chìm trong nước biển cạn.
Sở Đồ Cổ của chính phủ Y-sơ-ra-ên đang tiến hành khai quật Sê-sa-rê. Cho
đến nay thì các khám phá lớn gồm có một lâu đài thập tự quân rất tráng lệ; hí
viện, nhà hát tròn, trường đua xe ngựa, và lề đường của nhà hội - có thể
chính là cái nhà hội mà Cọt-nây đã từng tham gia thờ phượng và được Phi-
líp, Phi-e-rơ, Phao-lô thăm viếng. Trong hí viện họ tìm thấy một phiến đá có
khắc chữ mang danh hiệu của Phi-lát và Ti-bê-ri-út. Đây là lần đầu tiên tên
của Phi-lát được tìm thấy trên một dòng chữ khắc trên đá. Người ta cũng tìm
thấy một đền thờ lớn dâng cho Sê-sa của La-mã, trong đó có một tượng lớn
phi thường của hoàng đế.
Vào năm 1960 Cơ quan The Link Expedition to Israel đã thăm dò và vẽ sơ
24. đồ hải cảng rộng do Hê-rốt đại đế xây dựng. Chỉ có phần đỉnh của những
tảng đá làm công phu của đê chắn sóng nhô khỏi mặt nước đó đây, nhưng
việc thám hiểm dưới biển đã xác nhận sự miêu tả của Josephus về hải cảng
Sê-sa-rê là đồ sộ và rộng lớn.
CAESAREA PHILIPPI Được tọa lạc tại chân núi Hẹt-môn, như một dòng
suối lấp lánh, nguồn nước cực đông của sông Giô-đanh trào ra từ một cái
hang dưới nền của một vách đá lớn và gặp các nguồn nước khác của những
con sông nổi tiếng. Nhờ được cấp nước đầy đủ, nơi này có đủ loại cây cối,
dây leo, và bụi cây có trổ bông và là một trong những nơi đẹp nhất của Đất
Thánh. Trong thời Cựu Ước tại đây có một cái miếu thờ thần Ba-anh, sau đó
người Hy-lạp xây một miếu thờ cho thần Pan, thần thiên nhiên, và đặt tên là
Paneas (thành phố của Pan).
Vào năm 20TC, Hê-rốt đại đế xây một đền thờ lớn bằng đá hoa tại đây và
dâng cho Augustus Caesar. Khi Hê-rốt băng hà thì thành phố nầy giao cho
con trai của ông là Hê-rốt Phi-líp, ông này đã mở rộng và chỉnh trang thành
phố ấy rồi đặt tên là Sê-sa-rê Phi-líp, nhằm đẹp lòng Hoàng đế Tiberius
Caesar, cũng để phân biệt với các thủ đô và hải cảng khá nổi tiếng khác ven
bờ biển của Caesarea.
Đây cũng là nơi với vẻ đẹp thiên nhiên mà Chúa Giê-xu đã dẫn các môn đệ
của Ngài đến nghỉ ngơi và cầu nguyện trong khoảng thời gian ngắn, cũng tại
đó, sau khi cầu nguyện, Ngài đã hỏi họ: "Các con nói ta là ai?" Si-môn Phi-
e-rơ đã đưa ra lời tuyên bố hùng hồn: "Ngài là Đấng Christ, Con Đức Chúa
Trời hằng sống" (Mat Mt 16:16; Mac Mc 9:18). Vào thời trung cổ (1120 SC)
Thập tự quân đã xây một lâu đài tại đây trên sườn núi nhô cao khoảng
350,5m (1150feet) phía trên suối phun, và đặt tên là Lâu đài của Subeibeh.
Ngày nay, hàng khối đá xây dựng, những mảnh cột gãy, và mái vòm chôn
một phần dưới mặt đất được rải rác khắp nơi trong thành phố. Trên mặt của
một vách đá thật lớn quanh cái hang là nơi dòng suối chảy qua, ta thấy vài
cái hốc và một câu khắc Hy-lạp với ý nghĩa "thần Pan và các nữ thần của
Ngài hiện ra ở nơi đây." Một câu khắc khác thì nói rằgn "Thầy tế lễ của thần
Pan."
Một nơi cất giấu các đồng tiền đã được khám phá. Trên đồng tiền có hình cái
khèn của Pan; trên đồng tiền khác ta thấy hình Pan tựa vào cây và thổi sáo;
trên đồng tiền thứ ba có hình miệng hang và Pan thổi sáo trong đó; trên đồng
tiền thứ tư là tên của thành phố "Caesarea Paneion."
Từ trên núi nhìn xuống Caesarea Philippi, ta thấy Lâu đài Subeibeh bao bọc
bởi những bức tường dày 3,9m (10feet) và cao 34,9m (100feet), được củng
cố bởi vô số tháp tròn. Bên trong của pháo đài cổ nầy là một khoảng đất
không bằng phẳng với diện tích 16.187-20234m2 (4-5 acres), lác đác đó đây
25. vài căn nhà, bể chứa nước, tường cao và các sân rộng. Lâu đài trở nên cũ kỹ
và hư hao theo thời gian cùng mưa gió, nhưng nó vẫn được bảo tồn tốt hơn
các lâu đài khác trong vùng.
CALAH Ngày nay được gọi là Nimrud, ở cách Ni-ni-ve 20 dặm về phía
nam, trên bờ sông phía tây của ông Tigris. Theo SaSt 10:11 thì nơi đây được
Nim-rốt xây trước tiên: "Nim-rốt đi đến A-si-ri tại đó ông xây Ni-ni-ve,
Rehoboth Ir, Calah."
Henry Layard bắt đầu thăm dò mô đất vào năm 1845 và tìm thấy tàn tích của
những bức tường thành phố cổ đại có kích thước 2134m x 168m (7000feet x
5500feet). Phía trong những bức tường ấy ông tìm thấy tàn tích cung điện
của ba vị vua: Ashurnasirpal (885-860 TC), Shalmaneser III (860-825 TC)
và Esarhaddon (680-669 TC) cùng với nhiều công trình điêu khắc trên
tường. Trong số đó, công trình điêu khắc gây hứng thú nhất là một loạt
những ghi nhận về sự thắng lợi của Tiglath-Pileser III, Phun vua của A-si-ri
trong IIVua 2V 15:19 Những hình vẽ nầy cho thấy, theo kiểu đồ thị, việc
triệt thoái khỏi thành phố, những cuộc hành quân gắn liền với một cuộc vây
hãm, và việc đối xử thô bạo đối với tù nhân. Những công trình điêu khắc nầy
dường như được vua Esarhaddon dọn khỏi hoàng cung cũ và đặt trong
hoàng cung ở Calah.
Tượng Nebo, thần thông thái và sáng tác, được khai quật tại Nimrud và có từ
thời của Adadnirari III (812-782 TC). Sau đây là dòng chữ khắc trên pho
tượng: "Tin cậy Nobo; đừng tin cậy thần khác."
Phù điêu tại hoàng cung của Tiglath-Pileser III cho thấy bốn bức tượng thần
được vác trên vai binh sĩ A-si-ri ra khỏi thành phố bị chinh phục.
Tuy vậy, khám phá quan trọng nhất tại Calah chính là Tượng Đài Đen do
Shalmaneser III dựng lên tại tòa nhà trung tâm. Đó là một đài tưởng niệm rất
rộng, bệ làm bằng đá hoa đen cao 1,97m (6feet6inches) và nhọn dần lên phía
đỉnh. Tượng đài có 20 phù điêu thỏ sơ nhỏ, 5 cái mỗi bên, thể hiện việc các
viên chức của năm quốc gia khác nhau mang cống vật đến dâng cho vua.
Bên trên, bên dưới và ở giữa các phù điêu là 210 dòng chữ khắc hình nêm kể
về thành tựu của vua trong cả chiến tranh lẫn hoà bình, trong suốt 31 năm trị
vì. Trong số những cá nhân được đề cập, có Ha-xa-ên của Đa-mách và Giê-
hu của Y-sơ-ra-ên. Trên tưởng niệm đài của Shalmaneser nói rằng:
Trong thời gian 18 năm trị vì của ta, ta băng qua Ơ-phơ-rát 16 lần. Ha-xa-ên
của Đa-mách đặt sự tin tưởng vào đội quân hùng hậu của ông ta, triệu tập
quân đội với con số khổng lồ, biến núi Senir (sa-ni-ru) đối ngang Li-ban,
thành pháo đài của ông. Ta đã đánh trận với ông ấy và đánh bại ông ta, giết
16.000 binh sĩ tinh nhuệ bằng lưỡi gươm. Ta đoạt được 1121 cỗ xe ngựa,
470 ngựa cưỡi cùng với doanh trại. Ông ta tháo chạy thoát thân nhưng ta
26. đuổi theo đến Đa-mách tận hoàng cung của ông ta. Tại đó, ta phá hỏ những
vườn hoa bên ngoài thành phố và tiến quân cho đến núi Hauran, ta phá hủy,
đốt cháy vô số thị trấn, mang về chiến lợi phẩm nhiều không đếm xuể. Sau
đó ta tiến quân đến tận các ngọn núi của Ba'lira'si, gần bờ biển và dựng lên
một bia khắc có hình ta như là đấng quân vương. Trong thời gian đó ta nhận
cống vật của các dân cư thuộc Ty-rơ, Si-đôn và của Giê-hu, con trai Ôm-ri.
Sau đó trong câu khắc có một đoạn gây nhiều hứng thú cho cả sinh viên
nghiên cứu Kinh Thánh. Nội dung là:
Cống vật của Giê-hu, con trai Ôm-ri: Ta nhận từ hắn bạc, vàng, một cái chén
vàng, một bình vàng đáy nhọn, những chiếc ly (có chân) bằng vàng, những
bức hình bằng vàng, những thỏi chì, vương trượng và những cây lao, ta đã
nhận.
Giê-hu đang quỳ trước mặt Shalmaneser cùng cống vật. Vị quân vương A-
si-ri có hai viên hầu cận đứng cạnh (một người cầm dù che nắng cho vua),
vua đứng kiêu hãnh với biểu tượng của Ashur và Ishtar khắc ở phía trên.
Vua Giê-hu của Y-sơ-ra-ên có chòm râu ngắn, tròn, đội mũ da mềm và áo
ghi-lê không tay, áo đánh dấu ông ta như một tù nhân. Theo sau Giê-hu là
những người Do-thái mặc áo choàng dài mang theo vàng bạc cùng các cống
vật khác. Phù điêu này hết sức quan trọng bởi đó là bức phù điêu chạm trổ
duy nhất mà chúng ta có được về một vị vua Do-thái.
CALVARY hay GÔ-GÔ-THA Cả hai từ - từ thứ nhất bắt nguồn từ tiếng La-
tinh, từ thứ nhì bắt nguồn từ tiếng A-ram - đều có nghĩa là "cái sọ" hoặc
"chỗ cái sọ", đều chỉ nơi Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên cây thập tự (Mat Mt
27:33; LuLc 23:33). Nơi nầy thường được gọi là "đồi sọ" vì là nơi hành hình
(có nhiều sọ người ở đó), hay vì nó giống hình cái sọ người thì cũng chỉ là
sự phỏng đoán.
Địa điểm chính xác chưa được biết đến vì Titus tàn phá Giê-ru-sa-lem vào
năm 70 SC và thành phố đã hoang tàn trong suốt 60 năm. Một số ít Cơ Đốc
nhân trở về đó, và những người đã di tản khi trở về được cũng không còn
nhận dạng được thành phố vì đã bị tàn phá hoàn toàn suốt thời gian dài đến
60 năm. Kinh Thánh chỉ đề cập đến sự kiện ác nghiệt (?) xảy ra bên ngoài
bức tường thành, trên một chỗ mà ai cũng có thể thấy từ xa. Nó gần một
cổng thành, gần một lòng đường, hiển nhiên là đi xuyên qua cổng và gần nơi
hành hình (GiGa 19:20; HeDt 13:12; LuLc 23:49; Mat Mt 27:39). Giăng đề
cập đến ngôi mộ nằm trong một vườn hoa gần đó (GiGa 19:47).
Nhiều địa điểm khác nhau đã được gợi ý nhưng chỉ có hai nơi là đáng
nghiên cứu cáchnghiêm túc. Thứ nhất là trong Nhà Thờ Thánh Mộ; hai là
Calvary của Gordon với Ngôi Mộ Hoa Viên ở đó.
Nhà Thờ Thánh Mộ đã tồn tại như sau: Vào năm 312 SC, Constantine thấy
27. một khải tượng về một thập tự giá trên không trung, với dòng chữ "Chiến
thắng bởi vật nầy." Ông đã chọn thập tự làm quân kỳ, sau sự thành công lạ
thường cùng với nỗ lực của ông, cuối cùng Constantine trở thành đại đế của
châu Âu và Tây Á. Ao ước được đền ơn Đấng Christ và Cơ Đốc giáo, ông
đã nhờ mẹ ông là Helena sang Đất Thánh để tìm kiếm ngôi mộ đã chôn
Chúa Giê-xu. Với sự giúp đỡ của Eusebius là giám mục của Sê-sa-rê và
Macarius là giám mục của Giê-ru-sa-lem, người ta đã dọn đống gạch vụn
khỏi một mô đất, phát hiện một ngôi mộ gần đó. Tại đây người ta tìm thấy
ba cây thập tự, và các bằng chứng khác đã làm cho họ gọi nơi đó là Calvary,
và ngôi mộ phải là một trong những ngôi mộ mà Chúa đã nằm.
Helena loan truyền tin ấy, cộng đồng Thiên Chúa giáo hồ hởi và hoàng đế
Constantine dựng lên một nhóm tòa nhà tráng lệ trên địa điểm "được khám
phá một cách kỳ diệu." Tất cả những công trình ấy hoàn tất và làm lễ dâng
vào năm 335 SC, đặt tên là Nhà Thờ Thánh Mộ. Vào năm 333 SC, lúc nhà
thờ chưa hoàn tất, một nhóm người mộ đạo từ Bordeaux (Pháp) hành hương
đến dây đã mô tả đó là "một nhà thờ với vẻ đẹp thần kỳ."
Tòa nhà đã đứng vững cho tới năm 614 SC thì bị Chosroes II san bằng. Nhờ
sự quyên góp của dân chúng mà nhà thờ được tái thiết và bị tàn phá vào năm
1010 bởi cái gọi là "Caliph Hakem điên cuồng." Với thời gian 38 năm tái
thiết, rồi sau đó bị thập tự quân chiếm đóng khi họ tiến quân vào Giê-ru-sa-
lem năm 1099. Ngay tức thì, họ nới rộng và chỉnh trang công trình ấy, để rồi
bị cháy vào tháng 9 năm 1808. Sau đó người ta quyên góp được ba triệu đô-
la và một nhà thờ khác mọc lên ở đó, dầu không lớn và đẹp như ngôi nhà thờ
trước, và nó tồn tại đến hôm nay, và là niềm kiêu hãnh vinh quang của
những Cơ Đốc nhân phương đông. Đó là một kiến trúc kép, che lên cả phần
đóng đinh Chúa và phần mộ được cho là của Chúa. Ở đây có những nhà
nguyện ngăn riêng ra cho người Công giáo La-mã, Chính thống Hy-lạp,
người Ạc-mê-ni Gregory, người Copt, người Gia-cô-bi.
Chính Thánh Mộ được đặt trong gian phòng lớn hình tròn ở tận phía tây của
gian giữa nhà thờ, tại đó từng nhóm tín đồ Cơ Đốc thay phiên nhau thờ
phượng vào những dịp đặc biệt. Cách đó vài mét, cao hơn ngôi mộ khoảng
1,52m là "cây thập tự thật" gắn đầy những ngọc chạm và đá quý trị giá hằng
triệu đô-la. Gần đó là một khe nứt trong tảng đá được người ta cho là do
động đất mà có vào lúc Chúa bị đóng đinh.
Đối với người Cơ Đốc thì không có nơi nào bị cho là khủng khiếp và lại
được tôn kính bằng tòa nhà có tên "Nhà Thờ Thánh Mộ". Không có nơi nào
đã được đấu tranh và mong mỏi bằng nơi ấy. Người ta ước tính rằng hai
phần ba tín đồ Cơ Đốc trên thế giới yêu mến nơi nầy hơn hẳn những nơi
khác bởi vì họ tin rằng cái đồi phải là Gô-gô-tha và ngôi mộ là nơi Chúa bị
đóng đinh và chôn ở đấy. Tuy vậy thì nơi đó nằm phía trong những bức
28. tường hiện nay của Giê-ru-sa-lem và nhiều người thắc mắc ước gì nó không
nằm phía trong các bức tường của thành phố Hê-rốt.
Calvary của Gordon và Ngôi Mộ Hoa Viên nằm trên ngọn đồi riêng lẻ màu
xám ở phía bắc Giê-ru-sa-lem, "một khoảng ngắn có thể ném đá tới" từ bức
tường cổ, và khoảng 213,4 (700feet) bên ngoài cổng Đa-mách, là một địa
điểm nổi bật trải ra trên một diện tích độ 12140,4m2 và có thể nhìn thấy rõ
ràng từ mọi hướng. Là một ngọn đồi cao hơn khu vực chung quanh khoảng
12,2m-15,2m (40-50feet), sườn đồi quay về phía thành phố, đỉnh đồi có hình
tròn trông hao hao giống như chiếc sọ người. Có những hang như là hốc
mắt, một tảng đá nhô ra như là cái mũi, một cái khe dài như là cái miệng và
một cái gò phía dưới như là cái cằm - "một sự giống nhau khá rõ rệt được
bắt gặp trong hầu hết những tương đồng thiên nhiên, được người ta nhân ra
một cách phổ biến tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới."
Vào năm 1842 Otto Thenius của Oresden nghiên cứu tỉ mỉ ngọn đồi nầy và
cho rằng nó là Gô-gô-tha. Ông ta chỉ ra rằng theo truyền thuyết của người
Do Thái thì đó là nơi để ném đá, nơi đó nằm ngoài thành phố, vì lẽ ấy nó có
hình dạng cái sọ người (!). Rồi đến một ngày của năm 1885, một đại tướng
trong quân đội Anh là Charles G.Gordon, cũng là một Cơ Đốc nhân danh
tiếng đang đi bộ bên ngoài bức tường phía bắc của Giê-ru-sa-lem. lúc đó ông
ta quan sát, nghiên cứu sự hình thành các tảng đá có hình sọ người. Ngay khi
trở về khách sạn, ông nói "Hôm nay tôi phát hiện đúng chỗ của Calvary."
Tướng Gordon viết thư cho em gái và những người khác về sự phát hiện
nầy, ba năm sau ông bị sát hại tại Khartoum, châu Phi. Lew Wallace,
Captain Condor và những người khác đều đồng ý với quan điểm của
Gordon. Vì thế mà sau một thời gian, người ta đã mua một phần mảnh đất
phía tây đồi sọ. Trong khi khai quật người ta tìm thấy một vườn hoa cổ đại,
trong đó một ngôi mồ đã từng bị niêm phong bởi một hòn đá lăn. Sự khai
quật gần đó cho thấy những phần mộ của Cơ Đốc nhân ngày xưa.
Một công ty của tín đồ Tin Lành người Anh đã mua nơi đó và đặt một người
canh giữ ngôi mộ. Ngày nay nơi nầy được nổi tiếng với tên Calvary của
Gordon và Ngôi Mộ Hoa Viên. Ngôi mộ chẳng có sự trang trí hoặc phô
trương, và chính như vậy càng làm cho ngôi mộ gây ấn tượng hơn. Chẳng có
ai thờ phượng nơi đó và chúng ta tin tưởng rằng họ sẽ chẳng bao giờ làm
vậy, nhưng nhiều buổi lễ Phục Sinh tiếng tăm đã được cử hành ở đây.
Moody và Talmage đã giảng đạo tại đây, và hàng trăm ngàn người từ bốn
phương trời tụ tập ở đây một cách tôn kính, trong một chừng mực bé nhỏ, họ
cảm nhận được năng lực và tính bình dị trong lời nói của thiên sứ: "Hãy đến
xem chỗ Ngài đã nằm" (Mat Mt 28:6).
Nhiều cuộc khai quật đã được thực hiện và nỗ lực nhằm lần ra dấu vết của lộ
trình mà bức tường phía bắc phải được lấy đi trong thời của Chúa Giê-xu