1. Đình trệ kinh tế và vấn đề kích cầu
TS. Trương Quang Thông
DẪN NHẬP
Theo Tổng Cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2008 so với năm 2007 là
22,97%, và trong những tháng cuối năm 2008 vừa qua, đã xuất hiện tình trạng giảm phát
của nền kinh tế. GDP năm 2008 chỉ đạt mức tăng trưởng 6.2%. So với tiềm năng tăng
trưởng của nền kinh tế, và trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam đã
chứa đựng những dấu hiệu của sự đình trệ. Bài viết nầy thử phác thảo viễn cảnh kinh tế
Việt Nam thông qua phân tích các nhân tố tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn, từ đó
đưa ra các gợi ý chính sách có liên quan đến các chính sách kích cầu đang được triển khai
thực hiện.
NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Những người theo trường phái kinh tế học Keynes cho rằng những tiêu dùng thiếu hiệu
quả là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự đình trệ nền kinh tế. Sự thiếu hiệu quả có thể thể
hiện ở nhiều phương cách khác nhau: nó có thể bắt nguồn từ sự tiết kiệm của các hộ gia
đình, từ những đầu tư không thích hợp, hoặc do những chi tiêu không đầy đủ của chính
phủ. Từ những cơ sở đó, trường phái Keynes cho rằng, vai trò của chính phủ là phải làm
sao cho ai đó, có thể là dân chúng, doanh nghiệp và cả chính phủ, sẽ có nhu cầu về hàng
hóa, dịch vụ nhiều hơn. Trong khi đó, những người theo học thuyết tiền tệ lại nhấn mạnh
vai trò của tiền tệ. trong việc thanh toán cho tổng cầu. Theo họ, tiền tệ và tín dụng có vai
trò quan trọng trong việc thanh toán cho tổng cầu, trong việc ảnh hưởng đến đến khả
năng và ý định muốn mua hàng hóa và dịch vụ. Do đó, những thay đổi về cung ứng tiền
tệ là cần thiết, để dịch chuyển đường tổng cầu vào một kết hợp đáng mong muốn giữa
sản lượng và giá cả. Những người theo trường phái tiền tệ nhiều khi cực đoan hơn nữa
khi đánh đồng mọi thành công hay thất bại vĩ mô với chính sách tiền tệ vì theo họ, chỉ có
giả cả sẽ bị tác động bổi sự thay đổi trong cung ứng tiền tệ, và kết quả cuối cùng tác động
đến sự thay đổi của tổng cầu.
Như vậy, các lý thuyết kinh tế mô tả bên trên đều chấp nhận một khuôn khổ phân tích:
mọi ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô đều thông qua tổng cung hoặc tổng cầu. Từ hiện trạng
của của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, bài viết
nầy sẽ phân tích các nhân tố tác động đến tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam trong ngắn
hạn cùng với các gợi ý chính sách có liên quan đến các chủ trương kích cầu hiện nay.
KHẢ NĂNG ĐÌNH TRỆ
Nhìn từ góc độ tổng cầu, trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đã có những dấu hiệu đình trệ,
bắt đầu từ thời điểm cuối năm 2008 và trong hai tháng đầu năm 2009, theo chúng tôi, đã
xuất hiện những nhân tố, những tiềm ẩn có khả năng làm cho tổng cầu sụt giảm, hoặc,
trong một kỳ vọng lạc quan hơn, có thể tăng, nhưng lại dịch chuyển chậm hơn sự dịch
chuyển của tổng cung. Do khuôn khổ các dữ liệu phục vụ phân tích có giới hạn, chúng tôi
xin phân tích nhanh những nhân tố cấu thành tổng cầu để cố gắng minh chứng luận điểm
nói trên:
2. - Về tiêu dùng: chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2008 so với năm 2007 là
22,97% (TCTK) có thể gây ra hiệu ứng tâm lý làm cho tiêu dùng trong dân cư sụt
giảm. Sự sụt giảm đó lại song hành với sự sụt giảm về thu nhập khả dụng trong
bối cảnh đình trệ của nền kinh tế. Ngoài ra, chúng ta có thể kể ra những nhân tố
khác có thể tác động đến tiêu dùng như của cải, tín dụng và những kỳ vọng khác
của dân chúng. Của cải có thể chứa đựng trong nhiều hình thái khác nhau, nhưng
trong điều kiện Việt Nam, sự băng giá của thị trường địa ốc chắc chắn không phải
là một dấu hiệu tác động thuận lợi cho tiêu dùng. Thanh khoản cho tín dụng đã
bắt đầu mở ra, nhưng việc tiếp cận tín dụng vẫn còn xa đối với công chúng và các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Gói kích cầu hỗ trợ lãi suất 17.000 tỷ VND của Chính
phủ tập trung nhiều vào sản xuất hơn tiêu dùng (Nguyễn Vạn Phú, 2009). Bên
cạnh đó, tuy các ngân hàng thương mại hiện đã có thể cho vay tiêu dùng theo lãi
suất thỏa thuận, nhưng mức lãi suất phổ biến 14-16%/năm vẫn được xem là khá
cao so với khả năng thanh tóan của công chúng. Cuối cùng, một cách tổng hợp
lại, xét ra những kỳ vọng của dân chúng trong ngắn hạn, và trong bối cảnh kinh tế
hiện nay, khó có thể tạo ra một động lực hỗ trợ cho sự gia tăng của tiêu dùng.
- Về đầu tư: cho dù số vốn FDI đăng ký trong năm 2009 đã lên mức cao nhất từ
trước đến nay, với hơn 60 tỷ USD cam kết, nhưng thực tế, số vốn FDI giải ngân
của 2009 chỉ ngang bằng với năm 2008, khỏang 11,5 tỷ USD. Còn nếu phân tích
kỹ hơn, luồng vốn từ nước ngòai thực tế đổ vào nền kinh tế Việt Nam có thì thấp
hơn, do trong tổng số 11,5 tỷ USD đó, có sự đóng góp (giải ngân) của các đối tác
Việt Nam. Bộ Kế họach-Đầu tư dự đoán giải ngân FDI trong năm 2009 sẽ ngang
bằng với năm 2008, nhưng xem ra, tình hình sẽ không mấy lạc quan trong bối
cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Tình hình sụt giảm đầu tư FDI
trong tháng 1-2009 đã là dấu hiệu cảnh báo. Chúng ta biết rằng, các đầu tư FDI
hiện tại lại tập trung nhiều vào lĩnh vực bất động sản, một lĩnh vực, về góc độ tài
trợ vốn, thường cần những khoản giải ngân lớn và nhanh, mà đây có thể lại là khó
khăn khó tránh của các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Nhân đây,
chúng ta cũng cần nhớ lại những năm 1998-2000, cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á đã tác động như thế nào đối với các luồng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam.
- Những chi tiêu của chính phủ: chúng tôi nghĩ rằng, dưới nhiều áp lực, những
khoản chi tiêu và đầu tư công sẽ được chính phủ tiếp tục kiểm soát trong khuôn
khổ thắt chặt chính sách tài khoá.
- Cuối cùng, xuất khẩu thuần (X-M) của Việt Nam trong bối cảnh bối cảnh nền
kinh tế toàn cầu được dự đoán sụt giảm, mà rõ ràng nhất là nền kinh tế Mỹ với tư
cách như một nền kinh tế đầu tàu đã và đang suy thoái, cũng khó có cơ may cải
thiện trong ngắn hạn.
Với những phân tích trên, đồ thị tổng cung/tổng cầu mà chúng tôi đề nghị sẽ được thể
hiện ở hình 1 và hình 2 dưới đây. Hình 1 được đặt trong bối cảnh dự đoán là tổng cầu sụt
giảm trong khi tổng cung vẫn tăng trong năm 2009. Còn hình 2 lại biểu diễn tình trạng
tổng cầu vẫn tăng nhưng tăng chậm hơn tổng cung. Trong cả hai trường hợp, một cân
bằng mới được thiết lập: sản lượng vẫn gia tăng (trong đình trệ) nhưng với tình trạng sụt
giảm giá cả của nền kinh tế- tình trạng giảm phát. Trên thực tế, giảm phát đã xuất hiện
vào những tháng cuối năm 2008 và trong tháng 1-2009, dù tình hình có ít nhiều cải thiện,
nhưng chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng có 0,32%. Giảm phát vẫn có thể sẽ tiếp diễn trong
năm 2009.
2
3. P
8
S0
9
S0
P08
P09
D0 D0
9 8
Q08 Q09 Q
Hình 1: Đình trệ kinh tế: trường hợp cầu sụt giảm
P
8
Ghi chú:
S0
P,Q: mức giá và sản
9
lượng chung của nền
S0
kinh tế
S,D: Tổng cung, tổng
P08 cầu
P09 08,09: 2008, 2009
D0 8
D0
9
Q08 Q09 Q
Hình 2: Đình trệ kinh tế: trường hợp cầu tăng chậm hơn cung
3
4. Những phân tích đứng trên góc độ tổng cầu của chúng tôi có thể trở nên phiến diện nếu
bỏ qua những tiếp cận tiền tệ. Phương trình MV=PY của Irving Fisher (với M là cung
tiền, V là vòng quay tiền, P là giá cả và Y là sản lượng) có thể diễn đạt phần nào các quan
hệ mà chúng ta quan tâm.
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Vòng 3,53 2,80 1,98 1,72 1,63 1,49 1,34 1,22 1,06 0,85
quay
(Vũ Quang Việt, 2008)
Với những thông tin hạn hữu mà chúng tôi có được, hiện nay, thanh khoản của hệ thống
ngân hàng Việt Nam đã thông thoáng hơn. Cung tiền M có thể tăng, nhưng khó có thể
tăng mạnh trong nay mai. Do nhiều nguyên nhân, bên cạnh chủ trương kích cầu bằng hỗ
trợ lãi suất, các ngân hàng vẫn còn ngần ngại trong việc xem xét đưa vào nền kinh tế
hàng trăm ngàn tỷ đồng vốn khả dụng (giữa tháng 2-2009). Do vậy, với khả năng một
một vòng quay (V) chậm hơn, trong tình trạng đình trệ kinh tế (Y), khả năng lạm phát tái
bộc phát ở mức độ cao, theo chúng tôi, là khó có thể xảy ra trong ngắn hạn. Trái lại, giảm
phát lại không nằm ngoài khả năng xảy ra. Trên đây, chúng tôi chỉ có thể đưa ra những
phân tích tổng quát. Còn những phân tích sâu hơn, do tình trạng tiếp cận thông tin hạn
chế, thì khó có thể đạt được.
CÁC GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Cùng với việc nới lỏng chính sách tiền tệ, chính phủ đã thông báo chương trình kích cầu
trị giá 6 tỷ USD ưu tiên cho các lĩnh vực đầu tư xây dựng và tiêu dùng, với nguồn vốn từ
ngân sách, phát hành trái phiếu và vốn ODA. Gói 1 tỷ USD hỗ trợ lãi suất cho sản xuất-
kinh doanh đã được triển khai từ ngày 1-2-2009. Theo chúng tôi, xét độ trễ của các chính
sách tài khóa và tiền tệ, một sự thận trọng và cân nhắc là cần thiết, nhằm tránh những tác
động bất lợi đối với tăng trưởng và việc thực thi mục tiêu chống lạm phát cao nền kinh tế.
Những nhân tố có khả năng tác động cần lưu tâm, dựa vào những phân tích tổng quan ở
phần trên, đó là:
- Các giải pháp kích cầu của chính phủ, cũng như các tác nhân khác của nền kinh
tế, cần phải song hành với các điều kiện cải thiện cung của nền kinh tế. Như trên
đã phân tích, gói kích cầu hiện nay đang hướng vào sản xuất-kinh doanh hơn là
tiêu dùng. Theo chúng tôi, một sự phân phối, hoặc dàn trải, hoặc cục bộ, đều có
thể gây ra những hiệu quả ngoài mong muốn. Gói kích cầu có thể “vô tình” hướng
vào “kích cung”, và một khi cung vượt nhanh hơn cầu, sẽ có khả năng tác động
gây ra đình trệ kinh tế và cả khả năng giảm phát.
- Các chính sách kích cầu cũng cần thiết đặt trên các yếu tố cáu trúc của nền kinh
tế, chẳng hạn, trong các nhân tố cấu thành tổng cầu, cần phải xác định đâu là
những nhân tố có tính đầu tàu, có tính thúc đẩy một sự tăng trưởng bền vững của
nền kinh tế. Theo nhận định của chúng tôi, việc sử dụng gói kích cầu 17.000 tỷ
VND để hỗ trợ lãi suất, nếu thiếu những công cụ - phương thức giám sát, điều
tiết, có khả năng sẽ được sử dụng dàn trải, do đó, sẽ ảnh hưởng đến các hiệu ứng
mà Chính phủ kỳ vọng đạt được.
4
5. - Các nhân tố thể chế khác cũng cần được xem xét như chính sách thuế, các điều
kiện tiếp cận các loại hình tín dụng đầu tư phát triển cho các thành phần kinh tế,
việc tăng cường các thể chế giám sát, đánh giá việc thực thi và hiệu năng của các
công cụ tài khóa, tiền tệ…
- Cuối cùng, hơn bao giờ hết, khoan sức dân cũng cần được xem như một giải pháp
lâu dài trong số những giải pháp góp phần gia tăng tổng cầu cho nền kinh tế. Các
chính sách hỗ trợ thất nghiệp, gia tăng việc làm, chính sách đầu tư phát triển khu
vực nông nghiệp-nông thôn… cần phải được chú trọng hơn nữa.
Tháng 2/2009
Tài liệu tham khảo
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thông tư 02/2009/TT-NHNN ngày 3-2-2009 V/v quy
định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng
để sản xuất – kinh doanh.
Nguyễn Vạn Phú. Kích cầu và hành vi tiêu dùng. Thời báo kinh tế Sài Gòn. 12-2-2009.
Vũ Quang Việt. Khủng hỏang kinh tế Mỹ và Việt Nam – Tình hình khác, giải pháp khác.
Thời báo kinh tế Sài Gòn. 6-11-2008
Web site www.gso.gov.vn
5