7. Các doanh nghiệp sản xuất sữa bột của Việt Nam cũng
chủ yếu nhập khẩu sữa bột nền từ các quốc gia c để
làm nguyên liệu phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm
sữa bột của mình.%
8.
9. 2.1 Các nuớc xuất khẩu sữa nhiều nhất vào
Việt Nam
Theo Cục Quản lý cạnh tranh, sữa là một trong
những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh
nhất và khá ổn định trong các ngành thực phẩm
tại Việt Nam, với tỷ suất lợi nhuận tương đối cao.
10. Biểu đồ : Kim ngạch nhập khẩu của top 10 nước
xuất khẩu sữa nhiều nhất vào Việt Nam trong 2
tháng đầu năm 2009.
(Báo cáo ngành hàng Việt Nam: Sữa – quý 1/2009, Trung tâm
thông tin phát triển NNNT – Bộ NN&PTNT.)
11. Kim ngạch nhập khẩu sữa bột liên tục tăng
mạnh trong những năm qua. Năm 2007 có gần
7,1 triệu hộp sữa bột được nhập khẩu vào Viêt
Nam, đến năm 2008 đã tăng thêm 17,3% lên
trên 8,3 triệu hộp…
12. Theo khảo sát, ngay cả khi sữa nội và ngoài cùng sản xuất
từ một nguồn sữa nguyên liệu nhập khẩu, sản phẩm mác
ngoại có xu hướng được người tiêu dùng ưa chuộng hơn.
Giai đoạn từ 2007-2009, sản lượng bán nhóm sữa bột của các
hãng sữa nước ngoài chiếm xấp xỉ 70% toàn thị trường. Theo danh
sách các doanh nghiệp nhập khẩu sữa do Tổng cục Hải quan thống
kê, năm 2008-2009 có tới 230 doanh nghiệp nhập khẩu sữa bột
thành phẩm và sữa bột nguyên liệu. Mặc dù vậy, trên thực tế chỉ
một lượng nhỏ các doanh nghiệp có thể tồn tại và mở rộng thị
phần. Riêng Abbott, Dutch Lady, Vinamilk, Dumex, Mead
Johnson, Nestlé đã chiếm gần 90% thị phần sữa bột tại Việt Nam.
13. Theo số liệu thống kê của Agroinfo (Trung tâm Thông tin phát triển
nông nghiệp - nông thôn), tiêu thụ các sản phẩm sữa tính theo đầu
nguời tại Việt Nam tăng khá mạnh trong giai đoạn 1997 -
2009, trong đó, đứng đầu là sữa bột nguyên kem, với tốc độ tăng
trưởng bình quân 28,9%/năm (từ 0,07 kg/người (1997) lên 4
kg/người (2009). Tiếp đến là sữa không béo, với mức tăng bình
quân xấp xỉ 20%/năm.
14. Bảng 1:Mức tiêu thụ sữa trong nước trong một số năm
(Xử lý theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải
quan)
2000 2005 2006 2007 2008
Dân số(triệu người) 77,63 82,16 83,08 83,99 84,90
Tiêu thụ sữa nội địa(triệu lít quy 628 1004 1056 1239 1257
đổi)
Tiêu thụ bình quân(lít/người/năm) 8,09 12,22 12,71 14,75 14,81
15. Điểm lại trong giai đoạn vừa qua,tình hình tiêu thụ sữa bột tại Việt
Nam cũng gặp nhiều biến động. Đáng chú ý hơn cả là việc phát
hiện Melamine- một loại hóa chất hữu cơ,gây hại cho sức
khỏe, được thêm vào các loại sữa bột nhầm tăng thêm thể tích, vào
khoảng cuối năm 2008. Phát hiện này đã khiến việc tiêu thụ sữa
bột bị sụt giảm một cách đáng kể. Ngoài ra,sự biến động của giá
sữa trong giai đoạn vừa qua,tăng lên rất nhiều,đặc biệt là sữa
ngoại,đã ảnh hưởng không ít đến mức tiêu thụ.
16.
17.
18. Trong 6 tháng đầu năm 2009, công ty TNHH Dược phẩm 3A đã
điều chỉnh giá sản phẩm tăng từ 3.500 – 24.500 đồng/ hộp và hãng
sữa NamYang với thương hiệu XO tăng 10% đối với một số sản
phẩm. Theo quy định năm 2009, các hãng sữa nhập khẩu tại Việt
Nam không có trách nhiệm phải giải trình các yếu tố cấu thành giá
bán.Kết quả điều tra mới công bố của Bộ Tài chính, công thức tính
giá bán của nhiều hãng sữa chỉ đơn giản là lấy giá nhập khẩu cộng
thêm 40-45% lãi gộp.
19. Theo kết quả khảo sát của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng
Việt Nam, giá bán lẻ của sữa nhập khẩu cao hơn 46% so với giá sữa
sản xuất trong nước.Cụ thể,giá sữa bột loại 400g của nhãn sữa Dielac
Alpha tuỳ theo từng độ tuổi mà có mức dao động từ 58.000- 74.000
đồng/hộp và loại 900g dao động từ 137.000- 148.000 đồng/hộp. Sữa
Nestle gấu loại 400g dao động từ 54.000- 65.000 đồng/hộp và loại
900g dao động từ 100.000- 120.000 đồng/hộp.Trong khi đó, với các
nhãn sữa nhập ngoại thì thường có mức giá tương đương là từ
230.000 đồng/hộp và 420.000 đồng/hộp trở lên.
20. Phân tích về cơ cấu giá sữa trong đợt kiểm tra giá sữa cuối
tháng 12/2009, Đoàn thanh tra của Bộ tài chính cho rằng
điều dễ nhận thấy là chi phí quảng cáo, tiếp thị đã quá cao.
Điều này có nghĩa: Trong khoản tiền mua sữa thì phần
phải trả cho quảng cáo là rất lớn. Như vậy là người dân đã
phải chi trả quá nhiều tiền cho quảng cáo và một phần cho
chất lượng sữa.
21. Bước vào đầu năm 2010, giá sữa bột nhập khẩu đã tăng từ 7%-10%.Đấy là chưa kể
thời điểm cuối năm 2009, giá sữa đã tăng từ 10%-15%.
Lý giải về giá sữa tại sao tăng cao và tăng liên tục qua các năm vừa qua, đại diện các
Công ty Frieland campia (Cô gái Hà Lan); Mead Johnson, Abbott Việt Nam... cho
biết, đó là do VND mất giá so với USD, dẫn đến giá bán sữa bằng tiền Việt tăng.Bên
cạnh đó các chi phí như điện nước, xăng dầu đều tăng giá, dẫn đến chi phí sản xuất
kinh doanh tăng đội giá sữa lên
Tuy nhiên đây chỉ là lý giải của các doanh nghiệp sữa có vốn nước ngoài. Doanh
nghiệp sản xuất sữa trong nước không đồng tình với tất cả những lý do trên
22. Khảo sát của Bộ Công thương thông qua các thương vụ Việt
Nam tại nước ngoài cho thấy giá sữa bột nhập khẩu tại Việt Nam
cao hơn từ 20% đến 150% so với các thị trường khác. Cụ
thể, sữa Ensure Gold của Abbott cao hơn mặt hàng cùng loại ở
Thái Lan 20 - 30%, Enfa Grow 3A+ của Mead Johnson cao hơn
Thái Lan 60%, Dumex Dugro 1, 2, 3 cao hơn Thái
Lan, Malaysia, Indonexia từ 100 đến 150%. Việt Nam có khoảng
72% lượng sữa bột nguyên liệu phải nhập khẩu, trong khi đó
một số công ty nước ngoài độc quyền phân phối sản phẩm của
mình tại thị trường Việt Nam dẫn đến có điều kiện nâng giá lên
cao.
23. Bên cạnh đó hiện các công ty lớn là Abbott,
Mead Johnson, Frieland Campia, Dumex,
Meiji chiếm tới gần 90% thị phần
Các doanh nghiệp này có hệ thống phân phối rộng
khắp, có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, đã trở
thành rào cản ngăn chặn các doanh nghiệp khác
thâm nhập thị trường và điều này tạo cơ hội cho họ
có điều kiện nâng giá.
24. Tuy nhiên, không phải hãng sữa nào cũng tranh thủ tăng giá trước thời điểm
Thông tư 122 của Bộ Tài chính về việc đăng ký bán các sản phẩm sữa dành
cho trẻ em dưới 6 tuổi. Hệ thống siêu thị Sài Gòn Co.op Mart cho biết nhận
được thông báo cam kết giữ giá đến hết năm từ hãng Mead Johnson.Hãng sữa
nội địa Hancofood ,Vinamilk cũng khẳng định không tăng giá sữa đến hết năm.
Trao đổi với VnExpress.net, Cục trưởng Cục Quản lý Giá, Bộ Tài chính -
Nguyễn Tiến Thỏa cho biết theo quy định từ 1/10/2010, các doanh nghiệp phải
đăng ký giá bán đối với các sản phẩm sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi. Trong
bảng đăng ký giá, doanh nghiệp phải giải thích rõ cơ cấu giá bán, chi phí, quy
trình bán sản phẩm ra thị trường.
25. Từ đầu năm 2011 đến ngày 25/2/ 2011, giá nhiều mặt hàng
sữa kể cả nhập khẩu và sữa nội đều cùng điều chỉnh tăng
giá. Hơn nữa, thông tin sẽ có hãng sữa sẽ tăng giá từ
1/3/2011, làm thị trường lại tiếp tục nóng nên, gia đình có
con nhỏ đổ xô đi mua sữa tích trữ, các cửa hàng nhân cơ
hội đó tự nâng giá vô tội vạ trước khi giá chính thức áp
dụng, gây nhiều bất ổn.
26. Thực tế, Vinamilk là công ty mở màn điều chỉnh giá đầu tiên
trong năm 2011, với việc tăng giá sữa bột các loại lên trung bình
12% kể từ ngày 1/1/2011. Tiếp theo đó, Mead Johnson điều chỉnh
giá các sản phẩm Enfagrow, Enfakid khoảng 7-8% từ ngày
10/1/2011.
Bước sang tháng 2, Friso điều chỉnh giá hầu hết các sản phẩm sữa
Friso từ 5-10% (từ ngày 8/2/2011). Hãng Cô gái Hà Lan (Dutch
Lady) cũng đã “nhanh chân” tăng giá hầu hết các sản phẩm sữa
bột từ 13-15% (áp dụng từ ngày 8/2/2011).
27. Thêm nữa, thị trường sữa lại “phát sốt” khi từ ngày
1/3/2011, Công ty 3A công bố sẽ điều chỉnh giá bán các sản
phẩm sữa của Abbott khoảng 12% để bù đắp cho sự tăng của
tỷ giá ngoại tệ và chi phí tài chính, do sự điều chỉnh
tỉ giá đồng Việt Nam và đô la Mỹ trong thời gian qua. Giá bán
của Abbott cho công ty 3A tính theo đô la Mỹ là không thay
đổi. Các mặt hàng của Abbott đều là các mặt hàng nhập khẩu
nguyên lon từ Châu Âu, Hoa Kỳ và Singapore.
28. Ngoài ra, do từ ngày 1/1/2011, nhà nước tăng thuế nhập khẩu từ 5%
lên 10% với các sản phẩm sữa từ châu Âu và Hoa Kỳ,, do đó giá
bán các sản phẩm này phải điều chỉnh cộng cả 2 mức tỷ giá ngoại tệ
tăng và thuế nhập khẩu tăng là khoảng 17%.
Với một số sản phẩm sữa cho trẻ nhỏ thuộc dòng
SmartChoice, bao gồm Similac, Similac Gain và Gain IQ, Công ty
3A thông báo bù lỗ để chỉ điều chỉnh giá khoảng 5%, chỉ đủ bù đắp
cho thuế nhập khẩu tăng, nhằm hỗ trợ cho người tiêu dùng có thể sử
dụng các sản phẩm dinh dưỡng tiên tiến của Abbot.
29. Gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái liên tục
2 lần trong tháng: tháng 8/2010 phủ tăng thuế nhập khẩu sữa,
Trong bối6cảnh đó, việc Chính(khoảng 3%) và 11/2/2011 (tới bao
gồm cả ảnh hưởng lớn dưỡng y họchóa nhập nước Dù trước ngày
9,3%), các loại dinh đối với hàng của các khẩu. không thuộc
Mỹ và châu của thêm 5% (từ mức 19.500 10%) bắt
ASEAN (nhưgiá chính thứcÂu) Vietcombank vẫn là 5% lên đ/1USD
11/2/2011, tỷ
đầu từ ngày 1/1/2011 càng làm ảnh hưởng đến giá cả các loại sữa
nhập khẩu. tế từ tháng 10/2010, hầu hết các doanh nghiệp nhập khẩu
nhưng thực
đều phải mua USD ngân hàng với tỷ giá gần như giá của thị trường chợ
đen (khoảng 21.000-21.500 đ/USD) do Ngân hàng áp thêm các khoản
phí chuyển đổi ngoại tệ, theo đó việc tăng giá của các hàng hóa nhập
khẩu là không thể tránh khỏi.
30. 2.1 Chi phí sản xuất kinh doanh
2.1.1 Đầu tư công nghệ, dây chuyền sản xuất
2.1.2 Chi phí nguyên liệu đầu vào
2.1.3 Chi phí bán hàng
2.2 Uy tín và chất luợng sản phẩm
2.3 Nhu cầu, tâm lý tiêu dùng các sản phẩm
sữa
2.4 Giá của đối thủ cạnh tranh
31. Yếu tố khoa học công nghệ không những đảm bảo cho sự phát
triển mà còn tạo ra ưu thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Hơn nữa,
trong điều kiện hiện nay, khi mà trình độ khoa học công nghệ trên thế
giới đang phát triển với một tốc độ chóng mặt,các doanh nghệp lại có
thêm nhiều cơ hội để đẩy mạnh nâng cao hệ thống khoa học kỹ
thuật,dây chuyền sản xuất của mình. Nhằm nâng cao
năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản
phẩm,…, từ đó mở rộng quy mô sản xuất.
32. Tuy nhiên, hầu hết các thiết bị kỹ thuật đó
đều nhập từ nước ngoài, cộng với mức thuế
đánh vào các mặt hàng này khá cao nên chi
phí bỏ ra để nâng cao hệ thống khoa học kỹ
thuật và dây chuyền sản xuất ở các doanh
nghiệp là rất lớn. Đây cũng là một trong
những nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng giá
sữa.
33. Việc chế biến sữa bột ở nước ta hiện nay vẫn còn rất hạn chế, nguyên liệu bột
sữa 100% nhập khẩu từ nước ngoài, sữa tươi và đường đa số là sử dụng
nguồn trong nước. Mà hiện nay giá đồng tiền Việt Nam đang tụt giá trong
khi đó giá USD lại tăng nên giá bán của sữa bột cũng theo đó tăng lên.
Sữa bột được nhập khẩu chủ yếu từ Châu Âu, New
zealand, Mỹ, Australia,…Việc phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập
khẩu đã khiến các công ty sản xuất sữa gặp nhiều khó khăn, bởi trong giai
đoạn 2007-2009 giá nguyên liệu đầu vào tăng mạnh rồi giảm đột ngột với
biến động rất khó biết trước.
Mặt khác, do thuế nhập khẩu ở nước ta cao hơn nhiều lần so với các nước
khác trên thế giới , gây một sức ép khá lớn lên các doanh nghiệp, do đó muốn
không bị thua lỗ các doanh nghiệp phải tiến hành nâng giá bán lên.
34. Bảng 3: Danh sách và tỉ lệ phần trăm về sản lượng nhập khẩu mặt hàng sữa bột
nguyên liệu của một số doanh nghiệp các năm 2007, 2008 và 8 tháng đầu
năm 2009.
(Thống kê và xử lý theo số liệu của Tổng cục Hải Quan.)
TT Tên doanh nghiệp Đơn vị 2007 2008 8/2009
1 Công ty CP Sữa Việt Nam- Vinamilk % 55,8 52,9 46,4
2 Công ty TNHH FrieslandCampina % 29,7 34,0 29,8
3 Công ty CP Sửa Hà Nội % 1,5 2,2 1,5
4 Công ty CP TP-DD Đồng Tâm % 0,2 0,1 1,2
5 Công ty TNHH Nestle Việt % 2,5 3,8 1,1
6 Công ty Cp Đại Tân Việt % 7,2 1,9 9,9
7 Công ty TNHH Thế Hệ Mới % 1,8 1,6 3,2
8 Công ty TNHH Than An % 1,0 1,8 2,9
9 Công ty TNHH TM và CNTP Hoàng Lâm % 0,1 0,7 2,4
10 Công ty TNHH DT-PT-NN Hà Nội % 0,0 0,9 1,6
35. Kết quả thanh tra cho thấy, chi phí bán hàng là khoảng chi
phí chiếm tỷ lệ lớn thứ hai trong giá sữa, từ 5%-27% giá
vốn, trong đó chi phí quảng cáo, khuyến mại lớn từ 1%-
19,2% . Trong khi đó, thương hiệu uy tín của ngành hàng
sữa bột được hình thành chủ yếu từ quảng cáo. Có thể thấy
mức độ dày đặc của quảng cáo sữa trên các phương tiện
truyền thông đại chúng.
Doanh nghiệp có chi phí quảng cáo ở mức cao hơn mức
khống chế ( theo quy định chi phí quảng cáo cho phép ở
mức 10%) là Công ty Dutch Lady (19,2%), Vinamilk
(12,9%) cũng có khả năng đẩy giá sữa lên cao.
36. Nhân tố này ảnh hưởng không nhỏ đến giá bán sản phẩm sữa
bột. Trên thực tế, sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo, uy
tín, tạo được lòng tin cho người tiêu dùng thì sẽ cho phép
doanh nghiệp có thể định giá bán cao mà không gây ra những
phản ứng từ phía người tiêu dùng. Hiện nay những sản phẩm
sữa Dielac- Vinamilk, Abbott có chất lượng quốc tế. Đây là
điều bắt buộc với sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ em và là
quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam. Với một sản phẩm
giá nội nhưng chất lượng được chấp nhận ở các quốc gia
Châu Âu, Trung Đông….thì người tiêu dùng hoàn toàn có thể
tin cậy lựa chọn.
37. Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm sữa tại Việt Nam tăng trưởng ổn
định. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế , người tiêu dùng
cũng quan tâm nhiều hơn đến sức khoẻ và sử dụng các sản phẩm
sữa bột nhiều hơn. Theo báo cáo của TNS Worldpanel Việt Nam
về thị trường sữa Việt Nam năm 2007, sữa bột chiếm 7% giá thị
trường.
38. Bên cạnh đó các yếu tố cấu thành giá sản phẩm sữa bột thì thị
hiếu, tâm lý gắn liền giữa giá bán với chất lượng sản phẩm, xu
hướng chọn mua loại đắt nhất có thể của người tiêu dùng cũng
góp phần làm tăng giá sản phẩm sữa bột. Vì vậy, khi định giá
bán, các công ty sữa phải tìm hiểu và phân tích kỹ lưỡng về khách
hàng mục tiêu của sản phẩm, đảm bảo sự thích ứng giữa giá cả
sản phẩm và khả năng chấp nhận của
khách hàng, ngoài ra cần tính toán
những tác động vào tâm lý và phản
ứng của khách hàng.
39. Thị trường sữa bột việt nam hiện nay rất náo nhiệt với nhiều
thương hiệu trong nước lẫn ngoài nước, quy mô nhỏ, vừa, lớn.
Do đó việc cạnh tranh là không thể không xảy ra. Đáng chú ý
hơn cả là các doanh nghiệp sữa lớn hiện nay như
Vinamilk, Dutch Lady, Abbott Hoa kỳ,….Các doanh nghiệp này
đang cạnh tranh với nhau một cách mạnh mẽ,đó là cạnh tranh
về giá bán, mẫu mã,khuyến mãi.v.v. Việc cạnh tranh mạnh sẽ
thúc đẩy các công ty chú ý hơn để đầu tư cho sản phẩm của
mình, do đó cũng góp phần thúc đẩy giá sữa tăng cao.
40. IV. NHỮNG ĐỀ XUẤT NHẰM ỔN ĐỊNH GIÁ SỮA
BỘT
Để bình ổn giá sữa, trước hết phải đảm bảo tính chất công minh trong
việc thống kê giá nhập khẩu của mỗi mặt hàng sữa bột; nguyên nhân tại
sao tăng giá ở các doanh nghiệp; đồng thời đảm bảo mức thuế nhập
khẩu ổn định, nếu tăng không nên tăng quá mức
Một vấn đề khác, đó là việc các hãng sữa cứ thoải mái quảng cáo sữa
này, sữa kia tăng thêm vi lượng mới (tức là tăng chất lượng) vì thế phải
tăng giá! Tại sao không có cơ quan có trách nhiệm kiểm tra chất
lượng xem việc quảng cáo có đúng không, hay là lừa dối
người tiêu dùng để tăng giá? Để khắc phục phải kiểm
soát cả việc quảng cáo gắn với kiểm soát về chất lượng
sản phẩm
41. Vấn đề sữa nội của chúng ta chưa đủ sức cạnh tranh; đó là
vấn đề về thái độ ứng xử của người tiêu dùng rất tin tưởng
vào sữa ngoại, đắt thế nào cũng mua, tạo ra tâm lý “cầu”
sẵn sàng mua hàng kể cả giá cao. Vì vậy cần vận dụng tối
đa nguồn nguyên liệu trong nước để sản xuất sữa bột; tăng
cường phổ biến thông tin giá cả và khuyến khích người tiêu
dùng sử dụng hàng Việt trên các phương tiện truyên thông;
tích cực nâng cao trình độ mua hàng thông minh cho người
tiêu dùng; cố gắng trấn an tâm lý người tiêu dùng khi có
biến động trên thị trường, tránh gây hiện tượng hoang
mang….
42. Việc xử lý với giá sữa bằng biện pháp hành chính như hiện nay
chưa có hiệu quả. Hơn nữa, Thông tư mới về quản lý giá sữa, đang
chờ đợi phê duyệt thì Thông tư 104 về quản lý giá một số mặt
hàng, trong đó có sữa, đang bị các doanh nghiệp sữa ngoại vô hiệu
hóa bằng "chiêu" kéo dài thời gian giữa các lần tăng giá (hơn 15
ngày) và giảm tỷ lệ tăng (dưới 20%) nhưng tăng làm nhiều lần
trong năm. Doanh nghiệp dưới 50% vốn
chủ sở hữu Nhà nước không cần đăng
ký, kê khai giá.