SlideShare uma empresa Scribd logo
1 de 24
Baixar para ler offline
Tôi quan niệm tiểu thuyết như một giấc mơ dài.
                                                              Hồ Anh Thái




      "Tiểu thuyết như là một giấc mơ ẩn chứa những điều không có thực ở
ngoài xã hội. Thực chất tiểu thuyết là một câu chuyện bịa đặt nhưng nó còn
thật hơn cả sự thực" (Hồ Anh Thái). Với khát vọng kể những câu chuyện
thực hơn cả sự thực ấy, Hồ Anh Thái đã miệt mài trên những trang giấy để
viết lên những câu chuyện của riêng mình về cuộc sống: Phía sau cổng
trời, Cõi người rung chuông tận thế … và gần đây là Mười lẻ một đêm,
một tác phẩm gây xôn xao văn giới.
      Mười lẻ một đêm là một câu chuyện rộng lớn về cuộc sống thể hiện
một cái nhìn bao quát, khả năng phản ánh và phân tích những tồn tại trong
xã hội, một tài bút hài hước kiểu mới của tác giả. Tác phẩm một lần nữa
khẳng định vị trí của Hồ Anh Thái, thể hiện những bước tiến dài của ông
trong nghệ thuật tiểu thuyết. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không
tìm hiểu toàn diện về tác phẩm Mười lẻ một đêm mà chỉ giới hạn trong
việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết để từ đó nhận diện những
mảng hiện thực đời sống trong sáng tác của nhà văn, tìm hiểu về phong
cách độc đáo của ông.
       Trước hết, "Trần thuật là một phương thức cơ bản của tự sự, một
yếu tố quan trọng tạo nên hình thức của tác phẩm văn học. Cái hay, sức
hấp dẫn của một truyện ngắn hay tiểu thuyết phụ thuộc rất nhiều vào nghệ
thuật kể chuyện của nhà văn. (187,18). Vai trò đậm nhạt của trần thuật còn
phụ thuộc vào đặc điểm của thể loại, những khuynh hướng phát triển của
thể loại ấy. Trong địa hạt của tác phẩm tự sự nói chung và tiểu thuyết nói

                                                                          1
riêng, nghệ thuật trần thuật đóng vai trò tối quan trọng. Nó không chỉ là yếu
tố liên kết, dẫn dắt câu chuyện mà còn là bản thân của câu chuyện. Khi mà
cốt truyện không còn đóng vai trò xương sườn, nhân vật bị xoá mờ đường
viền cụ thể thì yếu tố trần thuật là chìa khoá mở ra những cánh cửa của
truyện. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 đã có những bước phát triển mạnh
mẽ theo những khuynh hướng phức tạp khác nhau. Trong đó, khuynh
hướng tiểu thuyết tự sự là một trong những khuynh hướng tiêu biểu và có
nhiều tác phẩm kết tinh (Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thượng đế
thì cười của Nguyễn Khải, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài…) Trong những
trang viết đậm chất tự sự ấy, yếu tố trần thuật đóng vai trò quan trọng và
thực tế đã cho thấy, lối trần thuật mới lạ, đầy cách tân của Bảo Ninh,
Nguyễn Khải, Phạm Thị Hoài đã góp phần lớn tạo nên tên tuổi của những
nhà văn này.
         Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi muốn nhấn mạnh vai trò của
yếu tố trần thuật trong tiểu thuyết nói chung và trong tiểu thuyết tự sự nói
riêng.
         Mười lẻ một đêm ra mắt bạn đọc năm 2006, khi mà tiểu thuyết Việt
đã có nhiều những trang viết thành danh, thể hiện rõ lối cách tân mạnh mẽ.
Nhưng Hồ Anh Thái vẫn không bị che mờ bởi những tên tuổi cùng thời và
của cả chính mình, ông vẫn thể hiện một lối trần thuật riêng, có sự nối tiếp
của những sáng tạo trước đó của mình và có những bước tiến rõ rệt, thể
hiện một văn tài đáng chú ý.
         Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong
Mười lẻ một đêm qua các khía cạnh sau:
         1. Sự dịch biến của điểm nhìn trần thuật.
         2. Người trần thuật trung tâm và người trần thuật đổi vai.
         3. Hợp xướng giọng điệu.
         4. Ngôn ngữ trần thuật đa thanh.

                                                                           2
1. Sự dịch biến của điểm nhìn trần thuật.



        Vấn đề điểm nhìn trần thuật trong văn bản, theo Iu Lôtman "bao giờ

cũng là vấn đề quan hệ giữa sáng tạo và cái được sáng tạo", nhà văn đặt

mình ở vị trí nào để quan sát và thể hiện những nhận suy về cuộc sống.

        Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, điểm nhìn nghệ thuật luôn có sự

chuyển hoá. Không có một điểm nhìn cố định, bất biến, duy nhất trong tác

phẩm của nhà văn. Điểm nhìn trong "Mười lẻ một đêm" có sự dịch biến

trong không gian, thời gian và từ bên ngoài vào bên trong.

        Câu chuyện ngay lúc đầu được xác định trong giới hạn không gian là

"trong căn hộ trên tầng sáu (7-2) nhưng câu chuyện được kể không giới

hạn trong cánh cửa mà xảy ra ở cuộc sống ngoài kia, nhốn nháo và đầy

nghịch lí. Không gian mở rộng từ khoảng hẹp là thành phố, nông thôn rồi

rộng hơn là không gian các nước khác như nước Mĩ, các nước Châu Âu. Đó

không chỉ là không gian xã hội bao quát mà còn là không gian riêng tư của

những gia đình, phòng trà, phòng khách, không gian chính giới, học thuật

… Tất cả đều được mở ra cả chiều rộng và chiều sâu.

        Điều đáng chú ý là điểm nhìn luôn được dịch chuyển linh hoạt, từ toạ

độ ban đầu (căn phòng) chuyển đến các không gian rồi quay trở về toạ độ

cũ, lại tiếp tục dịch chuyển. Tưởng như điểm nhìn ấy có một toạ độ trung

tâm : căn phòng và những toạ độ biên, các không gian rộng mở, những

không gian hẹp khác. Giữa các toạ độ ấy luôn có sự liên kết, song chiếu lẫn

nhau.
                                                                          3
Song trùng với sự dịch chuyển của điểm nhìn không gian là sự thay

đổi của điểm nhìn thời gian. Thời gian hiện tại, quá khứ, thời gian cuộc đời,

thời gian thực và thời gian trong truyện cổ. Điểm nhấn của tác phẩm là sự

chuyển hoá linh hoạt giữa thời gian cuộc đời trong tác phẩm. Kết cấu

"truyện trong truyện" tạo đà cho sự đan xen thời gian cuộc đời của các nhân

vật. Từ người đàn ông (anh), người đàn bà (chị) đến hoạ sĩ trồng chuối hột,

người mẹ, giáo sư 1, giáo sư 2… Sự chuyển biến linh hoạt giữa điểm nhìn

thời gian cuộc đời tạo nên sự xen kẽ những câu chuyện một cách tự nhiên.

Nó cũng thể hiện sự đa phức của mảng hiện thực nhà văn phản ánh. Ở đó

không chỉ có câu chuyện của người kể mà còn câu chuyện của biết bao số

phận, không chỉ có chuyện của quá khứ hay hiện tại mà còn là sự dịch

chuyển từ quá khứ đến hiện tại, sự đối sánh từ hiện tại trở về quá khứ …

       Sự vận động chuyển hoá linh hoạt của điểm nhìn nghệ thuật không

chỉ diễn ra trong không gian, thời gian, nó còn luôn chuyển hoá giữa điểm

nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong. Sự chuyển hoá điểm nhìn bên ngoài

và bên trong xuất hiện nhiều trong tác tiểu thuyết mở đường của văn học

hiện đại sau 1975 như Nỗi buồn chiến tranh, Thiên sứ, Bến không chồng

… nhưng đến tác phẩm này, nó có sự khác biệt. Hồ Anh Thái ngay từ

những trang mở đầu tiểu thuyết đã tự giới thiệu sự tham dự của tác giả

trong truyện và đối thoại với bạn đọc " chính xác thì không đúng mười lẻ

một ngày nhưng thực sự là bao nhiêu thì độc giả phải theo dõi hết cả cuốn

sách thì mới biết được. Chẳng phải tác giả giữ mánh hay giấu bí quyết gia

truyền mà cái gì cũng phải tuần tự (7,2). Những lời đối thoại có tính chất


                                                                           4
giáo đầu như thế đã thể hiện rõ điểm nhìn bên ngoài của tác giả khi trần

thuật truyện. Điều này phù hợp với câu chuyện kể chuyển vai theo lối

truyện cổ Nghìn lẻ một đêm. Nhưng điểm nhìn bên ngoài ấy luôn chuyển

hoá, vận động vào điểm nhìn bên trong. Khi tác giả viết, "chị bây giờ là vợ

ông Vip, một nhân vật chỉ mới nghe tên đã biết thế lực đến mức nào. Vợ của

một ông lớn, một mệnh phụ phu nhân, thuộc loại danh gia vọng tộc bắc bậc

kiêu kì. Tư thế ấy không cho phép dính vào bất kì một nhà nghỉ vớ vẩn nào.

Vị trí ấy không cho phép hở hang bất kì một chi tiết riêng tư nà trước mắt

người đời (11, 21) thì đã đã có dịch chuyển điểm nhìn. Người trần thuật ở

đây vẫn là tác giả nhưng điểm nhìn đã đặt trong nhân vật để thể hiện những

suy ngẫm, tiếng nói riêng của nhân vật. Và sự chuyển hoá như vậy xuất

hiện dày đặc trong tiểu thuyết. Có những đoạn không tách bạch điểm nhìn

bên ngoài và bên trong. Bởi vậy mà những lời nhận xét, giễu nhại trong tác

phẩm có khi là lời của nhân vật nhưng cũng có lúc lại chính là lời bàn của

tác giả. Nhà văn và nhân vật của mình có khi tách bạch có khi lại hoà nhập

trong nhau.

      Sự di chuyển linh hoạt của điểm nhìn nghệ thuật trong không gian và

thời gian, từ bên ngoài vào bên trong và ngược lại đã khiến cho hiện thực

được trần thuật được soi sáng từ nhiều góc cạnh, đa chiều hơn. Nhà văn lúc

là người ngoài cuộc chứng kiến hết thảy, lúc là người nhập cuộc vào nhân

vật, lúc lại không phân định được tiếng nói của nhà văn hay của nhân vật.

Điều đó tạo nên sự phức điệu của nhân vật, giọng điệu trần thuật. Trang văn

vì thế mà rất hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc một cách mạnh mẽ.


                                                                         5
2. Người trần thuật trung tâm và người trần thuật đổi vai.



      Hồ Anh Thái không xưng tôi như trong các truyện tự sự mà xưng là

tác giả và đối thoại với độc giả ngay từ những trang truyện dầu tiên của tiểu

thuyết. Sự công khai vị trí của người viết và người đọc thể hiện nhà văn

tham dự vào câu chuyện một cách khách quan và mời gọi người đọc cùng

tham dự.

      Tác giả là nhân vật trong tác phẩm, người kể câu chuyện được chứng

kiến, người trần thuật trung tâm hàm ẩn. Các nhân vật cũng lần lượt kể

những câu chuyện của riêng mình, chuyển vai trần thuật liên tục. Điều này

vừa giống lại vừa khác nhân vật kể chuyện trong truyện cổ Nghìn lẻ một

đêm. Nếu như trong truyện cổ, nàng Chahrazahe là người kể câu chuyện

chính, là sườn chung cho câu chuyện và các nhân vật còn lại là những

người "kể chuyện dây chuyền" đứng lên kể những câu chuyện cổ khác thì

trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, vai kể tác giả, người đàn ông, người đàn

bà là những vai kể ban đầu, khơi mở, có thể xem là những vai trần thuật

trung tâm, những người trần thuật còn lại là những người trần thuật đổi vai.

Nếu như sự dịch chuyển điểm nhìn trong không gian, thời gian luôn có sự

hướng tâm về không gian trong nhà chung cư, thời gian hiện tại thì nhân vật

trần thuật cũng có sự chuyển vai hướng tâm về người đàn ông (anh) và

người đàn bà (chị). Nhưng sự chuyển đổi không theo trật tự tuyến tính cũng




                                                                           6
không theo kiểu vòng tròn mở kết duy nhất như trong câu chuyện cổ Nghìn

lẻ một đêm mà có dịch dịch biến linh hoạt, cắt ngang liên tưởng tuỳ hứng.

      Điểm nhấn của những nhân vật trần thuật là những nhân vật không

tên, không mặt. Nhân vật được gọi theo ngôi nhân xưng thứ 3: anh, chị,

theo chức danh xã hội, nghề nghiệp như hoạ sĩ trồng chuối hột, ông Vip, là

thằng bé hàng xóm, người cá, giáo sư I, giáo sư II … Đó là sự xóa nhoà

những đường viền nhân vật. Con người được định danh qua những cái bên

ngoài mình, là địa vị xã hội, nghề nghiệp chứ không phải do đặc điểm riêng

(tên cũng là một đặc điểm riêng khu biệt con người). Nó đặt ra vấn đề sự

nhạt nhoà của cá thể trong xã hội. Cuộc sống hiện đại với sự xoay vòng của

vô vàn những chuỗi vấn đề khác nhau khiến con người không đủ thời gian

và cũng không đủ quan tâm để nhớ đền một cái tên, chỉ nhớ đến vị trí ông

Vip, vợ ông Vip, hoạ sĩ, hàng xóm… Nó cũng đặt ra tính cách tiêu biểu của

người hiện đại : sự thực dụng. Ngay cả việc ghi nhớ cũng rất thực dụng, chỉ

nhớ đến những điều có liên quan thiết thân với mình và bỏ qua những

đường nét khác. Một tên gọi không có giá trị, chỉ vị trí của người mang tên

gọi ấy mới có liên quan đến người ghi nhớ. Vì vậy mà xu hướng chung của

con người thời hiện đại là ghi nhận về địa vị, chức năng, nghề nghiệp của

nhau. Điều này gợi đến chi tiết trong Thương nhớ đồng quê của Nguyễn

Huy Thiệp, nhân vật cô gái đến từ thành phố- Quyên - không sao nhớ được

tên của Nhâm, người đưa cô đi chơi suốt những ngày ở quê những lại nhớ

chính xác mức tăng giá của các mặt hàng. Hồ Anh Thái và Nguyễn Huy




                                                                            7
Thiệp đã gặp nhau trong cách nhìn về kiểu loại con người trong xã hội

đương đại.

      Sự xoá nhoà tên gọi còn như một cách định danh chung cho con

người của thời đại mới, bộ đồng phục chung của từng lớp người trong xã

hội. Sự vận động phức tạp, chuyển biến nhanh chóng của xã hội không tạo

nên những cá thể có đặc điểm riêng mà phân loại con người thành những

tiểu loại mà nếu chỉ phác hoạ một chân dung ta sẽ có thể gặp đặc điểm

chung của những con người thuộc tiểu loại đó. Giáo sư I, giáo sư II là chân

dung của một số những trí thức trong xã hội, không cập nhật tri thức nhưng

luôn háo danh, hãnh tiến hay chân dung của hoạ sĩ trồng chuối hột cũng là

sự phác hoạ về một lượng người làm nghệ thuật trong thời đại mới, tài năng

và sự sáng tạo không phải là yếu tố hàng đầu làm nên tên tuổi của họ mà

chính là sự nhạy bén, khả năng phân tích thời thế, thị trường.

      Sự xuất hiện của nhân vật trần thuật trung tâm và nhân vật trần thuật

đổi vai cho thấy những sáng tạo riêng của nhà văn. Và những đặc điểm của

nhân vật trần thuật cho thấy người trần thuật trong tác phẩm vừa giữ vai trò

dẫn chuyện, kể chuyện vừa là trung tâm của câu chuyện. Qua xây dựng

nhân vật trần thuật, Hồ Anh Thái đã thể hiện phần nào cách nhìn nhận, đánh

giá về cuộc sống còn người thời hiện đại.




                                                                          8
3. Hợp xướng giọng điệu.


      Giọng điệu trần thuật là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu
trong nghệ thuật tự sự. Đại văn hào Lep Tônxtôi đã từng nhận xét " Cái khó
nhất khi bắt tay viết một tác phẩm mới không phải chuyện đề tài, tài liệu mà
phải lực chọn một giọng điệu thích hợp". Như vậy cái quan trọng không
phải là viết về những cái gì, mức độ phức tạp của những vấn đề được trình
bày trong tác phẩm mà chính là cách thể hiện, thái độ của nhà văn về những
điều mình thu nhận từ cuộc sống.
      Hồ Anh Thái là một "người kể chuyện có duyên" và có giọng đặc sắc
riêng. Một trong những yếu tố góp phần quan trọng tạo của cái duyên và
đặc sắc ấy chính là giọng điệu trần thuật. Ngay từ những trang viết đầu tiên,
nhà văn đã tạo chú ý về một lối kể chuyện hài hước sâu sắc riêng. Và đến
những tác phẩm đạt độ chín nghệ thuật như Bốn lối vào nhà cười, Cõi
người rung chuông tận thể, Mười lẻ một đêm … nhà văn đã khẳng định
được phong cách riêng của mình.
      Trong sáng tác của Hồ Anh Thái luôn có sự tham dự của dàn
hợp xướng giọng điệu, hài hước, giễu nhại, trữ tình, triết lí … Sự hoà
điệu của các giọng khác nhau tạo nên một lối kể chuyện nhiều bè,
những cách nhìn nhận khác nhau về cuộc sống của nhà văn.
      Trong tác phẩm này, hài hước, giễu nhại là chủ âm của bè giọng điệu.
Hài hước được hiểu như một kiểu giọng vui đùa pha trò, cười cợt và châm
biếm nhẹ nhàng chừng mực với mọi hiện tượng đời sống. Nó xuất hiện
nhiều trong các tiểu thuyết sau 75. Điều đó xuất phát từ những đổi thay của
xã hội, bởi "tiếng cười chỉ tồn tại thực sự trong một quan hệ dân chủ, bình
đẳng giữa nhà văn và đối tượng chiếm lĩnh của văn học, đó là sự xóa bỏ

                                                                           9
khoảng cách sử thi, phi huyền hoặc, phi thành kính. Nó đem lại cho nhà văn
điểm tựa có cơ sở thực tiến, điểm tựa tâm lí để chống lại thói quen lí tưởng
hoá thi vị hoá, giản đơn và dễ dãi" (20, 9).
       Nếu như tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một chuỗi cười
dài thì Mười lẻ một đêm cũng là một tràng cười liên thanh. Tiếng cười có
tính chất bao quát những bình diện trong cuộc sống. Nó thể hiện qua giọng
nhại "vỡ Gia Lâm chạy về Thái Hà lập căn cứ địa mới, vỡ Thái Hà chạy về
Hoàng Quốc Việt lập lại chiến khu (8,2) hay "đa dạng hoá và đa phương
hoá. Đấy là phương châm của người đàn bà lấy chống không biết mệt này",
ở sự nhầm lẫn của ngôn từ "Tìm cho tớ xem ông trồng chuối họt ở đau?
Nộm hoa chuối à, tớ biết một nơi nhậu có nộm hoa chuối đậm đà khó quên,
đến nhà hàng ở Láng Hạ nhé(14,2) hay là sự hiểu nhầm "ngon không? chỉ
tay vào đĩa thịt chó. Hồng Kông hiểu ngay. Ô gút gút. Bốn ông Việt Nam rộ
lên theo gút gút. Đấy hiểu nhau rồi, dễ thế. Hồng Kông khen thêm một tiếng
ngon dilisớt. Nó bảo sốt sốt cái gì? Thịt chó không chấm sốt. Đồ ngu. Có
thế mà thông ngôn không đầu sỏ vẫn vui. (35,2). Ngôn ngữ bị chia cắt, hiểu
nhầm tạo ra khoảng đứt gãy ý niệm. Mỗi người theo đuổi một suy nghĩ
riêng, cách hiểu riêng và đến cuối cùng họ vẫn không hiểu được nhau.
      Giọng mỉa mai châm biếm là một cung bậc cao hơn của giọng cười
cợt, thể hiện rõ thái độ của tác giả. Nhà văn mỉa mai những công trình xây
dựng nửa vời, " Công trình hiện đại nào ở xứ này cũng có cái không đồng
bộ. Chung cư có thang máy sang trọng, có hệ thống dịch vụ bài bản. Nhưng
tình trạng mùa hè thiếu điện thiếu nước sao cũng có lúc trục trặc thang
máy, cư dân từ tần hai đến tầng chín đều phải leo bộ lên đỉnh Evơrit. Sao
tránh được lúc nước không bơm lên được tầng cao. Gọi xe chở nước đến
mya thì chỉ tầng hai trở xuống mua được nước, các tầng trên phải mang xô
mang chậu xuống mà xách lên hay sao?" (23,2), tình trạng du học sinh



                                                                         10
"Con học trong nước không ra gì là cho du học, sang đấy trường giỏi, thầy
giỏi nó sẽ giỏi" (149,2), tình trạng xã hội nhốn nháo.
       Nhà văn đặc biệt dành nhiều trang viết bàn luận về thực trạng nghệ
thuật, về hội hoạ: " Vẽ hoạ tiết âm dương. Vẽ thời trang thương nhớ đồng
quê, gầu nước đen, gầu nước đèn dầu tường đất. Vẽ thế được một lúc thì tự
thấy tranh mình có chiều sâu triết học, có cảm xúc cội nguồn quê
hương."(31,2) nghệ thuật sắp đặt " Cả nhóm làm hội hoạ sắp đặt. Cả nhóm
làm hội hoạ biểu diễn. Bày mấy cái chậu nhựa trên vỉa hè. Treo lủng lẳng
trên mỗi chậu một cái nón. Rôi cầm vòi nước tưới lên nón cho rơi mưa
xuống chậu. Thế là hoành chỉnh một tác phẩm."(31.2), điện ảnh: "Đạo diễn
chủ nhiệm mỗi người xây được biệt thự mua được cả trang trại nhờ làm
phim. Chỉ có điều phim là ra không ai xem. Điên mới xem. Một câu chuyện
giả tạo từ đầu đến đuôi. Những triết lý cao thượng giả dối, Những nhân vật
ra vào phim như đi chợ bất chấp lôgic, vài tự nhiên ra mất hút.(137,2) …
Không chỉ nêu lên những vấn đề tồn tại, bằng giọng mỉa mai châm biếm
pha triết lí, Hồ Anh Thái còn khái quát lên bệnh của số đông những người
làm nghệ thuật: "mắc bệnh hoang tưởng nghệ sĩ, mình còn chẳng biết mình
là ai, thì thế giới xung quanh đều chỉ nhìn qua một màn sương mù của kẻ
lệch lạc "(138.2). Đó là một cái nhìn thẳng thắn và có chiều sâu suy
nghiệm. Những ảo tưởng, hư danh không làm sáng lên tên tuổi của những
người làm nghệ thuật mà chỉ đẩy họ đi sâu hơn vào con đường mù mờ về
cuộc sống.
      Không chỉ tập trung mổ xẻ những vấn đề của giới nghệ sĩ, Hồ Anh
Thái còn tập trung châm biếm giới giới trí thức. Từ những vấn đề như hội
thảo quốc tế, "hội thảo của ta tổ chức, một trường một viện đứng ra làm hội
thảo kéo vào được một vài nghiên cứu sinh nước ngoài đang sống ở Việt
Nam đến lập tức được điềm nhiêm đi kèm chữ quốc tế. Tính chất hội thảo
đã khác(185,2), đến việc làm luận văn, viết sách, phong hàm. Nhà văn bóc

                                                                        11
trần chân dung trí thức, "chỉ có duy nhất hai ông nói tiếng Việt trong một
hội thảo nói tiếng Anh" hay "nhà văn hoá lớn đang vục đầy vào ăn. Nhai
chòm chọp. chèm, chẹp (…) Cả một vùng bán kính một mét quanh chỗ ông
ngồi, món ăn đã bị cày bừa lật gạt bốc bải ngổn ngang (174,2). Những nét
điểm qua không bàn luận nhưng thể hiện rõ sự châm biếm sâu sắc. Biện
pháp đối lập được sử dụng triệt để để phản ánh nét hào nhoáng bên ngoài và
sự sa đọa bên trong, hư danh và bản chất thực. Lời kết cho những bức tranh
biếm hoạ là sự ngậm ngùi, bất lực, "từ lúc nào chị đã từ bỏ ý nghĩ sửa sang
thế giới. Người ta phải sửa sang chính mình cho phù hợp với thế giới. Chị
làm sao sửa sang được cái tính tham ăn của Gs 1 (…) làm sao sửa được cái
hám danh làm thơ viết nhạc của GS2, cả cái tính tính sờ hiện vật của Gs 2
nữa (175, 2). Nhân vật người đàn bà, trước đó còn là một người rất hăng hái
tham gia hoạt động xã hội, dũng cảm và nhiệt tình xung phong làm công
việc không ai muốn là đi lập biên bản nhà văn hoá có thói quen đái bậy
nhưng rồi sau đó chính nhân vật cũng phải ngậm ngùi đầu hàng. Sự ngậm
ngùi ấy thể hiện sự bất lực, cả những xót xa và cay đắng. Một con người với
sức lực cá thể không làm sao xoay chuyển được những thói tật đang ăn sâu
trong con người.
      Lớp nghệ sĩ và trí thức đều có tính thị dân rõ nét, không làm sao gột
rửa được những thói tật ấy để có thể xứng với vị trí thực của mình trong xã
hội. Những điều đó đã tồn tại một thời gian dài và bùng phát trong thời đại
mới. Những câu chuyện ấy không phải bạn đọc giờ mới được nghe nhưng
bạn đọc vẫn thấy thích thú, hấp dẫn. Bởi không chỉ phơi trần sự thực, nhà
văn còn phân tích, bóc tách, chỉ ra những bệnh trầm kha hiện tồn, bệnh sĩ
diện hão, bênh hoang tưởng, bệnh tự tôn ... Bằng giọng điệu cười cợt, châm
biếm, nhà văn đã hạ bệ tất thảy những vỏ ngoài hào nhoáng để bóc tách
hiện thực trần trụi của mọi vấn đề, phản ánh chân thực hiện trạng của cuộc
sống, con người.

                                                                        12
Câu hỏi của nhân vật người đàn bà (chị) trong tác phẩm . " nhưng
thực tế hơn có phải là bằng lòng với thế giới sẵn có? Và chấp nhận? (175,
2) như là khoảng lặng suy ngẫm. Dù đã tự thừa nhận sự bất lực của mình
nhưng trong thâm tâm vẫn luôn trở trăn suy nhẫm. Câu hỏi không chỉ là sự
tự vấn mà còn là sự mời gọi câu trả lời trong lòng người đọc. Sự mời gọi
tham dự ấy như là điểm tựa của tác phẩm. Dù sao thì giữa cuộc sống vận
hành đảo điên của mọi giá trị này, con người vẫn tỉnh táo để nhận ra bản
chất thực của nó, hoài nghi về những giá trị ảo để thức nhận về mình.
      Song hành với giọng điệu mỉa mai, châm biếm ấy là những khoảng
lặng trữ tình. Trữ tình xen vào những câu chuyện kể tạo nên một khúc vĩ
thanh ấn tượng, đặc biệt là chuyện về người cá. Có lẽ đây là câu chuyện
đậm màu sắc cổ tích nhất trong tác phẩm. Mọi chuyện như được sắp đặt
một cách tình cờ, cuộc gặp gỡ của cô tiên kể chuyện cố tích và người cá,
mối tình chưa biết mặt đã yêu của cô tiên và bố của người cá … Sự tình cờ
đưa đẩy để họ trở thành những mảnh ghép nối của một gia đình nhỏ. Bao
bọc trong không khí của câu chuyện là sự sáng trong của tâm hồn người cá,
sự yêu thương của người đàn bà và người đàn ông. Nhưng cái kết của câu
chuyện cổ thời hiện đại ấy là không có màu sắc thần tiên. Cuối cùng, người
cá chết vì kiệt sức sau một thời gian dài ngâm mình trong bể bơi. Người cá
lại không hề biết bơi và chết vì nước. Đó là một nghịch lí đau xót của cuộc
sống hiện đại. Người mẹ kế yêu thương của người cá lại quên bẵng đứa con
của mình vì đắm chìm với mối tình cũ. Người bố yêu thương nó thì mải
miết cùng chuyến công tác và thậm chí còn không ở bên cạnh nó trong
những giây phút cuối cùng. Gia đình yêu thương tan biến. Những thanh âm
trong trẻo, hạnh phúc nhất trong tác phẩm cuối cùng đã đứt vỡ.
      Đến những phút cuối đời, người cá vẫn "đòi nghe chuyện kể", thằng
Cá thỉnh thoảng lại hỏi xem con chó có đến không?". Nó vẫn mơ hồ về sự
thật của cuộc sống bởi luôn được bao bọc bởi những câu chuyện cổ tích.

                                                                        13
Người cá như một thanh âm lạc lõng trong chuỗi bản nhạc xô bồ. Cuộc
sống đầy nhưng toan tính bon chen, những điều giả trá không thể dung nạp
được một tâm hồn quá đỗi trong trẻo và mù nhoà về cuộc sống như thế. Cái
chết của nó như là một qui luật đào thải nghiệt ngã của hiện thực cuộc sống.
Cái chết của người cá phần nào đó giống với cái chết của nhân vật đứa trẻ 2
tuổi trong Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái) hay sự ra đi của
bé Hon trong Thiên sứ (Phạm Thị Hoài). Những nhân vật ấy đều ra đi khi
chỉ mới là những đứa trẻ. Dường như sự sáng trong, thánh thiện đến mù mờ
về cuộc sống không thể tồn tại trong xã hội đầy những biến động đổi thay,
đầy những toan tính vụ lợi này Sự ra đi hiểu theo một cách khác thì có ý
nghĩa như là sự bảo tồn của cái đẹp. Tâm hồn sáng trong ngây thơ của
người cá sẽ vĩnh tồn trong lòng người đọc.
      Nếu như giọng điệu hài hước, châm biếm như là một phương thức để
phản ánh cuộc sống, giọng trữ tình là một nốt lặng để nhìn về những điều
tốt đẹp hiện tồn thì giọng chiêm nghiệm triết lí là những thông điệp, những
ngẫm suy của nhà văn đối thoại với bạn đọc.
      Nhà văn thường gửi những ngẫm suy về cuộc sống qua các nhân vật,
đặc biệt là nhân vật người đàn bà : "Từ lúc nào chị đã từ bỏ ý nghĩ sửa sang
thế giới. Người ta phải sửa sang chính mình cho phù hợp với thế giới". Đó
là sự thức nhận về chân lí của một thời đại. Một thời gian dài con người ảo
tưởng về khả năng vẫn xoay vũ trụ, khả năng lay chuyển cả thế giới, cả xã
hội đều là những anh hùng, vĩ nhân. Cái tôi rạn vỡ, hoài nghi, hiểu về giới
hạn của mình mới là cái tôi thực của con người thời đại mới.
       Nhà văn thức nhận đầy xót xa về cuộc đời : "nhưng những điều rốt
cuộc mà đời người mang theo hình như bao giờ cũng nhiều chất ngụ
ngôn"(261,2). Chất cổ tích luôn ít hơn chất ngụ ngôn, đó mới là bản chất
thực của cuộc sống, đời người. Tiểu thuyết này được viết theo lối nhại lại
câu chuyện cổ nổi tiếng Nghìn lẻ một đêm nhưng kết truyện lại phủ định

                                                                         14
chất cổ tích của cuộc đời mà nhấn mạnh chất ngụ ngôn. Đó là một sự đối
thoại trở lại, một sự nhìn thẳng vào hiện thực của cuộc sống.
      Giọng điệu triết lí không phải lúc nào cũng được khái quát thành
câu văn phơi bày trên trang giấy mà đôi khi nó còn ẩn sau câu chữ.
Qua sự lắp ghép những câu chuyện, nhà văn thể hiện quan niệm về số phận
của con người trong xã hội: con người được định vị bằng những tiêu chuẩn
bên ngoài. Các nhân vật đều nối kết với nhau bằng phương tiện truyền
thông: điện thoại di động hoặc internet. Người đàn ông và người đàn bà hẹn
nhau qua điện thoại, liên lạc cầu cứu mọi người qua điện thoại và khi nó hết
pin, họ như lạc vào ốc đảo. Khi chia tay, số điện thoại bị cắt đứt thì họ cũng
không thể nào liên hệ được. Ngay cả vợ của người đàn ông cũng không hay
biết gì về chồng của mình, vẫn tưởng anh chết và chỉ biết thực sự về người
chồng khi    anh gọi điện về thông báo. Như vậy, thông tin cơ bản và phổ
biến nhất về một số phận, một con người chính là dãy số điện thoại. Và khi
không thể biết về những dãy số ấy, con người như lạc hẳn ra khỏi thế giới,
không liên kết được với bất cứ một ai. Chưa lúc nào sự định vị con người
lại chính xác và cũng mong manh như thế.
      Lúc hiện hữu qua lời bộc bạch của nhân vật, lúc thì ẩn sau câu chữ,
giọng triết lí tạo thành một mạch liên kết chặt chẽ các mảng hiện thực, thể
hiện chiều sâu của tác phẩm.
      Các giọng điệu không tồn tại như những âm giai tách biệt mà luôn có
sự đan cài với nhau. Giọng chủ đạo của tác phẩm là giọng cười cợt châm
biếm và sự tham gia, đan xen của giọng trữ tình và giọng chiêm nghiệm
triết lí tạo nên sự phức hợp, thể hiện cách nhìn nhận đánh giá nhiều chiều
của tác giả về hiện thực. Nhà văn không đưa ra lời phán truyền chân lí cũng
không mở ra sự lựa chọn những con đường giải quyết những vấn đề ngổn
ngang trong xã hội mà chỉ là sự quan sát, phơi bày, đánh giá, đúc rút thành
những qui luật … Vai trò dẫn đường, người đi tìm chân lí của nhà văn đã bị

                                                                           15
mờ nhoà, thay vào đó là hình ảnh một nhà văn tham dự, đứng ngang hàng
với nhân vật để đối thoại với bạn đọc.


        4. Ngôn ngữ trần thuật đa thanh.


        Barktin đã viết "ngôn ngữ trong tiểu thuyết mang tính biện chứng và
nhiều lời, giống như lòng của con sông, nơi mọi thứ ý nghĩa, hình ảnh,
dụng ý và gợi ý đều lẩn lộn vào nhau và vẩn lên mặt nước". Lời nhận xét
ấy rất xác đáng với tác phẩm này của Hồ Anh Thái. Nét đặc sắc của ngôn
ngữ trần thuật trong tiểu thuyết này chính là sự pha trộn của các hệ
lời.
        Trước hết là sự xâm nhập của ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong
ngôn ngữ trần thuật. Một số những đoạn tiêu biểu trong tác phẩm này như
"Ngon không? Chủ tay vào đĩa thịt chó, Ô gút gút (35, 2) Hay "Bà già vẫn
liên tục nhầm chìa khoá, rủng rẻng thì có tiếng một thằng bé. Bà ơi, chú ấy
đi rồi, vừa đi xong, Bà già ngừng tay, không tiếp tục nỗ lực mở cửa nữa.,
Mày thấy chú ấy đi rồi à. vâng cháy thấy (39,2). Những đoạn xâm nhập loại
ngôn ngữ như vậy xuất hiện đậm đặc trong tác phẩm. Lời trần thuật và lời
nhân vật hoà lẫn vào nhau. Đối thoại tuy không phân vai cụ thể nhưng
người đọc vẫn có thể phân biệt dễ dàng lời thoại của nhân vật trong tác
phẩm.
        Không chỉ có lời đối thoại, cả những dòng độc thoại nội tâm của
nhân vật cũng hoà vào ngôn ngữ trần thuật. "Ngày thứ năm và ngày thứ sáu
thì bắt đầu ngộ. Ta có thể vắng. Ta có thể chết hẳn. Và mọi việc dù hệ trọng
đến đâu cũng có thể làm mà không có ta" (38,2). Ngôn ngữ trần thuật
không chỉ mang ý nghĩa là lời kể, dẫn dắt câu chuyện mà còn là lời của
chính nhân vật được đề cập đến. Điều này cũng đồng nghĩa với việc xoá



                                                                         16
nhoà ranh giới giữa người kể chuyện và nhân vật trong chuyện, tất cả đều
cùng một vị trí trong truyện kể.
      Sự hoà trộn còn thể hiện sự gia tăng tốc độ của ngôn ngữ. Ngôn ngữ
thoại giữa các nhân vật liền mạch với nhau thể hiện tốc độ trao đổi ngôn
ngữ nhanh và gọn. Hầu như nhân vật không phải xưng danh và cũng không
dùng những đại từ để trao đổi. Người đọc khi theo dõi những đoạn thoại lẫn
trong đoạn trần thuật cảm nhận rất rõ những cuộc trao đổi chớp nhoáng, chỉ
chú trọng lấy thông tin mà nhẹ phần bộc lộ thái độ, tình cảm. Nó thể hiện rõ
nhịp sống hiện đại gấp gáp và thực dụng
       Thứ hai là sự phức hợp của hệ lời. Hồ Anh Thái đã sử dụng hầu hết
các hệ lời trong xã hội để đưa vào tác phẩm: ngôn ngữ văn chương, ngôn
ngữ thị dân, ngôn ngữ chuyên ngành, ngôn ngữ Việt và cả tiếng Anh được
Việt hoá. Điều đáng chú ý trong tác phẩm này là ngôn ngữ đời sống, ngôn
ngữ thị dân chiếm vị trí áp đảo các ngôn ngữ khác.
      Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ đời sống là hai đường tròn đồng tâm
có sự qui tụ gặp gỡ nhưng cũng có sự gián cách. Các nhà văn hiện đại rất
chú ý đưa ngôn ngữ cuộc sống vào tác phẩm tạo tính chân thực rõ nét của
tác phẩm. Hồ Anh Thái chọn ngôn ngữ thị dân làm điểm nhấn trong trang
viết của mình. Những từ ngữ như: điên lắm, khỉ thật, không xong rồi…
xuất hiện với tần suất lớn trong lời đối thoại. Thêm vào đó, cấu trúc câu
trong tác phẩm cũng có xu hướng thị dân hoá, "mới chỉ cách đây dăm năm
thôi, Cách đây dăm năm chị chưa lây được ông Vip, tuổi ba mươi tư chưa
một lần lấy chồng bị xem là gái già. Khách khứa đến nhà chơi hỏi bao giờ
lập gia đình, để mặc cho mẹ trả lời (46,2). Hay "Chịu. Chịu tức là không
thua nhưng mặc kệ. Chán chẳng buôn nói. Từ nay anh ả muốn làm gì tuỳ ý"
(67,2) " nàng chẳng ghen đời nàng giai hơi bị sẵn, hét giai này có giai
khác" (77,2). Điều đáng chú ý là nếu như nhà văn đi trước như Vũ Trọng
Phụng hay Nguyên Hồng sử dụng kiểu ngôn ngữ này để nêu lên đặc điểm

                                                                         17
của tầng lớp dưới thì Hồ Anh Thái lại dùng kiểu ngôn ngữ thị dân để phản
ánh những nhân vật thuộc tầng lớp trí thức, nghệ sĩ. Đó là một phương cách
giễu nhại và đồng thời cũng phản ánh thực trạng của một bộ phận con
người trong thời đại, thể hiện cách nhìn nhận đánh giá của nhà văn về con
người, không đánh giá qua vị trí văn hoá trong xã hội mà qua bản chất
văn hoá.
      Cũng sẽ rất lí thú khi ta làm một phép so sánh sơ lược giữa ngôn ngữ
trần thuật trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài với tác phẩm này. Sự khác
biệt rõ nét nhất là sự đối lập của ngôn ngữ nhiều tầng bậc, thuật ngữ trong
Thiên sứ và ngôn ngữ thị dân giản đơn trong Mười lẻ một đêm. Nhưng dù
phân li thành hai đối cực như vậy những xét về bản chất thì cả hai loại ngôn
ngữ trần thuật này đều thể hiện xu thế hiện đại hoá ngôn ngữ kể chuyện.
Phạm Thị Hoài đi theo con đường sử dụng lối ngôn ngữ biểu tượng, nhiều
tầng bậc thể hiện tính đa thanh, nhiều liên tưởng đậm chất phương Tây. Còn
Hồ Anh Thái thì xoá mờ ranh giới ngôn ngữ văn chương và cuộc sống, tạo
ra một lối ngôn ngữ dễ hiểu gần với ngôn ngữ báo chí, thể hiện rõ xu hướng
đơn giản hoá, rõ ràng và mạch lạc hoá của ngôn ngữ thời đại mới. Hiểu theo
nghĩa này, đó là một cách nhà văn đối thoại trở lại với tiểu thuyết truyền
thống, thể nghiệm một lối văn khác biệt, đậm dấu ấn cá nhân.
      Một đặc điểm đáng chú ý nữa của ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm
là ngôn ngữ nhại. Nhại "theo nghĩa của từ gốc trong tiếng Hi Lạp
(paroidia) là "một bài hát được hát cùng với một bài khác". Trong văn học,
nhại là hình thức phê bình châm biếm hoặc là hình thức chế giễu khôi hài
bằng cách bắt chước phong cách và bút pháp. Ngôn ngữ nhại có tính chất
giải thiêng, tạo ra tiếng cười
       Ngôn ngữ nhại đã xuất hiện nhiều và gây được tiếng vang trong
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài … Loại hình này cũng
xuất hiện trong một số những sáng tác trước của Hồ Anh Thái như Cõi
người rung chuông tận thế, Bốn lối vào nhà cười và trong tác phẩm mới
                                                                         18
nhất này thì nó xuất hiện đậm đặc hơn. Ngôn ngữ nhại quân sự, "vỡ Gia
Lâm chạy về Thái Hà lập căn cứ địa mới, vỡ Thái Hà chạy về Hoàng Quốc
Việt lập lại chiến khu" (8,2), nhại các thuật ngữ thông dụng " đa dạng hoá
và đa phương hóa. Đây là phương châm của người đàn bà lấy chồng không
biết mệt này", nhại ngôn ngữ chuyên ngành, "bốn tháng đẻ con như giống
ngắn ngày. Lúa chiêm lức mùa đến độ , dùng giống ngắn ngày để trăng vụ
(70, 2). Đó như là một phương cách phá bỏ để tạo lập. Sự xuất hiện đậm
đặc của ngôn ngữ nhại trong tác phẩm thể hiện lối tư duy phán xét của nhà
văn, sự hoài nghi về các giá trị được sắp đặt trước. Ngôn ngữ nhại còn góp
phần tạo ra tiếng cười, chủ đích là cười chế giễu, phê phán. Một tác dụng
nữa của ngôn ngữ nhại là biên độ phản ánh cuộc sống được mở rộng. Lớp
ngôn ngữ này có thể động chạm đến nhiều vấn đề trong xã hội trong một
lượng từ ngữ hạn chế, khơi dậy nhiều suy ngẫm trong lòng bạn đọc.
      Trong văn xuôi đương đại, ngôn ngữ đang có những biến chuyển rất
mạnh mẽ, diễn tả dòng chảy mãnh liệt, phức tạp của đời sống xã hội và tâm
hồn con người. Hồ Anh Thái đã nắm bắt được dòng chuyển vận đó, "biết
vượt qua sự du dương của ngôn ngữ và tình trạng tha hoá để sáng tạo ra
một cấu trúc ngôn ngữ khá lạ, một thứ ngôn ngữ không bằng phẳng mà lổn
nhổn một cách cố ý, điều này khiến cho hình ảnh trong tác phẩm gần hơn
với hơi thở của cuộc sống". (34,8)




                                                                       19
Những yếu tố trần thuật nêu trên đều có sự tác động qua lại, chi phối

lẫn nhau để tạo nên những đặc sắc riêng của nghệ thuật trần thuật trong tác

phẩm. Qua đó thể hiện tài bút sắc sảo đến độ chín của nhà văn. Đồng thời

cũng thể hiện những tư tưởng, quan niệm của nhà văn về cuộc sống, con

người, về nghệ thuật và người nghệ sĩ đích thực. Hồ Anh Thái không những

phủ nhận những giá trị cũ mà còn phủ nhận cả những sáng tạo của bạn thân

để tạo nên những sáng tạo mới. Ngòi bút sắc sảo kể lại chuyện muôn đời về

cuộc sống, con người, chuyện mà biết bao những cây bút khác đã kể đến

quen mòn nhưng vẫn hấp dẫn lạ thường.

      Nếu như văn học hiện đại giai đoạn trước tự hào với những cây bút

kể chuyện xuất sắc như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng thì văn học giai đoạn

này có triển vọng tiêu biểu là Hồ Anh Thái. Thời gian sẽ phủ định hay

khẳng định nhận xét ấy? Câu trả lời vẫn đang còn ở phía trước. Và Hồ Anh

Thái vẫn đang còn một khoảng thời gian ở phía trước để tiếp tục vùi lấp và

gieo hạt.




                                                                        20
TÀI LIỆU THAM KHẢO



1. Hồ Anh Thái, Bốn lối vào nhà cười, NXB Đà Nẵng, 1998.

2. HồAnh Thái, Mười lẻ một đêm, NXB Đà Nẵng, 2006

3. Hồ Anh Thái, Cõi người rung chuông tận thế NXB Hội Nhà Văn,

  1999.

4. Hồ Anh Thái, Tự sự 265 ngày NXB Hội Nhà Văn, 2001

5. Hoàng Trinh, Phương Tây, văn học và con người, NXB Hà Nội,

  1999.

6. Lê Bá Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử ,Từ

  điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2006.

7. M.Bartin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển

  chọn và dịch từ nguyên bản tiếng Nga, NXB Hội Nhà văn, 2003.

8. Nguyễn Thị Bình, Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam

  sau 1975 (khảo sát trên nét lớn) NXB GD, 2007.

9. Nguyễn Hữu Tâm, Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh

  Thái, Luận án thạc sĩ, ĐH Sư phạm Hà Nội, 2006

10. Nguyễn Đăng Điệp, Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc,

  Http://talawas. org

11. G.N.P ôxpeelôp, Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXBGD,1998.



                                                                 21
12. Phan Trọng Thưởng Trương Đặng Dung, Nguyễn Ngọc Thiện...Lý

   luận và phê bình văn học - đổi mới và phát triển, Kỷ yếu Hội thảo

   khoa học: Khoa học xã hội, 2005

13. Phạm Thị Hoài, Thiên sứ Tiểu thuyết số 1 / - Tp. Hồ Chí Minh,NXB

   Trẻ, 1989.

14. Phạm Thị Hoài, Man Nương, NXB Hợp Lưu, 1998.

15. Phạm Thị Hoài, Nhà văn thời Hậu Đổi Mới, Http:// www.talawas.

   org,10.2.2004

16. Phương Lựu chủ biên, Lí luận văn học, NXB Văn học, 1997.

17. Thuỵ Khuê, Hậu hiện đại, Http://talawas. org

18. Trần Đăng Suyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Văn học,

   2000.

19. Trần Thị Mai Nhi, Văn học hiện đại- văn học giao lưu và gặp gỡ,

   NXB




                                                                  22
MỤC LỤC




                                                                 1

Mở đầu



Phần nội dung                                                    3

   1. Sự dịch biến của điểm nhìn trần thuật.



   2. Người trần thuật trung tâm và người trần thuật đổi vai.    5



   3. Hợp xướng giọng điệu.                                      8



   4. Ngôn ngữ trần thuật đa thanh.                             15



Kết luận                                                        19



Thư mục tham khảo                                               21




                                                                23
24

Mais conteúdo relacionado

Mais procurados

Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...nataliej4
 
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfTruyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfNuioKila
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...PinkHandmade
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Mais procurados (20)

Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
 
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAYLuận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
 
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
 
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana YoshimotoLuận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
 
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfTruyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
 
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đạiThơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
 
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đLuận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
 
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAYYếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
 
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đLuận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 

Semelhante a Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com

BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Chu Lai qua các tác phẩm “ba lần và một lầ...
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Chu Lai qua các tác phẩm “ba lần và một lầ...Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Chu Lai qua các tác phẩm “ba lần và một lầ...
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Chu Lai qua các tác phẩm “ba lần và một lầ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfHanaTiti
 
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdfNghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdfHanaTiti
 
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ PhủThanh Cong Ma
 
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
CẢM QUAN THỰC TẠI PHÂN MẢNH.pdf
CẢM QUAN THỰC TẠI PHÂN MẢNH.pdfCẢM QUAN THỰC TẠI PHÂN MẢNH.pdf
CẢM QUAN THỰC TẠI PHÂN MẢNH.pdfLinhHong641224
 
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docxCHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docxTRNH287864
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC nataliej4
 
Niềm bi cảm (aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu
Niềm bi cảm (aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu Niềm bi cảm (aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu
Niềm bi cảm (aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu nataliej4
 
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdfLUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdfNuioKila
 
Ghi nhan ve ho bieu chanh
Ghi nhan ve ho bieu chanhGhi nhan ve ho bieu chanh
Ghi nhan ve ho bieu chanhKelsi Luist
 

Semelhante a Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com (20)

BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngườiLuận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
 
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Chu Lai qua các tác phẩm “ba lần và một lầ...
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Chu Lai qua các tác phẩm “ba lần và một lầ...Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Chu Lai qua các tác phẩm “ba lần và một lầ...
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Chu Lai qua các tác phẩm “ba lần và một lầ...
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bảnLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdfNghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
 
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
 
Lele
LeleLele
Lele
 
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
Nghệ Thuật Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Chu Lai (Qua “Ba Lần Và Một Lần”, “Chỉ Còn...
 
123
123123
123
 
CẢM QUAN THỰC TẠI PHÂN MẢNH.pdf
CẢM QUAN THỰC TẠI PHÂN MẢNH.pdfCẢM QUAN THỰC TẠI PHÂN MẢNH.pdf
CẢM QUAN THỰC TẠI PHÂN MẢNH.pdf
 
Cơ sở lý luận và diện mạo tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học vi...
Cơ sở lý luận và diện mạo tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học vi...Cơ sở lý luận và diện mạo tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học vi...
Cơ sở lý luận và diện mạo tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học vi...
 
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docxCHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
 
Niềm bi cảm (aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu
Niềm bi cảm (aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu Niềm bi cảm (aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu
Niềm bi cảm (aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu
 
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
 
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdfLUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
 
Ghi nhan ve ho bieu chanh
Ghi nhan ve ho bieu chanhGhi nhan ve ho bieu chanh
Ghi nhan ve ho bieu chanh
 

Mais de Thế Giới Tinh Hoa

Cách chụp ảnh công ty đẹp 2019
Cách chụp ảnh công ty đẹp 2019Cách chụp ảnh công ty đẹp 2019
Cách chụp ảnh công ty đẹp 2019Thế Giới Tinh Hoa
 
Bảng báo giá sản phẩm rèm bạch dương
Bảng báo giá sản phẩm rèm bạch dươngBảng báo giá sản phẩm rèm bạch dương
Bảng báo giá sản phẩm rèm bạch dươngThế Giới Tinh Hoa
 
Album sổ mẫu Rèm cửa Bạch Dương
Album sổ mẫu Rèm cửa Bạch DươngAlbum sổ mẫu Rèm cửa Bạch Dương
Album sổ mẫu Rèm cửa Bạch DươngThế Giới Tinh Hoa
 
Cách tắm cho bé vào mùa đông
Cách tắm cho bé vào mùa đôngCách tắm cho bé vào mùa đông
Cách tắm cho bé vào mùa đôngThế Giới Tinh Hoa
 
Giáo trình tự học illustrator cs6
Giáo trình tự học illustrator cs6  Giáo trình tự học illustrator cs6
Giáo trình tự học illustrator cs6 Thế Giới Tinh Hoa
 
Nữ quái sân trườngtruonghocso.com
Nữ quái sân trườngtruonghocso.comNữ quái sân trườngtruonghocso.com
Nữ quái sân trườngtruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Những chàng trai xấu tính nguyễn nhật ánhtruonghocso.com
Những chàng trai xấu tính  nguyễn nhật ánhtruonghocso.comNhững chàng trai xấu tính  nguyễn nhật ánhtruonghocso.com
Những chàng trai xấu tính nguyễn nhật ánhtruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.com
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.comNhững bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.com
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 

Mais de Thế Giới Tinh Hoa (20)

Cách chụp ảnh công ty đẹp 2019
Cách chụp ảnh công ty đẹp 2019Cách chụp ảnh công ty đẹp 2019
Cách chụp ảnh công ty đẹp 2019
 
Lỗi web bachawater
Lỗi web bachawaterLỗi web bachawater
Lỗi web bachawater
 
Bảng báo giá sản phẩm rèm bạch dương
Bảng báo giá sản phẩm rèm bạch dươngBảng báo giá sản phẩm rèm bạch dương
Bảng báo giá sản phẩm rèm bạch dương
 
Album sổ mẫu Rèm cửa Bạch Dương
Album sổ mẫu Rèm cửa Bạch DươngAlbum sổ mẫu Rèm cửa Bạch Dương
Album sổ mẫu Rèm cửa Bạch Dương
 
thong tin lam viec tren lamchame
thong tin lam viec tren lamchamethong tin lam viec tren lamchame
thong tin lam viec tren lamchame
 
Cách tắm cho bé vào mùa đông
Cách tắm cho bé vào mùa đôngCách tắm cho bé vào mùa đông
Cách tắm cho bé vào mùa đông
 
Giáo trình tự học illustrator cs6
Giáo trình tự học illustrator cs6  Giáo trình tự học illustrator cs6
Giáo trình tự học illustrator cs6
 
Nang luc truyen thong
Nang luc truyen thongNang luc truyen thong
Nang luc truyen thong
 
Huongdansudung izishop
Huongdansudung izishopHuongdansudung izishop
Huongdansudung izishop
 
Ho so nang luc cong ty
Ho so nang luc cong tyHo so nang luc cong ty
Ho so nang luc cong ty
 
seo contract
seo contractseo contract
seo contract
 
di google cong
di google congdi google cong
di google cong
 
E1 f4 bộ binh
E1 f4 bộ binhE1 f4 bộ binh
E1 f4 bộ binh
 
E2 f2 bộ binh
E2 f2 bộ binhE2 f2 bộ binh
E2 f2 bộ binh
 
E3 f1 bộ binh
E3 f1 bộ binhE3 f1 bộ binh
E3 f1 bộ binh
 
E2 f1 bộ binh
E2 f1 bộ binhE2 f1 bộ binh
E2 f1 bộ binh
 
E1 f1 bộ binh
E1 f1 bộ binhE1 f1 bộ binh
E1 f1 bộ binh
 
Nữ quái sân trườngtruonghocso.com
Nữ quái sân trườngtruonghocso.comNữ quái sân trườngtruonghocso.com
Nữ quái sân trườngtruonghocso.com
 
Những chàng trai xấu tính nguyễn nhật ánhtruonghocso.com
Những chàng trai xấu tính  nguyễn nhật ánhtruonghocso.comNhững chàng trai xấu tính  nguyễn nhật ánhtruonghocso.com
Những chàng trai xấu tính nguyễn nhật ánhtruonghocso.com
 
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.com
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.comNhững bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.com
Những bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10truonghocso.com
 

Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com

  • 1. Tôi quan niệm tiểu thuyết như một giấc mơ dài. Hồ Anh Thái "Tiểu thuyết như là một giấc mơ ẩn chứa những điều không có thực ở ngoài xã hội. Thực chất tiểu thuyết là một câu chuyện bịa đặt nhưng nó còn thật hơn cả sự thực" (Hồ Anh Thái). Với khát vọng kể những câu chuyện thực hơn cả sự thực ấy, Hồ Anh Thái đã miệt mài trên những trang giấy để viết lên những câu chuyện của riêng mình về cuộc sống: Phía sau cổng trời, Cõi người rung chuông tận thế … và gần đây là Mười lẻ một đêm, một tác phẩm gây xôn xao văn giới. Mười lẻ một đêm là một câu chuyện rộng lớn về cuộc sống thể hiện một cái nhìn bao quát, khả năng phản ánh và phân tích những tồn tại trong xã hội, một tài bút hài hước kiểu mới của tác giả. Tác phẩm một lần nữa khẳng định vị trí của Hồ Anh Thái, thể hiện những bước tiến dài của ông trong nghệ thuật tiểu thuyết. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không tìm hiểu toàn diện về tác phẩm Mười lẻ một đêm mà chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết để từ đó nhận diện những mảng hiện thực đời sống trong sáng tác của nhà văn, tìm hiểu về phong cách độc đáo của ông. Trước hết, "Trần thuật là một phương thức cơ bản của tự sự, một yếu tố quan trọng tạo nên hình thức của tác phẩm văn học. Cái hay, sức hấp dẫn của một truyện ngắn hay tiểu thuyết phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật kể chuyện của nhà văn. (187,18). Vai trò đậm nhạt của trần thuật còn phụ thuộc vào đặc điểm của thể loại, những khuynh hướng phát triển của thể loại ấy. Trong địa hạt của tác phẩm tự sự nói chung và tiểu thuyết nói 1
  • 2. riêng, nghệ thuật trần thuật đóng vai trò tối quan trọng. Nó không chỉ là yếu tố liên kết, dẫn dắt câu chuyện mà còn là bản thân của câu chuyện. Khi mà cốt truyện không còn đóng vai trò xương sườn, nhân vật bị xoá mờ đường viền cụ thể thì yếu tố trần thuật là chìa khoá mở ra những cánh cửa của truyện. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 đã có những bước phát triển mạnh mẽ theo những khuynh hướng phức tạp khác nhau. Trong đó, khuynh hướng tiểu thuyết tự sự là một trong những khuynh hướng tiêu biểu và có nhiều tác phẩm kết tinh (Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài…) Trong những trang viết đậm chất tự sự ấy, yếu tố trần thuật đóng vai trò quan trọng và thực tế đã cho thấy, lối trần thuật mới lạ, đầy cách tân của Bảo Ninh, Nguyễn Khải, Phạm Thị Hoài đã góp phần lớn tạo nên tên tuổi của những nhà văn này. Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi muốn nhấn mạnh vai trò của yếu tố trần thuật trong tiểu thuyết nói chung và trong tiểu thuyết tự sự nói riêng. Mười lẻ một đêm ra mắt bạn đọc năm 2006, khi mà tiểu thuyết Việt đã có nhiều những trang viết thành danh, thể hiện rõ lối cách tân mạnh mẽ. Nhưng Hồ Anh Thái vẫn không bị che mờ bởi những tên tuổi cùng thời và của cả chính mình, ông vẫn thể hiện một lối trần thuật riêng, có sự nối tiếp của những sáng tạo trước đó của mình và có những bước tiến rõ rệt, thể hiện một văn tài đáng chú ý. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong Mười lẻ một đêm qua các khía cạnh sau: 1. Sự dịch biến của điểm nhìn trần thuật. 2. Người trần thuật trung tâm và người trần thuật đổi vai. 3. Hợp xướng giọng điệu. 4. Ngôn ngữ trần thuật đa thanh. 2
  • 3. 1. Sự dịch biến của điểm nhìn trần thuật. Vấn đề điểm nhìn trần thuật trong văn bản, theo Iu Lôtman "bao giờ cũng là vấn đề quan hệ giữa sáng tạo và cái được sáng tạo", nhà văn đặt mình ở vị trí nào để quan sát và thể hiện những nhận suy về cuộc sống. Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, điểm nhìn nghệ thuật luôn có sự chuyển hoá. Không có một điểm nhìn cố định, bất biến, duy nhất trong tác phẩm của nhà văn. Điểm nhìn trong "Mười lẻ một đêm" có sự dịch biến trong không gian, thời gian và từ bên ngoài vào bên trong. Câu chuyện ngay lúc đầu được xác định trong giới hạn không gian là "trong căn hộ trên tầng sáu (7-2) nhưng câu chuyện được kể không giới hạn trong cánh cửa mà xảy ra ở cuộc sống ngoài kia, nhốn nháo và đầy nghịch lí. Không gian mở rộng từ khoảng hẹp là thành phố, nông thôn rồi rộng hơn là không gian các nước khác như nước Mĩ, các nước Châu Âu. Đó không chỉ là không gian xã hội bao quát mà còn là không gian riêng tư của những gia đình, phòng trà, phòng khách, không gian chính giới, học thuật … Tất cả đều được mở ra cả chiều rộng và chiều sâu. Điều đáng chú ý là điểm nhìn luôn được dịch chuyển linh hoạt, từ toạ độ ban đầu (căn phòng) chuyển đến các không gian rồi quay trở về toạ độ cũ, lại tiếp tục dịch chuyển. Tưởng như điểm nhìn ấy có một toạ độ trung tâm : căn phòng và những toạ độ biên, các không gian rộng mở, những không gian hẹp khác. Giữa các toạ độ ấy luôn có sự liên kết, song chiếu lẫn nhau. 3
  • 4. Song trùng với sự dịch chuyển của điểm nhìn không gian là sự thay đổi của điểm nhìn thời gian. Thời gian hiện tại, quá khứ, thời gian cuộc đời, thời gian thực và thời gian trong truyện cổ. Điểm nhấn của tác phẩm là sự chuyển hoá linh hoạt giữa thời gian cuộc đời trong tác phẩm. Kết cấu "truyện trong truyện" tạo đà cho sự đan xen thời gian cuộc đời của các nhân vật. Từ người đàn ông (anh), người đàn bà (chị) đến hoạ sĩ trồng chuối hột, người mẹ, giáo sư 1, giáo sư 2… Sự chuyển biến linh hoạt giữa điểm nhìn thời gian cuộc đời tạo nên sự xen kẽ những câu chuyện một cách tự nhiên. Nó cũng thể hiện sự đa phức của mảng hiện thực nhà văn phản ánh. Ở đó không chỉ có câu chuyện của người kể mà còn câu chuyện của biết bao số phận, không chỉ có chuyện của quá khứ hay hiện tại mà còn là sự dịch chuyển từ quá khứ đến hiện tại, sự đối sánh từ hiện tại trở về quá khứ … Sự vận động chuyển hoá linh hoạt của điểm nhìn nghệ thuật không chỉ diễn ra trong không gian, thời gian, nó còn luôn chuyển hoá giữa điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong. Sự chuyển hoá điểm nhìn bên ngoài và bên trong xuất hiện nhiều trong tác tiểu thuyết mở đường của văn học hiện đại sau 1975 như Nỗi buồn chiến tranh, Thiên sứ, Bến không chồng … nhưng đến tác phẩm này, nó có sự khác biệt. Hồ Anh Thái ngay từ những trang mở đầu tiểu thuyết đã tự giới thiệu sự tham dự của tác giả trong truyện và đối thoại với bạn đọc " chính xác thì không đúng mười lẻ một ngày nhưng thực sự là bao nhiêu thì độc giả phải theo dõi hết cả cuốn sách thì mới biết được. Chẳng phải tác giả giữ mánh hay giấu bí quyết gia truyền mà cái gì cũng phải tuần tự (7,2). Những lời đối thoại có tính chất 4
  • 5. giáo đầu như thế đã thể hiện rõ điểm nhìn bên ngoài của tác giả khi trần thuật truyện. Điều này phù hợp với câu chuyện kể chuyển vai theo lối truyện cổ Nghìn lẻ một đêm. Nhưng điểm nhìn bên ngoài ấy luôn chuyển hoá, vận động vào điểm nhìn bên trong. Khi tác giả viết, "chị bây giờ là vợ ông Vip, một nhân vật chỉ mới nghe tên đã biết thế lực đến mức nào. Vợ của một ông lớn, một mệnh phụ phu nhân, thuộc loại danh gia vọng tộc bắc bậc kiêu kì. Tư thế ấy không cho phép dính vào bất kì một nhà nghỉ vớ vẩn nào. Vị trí ấy không cho phép hở hang bất kì một chi tiết riêng tư nà trước mắt người đời (11, 21) thì đã đã có dịch chuyển điểm nhìn. Người trần thuật ở đây vẫn là tác giả nhưng điểm nhìn đã đặt trong nhân vật để thể hiện những suy ngẫm, tiếng nói riêng của nhân vật. Và sự chuyển hoá như vậy xuất hiện dày đặc trong tiểu thuyết. Có những đoạn không tách bạch điểm nhìn bên ngoài và bên trong. Bởi vậy mà những lời nhận xét, giễu nhại trong tác phẩm có khi là lời của nhân vật nhưng cũng có lúc lại chính là lời bàn của tác giả. Nhà văn và nhân vật của mình có khi tách bạch có khi lại hoà nhập trong nhau. Sự di chuyển linh hoạt của điểm nhìn nghệ thuật trong không gian và thời gian, từ bên ngoài vào bên trong và ngược lại đã khiến cho hiện thực được trần thuật được soi sáng từ nhiều góc cạnh, đa chiều hơn. Nhà văn lúc là người ngoài cuộc chứng kiến hết thảy, lúc là người nhập cuộc vào nhân vật, lúc lại không phân định được tiếng nói của nhà văn hay của nhân vật. Điều đó tạo nên sự phức điệu của nhân vật, giọng điệu trần thuật. Trang văn vì thế mà rất hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc một cách mạnh mẽ. 5
  • 6. 2. Người trần thuật trung tâm và người trần thuật đổi vai. Hồ Anh Thái không xưng tôi như trong các truyện tự sự mà xưng là tác giả và đối thoại với độc giả ngay từ những trang truyện dầu tiên của tiểu thuyết. Sự công khai vị trí của người viết và người đọc thể hiện nhà văn tham dự vào câu chuyện một cách khách quan và mời gọi người đọc cùng tham dự. Tác giả là nhân vật trong tác phẩm, người kể câu chuyện được chứng kiến, người trần thuật trung tâm hàm ẩn. Các nhân vật cũng lần lượt kể những câu chuyện của riêng mình, chuyển vai trần thuật liên tục. Điều này vừa giống lại vừa khác nhân vật kể chuyện trong truyện cổ Nghìn lẻ một đêm. Nếu như trong truyện cổ, nàng Chahrazahe là người kể câu chuyện chính, là sườn chung cho câu chuyện và các nhân vật còn lại là những người "kể chuyện dây chuyền" đứng lên kể những câu chuyện cổ khác thì trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, vai kể tác giả, người đàn ông, người đàn bà là những vai kể ban đầu, khơi mở, có thể xem là những vai trần thuật trung tâm, những người trần thuật còn lại là những người trần thuật đổi vai. Nếu như sự dịch chuyển điểm nhìn trong không gian, thời gian luôn có sự hướng tâm về không gian trong nhà chung cư, thời gian hiện tại thì nhân vật trần thuật cũng có sự chuyển vai hướng tâm về người đàn ông (anh) và người đàn bà (chị). Nhưng sự chuyển đổi không theo trật tự tuyến tính cũng 6
  • 7. không theo kiểu vòng tròn mở kết duy nhất như trong câu chuyện cổ Nghìn lẻ một đêm mà có dịch dịch biến linh hoạt, cắt ngang liên tưởng tuỳ hứng. Điểm nhấn của những nhân vật trần thuật là những nhân vật không tên, không mặt. Nhân vật được gọi theo ngôi nhân xưng thứ 3: anh, chị, theo chức danh xã hội, nghề nghiệp như hoạ sĩ trồng chuối hột, ông Vip, là thằng bé hàng xóm, người cá, giáo sư I, giáo sư II … Đó là sự xóa nhoà những đường viền nhân vật. Con người được định danh qua những cái bên ngoài mình, là địa vị xã hội, nghề nghiệp chứ không phải do đặc điểm riêng (tên cũng là một đặc điểm riêng khu biệt con người). Nó đặt ra vấn đề sự nhạt nhoà của cá thể trong xã hội. Cuộc sống hiện đại với sự xoay vòng của vô vàn những chuỗi vấn đề khác nhau khiến con người không đủ thời gian và cũng không đủ quan tâm để nhớ đền một cái tên, chỉ nhớ đến vị trí ông Vip, vợ ông Vip, hoạ sĩ, hàng xóm… Nó cũng đặt ra tính cách tiêu biểu của người hiện đại : sự thực dụng. Ngay cả việc ghi nhớ cũng rất thực dụng, chỉ nhớ đến những điều có liên quan thiết thân với mình và bỏ qua những đường nét khác. Một tên gọi không có giá trị, chỉ vị trí của người mang tên gọi ấy mới có liên quan đến người ghi nhớ. Vì vậy mà xu hướng chung của con người thời hiện đại là ghi nhận về địa vị, chức năng, nghề nghiệp của nhau. Điều này gợi đến chi tiết trong Thương nhớ đồng quê của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật cô gái đến từ thành phố- Quyên - không sao nhớ được tên của Nhâm, người đưa cô đi chơi suốt những ngày ở quê những lại nhớ chính xác mức tăng giá của các mặt hàng. Hồ Anh Thái và Nguyễn Huy 7
  • 8. Thiệp đã gặp nhau trong cách nhìn về kiểu loại con người trong xã hội đương đại. Sự xoá nhoà tên gọi còn như một cách định danh chung cho con người của thời đại mới, bộ đồng phục chung của từng lớp người trong xã hội. Sự vận động phức tạp, chuyển biến nhanh chóng của xã hội không tạo nên những cá thể có đặc điểm riêng mà phân loại con người thành những tiểu loại mà nếu chỉ phác hoạ một chân dung ta sẽ có thể gặp đặc điểm chung của những con người thuộc tiểu loại đó. Giáo sư I, giáo sư II là chân dung của một số những trí thức trong xã hội, không cập nhật tri thức nhưng luôn háo danh, hãnh tiến hay chân dung của hoạ sĩ trồng chuối hột cũng là sự phác hoạ về một lượng người làm nghệ thuật trong thời đại mới, tài năng và sự sáng tạo không phải là yếu tố hàng đầu làm nên tên tuổi của họ mà chính là sự nhạy bén, khả năng phân tích thời thế, thị trường. Sự xuất hiện của nhân vật trần thuật trung tâm và nhân vật trần thuật đổi vai cho thấy những sáng tạo riêng của nhà văn. Và những đặc điểm của nhân vật trần thuật cho thấy người trần thuật trong tác phẩm vừa giữ vai trò dẫn chuyện, kể chuyện vừa là trung tâm của câu chuyện. Qua xây dựng nhân vật trần thuật, Hồ Anh Thái đã thể hiện phần nào cách nhìn nhận, đánh giá về cuộc sống còn người thời hiện đại. 8
  • 9. 3. Hợp xướng giọng điệu. Giọng điệu trần thuật là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong nghệ thuật tự sự. Đại văn hào Lep Tônxtôi đã từng nhận xét " Cái khó nhất khi bắt tay viết một tác phẩm mới không phải chuyện đề tài, tài liệu mà phải lực chọn một giọng điệu thích hợp". Như vậy cái quan trọng không phải là viết về những cái gì, mức độ phức tạp của những vấn đề được trình bày trong tác phẩm mà chính là cách thể hiện, thái độ của nhà văn về những điều mình thu nhận từ cuộc sống. Hồ Anh Thái là một "người kể chuyện có duyên" và có giọng đặc sắc riêng. Một trong những yếu tố góp phần quan trọng tạo của cái duyên và đặc sắc ấy chính là giọng điệu trần thuật. Ngay từ những trang viết đầu tiên, nhà văn đã tạo chú ý về một lối kể chuyện hài hước sâu sắc riêng. Và đến những tác phẩm đạt độ chín nghệ thuật như Bốn lối vào nhà cười, Cõi người rung chuông tận thể, Mười lẻ một đêm … nhà văn đã khẳng định được phong cách riêng của mình. Trong sáng tác của Hồ Anh Thái luôn có sự tham dự của dàn hợp xướng giọng điệu, hài hước, giễu nhại, trữ tình, triết lí … Sự hoà điệu của các giọng khác nhau tạo nên một lối kể chuyện nhiều bè, những cách nhìn nhận khác nhau về cuộc sống của nhà văn. Trong tác phẩm này, hài hước, giễu nhại là chủ âm của bè giọng điệu. Hài hước được hiểu như một kiểu giọng vui đùa pha trò, cười cợt và châm biếm nhẹ nhàng chừng mực với mọi hiện tượng đời sống. Nó xuất hiện nhiều trong các tiểu thuyết sau 75. Điều đó xuất phát từ những đổi thay của xã hội, bởi "tiếng cười chỉ tồn tại thực sự trong một quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa nhà văn và đối tượng chiếm lĩnh của văn học, đó là sự xóa bỏ 9
  • 10. khoảng cách sử thi, phi huyền hoặc, phi thành kính. Nó đem lại cho nhà văn điểm tựa có cơ sở thực tiến, điểm tựa tâm lí để chống lại thói quen lí tưởng hoá thi vị hoá, giản đơn và dễ dãi" (20, 9). Nếu như tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một chuỗi cười dài thì Mười lẻ một đêm cũng là một tràng cười liên thanh. Tiếng cười có tính chất bao quát những bình diện trong cuộc sống. Nó thể hiện qua giọng nhại "vỡ Gia Lâm chạy về Thái Hà lập căn cứ địa mới, vỡ Thái Hà chạy về Hoàng Quốc Việt lập lại chiến khu (8,2) hay "đa dạng hoá và đa phương hoá. Đấy là phương châm của người đàn bà lấy chống không biết mệt này", ở sự nhầm lẫn của ngôn từ "Tìm cho tớ xem ông trồng chuối họt ở đau? Nộm hoa chuối à, tớ biết một nơi nhậu có nộm hoa chuối đậm đà khó quên, đến nhà hàng ở Láng Hạ nhé(14,2) hay là sự hiểu nhầm "ngon không? chỉ tay vào đĩa thịt chó. Hồng Kông hiểu ngay. Ô gút gút. Bốn ông Việt Nam rộ lên theo gút gút. Đấy hiểu nhau rồi, dễ thế. Hồng Kông khen thêm một tiếng ngon dilisớt. Nó bảo sốt sốt cái gì? Thịt chó không chấm sốt. Đồ ngu. Có thế mà thông ngôn không đầu sỏ vẫn vui. (35,2). Ngôn ngữ bị chia cắt, hiểu nhầm tạo ra khoảng đứt gãy ý niệm. Mỗi người theo đuổi một suy nghĩ riêng, cách hiểu riêng và đến cuối cùng họ vẫn không hiểu được nhau. Giọng mỉa mai châm biếm là một cung bậc cao hơn của giọng cười cợt, thể hiện rõ thái độ của tác giả. Nhà văn mỉa mai những công trình xây dựng nửa vời, " Công trình hiện đại nào ở xứ này cũng có cái không đồng bộ. Chung cư có thang máy sang trọng, có hệ thống dịch vụ bài bản. Nhưng tình trạng mùa hè thiếu điện thiếu nước sao cũng có lúc trục trặc thang máy, cư dân từ tần hai đến tầng chín đều phải leo bộ lên đỉnh Evơrit. Sao tránh được lúc nước không bơm lên được tầng cao. Gọi xe chở nước đến mya thì chỉ tầng hai trở xuống mua được nước, các tầng trên phải mang xô mang chậu xuống mà xách lên hay sao?" (23,2), tình trạng du học sinh 10
  • 11. "Con học trong nước không ra gì là cho du học, sang đấy trường giỏi, thầy giỏi nó sẽ giỏi" (149,2), tình trạng xã hội nhốn nháo. Nhà văn đặc biệt dành nhiều trang viết bàn luận về thực trạng nghệ thuật, về hội hoạ: " Vẽ hoạ tiết âm dương. Vẽ thời trang thương nhớ đồng quê, gầu nước đen, gầu nước đèn dầu tường đất. Vẽ thế được một lúc thì tự thấy tranh mình có chiều sâu triết học, có cảm xúc cội nguồn quê hương."(31,2) nghệ thuật sắp đặt " Cả nhóm làm hội hoạ sắp đặt. Cả nhóm làm hội hoạ biểu diễn. Bày mấy cái chậu nhựa trên vỉa hè. Treo lủng lẳng trên mỗi chậu một cái nón. Rôi cầm vòi nước tưới lên nón cho rơi mưa xuống chậu. Thế là hoành chỉnh một tác phẩm."(31.2), điện ảnh: "Đạo diễn chủ nhiệm mỗi người xây được biệt thự mua được cả trang trại nhờ làm phim. Chỉ có điều phim là ra không ai xem. Điên mới xem. Một câu chuyện giả tạo từ đầu đến đuôi. Những triết lý cao thượng giả dối, Những nhân vật ra vào phim như đi chợ bất chấp lôgic, vài tự nhiên ra mất hút.(137,2) … Không chỉ nêu lên những vấn đề tồn tại, bằng giọng mỉa mai châm biếm pha triết lí, Hồ Anh Thái còn khái quát lên bệnh của số đông những người làm nghệ thuật: "mắc bệnh hoang tưởng nghệ sĩ, mình còn chẳng biết mình là ai, thì thế giới xung quanh đều chỉ nhìn qua một màn sương mù của kẻ lệch lạc "(138.2). Đó là một cái nhìn thẳng thắn và có chiều sâu suy nghiệm. Những ảo tưởng, hư danh không làm sáng lên tên tuổi của những người làm nghệ thuật mà chỉ đẩy họ đi sâu hơn vào con đường mù mờ về cuộc sống. Không chỉ tập trung mổ xẻ những vấn đề của giới nghệ sĩ, Hồ Anh Thái còn tập trung châm biếm giới giới trí thức. Từ những vấn đề như hội thảo quốc tế, "hội thảo của ta tổ chức, một trường một viện đứng ra làm hội thảo kéo vào được một vài nghiên cứu sinh nước ngoài đang sống ở Việt Nam đến lập tức được điềm nhiêm đi kèm chữ quốc tế. Tính chất hội thảo đã khác(185,2), đến việc làm luận văn, viết sách, phong hàm. Nhà văn bóc 11
  • 12. trần chân dung trí thức, "chỉ có duy nhất hai ông nói tiếng Việt trong một hội thảo nói tiếng Anh" hay "nhà văn hoá lớn đang vục đầy vào ăn. Nhai chòm chọp. chèm, chẹp (…) Cả một vùng bán kính một mét quanh chỗ ông ngồi, món ăn đã bị cày bừa lật gạt bốc bải ngổn ngang (174,2). Những nét điểm qua không bàn luận nhưng thể hiện rõ sự châm biếm sâu sắc. Biện pháp đối lập được sử dụng triệt để để phản ánh nét hào nhoáng bên ngoài và sự sa đọa bên trong, hư danh và bản chất thực. Lời kết cho những bức tranh biếm hoạ là sự ngậm ngùi, bất lực, "từ lúc nào chị đã từ bỏ ý nghĩ sửa sang thế giới. Người ta phải sửa sang chính mình cho phù hợp với thế giới. Chị làm sao sửa sang được cái tính tham ăn của Gs 1 (…) làm sao sửa được cái hám danh làm thơ viết nhạc của GS2, cả cái tính tính sờ hiện vật của Gs 2 nữa (175, 2). Nhân vật người đàn bà, trước đó còn là một người rất hăng hái tham gia hoạt động xã hội, dũng cảm và nhiệt tình xung phong làm công việc không ai muốn là đi lập biên bản nhà văn hoá có thói quen đái bậy nhưng rồi sau đó chính nhân vật cũng phải ngậm ngùi đầu hàng. Sự ngậm ngùi ấy thể hiện sự bất lực, cả những xót xa và cay đắng. Một con người với sức lực cá thể không làm sao xoay chuyển được những thói tật đang ăn sâu trong con người. Lớp nghệ sĩ và trí thức đều có tính thị dân rõ nét, không làm sao gột rửa được những thói tật ấy để có thể xứng với vị trí thực của mình trong xã hội. Những điều đó đã tồn tại một thời gian dài và bùng phát trong thời đại mới. Những câu chuyện ấy không phải bạn đọc giờ mới được nghe nhưng bạn đọc vẫn thấy thích thú, hấp dẫn. Bởi không chỉ phơi trần sự thực, nhà văn còn phân tích, bóc tách, chỉ ra những bệnh trầm kha hiện tồn, bệnh sĩ diện hão, bênh hoang tưởng, bệnh tự tôn ... Bằng giọng điệu cười cợt, châm biếm, nhà văn đã hạ bệ tất thảy những vỏ ngoài hào nhoáng để bóc tách hiện thực trần trụi của mọi vấn đề, phản ánh chân thực hiện trạng của cuộc sống, con người. 12
  • 13. Câu hỏi của nhân vật người đàn bà (chị) trong tác phẩm . " nhưng thực tế hơn có phải là bằng lòng với thế giới sẵn có? Và chấp nhận? (175, 2) như là khoảng lặng suy ngẫm. Dù đã tự thừa nhận sự bất lực của mình nhưng trong thâm tâm vẫn luôn trở trăn suy nhẫm. Câu hỏi không chỉ là sự tự vấn mà còn là sự mời gọi câu trả lời trong lòng người đọc. Sự mời gọi tham dự ấy như là điểm tựa của tác phẩm. Dù sao thì giữa cuộc sống vận hành đảo điên của mọi giá trị này, con người vẫn tỉnh táo để nhận ra bản chất thực của nó, hoài nghi về những giá trị ảo để thức nhận về mình. Song hành với giọng điệu mỉa mai, châm biếm ấy là những khoảng lặng trữ tình. Trữ tình xen vào những câu chuyện kể tạo nên một khúc vĩ thanh ấn tượng, đặc biệt là chuyện về người cá. Có lẽ đây là câu chuyện đậm màu sắc cổ tích nhất trong tác phẩm. Mọi chuyện như được sắp đặt một cách tình cờ, cuộc gặp gỡ của cô tiên kể chuyện cố tích và người cá, mối tình chưa biết mặt đã yêu của cô tiên và bố của người cá … Sự tình cờ đưa đẩy để họ trở thành những mảnh ghép nối của một gia đình nhỏ. Bao bọc trong không khí của câu chuyện là sự sáng trong của tâm hồn người cá, sự yêu thương của người đàn bà và người đàn ông. Nhưng cái kết của câu chuyện cổ thời hiện đại ấy là không có màu sắc thần tiên. Cuối cùng, người cá chết vì kiệt sức sau một thời gian dài ngâm mình trong bể bơi. Người cá lại không hề biết bơi và chết vì nước. Đó là một nghịch lí đau xót của cuộc sống hiện đại. Người mẹ kế yêu thương của người cá lại quên bẵng đứa con của mình vì đắm chìm với mối tình cũ. Người bố yêu thương nó thì mải miết cùng chuyến công tác và thậm chí còn không ở bên cạnh nó trong những giây phút cuối cùng. Gia đình yêu thương tan biến. Những thanh âm trong trẻo, hạnh phúc nhất trong tác phẩm cuối cùng đã đứt vỡ. Đến những phút cuối đời, người cá vẫn "đòi nghe chuyện kể", thằng Cá thỉnh thoảng lại hỏi xem con chó có đến không?". Nó vẫn mơ hồ về sự thật của cuộc sống bởi luôn được bao bọc bởi những câu chuyện cổ tích. 13
  • 14. Người cá như một thanh âm lạc lõng trong chuỗi bản nhạc xô bồ. Cuộc sống đầy nhưng toan tính bon chen, những điều giả trá không thể dung nạp được một tâm hồn quá đỗi trong trẻo và mù nhoà về cuộc sống như thế. Cái chết của nó như là một qui luật đào thải nghiệt ngã của hiện thực cuộc sống. Cái chết của người cá phần nào đó giống với cái chết của nhân vật đứa trẻ 2 tuổi trong Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái) hay sự ra đi của bé Hon trong Thiên sứ (Phạm Thị Hoài). Những nhân vật ấy đều ra đi khi chỉ mới là những đứa trẻ. Dường như sự sáng trong, thánh thiện đến mù mờ về cuộc sống không thể tồn tại trong xã hội đầy những biến động đổi thay, đầy những toan tính vụ lợi này Sự ra đi hiểu theo một cách khác thì có ý nghĩa như là sự bảo tồn của cái đẹp. Tâm hồn sáng trong ngây thơ của người cá sẽ vĩnh tồn trong lòng người đọc. Nếu như giọng điệu hài hước, châm biếm như là một phương thức để phản ánh cuộc sống, giọng trữ tình là một nốt lặng để nhìn về những điều tốt đẹp hiện tồn thì giọng chiêm nghiệm triết lí là những thông điệp, những ngẫm suy của nhà văn đối thoại với bạn đọc. Nhà văn thường gửi những ngẫm suy về cuộc sống qua các nhân vật, đặc biệt là nhân vật người đàn bà : "Từ lúc nào chị đã từ bỏ ý nghĩ sửa sang thế giới. Người ta phải sửa sang chính mình cho phù hợp với thế giới". Đó là sự thức nhận về chân lí của một thời đại. Một thời gian dài con người ảo tưởng về khả năng vẫn xoay vũ trụ, khả năng lay chuyển cả thế giới, cả xã hội đều là những anh hùng, vĩ nhân. Cái tôi rạn vỡ, hoài nghi, hiểu về giới hạn của mình mới là cái tôi thực của con người thời đại mới. Nhà văn thức nhận đầy xót xa về cuộc đời : "nhưng những điều rốt cuộc mà đời người mang theo hình như bao giờ cũng nhiều chất ngụ ngôn"(261,2). Chất cổ tích luôn ít hơn chất ngụ ngôn, đó mới là bản chất thực của cuộc sống, đời người. Tiểu thuyết này được viết theo lối nhại lại câu chuyện cổ nổi tiếng Nghìn lẻ một đêm nhưng kết truyện lại phủ định 14
  • 15. chất cổ tích của cuộc đời mà nhấn mạnh chất ngụ ngôn. Đó là một sự đối thoại trở lại, một sự nhìn thẳng vào hiện thực của cuộc sống. Giọng điệu triết lí không phải lúc nào cũng được khái quát thành câu văn phơi bày trên trang giấy mà đôi khi nó còn ẩn sau câu chữ. Qua sự lắp ghép những câu chuyện, nhà văn thể hiện quan niệm về số phận của con người trong xã hội: con người được định vị bằng những tiêu chuẩn bên ngoài. Các nhân vật đều nối kết với nhau bằng phương tiện truyền thông: điện thoại di động hoặc internet. Người đàn ông và người đàn bà hẹn nhau qua điện thoại, liên lạc cầu cứu mọi người qua điện thoại và khi nó hết pin, họ như lạc vào ốc đảo. Khi chia tay, số điện thoại bị cắt đứt thì họ cũng không thể nào liên hệ được. Ngay cả vợ của người đàn ông cũng không hay biết gì về chồng của mình, vẫn tưởng anh chết và chỉ biết thực sự về người chồng khi anh gọi điện về thông báo. Như vậy, thông tin cơ bản và phổ biến nhất về một số phận, một con người chính là dãy số điện thoại. Và khi không thể biết về những dãy số ấy, con người như lạc hẳn ra khỏi thế giới, không liên kết được với bất cứ một ai. Chưa lúc nào sự định vị con người lại chính xác và cũng mong manh như thế. Lúc hiện hữu qua lời bộc bạch của nhân vật, lúc thì ẩn sau câu chữ, giọng triết lí tạo thành một mạch liên kết chặt chẽ các mảng hiện thực, thể hiện chiều sâu của tác phẩm. Các giọng điệu không tồn tại như những âm giai tách biệt mà luôn có sự đan cài với nhau. Giọng chủ đạo của tác phẩm là giọng cười cợt châm biếm và sự tham gia, đan xen của giọng trữ tình và giọng chiêm nghiệm triết lí tạo nên sự phức hợp, thể hiện cách nhìn nhận đánh giá nhiều chiều của tác giả về hiện thực. Nhà văn không đưa ra lời phán truyền chân lí cũng không mở ra sự lựa chọn những con đường giải quyết những vấn đề ngổn ngang trong xã hội mà chỉ là sự quan sát, phơi bày, đánh giá, đúc rút thành những qui luật … Vai trò dẫn đường, người đi tìm chân lí của nhà văn đã bị 15
  • 16. mờ nhoà, thay vào đó là hình ảnh một nhà văn tham dự, đứng ngang hàng với nhân vật để đối thoại với bạn đọc. 4. Ngôn ngữ trần thuật đa thanh. Barktin đã viết "ngôn ngữ trong tiểu thuyết mang tính biện chứng và nhiều lời, giống như lòng của con sông, nơi mọi thứ ý nghĩa, hình ảnh, dụng ý và gợi ý đều lẩn lộn vào nhau và vẩn lên mặt nước". Lời nhận xét ấy rất xác đáng với tác phẩm này của Hồ Anh Thái. Nét đặc sắc của ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết này chính là sự pha trộn của các hệ lời. Trước hết là sự xâm nhập của ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong ngôn ngữ trần thuật. Một số những đoạn tiêu biểu trong tác phẩm này như "Ngon không? Chủ tay vào đĩa thịt chó, Ô gút gút (35, 2) Hay "Bà già vẫn liên tục nhầm chìa khoá, rủng rẻng thì có tiếng một thằng bé. Bà ơi, chú ấy đi rồi, vừa đi xong, Bà già ngừng tay, không tiếp tục nỗ lực mở cửa nữa., Mày thấy chú ấy đi rồi à. vâng cháy thấy (39,2). Những đoạn xâm nhập loại ngôn ngữ như vậy xuất hiện đậm đặc trong tác phẩm. Lời trần thuật và lời nhân vật hoà lẫn vào nhau. Đối thoại tuy không phân vai cụ thể nhưng người đọc vẫn có thể phân biệt dễ dàng lời thoại của nhân vật trong tác phẩm. Không chỉ có lời đối thoại, cả những dòng độc thoại nội tâm của nhân vật cũng hoà vào ngôn ngữ trần thuật. "Ngày thứ năm và ngày thứ sáu thì bắt đầu ngộ. Ta có thể vắng. Ta có thể chết hẳn. Và mọi việc dù hệ trọng đến đâu cũng có thể làm mà không có ta" (38,2). Ngôn ngữ trần thuật không chỉ mang ý nghĩa là lời kể, dẫn dắt câu chuyện mà còn là lời của chính nhân vật được đề cập đến. Điều này cũng đồng nghĩa với việc xoá 16
  • 17. nhoà ranh giới giữa người kể chuyện và nhân vật trong chuyện, tất cả đều cùng một vị trí trong truyện kể. Sự hoà trộn còn thể hiện sự gia tăng tốc độ của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thoại giữa các nhân vật liền mạch với nhau thể hiện tốc độ trao đổi ngôn ngữ nhanh và gọn. Hầu như nhân vật không phải xưng danh và cũng không dùng những đại từ để trao đổi. Người đọc khi theo dõi những đoạn thoại lẫn trong đoạn trần thuật cảm nhận rất rõ những cuộc trao đổi chớp nhoáng, chỉ chú trọng lấy thông tin mà nhẹ phần bộc lộ thái độ, tình cảm. Nó thể hiện rõ nhịp sống hiện đại gấp gáp và thực dụng Thứ hai là sự phức hợp của hệ lời. Hồ Anh Thái đã sử dụng hầu hết các hệ lời trong xã hội để đưa vào tác phẩm: ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ thị dân, ngôn ngữ chuyên ngành, ngôn ngữ Việt và cả tiếng Anh được Việt hoá. Điều đáng chú ý trong tác phẩm này là ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ thị dân chiếm vị trí áp đảo các ngôn ngữ khác. Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ đời sống là hai đường tròn đồng tâm có sự qui tụ gặp gỡ nhưng cũng có sự gián cách. Các nhà văn hiện đại rất chú ý đưa ngôn ngữ cuộc sống vào tác phẩm tạo tính chân thực rõ nét của tác phẩm. Hồ Anh Thái chọn ngôn ngữ thị dân làm điểm nhấn trong trang viết của mình. Những từ ngữ như: điên lắm, khỉ thật, không xong rồi… xuất hiện với tần suất lớn trong lời đối thoại. Thêm vào đó, cấu trúc câu trong tác phẩm cũng có xu hướng thị dân hoá, "mới chỉ cách đây dăm năm thôi, Cách đây dăm năm chị chưa lây được ông Vip, tuổi ba mươi tư chưa một lần lấy chồng bị xem là gái già. Khách khứa đến nhà chơi hỏi bao giờ lập gia đình, để mặc cho mẹ trả lời (46,2). Hay "Chịu. Chịu tức là không thua nhưng mặc kệ. Chán chẳng buôn nói. Từ nay anh ả muốn làm gì tuỳ ý" (67,2) " nàng chẳng ghen đời nàng giai hơi bị sẵn, hét giai này có giai khác" (77,2). Điều đáng chú ý là nếu như nhà văn đi trước như Vũ Trọng Phụng hay Nguyên Hồng sử dụng kiểu ngôn ngữ này để nêu lên đặc điểm 17
  • 18. của tầng lớp dưới thì Hồ Anh Thái lại dùng kiểu ngôn ngữ thị dân để phản ánh những nhân vật thuộc tầng lớp trí thức, nghệ sĩ. Đó là một phương cách giễu nhại và đồng thời cũng phản ánh thực trạng của một bộ phận con người trong thời đại, thể hiện cách nhìn nhận đánh giá của nhà văn về con người, không đánh giá qua vị trí văn hoá trong xã hội mà qua bản chất văn hoá. Cũng sẽ rất lí thú khi ta làm một phép so sánh sơ lược giữa ngôn ngữ trần thuật trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài với tác phẩm này. Sự khác biệt rõ nét nhất là sự đối lập của ngôn ngữ nhiều tầng bậc, thuật ngữ trong Thiên sứ và ngôn ngữ thị dân giản đơn trong Mười lẻ một đêm. Nhưng dù phân li thành hai đối cực như vậy những xét về bản chất thì cả hai loại ngôn ngữ trần thuật này đều thể hiện xu thế hiện đại hoá ngôn ngữ kể chuyện. Phạm Thị Hoài đi theo con đường sử dụng lối ngôn ngữ biểu tượng, nhiều tầng bậc thể hiện tính đa thanh, nhiều liên tưởng đậm chất phương Tây. Còn Hồ Anh Thái thì xoá mờ ranh giới ngôn ngữ văn chương và cuộc sống, tạo ra một lối ngôn ngữ dễ hiểu gần với ngôn ngữ báo chí, thể hiện rõ xu hướng đơn giản hoá, rõ ràng và mạch lạc hoá của ngôn ngữ thời đại mới. Hiểu theo nghĩa này, đó là một cách nhà văn đối thoại trở lại với tiểu thuyết truyền thống, thể nghiệm một lối văn khác biệt, đậm dấu ấn cá nhân. Một đặc điểm đáng chú ý nữa của ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm là ngôn ngữ nhại. Nhại "theo nghĩa của từ gốc trong tiếng Hi Lạp (paroidia) là "một bài hát được hát cùng với một bài khác". Trong văn học, nhại là hình thức phê bình châm biếm hoặc là hình thức chế giễu khôi hài bằng cách bắt chước phong cách và bút pháp. Ngôn ngữ nhại có tính chất giải thiêng, tạo ra tiếng cười Ngôn ngữ nhại đã xuất hiện nhiều và gây được tiếng vang trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài … Loại hình này cũng xuất hiện trong một số những sáng tác trước của Hồ Anh Thái như Cõi người rung chuông tận thế, Bốn lối vào nhà cười và trong tác phẩm mới 18
  • 19. nhất này thì nó xuất hiện đậm đặc hơn. Ngôn ngữ nhại quân sự, "vỡ Gia Lâm chạy về Thái Hà lập căn cứ địa mới, vỡ Thái Hà chạy về Hoàng Quốc Việt lập lại chiến khu" (8,2), nhại các thuật ngữ thông dụng " đa dạng hoá và đa phương hóa. Đây là phương châm của người đàn bà lấy chồng không biết mệt này", nhại ngôn ngữ chuyên ngành, "bốn tháng đẻ con như giống ngắn ngày. Lúa chiêm lức mùa đến độ , dùng giống ngắn ngày để trăng vụ (70, 2). Đó như là một phương cách phá bỏ để tạo lập. Sự xuất hiện đậm đặc của ngôn ngữ nhại trong tác phẩm thể hiện lối tư duy phán xét của nhà văn, sự hoài nghi về các giá trị được sắp đặt trước. Ngôn ngữ nhại còn góp phần tạo ra tiếng cười, chủ đích là cười chế giễu, phê phán. Một tác dụng nữa của ngôn ngữ nhại là biên độ phản ánh cuộc sống được mở rộng. Lớp ngôn ngữ này có thể động chạm đến nhiều vấn đề trong xã hội trong một lượng từ ngữ hạn chế, khơi dậy nhiều suy ngẫm trong lòng bạn đọc. Trong văn xuôi đương đại, ngôn ngữ đang có những biến chuyển rất mạnh mẽ, diễn tả dòng chảy mãnh liệt, phức tạp của đời sống xã hội và tâm hồn con người. Hồ Anh Thái đã nắm bắt được dòng chuyển vận đó, "biết vượt qua sự du dương của ngôn ngữ và tình trạng tha hoá để sáng tạo ra một cấu trúc ngôn ngữ khá lạ, một thứ ngôn ngữ không bằng phẳng mà lổn nhổn một cách cố ý, điều này khiến cho hình ảnh trong tác phẩm gần hơn với hơi thở của cuộc sống". (34,8) 19
  • 20. Những yếu tố trần thuật nêu trên đều có sự tác động qua lại, chi phối lẫn nhau để tạo nên những đặc sắc riêng của nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm. Qua đó thể hiện tài bút sắc sảo đến độ chín của nhà văn. Đồng thời cũng thể hiện những tư tưởng, quan niệm của nhà văn về cuộc sống, con người, về nghệ thuật và người nghệ sĩ đích thực. Hồ Anh Thái không những phủ nhận những giá trị cũ mà còn phủ nhận cả những sáng tạo của bạn thân để tạo nên những sáng tạo mới. Ngòi bút sắc sảo kể lại chuyện muôn đời về cuộc sống, con người, chuyện mà biết bao những cây bút khác đã kể đến quen mòn nhưng vẫn hấp dẫn lạ thường. Nếu như văn học hiện đại giai đoạn trước tự hào với những cây bút kể chuyện xuất sắc như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng thì văn học giai đoạn này có triển vọng tiêu biểu là Hồ Anh Thái. Thời gian sẽ phủ định hay khẳng định nhận xét ấy? Câu trả lời vẫn đang còn ở phía trước. Và Hồ Anh Thái vẫn đang còn một khoảng thời gian ở phía trước để tiếp tục vùi lấp và gieo hạt. 20
  • 21. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Anh Thái, Bốn lối vào nhà cười, NXB Đà Nẵng, 1998. 2. HồAnh Thái, Mười lẻ một đêm, NXB Đà Nẵng, 2006 3. Hồ Anh Thái, Cõi người rung chuông tận thế NXB Hội Nhà Văn, 1999. 4. Hồ Anh Thái, Tự sự 265 ngày NXB Hội Nhà Văn, 2001 5. Hoàng Trinh, Phương Tây, văn học và con người, NXB Hà Nội, 1999. 6. Lê Bá Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử ,Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2006. 7. M.Bartin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn và dịch từ nguyên bản tiếng Nga, NXB Hội Nhà văn, 2003. 8. Nguyễn Thị Bình, Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 (khảo sát trên nét lớn) NXB GD, 2007. 9. Nguyễn Hữu Tâm, Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái, Luận án thạc sĩ, ĐH Sư phạm Hà Nội, 2006 10. Nguyễn Đăng Điệp, Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc, Http://talawas. org 11. G.N.P ôxpeelôp, Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXBGD,1998. 21
  • 22. 12. Phan Trọng Thưởng Trương Đặng Dung, Nguyễn Ngọc Thiện...Lý luận và phê bình văn học - đổi mới và phát triển, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Khoa học xã hội, 2005 13. Phạm Thị Hoài, Thiên sứ Tiểu thuyết số 1 / - Tp. Hồ Chí Minh,NXB Trẻ, 1989. 14. Phạm Thị Hoài, Man Nương, NXB Hợp Lưu, 1998. 15. Phạm Thị Hoài, Nhà văn thời Hậu Đổi Mới, Http:// www.talawas. org,10.2.2004 16. Phương Lựu chủ biên, Lí luận văn học, NXB Văn học, 1997. 17. Thuỵ Khuê, Hậu hiện đại, Http://talawas. org 18. Trần Đăng Suyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Văn học, 2000. 19. Trần Thị Mai Nhi, Văn học hiện đại- văn học giao lưu và gặp gỡ, NXB 22
  • 23. MỤC LỤC 1 Mở đầu Phần nội dung 3 1. Sự dịch biến của điểm nhìn trần thuật. 2. Người trần thuật trung tâm và người trần thuật đổi vai. 5 3. Hợp xướng giọng điệu. 8 4. Ngôn ngữ trần thuật đa thanh. 15 Kết luận 19 Thư mục tham khảo 21 23
  • 24. 24