1. thành thạo các quy trình tri giác, đo đạc, ghi chép xử lý các số liệu quan sát.
28
Trên nguyên tắc, tất cả những động tác và hành vi của con người trong hoạt động
TDTT, mức phổ biến của các môn, phương tiện, phương pháp tập luyện, thời gian hoạt
động TDTT, mối tương quan giữa tập luyện, (như lượng vận động) và hiệu quả được
thể hiện qua một số chỉ số cụ thể... đều có thể là đối tượng của nghiên cứu quan sát.
Do ngày nay càng có nhiều máy móc, phương tiện mới để ghi chụp, đo đạc, phân
tích... rõ, chính xác nên người ta quan sát được càng nhiều những hiện tượng, đặc tính,
quan hệ tinh vi mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Ví dụ, có thể dùng máy đo
điện tâm đồ vô tuyến xách tay ghi và tính toán tự động nhịp tim để theo dõi liên tục
một thời gian dài những biến đổi của lượng vận động bên trong VĐV của một quá
trình tập luyện có hệ thống. Từ đó đánh giá được yêu cầu và hiệu quả tích luỹ qua tập
luyện trong cơ thể.
Bên cạnh các phương pháp quan sát sư phạm – xã hội và bằng những máy móc
chuyên môn, người ta còn dùng nhiều những thử nghiệm kiểm tra – test. Trong đó
người được thử nghiệm phải hoàn thành những nhiệm vụ vận động theo các quy định,
điều kiện chặt chẽ. Từ “test” đã có trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc, có nghĩa là một
thử nghiệm để xác định một phẩm chất, đặc tính, trình độ hoặc năng khiếu của con
người trong một hoạt động nào đó. Bởi vậy trong nghiên cứu về TDTT, test thường
được dùng để đánh giá các năng lực vận động, trình độ thể lực chung hoặc từng tố chất
vận động (kể cả sự biến đổi) do tác động của tập luyện nhằm thu được những thông tin
có lượng hoá cụ thể về hiệu quả (thậm chí cả mức sa sút, tác hại) của các yếu tố cần
nghiên cứu, có liên quan đến TDTT hoặc vì những mục đích khác. Những số liệu điều
tra bằng test về trình độ phát triển thể chất và thể lực của số đông các tầng lớp nhân
dân, kết hợp với những thông tin về mức độ tác động của TDTT (lượng vận động, chế
độ lao động, tập luyện và sinh hoạt…) có giá trị lớn với những nghiên cứu trong lý
luận và phương pháp TDTT.
Trước đây, những thực nghiệm trong lĩnh vực này chủ yếu vẫn mang tính chất sư
phạm có sử dụng nhiều máy móc, phương tiện đểâ quan sát, ghi chép những yếu tố
thực sự cần thiết. Những năm gần đây còn phổ biến những thực nghiệm xã hội học cụ
thể để xác lập những hình thức tổ chức TDTT mới, đánh giá hiệu quả những loại bài
tập mới trong thể dục sản xuất ở một số ngành, cơ sở sản xuất... Xét một cách chặt chẽ,
không thể dùng những thực nghiệm như trong khoa học tự nhiên (sinh học, sinh lý
học, sinh hoá học...) để làm sáng tỏ những vấn đề xã hội, giáo dục trong TDTT, mặc
dù những số liệu có liên quan đó cũng có giá trị quan trọng, một tiền đề cần thiết cho
các nghiên cứu tổng hợp về TDTT.
Một yêu cầu mang tính nguyên tắc trong thực nghiệm với con người là tất cả mọi ý
tưởng, tác động và quy trình của nó phải đảm bảo tính nhân đạo và đạo đức không
được vi phạm, châm chước điều này. Do đó cũng hạn chế phần nào và yêu cầu càng
phải thận trọng hơn khi sử dụng thực nghiệm trong khoa học nhân văn. Mặt khác,
nhiều hiện tượng và mối liên hệ xã hội phức tạp không thể tái hiện được hoàn toàn
trong thực nghiệm. Trong thực nghiệm riêng lẻ chỉ có thể đem lại những thông tin
tương đối hạn chế. Những phương pháp thực nghiệm không phải lúc nào cũng thực
hiện được trong những nghiên cứu tổng hợp về lý luận và phương pháp TDTT. Trong
nghiên cứu loại này, có thể dùng thực nghiệm để xác lập giả thiết (nếu thấy không thể
làm rõ sự thực bằng cách khác) hoặc được coi là một bộ phận của thực tiễn để kiểm
nghiệm (khẳng định hay phủ định) những giả thiết lý luận trên.
Căn cứ vào đặc điểm của sự tái hiện các hiện tượng, quá trình, tình huống hiện